Phương Đăng không ra tiệm, cô nghe lời khuyên của Lục Nhất, anh nói cuối tuần nên đi đâu đó thăm thú giải khuây. Cứ đi mãi đi mãi, trước mặt họ giờ là bến tàu dẫn ra đảo Qua Âm.
Lục Nhất chỉ về chóp một toà kiến trúc nhô lên khỏi những bóng râm bao la trên hòn đảo nhỏ, “Kia là giáo đường đúng không?”
Phương Đăng gật đầu.
“Mẹ tôi và ông bà ngoại là Hoa kiều Malaysia, họ đều theo đạo. Cha tôi không phải là giáo đồ, nhưng từ khi mẹ tôi mất, ông thường dẫn tôi đến đó, chỉ vào đỉnh chóp giáo đường mà nói, mẹ tôi chắc chắn đã nghe theo tiếng gọi của Chúa trời mà bà hằng kính ngưỡng, bay lên thiên đường rồi. Cô nói xem, người theo Đạo và người không theo Đạo sau khi chết có thể đến cùng một nơi không? Tôi rất sợ họ không có cách nào đoàn tụ trên thiên đường.” Lục Nhất nói.
Phương Đăng trả lời: “Vấn đề này anh phải hỏi Chúa.”
“Cũng được đấy, tôi sẽ hỏi Người xem sao. Cô có muốn lên đảo với tôi không? Có dân bản địa đi cùng, Chúa chắc sẽ không lừa tôi.”
“Nhưng Chúa có phải là thần thổ địa của đảo Qua Âm đâu, sao phải nể mặt tôi.” Phương Đăng cười trêu. Cô vốn không muốn lên đảo, đặc biệt là cùng Lục Nhất. Nhưng cô lại muốn nghe những chuyện liên quan đến bố mẹ anh ta, biết đâu có thể tìm thêm manh mối về di vật Lục Ninh Hải để lại. Bây giờ cô chỉ muốn lấy được vật kia càng sớm càng tốt, như vậy Phó Thất đỡ phải âu lo hậu hoạn, mà cô cũng được giải thoát, cô sẽ rời xa Lục Nhất, sẽ không còn cảm thấy day dứt vì lừa dối một người lương thiện.
Hai người đến giáo đường ngồi cả buổi. Dĩ nhiên, Chúa chẳng thể trả lời câu hỏi của Lục Nhất, nhưng anh vẫn cảm tạ sâu sắc vì nhờ có Người mà lúc này anh có được Phương Đăng ở bên. Cách giáo đường không xa là cô nhi viện Thánh Ân, Lục Nhất hỏi Phương Đăng có muốn ghé qua thăm nom không, Phương Đăng dứt khoát cự tuyệt.
Lục Nhất cũng không nài ép, anh hiểu có những chốn mà đã rời đi, người ta không muốn quay lại nữa. Anh theo chân Phương Đăng đi tiếp về phía trước, lắng tai nghe những tiếng cười đùa trẻ con vọng ra từ cô nhi viện, bèn nói: “Tôi ngốc thật, trước khi gặp cô, tôi luôn cho rằng cha mình sẽ nhận nuôi một ‘bé gái’, ai ngờ cô chỉ kém tôi có một tháng tuổi. À cô chưa kể tôi nghe, cô và cha tôi làm thế nào mà quen biết?”
Phương Đăng lảng đi: “Tôi không rõ lắm, khi cha anh đề nghị nhận nuôi, tôi cảm thấy rất bất ngờ. Có lẽ ông thấy tôi đáng thương.”
Lục Nhất không mảy may nghi ngờ, gật đầu nói: “Tôi cũng đoán vậy. Kể ra cô và cha con tôi có duyên đấy chứ?”
Nói xong anh cố tình liếc nhìn Phương Đăng một cái, chẳng hề hay biết lời mình vừa thốt ra vào đến tai Phương Đăng lại đầy vẻ mỉa mai. Quả thật có duyên, nhưng là hoạ hay phúc chỉ có trời mới rõ, biết đâu ngày nào đó, anh cũng sẽ cảm thấy hối hận vì đã gặp phải cô, như người cha đã chết của anh.
“Bình thường trông cha tôi nghiêm khắc vậy thôi, kỳ thực ông rất tốt, không những đối với tôi, mà với những người yếu thế ông rất quan tâm, muốn giúp đỡ. Tôi còn nhớ có một người rất nghèo đến xin ông đánh kiện cho, ông đã nhận làm mà không lấy một xu nào. Cha nói, trên đời này luôn tồn tại công bằng và chính nghĩa. Từ nhỏ tôi đã coi cha là tấm gương, tôi luôn muốn làm một người chính trực, cao thượng, đối tốt với mọi người như ông.”
Phương Đăng cố giấu nụ cười nhạt. Cô không muốn phá hỏng hình tượng người cha cao đẹp trong lòng một cậu con trai. Cô cúi đầu, trân trối nhìn những viên đá xanh dưới chân: “Nói như vậy, quả thực trời cao không có mắt.”
Lục Nhất khẽ cười, “Dù cha tôi không còn, nhưng nhờ ông mà tôi quen biết cô, tôi tin lúc ấy ông thật lòng muốn cho cô một gia đình và cuộc sống ổn định. Nếu ông thấy bây giờ chúng ta… làm bạn với nhau, chắc là vui lắm.”
“Có thể.” Phương Đăng lạnh nhạt đáp.
Đang là cuối tuần, lượng du khách đổ về đảo Qua Âm không ít, Phương Đăng đã rất lâu không trở lại, nơi này đã thay đổi rất nhiều. Do mấy năm gần đây ngành du lịch trên đảo phát triển mạnh, các khách sạn và quán cà phê đủ kiểu cách quy mô mọc lên như nấm sau mưa, rất nhiều ngôi nhà cổ niên đại xấp xỉ Phó gia viện được tu bổ lại, mở cửa đón khách tham quan, hoặc trở thành các khách sạn tư. Từ cổng cô nhi viện Thánh Ân lùi lại vài mét, là một dãy những nhà hàng thủ công mỹ nghệ và tiệm bánh kiểu Tây mang đầy phong vị tiểu tư sản. Ngôi nhà xây chui của lão Đỗ đã bị dỡ bỏ, thay vào đó là một siêu thị cỡ nhỏ. Căn gác xép từng là nơi trú mưa trú nắng của cô dĩ nhiên không còn tồn tại. Trải bao phong ba bão táp, chỉ có Phó gia viện là vẫn như ngày xưa.
“Phương Đăng, trước khi vào cô nhi viện, cô sống ở nơi nào trên đảo?” Lục Nhất tò mò hỏi.
Phương Đăng chỉ về phía cái siêu thị nhỏ, “Ở kia. Cha con tôi thuê một căn gác xép nhỏ trên tầng hai.”
“Tiếc là không được trông thấy dáng vẻ ngôi nhà đó thế nào nữa.” Lục Nhất có vẻ tiếc nuối.
“Có gì mà tiếc, một chốn lụp xụp tàn tạ như bao chốn nhà nghèo hay ở thôi.”
“Hồi đó cô có nghĩ những ngày sau này mình sẽ ra sao không? À đúng rồi, tại sao cô lại mở cửa hàng vải nội thất?” Lục Nhất có vẻ vô cùng hiếu kỳ với tất cả mọi thứ thuộc về Phương Đăng, chỉ hận không biết hết mọi chuyện kiếp trước kiếp này của cô cho rồi.
Phương Đăng kiềm lòng không đặng chậm lại bước chân, nhìn về Phó gia viện cách đó không xa, “Tôi thích những món đồ làm bằng vải, nó cho con người ta cảm giác như đã về nhà vậy.”
Cô lại nói dối. Cõi đi về trong cô chẳng có gì khác ngoài một khung cửa sổ nhỏ bé phủ rèm nhung màu đỏ tươi. Trong giấc mơ, cô chạy về phía ấy biết bao lần, mà khi đến đích, trước mắt vĩnh viễn chỉ có đường cầu thang chật hẹp và căn gác xép lúp xúp tồi tàn. Người rời, vườn không, Phó gia viện càng hoang phế thê lương. Rất nhiều đồ và vật trang trí đã bị tháo mất, tấm rèm nhung đỏ không cánh mà bay. Sau khi đủ tuổi trưởng thành, Phương Đăng từng tìm kiếm khắp nơi chất vải và màu sắc tương tự đấy, đâm ra cô mở luôn một cửa hàng vải nội thất. Sau này cô mới hiểu, rằng mình không thể nào tìm lại tấm rèm ngày ấy, bởi đến cái người đứng sau rèm trong ký ức kia, cũng không còn dáng vẻ xa xưa nữa.
“Tôi cũng nghĩ vậy.” Lục Nhất phụ hoạ. Anh đưa mắt nhìn căn nhà cổ phía trước. Dù cho hoang tàn đến nhường nào thì trên đảo Qua Âm, sự tồn tại của nó vẫn là không thể thay thế được. Mấy ai đi qua đây mà dám không ngước đầu ngưỡng vọng?
“Biết bao căn nhà cổ đã xây mới, mà sao căn nhà nổi tiếng nhất lại cứ bỏ hoang tại đây nhỉ? Không biết con cháu họ Phó có thấy đau xót không. Tôi từng đọc một số tài liệu liên quan đến hòn đảo này, năm xưa nhà họ Phó nghe nói lừng lẫy có một không hai.”
“Có thể họ có nỗi khổ tâm riêng.” Phương Đăng nói.
Lục Nhất tỏ ý đồng tình. “Ngày trước tôi từng nghe cha nói, gia tộc nào trong quá khứ càng cường thịnh, thì quyền thừa kế nhà cửa sản nghiệp càng phức tạp. Phương Đăng, trước đây cô sống ngay cạnh Phó gia viện, có từng nghe lời đồn về nơi ấy chưa?”
“Đồn đại gì, cũng chỉ là ngôi nhà hoang thôi mà!”
“Tôi nghe nói Phó gia viện là căn nhà ma nổi tiếng trên đảo, cứ đêm đến là nghe tiếng gió gào thảm thiết, có người gọi đó là biệt thự hồ ly, cô có biết nguyên do từ đâu không? Sống ngay cạnh đó cô có thấy ghê không?”
“Dĩ nhiên là ghê rồi. Trong cái nhà đó có con ma nữ, mỗi đêm trăng tròn nó xoã mái tóc dài thò đầu từ dưới giếng lên, vừa dạo quanh vườn vừa khóc lóc tỉ tê.” Phương Đăng vờ doạ dẫm.
Lục Nhất là đàn ông con trai, đương nhiên không thấy sợ, anh cười nói: “Cô lại đùa rồi. Tôi thì thấy những tin đồn ma quỷ đó chỉ là tam sao thất bản mà thôi.”
Phương Đăng và Lục Nhất vào siêu thị mua hai chai nước, như nhớ đến điều gì, Phương Đăng thốt nhiên nói: “Để tôi kể cho anh một câu chuyện liên quan đến Phó gia viện nhé, chuyện này không phải do tôi chế ra đâu.”
Cô ngồi xuống cửa siêu thị, vừa uống nước, vừa dịu giọng kể lại câu chuyện hồ ly nhỏ và hồ ly đá của Tiểu Xuân cô nương. Lục Nhất nghe rất chăm chú, nghe xong, anh nói: “Câu chuyện này còn ghê hơn chuyện ma nữ đáy giếng ban nãy.”
“Sao lại thế?”
“Cô nghĩ mà xem. Mấy chuyện ma nữ gì đó ở đâu chẳng có, nhưng câu chuyện cô vừa kể, càng ngẫm sâu xa, càng khiến lòng người nghe khó chịu. Con hồ ly nhỏ moi trái tim hiến cho hồ ly đá, chẳng có được người bầu bạn như nó hằng mong, lại phải thay hồ ly đá chịu hình phạt ngàn năm và bị nỗi cô đơn giày vò, thật quá bất công. May mà nó không còn trái tim, nếu còn, chắc cũng nguội lạnh.”
Phương Đăng cười: “Công bằng? Anh tin trên đời này tồn tại công bằng ư?”
“Dĩ nhiên!” Lục Nhất nói một cách kiên quyết, “Thế gian này chắc chắn tồn tại công bằng và chính nghĩa. Người tốt phải được báo đáp, hồ ly tốt cũng vậy.”
Phương Đăng không đồng tình. Chỉ có người từ nhỏ luôn đắm chìm trong ánh mặt trời, tâm địa thuần lương như anh ta mới có niềm tin nhảm nhí như vậy.
“Chỉ là chuyện kể cho vui, nghe rồi thì thôi.”
“Câu chuyện này cô nghe từ ai thế?” Lục Nhất hỏi.
“Tôi quên rồi.” Phương Đăng đáp một cách mơ hồ.
“Tôi nghĩ người ấy chưa kể xong đâu, chẳng lý do gì câu chuyện lại kết thúc ở đó.”
“Anh lại xoắn rồi.” Phương Đăng cười cười, kiếm cớ trêu. “Hay anh định viết tiếp hộ người ta?”
Lục Nhất cũng cười, anh cầm chai nước khoáng trong tay, quả thực ngẫm nghĩ một lúc, nói: “Nếu để tôi viết tiếp câu chuyện này thì… Cho dù hồ ly đá không quay lại, cũng chẳng lý do gì để con hồ ly nhỏ phải cô đơn mãi, một ngàn năm quá dài, phải có cái gì đó xuất hiện chứ…”
“Ví dụ như chuột chũi, hay là côn trùng gì đấy?”
“Cô không nghĩ ra cái gì xinh xắn hơn một tí được à?” Lục Nhất cười như trẻ con, “Để xem nào, bọn gia cầm là chúa thích tha thẩn trong vườn hoang. Đúng rồi, một con chim.”
“Một thời gian sau, có con chim bay đến?” Phương Đăng vừa uống một ngụm nước, suýt nữa phun cả ra ngoài.
“Cô muốn nghe thì nghiêm túc một tí đi.” Lục Nhất cố tình xị mặt ra vẻ cảnh cáo, “Cứ cho đó là một con chim sơn ca đi.”
“Sao lại là sơn ca, chim sơn ca trông thế nào?”
Lục Nhất cười nói: “Cô hỏi tại sao tại sao nhiều thế, tóm lại chim sơn ca là loài chim tốt… à, loài chim có ích! Này đừng có cười, nghe tiếp đây này. Sau khi hồ ly đá đi rồi, một hôm, có con chim sơn ca bay vào vườn. Nó thấy con hồ ly con cô đơn quá, nên ngày nào cũng bay đến, đậu trên ngọn cây hót…”
“Vì sao lại thế?”
“Hả?” Lục Nhất không hiểu.
Phương Đăng nói: “Chuyện anh sáng tác có lỗ hổng, con sơn ca đó tự dưng sao lại tốt với hồ ly nhỏ vậy, ngày nào cũng đến hót cho nó nghe!”
“Con người cô thật là, cứ nghĩ mọi thứ đều xấu xí. Thế cô nói xem, tại sao hồ ly nhỏ lại hiến tim mình cho hồ ly đá?” Lục Nhất ấm ức vặn lại.
Phương Đăng chợt sững người, cô chẳng hề nghĩ đến điều này.
“Bởi vì hồ ly nhỏ và hồ ly đá ít nhất cũng là đồng loại.” Cô gắng gượng lý sự cùn.
“Ai bảo không phải đồng loại thì không thể đồng cảm? Mà nói chung câu chuyện của tôi là như thế. Ngày nào sơn ca cũng bay đến hót cho con hồ ly nhỏ nghe, dùng mỏ chải lông cho hồ ly nhỏ. Lại có người bầu bạn, trái tim hồ ly nhỏ dường như bắt đầu đập trở lại.” Lục Nhất có vẻ rất hài lòng với tác phẩm của mình.
“Mất tim rồi làm sao mà đập được nữa?” Phương Đăng khinh khỉnh, “Bố mẹ anh ngày xưa chắc suốt ngày kể chuyện cổ tích cho anh nghe đúng không, bị lậm nặng quá rồi đấy.”
“Tôi chẳng hiểu nổi suy nghĩ trong đầu cô, Phương Đăng. Tin vào những điều tốt đẹp trên đời này khó vậy sao?” Lục Nhất khi trở nên cứng đầu cũng dễ khiến người ta chịu không nổi.
Phương Đăng đứng bật dậy nói: “Nếu chuyện cổ tích có thật, sao không thấy cô công chúa nào từ trên trời rơi xuống cứu rỗi anh chàng kỹ sư ế như anh?”
Lục Nhất định nói: sao cô biết không có, nhưng lại không dám nói ra lời lộ liễu quá, đành tiếp tục cúi đầu cười.
Chộn rộn một hồi, tâm trạng Phương Đăng bỗng tốt hơn hẳn. Cô đi men theo chân tường căn biệt thự, đến thẳng chỗ tường giáp với vườn sau, trong quá khứ đã bao lần cô ra vào vườn từ đây.
“Anh có muốn tận mắt nhìn thấy bức tượng hồ ly đó không?” Cô quay lại mỉm cười, cởi phăng đôi giày cao gót.
“Muốn chứ… Ơ kìa, đừng bảo cô định trèo tường vào đấy nhé? Tuyệt đối đừng nên, cẩn thận có người trông thấy bây giờ.” Lục Nhất ngoái nhìn tứ phía, anh không ngờ Phương Đăng lại liều lĩnh như thế. Người chưa từng làm việc xấu trong lòng tất lo lắng khác thường.
“Sợ người ta nhìn thì im lặng.” Phương Đăng thầm thấy may vì hôm nay mình mặc quần. Thực ra cô thừa biết, sau khi già Thôi được Phó Thất đón sang Mỹ dưỡng già, trong vườn này chẳng còn ai. Đã nhiều năm không giở ngón nghề, lúc đầu cô thấy hơi khó dùng sức một chút, nhưng quen rồi mới hay mình còn dẻo dai chán, chẳng bao lâu đã đu được lên đầu tường.
———- BỔ SUNG THÊM ———-
Lục Nhất thấy người đẹp leo tường, bất ngờ suýt rơi cả kính, Phương Đăng ngồi vắt vẻo trên tường, phủi phủi bụi trong lòng bàn tay, ra hiệu cho Lục Nhất làm theo.
Hồi nhỏ Lục Nhất chẳng mấy khi đi học trễ, chứ đừng nói là leo tường trèo cây. Nhưng một cô gái liễu yếu đào tơ thế kia còn trèo được, mình thì đàn ông con trai sức dài vai rộng… Anh cứ ngần ngừ không biết có cần cởi giày để leo không.
“Này, giày cởi ra để ở đâu?” Lục Nhất thì thào hỏi.
Phương Đăng nhìn vào trong vườn, không trả lời. Một thoáng, Lục Nhất còn chưa kịp cởi giày, đã thấy Phương Đăng khẽ khàng nhảy xuống bên mình, đi giày rồi rảo bước. Trong mắt cô không còn lung linh thứ hào quang rực rỡ vừa nãy, cả người cứ như hồn bay phách lạc.
“Phương Đăng, cô sao thế?”
Lục Nhất vội đuổi theo hỏi.
Phương Đăng càng đi càng mau, như thể bị ma đuổi. Cô không hề nói với Lục Nhất ban nãy mình đã nhìn thấy điều gì.
“Cẩn thận nhé.” Phó Kính Thù rảo bước trên con đường nhỏ dẫn ra vườn sau, cỏ hoang nơi này giờ đây cao không quá cẳng chân hắn. Phó Kính Thù hiểu rõ từng bí mật ẩn giấu dưới mỗi gốc cỏ dại nơi này, nhưng vị khách mặc váy ngắn đi giày cao gót sau lưng thì chưa chắc nên hắn không thể không quay lại nhắc nhở.
Khi chủ nhân “Tố Thành”, nhà họ Cổ ở Đài Loan chính thức ngỏ ý muốn kết thông gia với bà Trịnh, bề trên hai nhà đều tỏ ý rất sốt sắng, dốc sức mai mối cho đôi trẻ, hận không thể đưa hai người vào lễ đường thành hôn ngay cho xong.
Bà Trịnh từng gặp cô gái này một lần, lần đó cô gái kia và cha cùng tới Malaysia thăm hỏi, đúng lúc Phó Kính Thù phải ở lại Mỹ để lo công việc. Khi trở về, hắn nghe bà Trịnh khen cô gái kia không tiếc lời, nào là vừa xinh đẹp vừa cởi mở, vừa nhìn đã biết xuất thân trong gia đình tốt, hiện đại tân thời, nhưng cử chỉ vẫn có chừng mực, rất có giáo dục.
Chuyện bà Trịnh đã quyết định, Phó Kính Thù đương nhiên không tiện nêu ý kiến. Ý hai nhà đều mong họ gặp mặt càng sớm càng tốt, đẩy nhanh tiến độ tìm hiểu. Nhưng thứ nhất là Phó Kính Thù quả thực trăm công nghìn việc, thêm nữa cô gái kia suốt ngày rong chơi khắp nơi, muốn tìm một cơ hội thích hợp để gặp mặt chẳng phải dễ dàng. Vừa may lần này, Phó Kính Thù cần quay về làm một số công tác chuẩn bị cho việc trùng tu nhà tổ, cô gái kia lại đang tham gia khoá học chuyên sâu ngắn hạn tại một trường đại học trong thành phố, người lớn hai nhà bèn nhắc họ sắp xếp cuộc hẹn. Các bậc bề trên nhận thấy đây là một cách quen biết “tương đối hiện đại” và dễ được đám con cháu chấp nhận. Đều còn trẻ trung, lại sinh trưởng trong hoàn cảnh gia đình và có nền tảng học vấn khá tương đồng, nhân phẩm tài mạo cũng tương đồng, dù chưa thể nảy nở tình cảm ngay tức khắc, chí ít họ cũng không thiếu đề tài để giao lưu.
Sau khi giải quyết xong công việc, Phó Kính Thù bèn gọi điện cho cô gái kia chính thức ngỏ lời mời. Đối phương không tỏ ra ngạc nhiên, còn chủ động ấn định nơi gặp mặt là Phó gia viện, điều này ít nhiều vượt ngoài dự liệu của Phó Kính Thù. Song nghĩ đến cha cô ta điên cuồng vì căn biệt thự cổ này, cha nào con nấy, cô yêu cầu như vậy cũng hợp tình hợp lý.
Để giữ phép lịch sự, sau khi lên đảo Phó Kính Thù đưa cô gái đi dùng bữa trưa trước. Cô gái tên Minh Tử kia đích thực kiều diễm tươi tắn như lời bà Trịnh kể, hiếm có hơn nữa là, cô ta không giống một số cô “hot girl” mà Phó Kính Thù từng tiếp xúc, người thì Tây hoá quá đà, người thì kiêu căng quá trớn. Cô cởi mở, hiếu động, hành sự tự nhiên thoải mái, ấn tượng đầu tiên trong Phó Kính Thù về cô không tệ.
Dùng bữa xong, Phó Kính Thù đưa Minh Tử về Phó gia viện. Sau khi già Thôi rời đi, bà Trịnh không buồn thuê người chăm lo cửa nhà vườn tược nữa, có lẽ bà định trước mắt cứ để nó hoang phế, nhưng bà có lòng tin sẽ trông thấy căn nhà được trùng tu trước ngày mình ra đi. Lần này trở về, Phó Kính Thù nhận ra rằng, khu vườn phía đông, nơi duy nhất trước kia còn khang trang gọn gàng giờ đây đã trở thành vương quốc cỏ dại, chẳng còn chút nào dấu tích xinh đẹp xưa kia nữa.
Cổ Minh Tử vừa đi theo Phó Kính Thù, vừa ngoái nhìn tứ phía. Mặc dù đến đây lần đầu, nhưng cô ta có thể thao thao bất tuyệt về phong cách, các chi tiết trang trí, thậm chí cả đến xuất xứ và đặc điểm các vật liệu xây dựng của căn nhà, rất có hiểu biết, quả nhiên chịu ảnh hưởng không nhỏ từ người cha.
Đôi chân mang giày cao gót bước đi trên thảm cỏ khó tránh khỏi vất vả, cô vừa cẩn thận đặt chân, đôi mắt vừa không kiềm chế được quan sát xung quanh. Có lẽ cô không nỡ bỏ qua bất cứ chi tiết kiến trúc nào, mỗi lần phát hiện ra điều gì là không ngớt lời tán tụng.
“Ngày trước cha từng nói với tôi, Phó gia viện chính là tinh hoa của kiến trúc thời bán thực dân, lúc ấy tôi chưa tin ngay. Sao bên anh nỡ nhẫn tâm để nơi tuyệt vời này biến thành thế này?! Tây Lầu sắp sửa hoàn toàn biến dạng, Đông Lầu đỡ hơn một chút nhưng cũng chẳng ra sao, tiền viện và hai vườn hoa nhỏ trông đến là đáng thương.” Minh Tử than thở.
Phó Kính Thù nói: “Một lời khó nói hết, ngày đó gia đình tôi dời đi là bất đắc dĩ, ai mà ngờ thế cục và chính sách về sau lại như vậy. Hiện giờ căn nhà đã được trả về, nhưng người nhà họ Phó quá nửa lưu lạc ở nước ngoài, người cả ba phòng quá đông, quyền thừa kế rất phức tạp. Ai nấy đều suy tính cho mình, muốn trùng tu căn nhà là một chuyện không dễ. Nếu không nhờ cha cô thần thông quảng đại, thuyết phục được toàn bộ người Phòng Nhì ký vào giấy chuyển nhượng, chẳng biết nơi này còn bị bỏ hoang đến bao giờ.”
Minh Tử nói: “Khi lần đầu tiên nhìn thấy Phó gia viện ở Đài Loan cha tôi đã rất thích rồi, nhưng có người mách ông, căn nhà ở Đài Loan chỉ là bản sao căn nhà tổ của họ Phó tại Đại Lục. Người Phòng Nhì sau khi di cư sang Đài Loan, nhằm biểu thị lòng tưởng nhớ tổ tông, dựa vào ấn tượng về căn nhà tổ mà xây nên. Năm tôi mới mười mấy tuổi, cha đến Đại Lục công cán, đặc biệt bỏ thời gian tìm tới đây, khi trở về, trước mặt chúng tôi ông cứ nhắc mãi không thôi rằng thật đáng tiếc, một căn nhà có quy mô, phong cách độc đáo vậy mà tàn tạ đến đau lòng. Nếu căn nhà thuộc về ông, bất kể bỏ ra bao nhiêu tiền của và sức lực, ông cũng sẽ khôi phục nó về nguyên dạng bằng được. Tôi đoán từ lúc đó, ông đã nuôi ý định mua lại Phó gia viện. Cha tôi là người đã muốn thì phải làm bằng được, ông phái người đi tìm kiếm suốt bốn năm, tìm tới từng người một trong số những vị đứng tên thừa kế của Phòng Nhì nhà họ Phó, dùng đủ mọi biện pháp cứng có mềm có nhằm thuyết phục họ đồng ý chuyển nhượng, tôi nghe nói mà sợ thót cả tim. Có điều ông không ngờ, giải quyết xong Phòng Nhì là nhánh đông người nhất, lại đụng phải bức tường ngoan cố ở Phòng Ba. Có thuyết phục thế nào bà của anh cũng không chịu bán Phó gia viện, còn nói nếu bán rồi, bà có xuống đất cũng không thể yên nghỉ.”
“Những người ở thế hệ của bà có lòng tin mạnh mẽ hơn chúng ta.” Phó Kính Thù vén cành mai dại phía trước để Minh Tử đi qua “Nếu bà đồng ý bán, chúng ta bây giờ sẽ không gặp nhau tại đây.”
Minh Tử đột nhiên bật cười: “Anh không biết cha tôi thích anh thế nào đâu. Ngày nào trước mặt tôi ông cũng khen anh là người có bản lĩnh hiếm có trong lớp trẻ, mặt nào cũng tốt. Tôi cảm thấy trước đây ông lỡ yêu căn nhà, bây giờ lại lỡ phải lòng anh. Nếu ông là con gái, không chừng phải tìm cách lấy anh bằng được. Làm như tôi không gặp anh thì cả đời sẽ phải hối hận không bằng.”
“Thế còn cô, cô thấy sao?” Phó Kính Thù cười nhẹ. Đây đã như hiệp thương mang lên bàn thảo luận kí kết, hắn cần gì phải quanh co.
Hắn đang hỏi về suy nghĩ của cô một cách rất trực diện. Nếu đổi lại là người khác, trong lần đầu tiên tiếp xúc, không biết chừng Minh Tử sẽ cho rằng đối phương quá đường đột. Nhưng vẫn câu nói ấy thốt lên từ miệng Phó Kính Thù, nghe lại tự nhiên thanh thoát như nước chảy mây trôi. Cô từng gặp nhiều chàng trai trẻ trung hơn, hấp dẫn hơn, gia thế của cải chẳng hề kém cạnh, nhưng con người này có một cốt cách rất đặc biệt, gặp phải anh ta, bạn sẽ thấy dường như không phút giây nào không bị thuyết phục, bị làm cho rung động, làm cho mềm lòng, bị xâm chiếm. Bạn sẽ thấy anh ta nói gì, làm gì đều chính đáng tự nhiên như đất trời vốn thế. Đến vẻ cười, giọng nói của anh ta, thoạt trông hoàn toàn chẳng cố ý đạt được điều gì, nhưng rồi bạn sẽ thấy anh ta nói sao mà đúng, sao mà khiến lòng mình vui vẻ thần phục lạ lùng. Rốt cuộc Minh Tử đã hiểu tại sao cha mình hài lòng về anh ta đến vậy.
Nhưng suy cho cùng, cô không phải một người dễ bị chi phối. Mặc dù từ nhỏ Minh Tử đã hiểu rằng, là đứa con gái độc nhất trong một gia đình tài phiệt, khi tìm kiếm nửa kia, cô không thể không suy xét đến lợi ích gia đình, nhưng một cô gái còn quá trẻ, làm sao không có giấc mơ về tương lai và tình yêu của riêng mình?…
Cô hỏi Phó Kính Thù: “Anh nghĩ chúng ta chỉ có một lựa chọn là nghe theo sự sắp đặt thôi ư?”
Phó Kính Thù trầm ngâm một lát rồi nói: “Các bậc bề trên đã đi quá nửa cuộc đời, trải biết bao chuyện thăng trầm, cách nhìn nhận của họ chắc chắn sáng suốt hơn. Không phải vì họ kiên trì khiến tôi buộc phải phục tùng, nhưng tôi sẽ suy nghĩ kỹ vì sự lựa chọn này biết đâu lại là chính xác.”
“Vậy, anh có tin vào tình yêu không?” Minh Tử đi tới chắn trước mặt Phó Kính Thù, hỏi một cách nghiêm túc.
“Tôi chỉ tin vào những thứ mình tận mắt trông thấy.” Phó Kính Thù cười hỏi ngược lại, “Cô nghĩ thế nào là yêu?”
Minh Tử bước lên mấy bước, đáp một cách mơ hồ: “Tôi nghĩ, tình yêu là thứ chúng ta không thể nắm bắt. Nó nguy hiểm, cực kỳ bất ổn, anh chẳng thể biết khi nào sẽ gặp nó nhưng bất ngờ nó sẽ nổ ‘Bùm’ khiến anh ngây ngất choáng váng.”
Khi Minh Tử thình lình nói chữ “Bùm”, Phó Kính Thù tỏ vẻ như bị chọc cười, “Cứ như là ni-tơ-rô-gly-xê-rin[1] ấy nhỉ?”
[1] C3H5(NO3)3, chất lỏng màu trắng hoặc vàng nhạt, có độc, tính nổ rất mạnh, thường dùng trong chế tạo thuốc nổ.
“Anh đã gặp ni-tơ-rô-gly-xê-rin của đời mình chưa?” Minh Tử cười hỏi.
“Ni-tơ-rô-gly-xê-rin chính là bom. Nếu gặp phải vật như vậy, chẳng phải đầu tiên người ta sẽ tìm cách loại bỏ, hoặc trốn tránh nó sao?”
“Tôi luôn nghĩ, nếu được nếm trải cái mùi vị bị nổ banh xác đó cuộc đời sẽ thi vị hơn nhiều.” Minh Tử chớp chớp mắt, “Đúng rồi, anh Phó này, tôi nghe nói anh biết vẽ tranh, có cơ hội tôi muốn thưởng thức tác phẩm của anh được không?”
“Cô muốn thử xem tranh của tôi có khiến cô nổ tung không à?” Phó Kính Thù pha trò.
Minh Tử nói: “Mẹ tôi từng nói, thương nhân chỉ biết có công việc rất chi là vô vị. Nếu cha tôi không có sở thích sưu tập nhà cổ, chắc chắn con người ông sẽ nhạt nhẽo lắm. Tôi đang cố tìm kiếm chút ánh sáng cho viễn cảnh rất có thể là tương lai sau này của mình mà thôi.”
Phó Kính Thù không rõ từ đâu cô ta biết về sở thích vẽ tranh của hắn. Trên thực tế vài năm nay ít khi hắn cầm tới cây bút vẽ, giống như sở thích trồng hoa cũng dần phải gác sang một bên, công việc bề bộn khiến hắn phân thân không xuể. Bức tranh hắn hận nhất, tâm đắc nhất, có lẽ cũng là bức tranh đẹp nhất hắn từng vẽ hiện giờ đang treo trong phòng ngủ của Phương Đăng.
“Không chừng vài năm nữa cô sẽ thấy những thứ ổn định đơn thuần mới thật đáng tin.” Phó Kính Thù nói, “Còn nữa, tôi gọi cô là Minh Tử, sao cô lại gọi tôi là anh Phó?”
“Vậy tôi nên gọi anh là gì? Chú Phó ư?” Minh Tử cười hóm hỉnh.
“Gọi tôi là Phó Thất được rồi.”
“Phó Thất!” Minh Tử có vẻ rất thích thú với cái tên này, vừa cười hihi vừa nhẩm lại một lần, đột nhiên cô giậm giậm chân, “Ngứa quá, có muỗi hay sao ấy!”
Khu vườn cỏ hoang mọc um tùm, Minh Tử lại để chân trần, không bị muỗi cắn mới lạ. May nhờ Phó Kính Thù nhắc từ sớm, nên trước khi vào vườn cô đã mua một lọ dầu thơm ở siêu thị đối diện.
Minh Tử vội xức dầu thơm lên chân, dù bực mình vì bọn muỗi, nhưng cô chưa muốn rời khỏi căn biệt thự quá sớm.
“Cái mùi này hắc thật, Phó Thất, anh có ngửi quen mùi dầu thơm không?” Minh Tử xìu giọng hỏi.
Cô khom người, mái tóc dài chảy qua vai, che mất nửa khuôn mặt. Mùi hương đặc trưng của dầu thơm Lục Thất váng vất trong không gian, vừa nồng đượm vừa the mát.
Nghe Minh Tử gọi “Phó Thất”, Phó Kính Thù bỗng dưng rơi vào ảo giác. Hình như chỉ một giây nữa thôi, cô gái kia sẽ khẽ khàng ngẩng mặt lên, dụi mái tóc ướt rượt vào ngực hắn. Mùi dầu thơm như có như không. Cô gái ấy sắp run rẩy thốt lên rằng: “Tiểu Thất, trên đời vẫn có những kẻ ngốc như vậy đấy…”
Lâu không trở lại, đứng giữa nơi này, trong chốc lát Phó Kính Thù không nhận rõ đâu là thực đâu là mê. Trong lòng hắn chợt xao xuyến, không kìm được đưa tay vén tóc cô gái.
Minh Tử kinh ngạc ngẩng đầu lên, thấy đôi mắt vốn rất đỗi tinh minh của người đàn ông trước mặt giờ đây cứ như mê đi, rồi mau chóng trở nên sửng sốt, cuối cùng tỏ ra vẻ hối lỗi. Trông Phó Kính Thù dịu dàng hơn trước đó rất nhiều.
“Anh cũng ghét cái mùi này ư?” Cô hỏi vẻ khó hiểu.
Phó Kính Thù lắc đầu, “Đây là mùi vị dễ chịu nhất tôi từng biết.”
Chương 26: Liều mạng chém gió
Lúc về, Phương Đăng không tài nào tìm ra vé tàu, không rõ có phải đã làm rơi lúc trèo lên tường hay không. Lục Nhất đành đi mua vé hộ cô, vì là cuối tuần, người lên đảo khá đông, trước trạm bán vé là một hàng dài những người xếp hàng. Phương Đăng nhìn thấy trong dòng người một cô gái trẻ tay cầm hành lý, mang vẻ ngoài điển hình của dân du lịch. Vừa đến lượt cô thì cửa bán vé đó đột nhiên đóng lại. Hoá ra cô xếp đúng cửa có nhân viên sắp giao ban. Cô gái mặt mày bí xị, không còn cách nào khác, đành chuyển sang đứng cuối hàng một cửa hàng khác.
Phương Đăng cảm thấy đời người kỳ thực chẳng khác chuyện xếp hàng là bao. Chọn nhầm người, hay đi nhầm đường, giống như xếp nhầm hàng mua vé ở bến tàu đông đúc, chờ rồi lại chờ, trăm nghìn đắng cay, rốt cuộc tưởng đã đến lượt mình, hoá ra người phía trước đã giành đi chiếc vé cuối cùng. Chỉ là khoảng cách một bước chân, vậy mà phải làm lại từ đầu. Khi chuyển sang một hàng khác thì đã quá muộn, rất có thể khi chuyến tàu cuối đã đi xa, trên cảng chỉ còn mình mình trơ vơ đứng đó.
Hết lần này tới lần khác Phương Đăng thuyết phục mình rằng, Phó Thất kết hôn vào lúc này là đúng đắn, giống như hầu hết mọi quyết định của hắn trong quá khứ. Hai người họ vốn dĩ không tránh khỏi ngày này, cô đã hiểu thấu điều ấy từ lâu rồi còn gì? Cô đánh đổi tất cả, chẳng phải vì mong một trong hai người sẽ đạt thành tâm nguyện hay sao?… Nhưng khi ngồi trên tường, tận mắt nhìn thấy hắn và cô gái kia đầy vẻ chăm sóc, cô mới nhận ra mình không thể an nhiên như mình nghĩ. Hắn sẽ hạnh phúc chứ? Thứ hạnh phúc cô xả thân để đánh đổi, hoá ra không hề liên quan gì đến cô. Trái tim trống rỗng trong cô không ngừng thét lên vô vọng, đau đớn như thể bị tay ai đó xé nát ra, đầm đìa máu.
Rời khỏi bến tàu, Phương Đăng cùng Lục Nhất đi ăn tối. Lục Nhất dè dặt hỏi có phải do anh làm cô không vui hay không, Phương Đăng phủ nhận rồi lặng thinh, khiến anh không dám hỏi thêm. Ăn xong, Phương Đăng rủ Lục Nhất đi uống rượu, Lục Nhất thấy thật khó xử, vì tửu lượng anh quá kém, sợ uống một ly là ngã nhào, đến lúc đó không còn ai uống cùng bầu bạn với Phương Đăng nữa. Phương Đăng chê anh yểu điệu như đàn bà, bàn bạc một hồi, họ quyết định về nhà Lục Nhất uống.
Trong căn hộ Lục Nhất kỳ thực chỉ có một bình rượu duy nhất, rượu hoa điêu Thiệu Hưng, dùng để nấu thức ăn. Phương Đăng chẳng để tâm, về nhà bê xuống một đống rượu các loại, bày kín cái bàn uống trà. Lục Nhất nhìn mà hoa cả mắt, nào vang đỏ, whisky, Mao Đài, lại còn cả rượu xái[1] nữa.
[1] Loại rượu nấu lần thứ hai, là thứ rượu tinh thuần nhất, không mùi, nhưng nồng độ rượu rất cao, lên đến 60-70%.
Khi mới bắt đầu họ quyết định cứ uống tuỳ thích, nhưng Phương Đăng loáng một cái đã hớp cạn hai ly rượu mạnh, đang định cụng ly thứ ba với Lục Nhất, phát hiện hai má anh chàng đã đỏ ửng, ngoẹo đầu ra ý chối từ.
“Tôi uống đủ rồi.” Lục Nhất tỏ vẻ khổ sở.
Phương Đăng chăm chú nhìn cái ly đế cao đặt trước mặt anh ta, chẳng hiểu sao cáu lên, buột miệng chửi.
“Đủ cái đầu! Mới uống có một phần ba ly vang đỏ, mà nói cứ như là sắp chết đến nơi!”
Mặt Lục Nhất đỏ bừng lên, chẳng biết là vì xấu hổ, hay là vì rượu bốc lên đầu. Anh xua tay rối rít, “Tôi chưa say thử bao giờ, sợ nhỡ say lại nói linh tinh mất.”
Phương Đăng lườm anh, cười nói: “Thế thì chúng ta cùng nói linh tinh nào. Anh nghe đây, tôi có trò này cực hay, tên là ‘Liều mạng chém gió’.”
Lục Nhất mơ màng rót đầy ly của mình: “Tôi chỉ biết trò ‘Liều mạng nói thật’ thôi.”
“Nói thật đáng sợ lắm, nói dối vui hơn, muốn chém thế nào thì chém. Bên nào không tin lời bên kia, thì tự uống một ly, còn rượu gì thì tuỳ thích, chẳng thiệt đi đâu mà sợ. Bắt đầu luôn, tôi trước. Tôi bảo tôi là đàn ông, anh có tin không?”
Lục Nhất xị mặt ra: “Trò này của cô vô lý quá, cứ phịa chuyện ra mà nói thì khác gì tự chuốc rượu nhau?”
“Thông minh!” Phương Đăng vỗ tay bôm bốp, “Tinh tuý của trò này chính là uống rượu. Chị em đỡ việc, cánh đàn ông thời bất tỉnh. Đừng có lôi thôi nữa, anh có tin lời tôi vừa nói không? Không tin thì uống ngay cho một ly.”
Lục Nhất thấy cô hiếm vui ngất trời, ngại làm mất hứng, do dự một lúc, đành cười nói: “Thôi được, dĩ nhiên tôi không tin.”
Anh nhăn nhó uống cạn hơn nửa ly vang đỏ trước mặt, uống xong vẻ mặt rất kỳ quặc. Phương Đăng rất thoả mãn, khen: “Thế mới đã chứ. Đến phiên anh!”
Đối với một đứa nhóc thành thực, nói dối lại thành ra một công cuộc khó khăn. Lục Nhất ngẫm nghĩ giây lát, rụt rè nói: “Tôi… là kẻ rượu chè bài bạc sừng sỏ.”
Phương Đăng cười lớn, lập tức rót đầy whisky vào ly của mình, Lục Nhất định gàn, bảo cô uống ly vang của mình.
“Uống cái này thôi.” Cánh tay anh bị Phương Đăng gạt ra một cách thô bạo, đành nói, “Tương đối thôi, cần gì phải rót đầy thế.”
Phương Đăng dốc cạn ly rượu, cứ như chẳng nghe thấy gì.
“Tiếp.” Cô nói. “Tôi có một tuổi thơ hạnh phúc.”
Lục Nhất nghĩ ngợi, lại uống một ly.
“Tôi không thấy buồn vì tai nạn của cha tôi.”
“Tôi không quen cha của anh.”
“Tôi chẳng sợ tai nạn giao thông gì hết.”
“Tên tôi là Phó Kính Như.”
“Tôi chưa viết thư cho cô bao giờ.”
…
Chai rượu trước mặt Phương Đăng cạn đi mau chóng, Lục Nhất đâm lao phải theo lao, chai vang bên cạnh cũng vơi mất một nửa. Cặp lông mày dúm dó vì rượu bắt đầu dần giãn ra. Có một câu nói rất trúng, rận nhiều quên ngứa, nợ nhiều chai mặt, uống nhiều… hoá tỉnh rượu, dù rằng anh sắp líu cả lưỡi đến nơi.
Phương Đăng càng uống càng tỉnh, lầm lì tiếp tục trò chơi.
“Hôm nay tôi rất vui.”
“Không đúng, đồ dối trá, cô không vui, uống!” Lục Nhất bây giờ bạo hơn nhiều lúc bình thường.
Phương Đăng giơ ngón tay cái lên, “Thế mới là đàn ông!” Vừa nói, cô vừa cúi đầu định rót rượu, bỗng nghe Lục Nhất nói: “Lại đến lượt tôi rồi. Tôi là thằng đàn ông…”
Phương Đăng nghe xong, biết ngay anh ta say khướt rồi, bèn cười pha trò: “Anh nói thế này, tôi nên uống hay là không đây?”
“Không, cô đợi đấy.” Lục Nhất lảo đảo rót rượu vào ly của Phương Đăng, “Câu vừa nãy không tính…”
“Ba que xỏ lá!”
“Ai bảo thế, đấy là tôi chưa nói xong.” Anh phát âm hơi khó khăn, nhưng vẫn để cho Phương Đăng nghe hiểu, “Tôi là thằng đàn ông, cái gì ra cái đấy, mọi thứ phải rõ ràng… Phương Đăng, tôi luôn yêu cô.”
Phương Đăng đang thò tay nhón chai rượu xái, nghe vậy, bỗng cứng đờ cả, bèn chầm chậm ngồi lại chỗ cũ. Cô cảm nhận được, trong đôi mắt đăm đắm hướng về mình kia, ẩn giấu những vằn máu đỏ quạch của rượu, cũng tiềm tàng sự dũng cảm của rượu.
Rượu đưa lên môi, cô chỉ nhấp một ngụm, lại đặt xuống. Có lẽ bị men rượu thiêu đốt, cổ họng Phương Đăng bắt đầu đau rát, cô say mất rồi.
“Còn tôi lúc nào cũng lợi dụng anh.” Phương Đăng nhủ thầm.
Lục Nhất nhấc ly rượu lên định uống, tức thời bị Phương Đăng cản lại, động tác của cô quá gấp gáp, ly rượu trong phút chốc bị dốc ngược, thứ chất lỏng màu đỏ tươi loang ra trên nền nhà lát gỗ màu nâu nhạt, nhìn thoáng dễ khiến người ta rùng mình.
“Anh nên tin điều tôi vừa nói. Tôi tiếp cận anh, chỉ vì muốn lấy một thứ mà tôi cần…”
Lục Nhất sững người, ngỡ ngàng nhìn cô hồi lâu, rồi cười đáp: “Cô lại lừa tôi, cô chơi trò này càng ngày càng giỏi đấy. Chẳng qua là muốn chuốc rượu tôi, thì tôi uống là xong.” Anh dốc ngược chai vang đỏ tu nốt chỗ rượu còn lại.
Phương Đăng vốn định nói gì đó, thấy anh cố chấp như vậy, đành gật gật đầu, lặng lẽ uống hầu một ly.
Lục Nhất tu cạn ít rượu thừa, dường như muốn nôn, cả người nhũn ra đổ ập lên sô pha, Phương Đăng lay gọi thế nào cũng không dậy được.
“Suỵt, để người ta chợp mắt một tí. Anh say rồi, Phương Đăng ạ.” Anh lảm nhảm như mê sảng.
Phương Đăng ngơ ngẩn ngồi bên cạnh, rất lâu, mới khẽ đáp lại một câu: “… Tôi cũng thế.”
Minh Tử và Phó Kính Thù từ biệt trước cửa biệt thự họ Phó. Minh Tử khăng khăng không cần Phó Kính Thù tiễn mình, cô nói thích hòn đảo này, muốn ở lại thêm vài ngày, cũng từ chối khéo nghĩa cử sai cấp dưới giúp mình thu xếp chỗ ăn ở đi lại của Phó Kính Thù. Dưới góc độ một vị khách thuần tuý mà nói, dạo chơi tham quan nơi này có lẽ cũng khá thú vị.
Buổi tối Phó Kính Thù còn có việc, nên cũng không cố nài ép, trước khi chia tay họ giao hẹn sẽ duy trì liên lạc, để bề trên hai nhà yên lòng. Minh Tử đến nghỉ tại một nhà trọ cải tạo từ biệt thự cổ, hàng ngày nhẩn nha đi quan sát các toà kiến trúc mà cô yêu thích, rảnh rỗi thì uống tách cà phê, hóng chút gió biển. Một tuần trôi qua đầy thi vị.
Buổi trưa trước hôm chuẩn bị rời đảo, Minh Tử đi thăm biệt thự Thục Chính trở về, ghé qua siêu thị mua nước uống, khi ra khỏi bỗng trông thấy một dáng người quen quen.
Đúng lúc ấy, một hướng dẫn viên giơ cao ngọn cờ nhỏ dẫn đoàn du khách đi qua, cả đoàn người rầm rập chắn ngang trước mặt cô. Minh Tử bắc hai tay lên miệng, định thử lửa với cái loa đang oang oang ngay miệng người hướng dẫn viên du lịch: “Ê, A Chiếu… A Chiếu, Tô Quang Chiếu!”
Người nọ bước ra khỏi tiệm bánh ngọt, cắm cúi đi thẳng về hướng ngược lại. Minh Tử hét lên mấy câu, đã hơi nản lòng, lưỡng lự không biết có nên đuổi theo, anh chàng kia đột nhiên dừng lại, vẻ như nghe thấy gì đó, quay nhìn sau lưng đầy nghi hoặc. Trước mặt cậu ta chỉ toàn những du khách lớn tuổi mặc đồng phục màu đỏ nhộn nhạo đi ngang.
Minh Tử sợ đụng phải các cụ già, không dám hấp tấp, cố lách qua dòng người một cách khó khăn, không quên đưa tay vẫy A Chiếu, “A Chiếu, đây này!”
Cậu ta chắc chắn đã trông thấy cô, vẻ mặt ngơ ngác mau chóng được thay bằng ngạc nhiên.
“Èo, ‘Nhổ đinh khổ’ đấy à?” A Chiếu nhận ra cơn cảm nắng chớp nhoáng hôm nào.
Minh Tử vượt qua dòng người, nhón mấy bước chạy đến bên nó, gương mặt lấp lánh nụ cười thoả mãn, nhưng lại ra vẻ cau có nói chữa: “’Nhổ đinh khổ’ con khỉ khô, tên người ta là ‘Cổ Minh Tử’, Minh Tử trong Quyết Minh Tử!”
A Chiếu có vẻ càng nghe càng lơ mơ: “Quyết Minh Tử là cái quái gì?”
“Quyết Minh Tử là một loại hạt cỏ, dùng nhồi vào gối, sẽ giúp thanh lọc gan, sáng mắt.” Tâm trạng Minh Tử đang tốt, sẵn lòng bỏ công giải thích.
A Chiếu tỏ vẻ lĩnh ngộ bất chợt, “Thì cô cứ nói trắng ra, Quyết Minh Tử là hàng tốt, ai cũng muốn ngủ cùng, có phải dễ hiểu không.”
Minh Tử vốn định gật đầu, bỗng cảm thấy gờn gợn, vờ giận đấm vào ngực A Chiếu một đấm, “Cái loại lưu manh, ma cà bông, dám nói đểu!”
A Chiếu cười toe để lộ hàm răng trắng bóng, né qua một bên: “Ối ơi, cô ra tay tàn độc thế! Thôi đừng giỡn nữa, sao cô lại đến đây, đến một mình à?”
“Còn dám nói, mấy tháng trước thằng nào đồng ý đưa tôi đi chơi đảo Qua Âm mà nuốt lời? Khổ thân tôi ngớ ngẩn đợi một ngày ròng, cứ đinh ninh ai đó sẽ gọi điện cho mình thật.” Minh Tử nhớ lại chuyện hồi đó, tức thì muốn tính sổ với A Chiếu.
“Tôi muốn gọi điện cho cô mà, thề. Không ngờ hôm sau ông anh có việc gấp, tôi thật sự không có cách nào.”
“Việc của ông anh anh gấp, còn tôi chẳng đáng gì đâu nhỉ? Chẳng trách mọi người đều nói, anh em như tay chân, phụ nữ như áo quần!”
“Cô có phải cái gì của tôi đâu? Hơn nữa thỏi son của cô quá lởm, không cẩn thận một tí là nhoe nhoét chẳng nhìn ra cái gì, làm sao trách tôi được.” A Chiếu giở giọng lưu manh, “Cô đợi tôi mỗi một ngày chứ có phải cả đời đâu. Cùng lắm tôi hầu trả cô một ngày. Vuốt giận đi Quyết Minh Tử!”
“Anh không gọi tên tôi cho tử tế, tôi cũng mang tên anh ra làm trò bây giờ. A với chả Chiếu, có phải chữ ‘chiếu’ trong hồi quang phản chiếu không?” Minh Tử thấy A Chiếu có vẻ cáu kỉnh, trong lòng tự nhiên khoan khoái bớt, “Tôi chỉ đợi có một ngày, là vì không lâu sau cha gọi tôi về Đài Bắc.”
“Được rồi ân oán đôi mình kết liễu tại đây, hai đứa không đứa nào sai, lần trước không may. Hôm nay lại tình cờ gặp rồi đấy thôi, đã có duyên thế nào cũng có ngày tái nạm.”
Minh Tử nghe câu này thấy rất hài lòng, cô vốn dĩ không thực tâm giận hờn, do đó nụ cười mau chóng trở lại nở trên môi, tò mò hỏi: “Anh bảo đã chuyển khỏi đảo lâu rồi cơ mà, hôm nay lên đây làm gì?”
A Chiếu trỏ tay về phía tiệm bánh, “Đằng sau chỗ kia có một cô nhi viện, tôi lớn lên ở đó. Hôm nay về đem biếu cô nhi viện ít đồ.”
Minh Tử nghe xong, nhìn A Chiếu với cặp mắt khác, trong ánh nhìn lại thêm vài phần ngưỡng mộ, “Không ngờ trông anh như thằng ma cà bông, hoá ra cũng nhân hậu ra phết.”
A Chiếu vốn định nói thẳng, rằng mình thay mặt anh Bảy đến, tài trợ cho cô nhi viện đã là lệ cũ mười mấy năm nay của nhà họ Phó, đến đời Phó Kính Thù cũng cứ thế tiếp tục duy trì. Nhưng ngẫm lại, Minh Tử không quen biết anh Bảy, việc của anh Bảy, cũng là việc của nó, gái đã đem lòng hâm mộ, tội gì phủ nhận cho đời nó nghiêm trọng. Thế là nó mặc kệ cho chút sĩ diện đàn ông được thoả mãn, A Chiếu vẫy tay, đáp nhẹ như lông hồng: “Có gì đâu, vốn tôi xuất thân từ đây, quay về thăm viếng cũng là chuyện thường thôi. Lạ là cô ấy, sao lại lên đây một mình.”
Minh Tử nhăn nhó nói: “Tôi bảo đến đây coi mắt, anh có tin không?”
A Chiếu dĩ nhiên không tin, “Thời buổi nào rồi mà còn diễn tuồng ấy! Hot girl như cô, coi mắt làm cái gì?”
“Anh đang khen tôi đấy à?” Minh Tử mủm mỉm cười, “Tiếc là người nhà tôi không hề nghĩ thế, họ hy vọng tôi kết hôn với một người đàn ông mẫu mực, đúng theo sở thích của họ…”
“Người nhà cô từ cổ đại vượt thời gian đến đây à, hay nhà cô thuộc hạng lắm tiền, gia tài hàng chục hàng trăm tỉ chất cao như núi, không tính toán không xong, bắt buộc phải tìm cho cô một đối tượng môn đăng hộ đối.” A Chiếu nheo mắt nhìn chiếc sơ mi dáng dài Minh Tử đang mặc và đôi tông dưới chân cô, thuận miệng trêu.
Minh Tử cười hì hì đáp: “Ăn ốc nói mò mà cũng trúng. Anh có định bắt cóc tôi không đấy?”
A Chiếu chém gió thẳng tay: “Tôi sợ người nhà cô không thèm chuộc, cô lại bám lấy tôi thì chết à? Nếu đến coi mắt thế gã kia đâu? Người ta không thèm cô chứ gì?”
“Gì cơ?” Minh Tử trừng mắt nói, “Tôi mới không thèm anh ta thì có!”
“Như nào, gã đấy chắc vừa già vừa xấu, bị thọt chân, có năm đứa con riêng, người hôi như chồn chứ giề?”
Minh Tử cười khanh khách, “Không, thật ra anh ta rất tốt. Chính vì chỗ nào cũng quá tốt, bới mãi không ra chút nhược điểm nào, nên cảm giác cứ như… ma-nơ-canh. Sống chung với một người như vậy, tôi không thể lơ là bản thân một phút giây nào, lỡ mà để lộ mấy cái tính xấu ra thì mệt đấy.”
“Eo ôi xấu hổ quá đi thôi.” A Chiếu lạng người né cú “liên hoàn cước” của Minh Tử, cười hì hì nói, “Tốt quá cô không dám lấy, thế như tôi thì sao, chân tay mắt mũi đầy đủ, có bảo hành đàng hoàng.”
“Cứ ở đấy mà mơ đi.”
“À đúng rồi, cô là gái Đài, lại đến tận đây coi mắt, chẳng lẽ gã kia là người trên đảo? Nói thử xem biết đâu tôi quen.”
Minh Tử biết A Chiếu từ nhỏ lớn lên trên đất này, nên không muốn nói ra đối tượng của mình có một nửa quyền thừa kế Phó gia viện, nói ra chắc gì A Chiếu đã tin, mà có tin, cũng đâm nghĩ ngợi tò mò về gia thế của cô, như thế thì chán chết. Đôi con mắt Minh Tử đảo qua đảo lại mấy cái rồi nói: “Nhắc mãi vụ đấy làm gì? Anh bảo hầu tôi một ngày còn gì, lần này đừng hòng lừa tôi nữa. Nói mau, định hầu tôi kiểu gì đây?”
A Chiếu nghĩ tối nay anh Bảy chắc không cần đến mình, lập tức nói vẻ hào phóng: “Dù gì cũng lên đảo rồi, đi lang thang với nhau một hôm.”
Nhàn rỗi sinh nông nổi, Minh Tử vui vẻ đồng ý ngay. A Chiếu đưa Minh Tử đến một quán lẩu do người bản địa mở, làm gì thì làm trước tiên ních đầy cái bụng trước đã. Quán lẩu nằm trong một con ngõ nhỏ bên cạnh chợ, cửa vào không lớn lắm, bày biện cũng chẳng ra sao, nhưng dân đảo và khách khứa nghe tiếng đến ăn chật ních. Vừa bước chân vào quán, khí nóng đã ập vào mặt, khách ngồi ăn chen chúc trên những chiếc bàn nhỏ hình vuông, bên ngoài còn mấy người đứng chờ.
“Tôi thích ăn lẩu nhất đấy.” Minh Tử không ngại quán nhỏ tồi tàn, mặt cô đầy vẻ phấn khích, “Nhưng đông thế này, chắc phải đợi lâu lắm.”
A Chiếu chen đến cạnh một người đàn ông trung niên có vẻ là chủ quán, thầm thì mấy câu, lại đánh mắt về phía Minh Tử đang đứng thu lu một chỗ. Ông chủ nhoẻn cười hiểu ý ngay, vỗ vỗ vai A Chiếu, rồi sai nhân viên kê thêm một chiếc bàn nhỏ vào trong góc, vừa đủ cho hai người ngồi.
Minh Tử ngồi xuống theo A Chiếu, nhân viên quán nhanh nhẹn bưng nồi lên. Minh Tử hít hít mấy cái.
“Thơm nức cả mũi, tôi ở trên đảo gần một tuần mà sao không hề biết chỗ này nhỉ?” Cô liếc thấy A Chiếu dương dương tự đắc, không nhịn được lên tiếng chọc ghẹo, “Cơ mà khả năng của anh chỉ có thế này thôi à?”
A Chiếu vênh mặt, cười đáp: “Hãy đợi đấy.”
Nói xong cậu ta liền mất hút, nháy mắt đã lẩn vào bếp, hồi lâu chẳng thấy ra.
Đúng lúc Minh Tử nghi ngờ A Chiếu lén cửa sau trốn mất, mình lại được ăn quả lừa, bỗng thấy A Chiếu trở lại, trên tay lúc lỉu vật gì đó. Dừng lại bên cái bàn nhỏ của hai người, nó mân mê cái vật trắng phốp đó trong lòng bàn tay, Minh Tử lúc này mới nhìn rõ đó là một cục bột.
Cô còn chưa kịp hỏi, A Chiếu đã bắt đầu giở ngón nghề. Hai tay nó dang ra, cục bột bị kéo giãn, nó quay người một cái, cục bột đã xoắn lại tài tình như tay áo mấy diễn viên tuồng, suýt tí nữa quệt phải đỉnh đầu của Minh Tử. Cô kinh ngạc kêu lên, rụt cổ lại, chẳng buồn ăn nữa, cứ ngẩn ngơ nhìn A Chiếu biểu diễn tài nghệ xe sợi mì. Nó lúc thì giơ tay, khi thì uốn lưng, cứ như đang nhảy một điệu nhảy kỳ quặc, thế mà cục bột vẫn ngoan ngoãn nghe lời nằm trong tay nó, uốn éo như một con linh xà, co duỗi tự nhiên, trông hơi giật gân, nhưng là có nghề cả. Các thực khách đến ăn lẩu cũng lũ lượt dừng đũa quay đầu ra nhìn, chốc chốc có người lên tiếng khen hay. Minh Tử từng xem trò này trên ti vi rồi, nhưng tận mắt chứng kiến thì là lần đầu tiên, đặc biệt người biểu diễn lại là người quen của cô, Minh Tử phấn khích vỗ tay hò hét liên tục. A Chiếu vô cùng đắc ý, động tác càng lúc càng biến ảo, vắt mì càng lúc càng bay xa. Khi A Chiếu chuẩn bị dừng lại để tận hưởng tiếng hoan hô ngưỡng mộ của Minh Tử, vắt mì chẳng may bay vào đầu một ông khách trung tuổi ở bàn kế bên. A Chiếu vội thu tay về, ai ngờ vắt mì dính theo cả một vật đen sì sì, nhìn lại, mái tóc đen bóng mượt trên đầu ông khách to béo giờ chỉ còn cái gáo dừa, kể ra cũng khá bóng. A Chiếu túm lấy vắt mì và mớ tóc giả dính trên đó, chuyện quá bất ngờ khiến nó cũng ngớ người ra.
Ông béo hói kia cũng đang chẳng biết phải làm thế nào. Cả quán lặng thinh mất mấy giây, Minh Tử không nhịn được nửa gập lưng mà cười, xung quanh mau chóng cười rộ lên. Ông béo sờ lên đầu, sau phút kinh ngạc, ông nổi cơn tam bành, xông đến định phân rõ phải trái với A Chiếu. A Chiếu tự biết mình sai lè ra rồi, bèn cúi đầu xin lỗi, để sửa sai, cậu ta cung kính định đeo mái tóc giả lên đầu ông béo, ai ngờ trên tóc dính đầy sợi mỳ, xiên xiên vẹo vẹo đôi cái thứ rối tinh rối mù kia lên đầu, chỉ khiến ông béo trông càng buồn cười.
Mọi người xung quanh càng cười ầm ĩ, ông béo tủi quá hoá giận, giật phắt mái tóc giả ném vào mặt A Chiếu, đoạn giơ nắm đấm định nện nó luôn. A Chiếu vội vã nhảy tránh, trong lúc hỗn loạn xô đổ một chiếc bàn khác, nước lẩu đổ lênh láng ra đất, người ở bàn đó bắt đầu la ó. Thấy tình hình càng lúc càng loạn lạc, A Chiếu đẩy ông béo đang hùng hục xông vào sang một bên, nắm tay Minh Tử lúc này vẫn còn đang cười “ha ha” không dứt, chạy biến vào cửa bếp.
Hai người xuyên qua cửa sau nhà bếp, chạy vào một con ngõ khác. Rẽ bên này ngoặt bên kia một lúc, khi chắc chắn không còn ai đuổi theo, nó mới dựa lưng vào tường, vừa thở phì phò vừa cười.
“Đồ ma cà bông toàn làm việc chẳng ra gì, nếu tôi là ông béo đó, tôi không đánh nhừ xương anh ra thì thôi.” Minh Tử vỗ vỗ ngực, cười đến độ thở phì phò, quặn cả bụng, “Tiếc cái là mới ăn được có mấy miếng lẩu.”
“Vẫn còn nghĩ đến ăn được, không chạy á lão béo kia phá quán, ông chủ cho tôi teo đời là cái chắc.” A Chiếu nhắn nhó, “Nào ai biết tóc ông ta là tóc giả cơ chứ, đen như chó mực! Thôi không sao, lần sau tôi lại biểu diễn cái khác hay hơn cho mà xem.”
“Sao anh biết trò này?”
“Haiz, ngày xưa chả có việc gì tôi chưa từng làm.” A Chiếu thờ ơ đáp. Ánh tà dương trong con ngõ phản chiếu lên gương mặt ngây thơ của A Chiếu, từng giọt mồ hôi sáng lên lấp lánh. Nó quệt một cái, khiến một bột mì lem cả lên mặt, trông cả con người càng ngây ngô như đứa trẻ.
Hắn là thằng ma cà bông, Minh Tử thầm nghĩ, nhưng nụ cười khinh mạn mọi thứ của gã ma cà bông này hình như đang ngầm đốt cháy sợi dây kích hoá ẩn giấu trong cơ thể cô. Thấy cô cười mỉm dùng ngón tay lau vết bột trên mặt cho mình, A Chiếu ngoan ngoãn đứng im, lông mi khe khẽ hấp háy, Minh Tử càng lúc càng cảm nhận rõ, kíp nổ đang cháy lên như một con hoả xà, lan toả, nhảy nhót, rung động tận đáy tim.
Minh Tử nhón chân lên, sán lại gần. Trong lòng cô nghĩ… chẳng thể nghĩ quá nhiều được nữa.
“Anh có muốn nếm thử cảm giác bị nổ banh xác không?” Minh Tử níu lấy cổ áo A Chiếu thầm thì.
A Chiếu lúc này lại đang nhìn về phía đầu ngõ.
Phó Chí Thời dẫn theo một người phụ nữ, cùng một đôi vợ chồng trạc tứ tuần đi qua. Nơi ở của cha mẹ Phó Chí Thời gần ngay đây, những người đã quen sống trên đảo hầu hết không dễ gì chịu đi khỏi. Vài năm trước, hai vợ chồng già xây một biệt thự nhỏ hạng sang ngay trên mảnh đất cũ, vị trí nhìn ra biển, là miếng đất đẹp nhất nhì đảo.
Phó Chí Thời tuy là kỳ phùng địch thủ với A Chiếu, nhưng nó cũng không thể không thừa nhận, thằng đó rất có hiếu. Nghe nói tuần nào Phó Chí Thời cũng lên đảo thăm cha mẹ, mưa gió không thay đổi, vợ hắn cũng nhờ biết cách hầu hạ, làm vui lòng hai ông bà lại thêm cái bụng to ra, mới trở thành con dâu họ Phó.
Phó Chí Thời dìu bố mẹ, dường như có liếc mắt về phía bọn A Chiếu một cái, người phụ nữ bên cạnh đang liến thoắng nói gì đó, còn hắn cứ nhìn đâu đâu.
“A Chiếu, sao đấy? Có nghe thấy tôi nói gì không?” Minh Tử trách.
“Sao? Ai bị nổ tan xác cơ?” A Chiếu sực tỉnh, lúc này mới cảm nhận thấy bầu không khí tinh tế lãng mạn quanh mình.
“Não anh không có nếp nhăn à?” Cô gái trẻ khẽ hé đôi môi hồng, ánh mắt long lanh.
A Chiếu cảm nhận thấy Phó Chí Thời hình như lại “vô tình” liếc về phía này. Cái đồ con rùa đó đang đi với vợ và ông bà già, chẳng dám manh động đâu, nhưng nếu nhìn thấy cô nàng mình khoái đang nằm trong tay đối thủ, không khéo sẽ tức lộn ruột lên.
A Chiếu thầm khoái chí, gái đẹp ngay bên cạnh, càng chẳng kiềm chế được nữa. Nó cúi đầu hôn Minh Tử say đắm, mơ hồ nói: “Nổ thì nổ”
Chương 27: Cái phức tạp của sự đơn giản
Phương Đăng đứng trước khung cửa sổ chấm đất trong phòng làm việc của Phó Kính Thù nhìn ra ngoài. Cùng một góc độ, nhưng những gì cô trông thấy nơi đây so với nhìn thấy từ cái cửa sổ bé con nơi gác xép năm xưa hoàn toàn khác hẳn. Từ đây nhìn ra, đảo Qua Âm và gần như cả thành phố đều dưới chân mình. Không rõ mỗi lần phóng tầm mắt ra xa, trong lòng Phó Thất thấy ung dung mãn nguyện, hay lo sợ bất an?
Cô thư ký đang định mang đồ uống vào, liền bị A Chiếu cản lại. A Chiếu đưa ly cà phê cho Phương Đăng, tự mình ngồi lên mép bàn, lim dim cười nói: “Chị, chỗ này được đấy nhỉ?”
Phương Đăng quay lại nói: “Anh em nhà cậu tay chân lanh lẹ lắm, trong thời gian ngắn mà kiếm được nơi như thế này, văn phòng cũng thu xếp đâu vào đấy.
“Phải thế chứ! Có tiền mua tiên cũng được mà chị.” A Chiếu nghênh mặt đắc ý, cứ như Phương Đăng đang khen mình nó. Sau khi theo Phó Kính Thù làm việc, cuộc sống của nó thay đổi hoàn toàn. Nó quá sùng bái Phó Kính Thù, mỗi một lần hắn đạt được thành tựu, nó đều vì đó mà cảm thấy vinh hạnh lây.
“Chị đến mà không báo một tiếng, chiều nay anh Bảy phải đi họp. Anh bảo chị cứ nghỉ ngơi ở văn phòng, hội nghị kết thúc anh sẽ về ngay.” A Chiếu nói.
Phương Đăng gật đầu, ngồi vào ghế của Phó Kính Thù, nói với A Chiếu: “Cậu có việc cứ đi đi, để kệ chị.”
“Chẳng mấy khi chị đến, việc của chị mới là quan trọng nhất.” Miệng lưỡi A Chiếu cứ như quết mật, thấy Phương Đăng chỉ cười cười không nói, nó nhích lại gần thêm một chút, hào hứng nói: “Chị, em bảo cái này. Gần đây em giựt được con bồ của Phó Chí Thời, lần này nó tức hộc máu thì thôi.”
Phương Đăng nghe xong hơi ngạc nhiên, “Cậu lại lằng nhằng với cái thằng ấy làm gì?”
“Nhưng mà nó làm em ngứa mắt. Nó không thoải mái, em mới thoải mái.”
“Kể cả như vậy, cậu làm gì chẳng làm, sao nhất quyết phải gây chuyện đánh ghen, kéo một cô gái vào cuộc?”
A Chiếu bĩu môi, “Dù gì cũng là do con bé đấy tự dâng mỡ lên miệng mèo. Chị, chị yên tâm, em biết giới hạn chứ, có làm gì nó đâu, chỉ cho nó chống mắt lên mà xem thôi. Tóm lại những kẻ đã từng bắt nạt mình, mình phải khiến nó khốn đốn lao đao mới hả.”
Phương Đăng nghe A Chiếu nói vậy, vẫn cảm thấy không ổn, bèn cảnh cáo: “Đừng có nhố nhăng. Bị chó cắn một phát, cậu lại muốn học nó cắn lại?”
A Chiếu hứng chí chạy đến khoe công trạng, ai ngờ bị Phương Đăng cho một bài, hậm hực nói: “Chị, ngày xưa chị có thế này đâu. Lúc đầu chính chị dạy em, đối phó với bọn hèn hạ phải đánh dồn đập, đánh dữ dội, đánh cho nó xin tha mới thôi, không được sợ, không được mềm lòng. Sao bây giờ chị lại õng ẹo như mấy bà thím thế?”
Phương Đăng tiện tay ném con dao rọc giấy về phía A Chiếu, “Đừng nói linh tinh. Chị nhắc lại một lần nữa, không được chọc phá quá đà, cẩn thận mà chó cùng rứt giậu.”
A Chiếu như bị tạt gáo nước lạnh, mặt hẵng còn ấm ức, nhưng không dám cãi cố, đành sầm mặt đi ra. Phương Đăng thả người trên ghế suy nghĩ xuất thần. Những điều ấy thực sự là do cô dạy cho A Chiếu ư? Cô khiến một đứa bé yếu đuối đáng thương trở thành gã thanh niên ngang tàng không sợ trời không sợ đất, còn mình lại càng lúc càng nhát gan ư? Có lẽ cô đã chán ngán phải sinh tổn trong lỗ đất bùn lầy, phải liều mạng mà vươn lên, không từ thủ đoạn mà giành lấy quyền sống. Người đã quen đứng trong bóng tối, càng thắp sáng đèn thì càng dễ mất cảnh giác với những hiểm nguy sau lưng, còn kẻ đã quen với ánh nắng, chỉ cần họ tin rằng mặt trời luôn mọc lên mỗi ngày, là đã cảm thấy yên tâm, thoả mãn rồi. Sao con người ta không thể sống giản đơn một chút, tha thứ cho bản thân nhiều hơn một chút. Cội rễ của hạnh phúc là ở đó, giống như… Lục Nhất.
Phương Đăng nhắm mắt lại, đầu vẫn còn chút choáng váng, là do trận say tối qua. Sớm nay tỉnh dậy, cô nhận ra mình đang nằm trên ghế sô pha, nhà bếp vọng ra tiếng máy xay sinh tố. Chủ nhà thấy cô ngồi dậy, bèn rót một cốc nước gì đó màu sắc hơi kỳ dị.
“Mệt không? Uống hết cái này là đỡ thôi.” Trông anh có vẻ khá là tỉnh táo minh mẫn.
Phương Đăng thấy đầu nặng trịch, cúi xuống hớp một ngụm, suýt tí nữa thì nôn ộc ra, “Cái quái gì thế này?”
Lục Nhất nói: “Trong này có chuối, cần tây, sữa tươi và một ít hành. Đây là thuốc giải rượu bí truyền của nhà tôi, đảm bảo công hiệu.”
“Thuốc giải rượu bí truyền nhà anh là mang hết mấy thứ bỏ đi trong thùng rác xay nhuyễn rồi uống?” Phương Đăng bị thứ mùi vị kỳ quặc khó tả kia làm cho kích động, lại hoá tỉnh ra mấy phần, lầu bầu: “Nhưng bảo công hiệu cũng đúng, trông anh tỉnh thế kia cơ mà!”
Lục Nhất đưa cho cô một chiếc khăn ấm, “Rượu mà ngon quá quyết không phải điều hay.”
Phương Đăng ôm đầu nói: “Thôi chết, bộ dạng tôi bây giờ chắc như con ma. Tôi về sửa soạn lại đã, kẻo khiến anh sợ chết khiếp.”
Cô đứng dậy định đi ngay, chợt nghe ai gọi tới từ sau lưng.
“Phương Đăng, cô cứ thế mà đi ư?”
Phương Đăng quay lại nói: “Thời cơ mượn rượu làm càn qua mất rồi, mà tôi chắc không phải chịu trách nhiệm với anh đấy chứ.”
Lục Nhất bật cười, “Cô vẫn chưa lấy được thứ cô cần mà?”
Phương Đăng tưởng có một số chuyện sẽ tan biến cùng với hơi rượu, nhưng xem ra cô đã nhầm.
“Sao cơ?” Cô giả vờ khó hiểu.
Lục Nhất là người không biết cách vòng vo, anh nói một cách dứt khoát: “Tối qua cô có nói muốn lấy thứ gì đó ở chỗ tôi, đó cũng là mục đích cô tiếp cận tôi.”
Trông anh chẳng có vẻ gì đang đùa, chuyện đã tới nước này, Phương Đăng cũng không muốn giả vờ thêm. Cô ngồi xuống bên anh, nửa như cười nửa như không mà nói: “Vậy anh nói đi, anh muốn thế nào? Làm sao để tôi lấy được thứ tôi cần.”
“Nói ra.” Lục Nhất đáp gọn.
“Cái gì?” Phương Đăng nhất thời chưa hiểu ý của anh.
Lục Nhất lại cười, “Cô không nói ra, làm sao tôi biết là cái gì mà đưa?”
Anh nói như thể cô đang hỏi xin một tờ giấy loại, hay một cái kẹo, chỉ cần là có, anh sẵn sàng đem tặng không. Phương Đăng cảm thấy thật mơ hồ. Cô không rõ con người này là đồ ngốc, hay lòng dạ quá sâu cay.
Thà rằng cô tin vào vế sau, nhưng dù thế nào, cô cũng phải đánh cược một phen.
“Tôi cần một tờ văn kiện trong số di vật cha anh để lại.”
“Văn kiện?” Lục Nhất ngẫm nghĩ một lát, đứng dậy đi vào phòng làm việc, mở ngăn kéo thứ nhất, lấy ra một chiếc hộp. “Cha tôi chẳng để lại nhiều. Căn nhà do mẹ kế tôi thừa kế, tiền và trợ cấp đền bù tôi giữ một phần, quần áo và sách của ông đa phần đem quyên góp, những giấy tờ và tài liệu liên quan đến công việc đều thuộc quyền quản lý của công ty, do cộng sự của cha tiếp nhận. Nếu là di vật, thì chỉ có thứ này.”
Anh đẩy tới trước mặt Phương Đăng một cái hộp chẳng có gì bắt mắt, “Trong này là những thứ cha tôi mang theo bên mình khi tai nạn xảy ra, phía cảnh sát đã niêm phong lại và gửi về gia đình, nhưng mẹ kế tôi không muốn cầm. Tôi nghĩ, giữ lại làm kỷ niệm cũng hay dù gì những thứ này đã tiễn cha tôi chặng đường cuối.”
Phương Đăng đờ đẫn cầm cái hộp lên, đây chẳng phải là chiếc hộp cất mấy tấm ảnh của cô đó sao? Lần đó cô chỉ chú ý tìm kiếm những nơi bí mật, chiếc hộp này nằm ngay vị trí đưa tay ra là lấy được, bên trong lại để toàn ảnh chụp cô, trong lúc gấp rút cô chẳng buồn xem kỹ. Bây giờ mới phát hiện trong ngăn dưới của hộp có một tấm hộ chiếu quá hạn, bức ảnh chụp cả gia đình đã ố vàng, chứng minh thư, ví, bật lửa và mấy tờ giấy mỏng tang. Cô mở mấy tờ giấy nhăn nhúm ấy ra, một tờ trong số ấy chính là kết quả xét nghiệm máu của Phó Kính Thù, giống y hệt tờ cô đã tiêu huỷ trong vụ tai nạn. Ngoài ra còn có một giấy biên nhận chuyển khoản, số tiền không lớn, người nhận là nhân viên hoá nghiệm đã mất. Có lẽ Lục Ninh Hải đã nhét các giấy tờ này vào túi mang theo bên mình, cô chỉ lục soát túi tài liệu, mà cứ tưởng bản thân đã tiêu huỷ toàn bộ chứng cứ. Ai mà ngờ những vật này sau khi chuyện xảy ra vô tình được bảo quản, người sở hữu lại tuỳ tiện cất nó ở nơi quá lộ liễu, mà cô nhìn không ra.
Lục Nhất thấy ánh nhìn của Phương Đăng dừng lại trên mảnh giấy, bèn tò mò hỏi: “Phó Kính Thù là ai? Người quen của cô ư?”
Phương Đăng vẫn chưa thể hoàn toàn bình tĩnh sau sự việc bất ngờ này, chỉ gật gật đầu.
“Quan trọng với cô lắm ư?” Lục Nhất lại hỏi.
Kỳ thực Phương Đăng không rõ anh đang hỏi về mấy tờ văn kiện hay là Phó Kính Thù, nhưng dù là gì, đáp án vẫn chỉ có thể là sự khẳng định. Cô nắm chặt hai tờ giấy trong tay, gắng sức lấy lại tinh thần, cô hỏi vặn: “Đúng! Vậy anh nói đi, anh muốn thế nào đây?”
Lục Nhất không rõ vì sao bỗng bật cười, “Thế nào là thế nào? Nếu cô cần thì cứ mang đi. Những tờ giấy kia đối với tôi chỉ là giấy loại thôi.”
“Tôi muốn là anh đưa? Anh đừng tự coi mình như thánh cứu thế được không, làm ra vẻ cao thượng mãi không mệt à? Nếu đã là giấy loại sao anh không vứt đi? Anh cứ thế tôi thấy giả tạo lắm, chi bằng nói thẳng điều kiện ra với nhau cho rồi!” Phương Đăng chẳng buồn khách sáo nói. Tận sâu trong lòng cô không tin trên đời có người chỉ muốn cho đi mà không cần báo đáp. Ai mà chẳng có dục vọng và lòng tham riêng, dù ít dù nhiều, dù vô hại hay đáng sợ, kẻ ác theo đuổi danh lợi mỹ sắc, người hiền lương mong được tôn trọng và yên ổn trong lòng, dù cao sang hay thấp hèn, chẳng ai dám nói mình không có dục vọng.
Lục Nhất bị cô chỉ trích, gương mặt lộ vẻ bối rối, anh cúi đầu nhìn xuống đôi bàn tay, chần chừ giờ lâu mới nói: “Không phải tôi cao thượng hay không mưu cầu điều gì. Phương Đăng, nói thật lòng khi tôi biết bên mình có thứ cô muốn, thêm nữa thứ đó đối với cô lại rất quan trọng, tôi đã thở phào nhẹ nhõm. Trước đó tôi luôn rất nghi ngờ, tại sao bỗng dưng cô qua lại thân mật với tôi như thế? Từ lần đầu cô đặt chân vào căn nhà này, tôi bắt đầu sống trong lo lắng bất an, bởi tôi biết cô sẽ không thích tôi, và tôi sợ bản thân mình kém cỏi, không thể mang lại cho cô những gì cô cần, tới lúc đó cô sẽ phải thất vọng.”
Nói đến đây anh mới ngẩng lên nhìn thẳng vào Phương Đăng, vẻ bối rối vẫn còn đó, nhưng ánh mắt đã trở nên thản nhiên, “Bây giờ thì tôi biết, cô đến với tôi là có lý do, nhưng tôi chẳng cảm thấy bị thiệt thòi chút nào. Nếu không nhờ mấy tờ giấy kia, sợ rằng cả đời này tôi chỉ có thể lén lút nhìn trộm cô từ phía sau. Giờ đây ít nhất tôi cũng thu được một khoảng cách ký ức hạnh phúc, cho dù bây giờ cô lập tức biến mất khỏi cuộc sống của tôi, tôi vẫn cảm thấy mãn nguyện. Tôi muốn giả vờ thoải mái một chút, độ lượng một chút, để sau này mỗi khi nhớ đến tôi, cô sẽ nói, đúng là thằng ngốc, nhưng thằng ngốc này không tồi chút nào. Không ngờ có mỗi thế mà tôi cũng làm không xong, đúng là ngốc hết thuốc chữa. Duy có một chuyện tôi có thể vỗ ngực đảm bảo, tôi không hề có ý đồ gì với cô, hoàn toàn không. Cô cứ nghĩ thế này, một ông tỷ phú sẽ chẳng thấy buồn nếu phụ nữ yêu tiền của ông ta, một tên khố rách áo ôm dám liều bán quả thận để nuôi vợ. Vì người mình yêu, đàn ông không ngại hiến dâng tất cả những gì có thể. Được làm gì đó vì người mình yêu, người ấy cũng muốn như vậy, còn gì đẹp hơn nữa. Bây giờ cô chỉ lấy đi của tôi mấy tờ giấy, tôi có gì phải đắn đo cơ chứ?”
Phương Đăng không biết nên đáp lời ra sao, chỉ cảm thấy đầu mình như bị phỏng rộp vì hơi rượu đang đau nhức, cả cơ thể quay cuồng khôn tả, mọi thứ xung quanh dường như đảo ngược. Lục Nhất thấy tình trạng cô không ổn, đưa tay định đỡ, liền bị gạt ra một cách cảnh giác. Anh lúng túng thu tay về, gương mặt như hiểu ra, càng như lạc lõng.
“Phương Đăng, nếu tôi nói, thật ra tôi có một điều kiện, cô có thấy tôi hèn hạ không?”
“Nói đi!” Phương Đăng đáp một cách gấp gáp.
“Sau khi lấy mấy thứ này đi, cô có thể vẫn qua lại với tôi được không? Đừng hiểu lầm, tôi không có ý gì khác, chỉ muốn thi thoảng cùng ăn cơm, nhỡ có gặp mặt cũng ngồi xuống hỏi thăm vài câu, giả vờ coi như tôi là một người bạn…”
“Đừng nói nữa.” Phương Đăng hốt hoảng cầm theo thứ mình muốn rời đi, cô sợ chỉ chậm một bước nữa thôi, cô sẽ ngã quỵ vì sự tồi tệ của bản thân mình.
Cà phê không khiến đầu Phương Đăng bớt đau buốt, cô tựa mình trên ghế của Phó Kính Thù, mơ màng nửa thiếp đi, nửa tỉnh nửa mê. Cô nhớ như in gương mặt Lục Nhất khi cô bỏ chạy khỏi nhà anh vào sáng nay. Giờ đây gương mặt đó cứ không ngừng loang rộng bao trùm lấy tâm trí cô… Cô cảm giác đó không phải Lục Nhất, mà chính là Lục Ninh Hải đang nhìn theo cô. Dung mạo hai cha con họ có nhiều đường nét tương đồng, nhưng không hoàn toàn giống hệt. Bất cứ ai cô từng tiếp xúc trong những năm qua đều rất khác nhau. Bỗng nhiên cô muốn uống thêm một ngụm thứ thuốc giải rượu mùi vị quái lạ của anh, không chừng như thế sẽ dễ chịu hơn.
Trong lúc mơ màng, Phương Đăng cảm thấy có thứ gì đó phủ lên người, lập tức cô mở choàng mắt. Phó Kính Thù đứng đó, đang tháo cravat, đắp trên người cô là chiếc áo khoác của hắn.
“Đêm qua không ngủ đủ giấc à? Sắc mặt em tệ quá, nếu mệt thì chợp mắt thêm một lát đi.” Hắn ngồi xuống bàn tiếp khách, chuẩn bị ký xấp giấy tờ để sẵn. Cảm nhận thấy Phương Đăng bước tới bên mình, đang định ngẩng đầu lên, hắn chợt thấy hai tờ giấy ố vàng được đẩy tới trước mặt mình.
Phó Kính Thù đưa tay nhặt lên, mở ra lia mắt hai lượt, nụ cười trên khoé môi dần dần tan biến, vẻ mặt hắn trở nên chăm chú và tập trung.
“Đúng thứ anh nói chưa?” Đây là lần đầu tiên Phương Đăng mở miệng trong lần gặp mặt này.
“Em lấy được bằng cách nào?”
Phương Đăng lùi về sau mấy bước, dựa lưng vào bàn làm việc, lạnh nhạt nói: “Lục Nhất cho em.”
“Ồ?” Hắn chỉ thốt ra một chữ, nhưng đủ cho Phương Đăng nhìn ra tất cả những nghi ngờ và khó hiểu bên trong.
“Em mở lời xin, và hắn cho em.”
“Em xin thế nào, và anh ta trả lời ra sao?”
“Em nói tôi muốn tìm mấy thứ trong số di vật của cha anh, sau đó lấy ra hai tờ giấy này trong đống đồ đạc đó. Ngoài ra, anh ta chẳng hỏi gì nữa cả.”
“Hắn đã xem tờ kết quả giám định và biên nhận chuyển khoản này chưa?”
“Có lẽ rồi. Anh ta không cố tình giấu những vật này đi, chỉ để chung nó cùng vài vật tuỳ thân khác khi còn sống của Lục Ninh Hải, coi như vật kỷ niệm thông thường.”
“Vậy à…” Phó Kính Thù kéo dài giọng như thể tự nói với chính mình. Hắn không truy vấn đến cùng, nhưng Phương Đăng biết trong lòng hắn nhất định còn rất nhiều ngờ vực.
Làm sao cô có thể hỏi xin một cách đơn giản như vậy?
Sao Lục Nhất lại hào phóng cho không? Chẳng lý do gì anh ta lại không hỏi câu nào.
Nếu đã không cố tính cất giấu, sao từ trước đến nay Phương Đăng tìm mãi không thấy?
Khi đọc giấy kết quả kiểm định này, Lục Nhất sẽ nghĩ gì…
Phương Đăng cũng muốn nói cho rõ ràng, nhưng chuyện này thực sự chỉ có thế, giản dị tới độ khiến người ta khó hiểu.
“Anh đã lấy được thứ anh cần, chuyện này có thể kết thúc ở đây được chưa?” Phương Đăng hỏi dò.
Phó Kính Thù đáp không do dự: “Dĩ nhiên là thế. Giữa anh và em, câu cảm ơn chỉ là vô dụng. Anh lại nợ em thêm lần nữa… Hy vọng em sẽ tha thứ cho anh.”
“Tha với thứ cái gì, đó là tự em muốn làm.”
“Anh cứ hay tự mâu thuẫn với mình. Một mặt muốn cho em cuộc sống tốt nhất, bất kể em muốn nó như thế nào, nhưng có những việc trừ em, anh không thể tìm ra ai đủ để đặt lòng tin. Cho dù thế nào, đây là lần cuối cùng, Phương Đăng, những việc em làm vì anh đã quá nhiều rồi, giờ đến lúc anh sẽ vì em mà…”
“Anh không cần làm gì cho em.” Phương Đăng dường như nắm bắt được vài thứ trong lời nói của hắn, cô là một người nhạy cảm. Hắn chỉ nói sứ mệnh của cô đã hoàn thành, mà không hề nhắc đến Lục Nhất, “Cho dù Lục Nhất từng xem mấy tờ văn kiện này, nhưng anh ta chẳng biết gì cả, cũng không quan tâm, nên anh không cần lo về anh ta đâu.” Cô lựa lời khuyên.
Phó Kính Thù đặt tay lên hai tờ văn kiện, nói thẳng: “Anh không thể tin hắn được.”
“Tại sao? Vì anh ta đã xem di vật của cha mình? Hay vì anh ta chưa ngủ với em, mà đã quá dễ dàng cho thứ này đi?” Phương Đăng nói giọng mỉa mai.
“Ý anh không phải thế.” Phó Kính Thù không đếm xỉa đến cái nhìn sắc bén của Phương Đăng, nói một cách từ tốn, “Em phải hiểu việc này đối với anh rất trọng đại, anh không thể không thận trọng.”
“Anh định thế nào?” Phương Đăng cảnh giác hỏi.
“Em đừng lo, sắc mặt em thực sự rất kém. Nghe lời anh, về ngủ một giấc cho ngon. Nếu Lục Nhất làm phiền, em cứ dọn nhà đi chỗ khác. Hay nhân cơ hội em đi chơi đâu đó một thời gian? Chờ anh giải quyết xong mấy việc này là được rảnh tay đi cùng em rồi.”
Phương Đăng khăng khăng nói: “Lục Nhất chỉ là một người giản dị bình thường, anh ta chẳng thể gây áp lực gì cho anh đâu.”
Phó Kính Thù nói: “Giản dị hay không, vẫn chưa thể kết luận lúc này được.”
Phương Đăng cười khổ, cô và hắn về bản chất quá giống nhau, mãi mãi cảnh giác với xung quanh, không bao giờ tin vào lòng tốt thuần khiết. Cô bước đến bên Phó Kính Thù, khom lưng hỏi: “Muốn anh tin trên đời này thực sự tồn tại thứ tình cảm giản đơn, vô mục đích khó vậy sao?”
Phó Kính Thù cười, “Vậy em có tin không? Em có nhìn thấy tất cả những gì em nói? Nếu dễ dãi cho đi niềm tin, chúng ta chắc chắn không thể có ngày hôm nay!”
Phương Đăng nói rành rọt từng chữ một: “Nếu em không có lòng tin đó, anh cũng không thể có ngày hôm nay!”
Phó Kính Thù nghe xong, dường như hơi dao động, giọng nói dịu dàng hơn nhiều, nhưng có lẽ hắn sẽ chỉ nói điều này với riêng Phương Đăng, “Cho nên anh tin em, không tin hắn.”
“Em tin anh ta! Em có thể bảo đảm thay anh ta.”
“Chúng ta chỉ làm chứng cho chính mình được thôi. Em mới ở bên hắn mấy ngày, em hiểu về hắn bao nhiêu?”
Phương Đăng bỏ cuộc. Trước hắn, không hiểu sao cô dễ trở nên ấu trĩ và nóng nảy đến thế.
“Phó Thất, em nói cho anh biết, không được đụng đến anh ta.” Phương Đăng cắn răng nói.
Phó Kính Thù hơi kinh ngạc, có lẽ không ngờ cô lại lưu tâm đến cái gã Lục Nhất đến vậy. Gương mặt vốn luôn bình thản ung dung hơi có phần bực bội.
“Hắn là cái thá gì?”
“Anh ta chẳng là cái gì, nhưng nếu anh ta gặp chuyện, em sẽ không tha thứ cho anh!” Phương Đăng liều nói.
Phó Kính Thù lạnh mặt hồi lâu không nói, dường như đang kháng cự với cơn giận lạ lẫm tích tụ nãy giờ. Hắn cúi đầu tiếp tục xem tập giấy tờ trên bàn, thờ ơ nói: “Em về đi, anh không muốn vì người ngoài mà cãi nhau với em.”
Phương Đăng ngoảnh mặt đi thẳng. Tiếng cánh cửa sập lại nặng nề. Phó Kính Thù không kiềm chế được nữa, bực bội xô đổ tất thảy mọi thứ trên chiếc bàn uống trà. Mất một lúc, hắn mới thở ra một hơi dài đằng đẵng, lặng lẽ nhặt hai mảnh giấy cô để lại, cúi xuống xem kỹ thêm lần nữa.
Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!