Chương 17
Ucsula phải cố gắng lắm để thực hiện lời thề nguyện là sẽ chết khi nào trời tạnh ráo. Những tia chớp minh mẫn vốn rất hiếm thấy ở cụ trong những ngày mưa lụt, bắt đầu từ tháng tám lại thường xuyên xuất hiện, đó là khi những cơn gió khô thổi tới làm những khóm hoa hồng nghẹt thở và bùn lầy đông cứng lại, gió tung bụi nóng trên vùng Macônđô, báo phủ mãi những mái tôn hoen gỉ và những cây hạnh đào trăm tuổi. Ucsula khóe vì buồn tủi khi biết rằng đã hơn ba năm qua mình chỉ là trò đùa của lũ trẻ nhỏ. Cụ rửa bộ mặt bôi bác nhoè nhoẹt, vứt bỏ những sợi dây sặc sỡ, những xác thằn lằn và cóc nhái ướp khô cùng những chiếc dây chuyền A-rập giả và cổ xưa mà người ta đã đeo quấn trên mình cụ; và lần đầu tiên từ khi Amaranta chết, cụ ra khỏi chiếc giường mà không cần người giúp đỡ, để lại một lần nữa hoà nhập với cuộc sống gia đình. Ý chí của trái tim bất khuất đã dẫn dắt Ucsula trong cảnh mịt mù. Những ai đã từng dừng lại nhường cho cụ chệnh choạng bước đi và chạm phải cánh tay như tay thánh của cụ thường giơ cao ngang tầm đầu, đều nghĩ rằng cụ khó mà gượng nổi tấm thân nặng nhọc, nhưng vẫn chưa tin. rằng cụ đã bị mù. Chẳng cần nhìn, Ucsula cũng biết những bồn hoa được trồng rất cẩn thận từ lần đầu tiên xây dựng lại ngôi nhà đã bị mưa và các cuộc đào bới tìm vàng của Aurêlianô Sêgunđô huỷ hoại hết, các bức tường và sàn xi măng đã rạn nứt, đồ dùng trong nhà đã bạc màu và rêu rã, các cửa đã lung lay và cả gia đình bị đe doạ bởi một tinh thần yếu đuối mang tính khuất phức và nỗi buồn chán không thể nào có trong những ngày cụ còn chắc chân mạnh tay: Dò dẫm trong những phòng ngủ trống trơn, Ucsula nhận ra tiếng mọt kèn kẹt nghiến gỗ liên tục, tiếng mối rào rào xông hòm quần áo và tiếng ầm ầm khủng khiếp của những con kiến đỏ to sụ, từng sinh sôi nảy nở rất nhanh trong nạn hồng thuỷ, đang đào bới nền móng của ngôi nhà. Một hôm Ucsula mở chiếc hòm đựng đồ lễ thánh và cụ đã phải nhờ Santa Sôphia đê la Piêđat đuổi những con gián vừa từ trong hòm nhảy tung lên khắp người, những con gián ấy đã cắn nát vụn quần áo trong hòm. "Không thể sống trong tình trạng để hoang toàng như thế này được", Ucsula nòi: "Cứ đà này thì chúng ta đến bị những con vật kia nhai sống nuốt tươi mất thôi". Từ dạo ấy Ucsula chẳng có phút nào được nghỉ ngơi yên tĩnh. Cụ dậy từ sớm tinh mơ, đòi một người nào đó giúp đỡ, kể cả trẻ nhỏ. Cụ đem so xống áo còn rất ít ỏi nhưng có thể dùng được ra phơi nắng, dùng thuốc trừ sâu để xua đuổi lũ gián, miết chặt những lô mọt ở cửa ra vào và cửa sổ, dùng vôi sống làm nghẹt thở lũ kiến ở trong hang. Cái bệnh muốn sửa sang nhà cửa khiến Ucsula tìm đến những căn phòng nơi cụ Hôsê Accađiô Buênđya đã vắt óc để chế tạo đá giả kim, sắp xếp lại xưởng kim hoàn đã bị bọn lính xáo trộn lung tung và sau cùng cụ đòi lấy chìa khoá phòng của Menkyađêt để vào xem tình hình ở đó ra sao. Trung thành với ý muốn của Hôsê Accađiô Sêgunđô là không để ai vào phòng một khi chưa có dấu hiệu là mình đã chết, Santa Sôphia đê la Piêđat đã dùng mọi mưu mẹo để đánh lừa Ucsula. Nhưng quyết định của Ucsula không buông tha lũ sâu mọt ngay cả ở những xó kín và những phần vô dụng của ngôi nhà là quyết định không thể thay đổi, nó chiến thắng mọi sự ngăn trở. Và, sau ba ngày kiên quyết đòi hỏi, Ucsula đã buộc mọi người phải mở cửa phòng cho mình. Ucsula phải vịn vào khung cửa để khỏi bị ngã vì mùi tanh hôi, nhưng chưa đầy hai giây sau cụ đã lại nhớ rằng ở đó người ta còn giữ bảy mươi hai cái bô của các nữ sinh, và nhớ rằng vào một trong những đêm mưa đầu tiên một toán lính tuần đã sục sạo ngôi nhà tìm kiếm Hôsê Accađiô Sêgunđô mà chẳng thấy đâu.
- Cầu chúa phù hộ! - Ucsula nói oang oang như thể cụ nhìn thấy tất cả ấy. - Anh cứ khư khư giữ những thói quen tốt đẹp của mình để đến nỗi sống chẳng khác gì một con lợn.
Hôsê Accađiô Sêgunđô tiếp tục xem lại những thứ được ghi chép trên các tấm da thuộc. Chỉ có thể nhìn thấy ở cái đám râu tóc bù xù kia của ông những chiếc răng đầy những vết mốc rêu xanh và đôi mắt đờ đẫn. Nhận ra tiếng cụ cố nội của mình, Hôsê Accađiô Sêgunđô quay đầu về phía cửa sổ, cố mỉm cười và vô tình nhắc lại câu nói xa xưa của Ucsula:
- Cần quái gì kia chứ, - Hôsê Accađiô Sêgunđô lẩm bẩm, - thời gian qua đi mà!
- Ðúng thế đấy, - Ucsula nói, - nhưng không đến mức như vậy đâu?
Khi nói thế, Ucsula nhận ra rằng mình đang nhắc lại lời đối đáp của đại tá Aurêlianô Buênđya trong xà lim tử tù, và một lần nữa cụ run lên bởi điều mình cảm nhận dược là thời gian không qua đi mà nó quay vòng. Nhưng ngay lúc đó cụ cũng không chịu nhân nhượng. Ucsula gắt gỏng với Hôsê Accađiô Sêgunđô như với một đứa trẻ và khăng khăng bắt ông phải tắm gội, cạo mặt và góp sức mình vào việc sửa sang nhà cửa. Hôsê Accađiô Sêgunđô bị giày vò. Cái ý nghĩ giản đơn về việc phải rời bỏ căn phòng từng đem lại cho mình sự yên tĩnh làm cho Hôsê Accađiô Sêgunđô sợ hãi. Ông gào lên rằng chẳng ai có thể làm cho ông ra khỏi căn phòng này, vì ông không muốn nhìn thấy đoàn xe lửa hai trăm toa chở người chết mà cứ chiều đến lại chạy từ Macônđô về phía biển. "Ðó là tất cả những người ở ngoài nhà ga", Hôsê Accađiô Sêgunđô gào lên như vậy, "ba ngàn bốn trăm lẻ tám người". Ðến lúc ấy Ucsula mới biết rằng Hôsê Accađiô Sêgunđô ở trong một thế giới mờ mịt sương mù còn khó hiểu hơn cả thế giới của cụ, nó đơn độc và khó phá vỡ như cái thế giới của Hôsê Accađiô Buênđya, cụ cố nội ông.
Ucsula để Hôsê Accađiô Sêgunđô ở lại căn phòng đó, nhưng không cho những người khác chốt cửa lại như trước, bắt phải dọn dẹp hàng ngày, vứt những chiếc bô kia vào đống rác, chỉ để lại một chiếc mà thôi, và phải giữ cho Hôsê Accađiô Sêgunđô luôn luôn sạch sẽ, đàng hoàng như cụ cố nội trong lúc bị trói dưới gốc cây dẻ. Thoạt tiên, Phecnanđa coi trạng thái hưng phấn đó là sự lẩm cẩm do tuổi già đưa lại, và vất vả lắm bà mới kiềm chế nổi sự cáu bẳn. Nhưng giữa lúc ấy, từ Rôm, Hôsê Accađiô báo cho bà biết là anh ta dự định về Macônđô trước khi phát lời thề nguyện tu hành trọn kiếp, và tin vui đó đã khiến Phecnanđa phấn chấn quá nhiều đến mức hàng ngày, từ tối đến sáng bà tưới hoa bốn lần để con trai mình không có ấn tượng xấu về ngôi nhà. Chính sự kích thích đó đã khiến Phecnanđa vội vàng viết thư liên hệ với các thầy thuốc không thể nhìn thấy, bày lại các chậu cảnh trồng cây dương xỉ, cây kinh giới dại và cây thu hải đường ở ngoài hành lang, trước khi Ucsula biết rằng tất cả những thứ đó đã bị Aurêlianô Sêgunđô đập phá tan tành trong một cơn giận dữ khủng khiếp. Sau đó Phecnanđa bán những bộ đồ ăn bằng bạc rồi mua cốc chén bằng hợp kim; thế là với những đồ dùng này bà đã khiến cho những chiếc tủ vốn đựng đồ sứ của Công ty Ấn Ðộ và đồ thuỷ tinh Bôhêmia mỗi ngày một trở nên nghèo nàn. Ucsula luôn luôn cố đi thật xa. "Hãy mở tất cả các cửa ra!", cụ gào lên như vậy. "Hãy làm các món ăn bằng thịt và cá, hãy mua những con rùa to nhất; hỡi các vị khách lạ, hãy tới đây bày biện hành lí của mình ở các xó xỉnh, và cứ việc đái vào những bồn hồng, hãy ngồi vào bàn ăn và ăn bao nhiêu bữa tuỳ ý, xin cứ nôn mửa và nói năng không ngớt lời, cứ việc đi ủng làm bẩn tất cả, muốn làm gì chúng ta thì cứ làm, bởi vì đó là cách duy nhất để tránh khỏi sự khánh kiệt". Nhưng đấy chỉ là một ảo tưởng. Cụ đã quá già rồi, và đã sống một cách quá thừa để nhắc lại những chuyện thần kì về những chiếc kẹo nặn hình con giống, và chẳng có người nào trong đám con cháu kế thừa được nghị lực của cụ. Ngôi nhà tiếp tục đóng kín cửa theo lệnh của Phecnanđa.
Sau khi chuyển các hòm xiểng của mình tới nhà Pêtra Côtêt, Aurêlianô Sêgunđô tìm ngay cách cứu gia đình khỏi chết đói. Với kết quả của việc mang con la ra để đánh bạc, họ đã mua được một số con vật khác và từ đó họ lập được một sòng xổ số đơn giản. Aurêlianô Sêgunđô đi hết nhà này đến nhà khác để bán những chiếc vé xổ số do chính tay mình vẽ bằng cái loại mực màu để có sức hấp dẫn và thuyết phục, và không hay biết rằng rất nhiều người mua những chiếc vé đó là để cho không mà thôi, và phần lớn mua là vì thương hại. Nhưng cũng có những người mua vé để hòng được cơ may: chỉ mất có hai mươi xu mà được một con lợn hoặc ba mươi hai xu mà được một con bê, những người này phấn chấn với niềm hi vọng, và vào đêm hôm thứ ba họ xúm đông xúm đỏ trong sân nhà Pêtra Côtêt chờ đợi cái giây phút một đứa trẻ nào đó được chỉ định một cách ngẫu nhiên, rút từ trong túi ra con số trúng thưởng. Chẳng bao lâu sau, trò xổ số đó trở thành một chợ phiên hàng tuần, vì ngay từ buổi chiều những chỗ ăn nhậu đã được tổ chức trong sân và nhiều người trong số những người may mắn trúng giải lại mất những con vật được thưởng đó để được nghe nhạc và uống rượu, vì thế, mặc dù bản thân chẳng muốn, Aurêlianô Sêgunđô lại một lần nữa chơi phong cầm và tham gia những cuộc chè chén nho nhỏ. Những bữa ăn nhậu xoàng xĩnh này so với những ngày hội hè trước đây khiến cho Aurêlianô Sêgunđô nhận ra rằng tinh thần của mình đã suy sụp khá nhiều và cái tài nhảy nhót hát hò xuất chúng của mình cũng đã giảm sút biết bao. Ông là người đã thay đổi hoàn toàn. Cái hồi mà Aurêlianô Sêgunđô bị "Voi cái" đánh bại, ông nặng đến một trăm hai chục ki lô, bây giờ chỉ còn bảy mươi tám kí thôi; khuôn mặt ông trước đây đầy đặn như mu rùa bây giờ trông hốc hác như mặt kì nhông, và ông luôn luôn có vẻ chán chường mệt mỏi. Nhưng Pêtra Côtêt lại thấy chưa bao giờ Aurêlianô Sêgunđô khá được như lúc này, có thể là bà lẫn lộn giữa tình yêu và lòng thương đối với ông, và cảnh khốn khó đã làm nảy sinh tình cảm gắn bó giữa hai người. Lúc này chiếc giường mất rèm che không còn là nơi diễn ra các cuộc truy hoan nữa, mà là nơi họ bàn bạc, tâm sự. Chẳng còn những tấm gương phản chiếu vì chúng đã bị bán đi để lấy tiền mua các con vật treo giải xổ số, và cũng hết những thứ lụa là khơi gợi sắc dục vì đã bị con la ăn hết, họ thức rất khuya với sự trong sáng của hai ông bà già mất ngủ để tính toán tiền nong, khoảng thời gian ấy trước đây thường bị họ phung phí vào việc tiêu hao sức lực. Ðôi khi, tiếng gà gáy canh một làm họ giật mình giữa lúc đang bỏ vào bớt ra những chồng tiền nho nhỏ, họ lấy ở chỗ này ra một ít rồi đập vào chỗ kia một ít sao cho khoản này đủ làm vui lòng Phecnanđa, khoản kia để mua giày cho Amranta Ucsula, khoản khác dành cho Santa Sôphia đê la Piêđat vì từ ngày bị phá sản đến nay bà chưa hề có một bộ quần áo mới, khoản nữa để đóng quan tài cho Ucsula khi cụ chết, khoản này để mua cà phê với giá mỗi libra(2) cứ ba tháng lại tăng một xu, khoản kia để mua thứ đường mỗi ngày một kém ngọt, khoản khác để mua củi vẫn còn đẫm nước lụt, khoản nọ để mua giấy mực làm vé xổ số, khoản nữa thừa đủ để bù lỗ về cái chết của con bò hồi tháng tư bởi vì nó mắc dịch khi tất cả các vé xổ số đã được bán hết, mà thật may mắn làm sao là họ vẫn còn gỡ lại được bộ da. Những buổi "tụng niệm" ấy thật trong sạch, ở đó luôn luôn dành cho Phecnanđa phần ưu tiên số một, và họ làm như vậy không phải vì sự ăn năn hối hận hay vì lòng bác ái, mà vì tài sản của Phecnanđa đối với họ còn quan trọng hơn tài sản của chính họ nữa kia. Ðiều có thật xảy ra với hai người mặc dù chẳng ai trong số họ hay biết là cả hai đều nghĩ về Phecnanđa như nghĩ về đứa con gái mà họ hằng ao ước mà không có được, đến nỗi một lần họ đã đành chịu ăn bánh ngô ba ngày liền để có tiền cho Phecnanđa mua một chiếc khăn phủ bàn của Hà Lan. Nhưng, mặc dù họ làm việc cật lực, xoay xở lừa lọc được nhiều tiền và có lắm mưu mô, các vị thần hộ mệnh đã ngủ thiếp đi vì mệt mỏi, trong khi đó họ đang thêm vào bớt ra các khoản tiền ấy, cố gắng tính sao để chí ít cũng có đủ tiền mà sống.
Trong lúc mất ngủ vì những tính toán khổ sở, họ tự hỏi rằng điều gì đã xảy ra trên thế gian khiến cho các loài gia súc không mắn đẻ như trước đây, tại sao đồng tiền trong tay cứ mất dần đi, tại sao cách đây không lâu người ta đốt hàng nắm tiền trong cuộc khiêu vũ dân gian còn bây giờ thì lại coi việc mua mười hai xu một chiếc vé xổ số hòng được thưởng sáu con gà mái là một sự bạt mạng. Aurêlianô Sêgunđô thầm nghĩ rằng nỗi bất hạnh chẳng phải ở nơi nào khác trên thế gian này mà ở một nơi sâu kín trong trái tim bí ẩn của Pêtra Côtêt, nơi đã xảy ra chuyện gì đó trong những ngày mưa lụt khiến cho gia súc không sinh đẻ được và tiền cứ cạn dần đi. Băn khoăn về điều bí hiểm này, Aurêlianô Sêgunđô thâm nhập quá sâu vào tình cảm của Pêtra Côtêt đến mức độ vì đi tìm lợi lộc mà lại gặp tình yêu, vì trong khi cố gắng làm cho Pêtra Côtêt yêu mình thì chính Aurêlianô Sêgunđô lại yêu người đàn bà đó. Về phía Pêtra Côtêt, bà ta yêu Aurêlianô Sêgunđô vì càng ngày càng thấy ông ta âu yếm mình hơn, và thế là giữa mùa thu của cuộc đời, Pêtra Côtêt lại tin vào điều mê tín của thời trẻ cho rằng sự nghèo khó chính là kẻ hỗ trợ cho tình yêu. Lúc ấy họ coi những cuộc hội hè thác loạn, coi sự giàu có xa hoa phù phiếm và sự dầm bôn vô độ là một chướng ngại của cuộc đời, và họ tiếc rằng đã bỏ phí mất bao nhiêu phần đời rồi mới tìm thấy thiên đường của nỗi cô đơn được chia sẻ. Họ yêu nhau như điên như dại sau bao nhiêu năm chung đụng mà không sinh đẻ, họ hưởng thụ tình yêu một cách lạ kì: yêu nhau trong khi ăn cũng như trong khi ngủ, và họ thật hạnh phúc, cho đến khi già nua kiệt sức họ vẫn đùa giỡn như bầy thỏ và trêu chọc nhau như lũ chó. Các cuộc xổ số không bao giờ làm cho họ khá hơn. Thoạt đầu, Aurêlianô Sêgunđô để ra ba ngày trong tuần giam mình trong căn phòng trước đây là nơi làm việc của người chăn nuôi gia súc để vẽ hết tờ phiếu này đến tờ phiếu khác, tô cẩn thận một con bò màu đỏ, một con lợn màu xanh lá cây hoặc một đàn gà màu xanh nước biển, đó là những con vật được treo làm giải thưởng, và bắt chước rất khéo những con chữ của nhà in để làm khuôn in tên vé xổ số, cái tên mà Pêtra Côtêt rất thích "Xổ số của đấng Toàn năng thiêng liêng"... Nhưng rồi Aurêlianô Sêgunđô cảm thấy quá mệt mỏi sau khi đã vẽ hai ngàn vé số trong một tuần lễ nên đã làm khuôn bằng cao su để in hình các con vật, tên vé xổ số và các con số, và từ ấy chỉ còn phải làm mỗi một việc nhuộm màu nữa thôi. Trong những năm cuối, họ nghĩ ra cách thay thế các con số bằng những câu đố và như vậy là giải thưởng được đem chia cho tất cả những người đoán đúng, nhưng cách làm đó rất phức tạp và gây nhiều ngờ vực nên sau đó bị họ bỏ đi.
Aurêlianô Sêgunđô mải lo củng cố tín nhiệm cho xổ số của mình, nên không còn thời gian để quan tâm đến lũ trẻ. Phecnanđa đưa Amaranta Ucsula đến một trường tư nhỏ, nơi người ta không nhận quá sáu học trò, nhưng lại không cho Aurêlianô đi học trường công. Phecnanđa cho rằng để Aurêlianô ra khỏi phòng đã là nhân nhượng lắm rồi. Hơn nữa, thời ấy các trường học chỉ nhận những em bé là con hợp pháp của các cặp vợ chồng theo đạo Cơ đốc, mà trên tờ giấy khai sinh được buộc ở áo của Aurêlianô khi người tá mang chú về nhà có xác nhận rõ rằng chú là đứa trẻ vô thừa nhận. Vậy là chú bé chỉ sống quẩn quanh ở trong phòng. Do sự chăm sóc nhân hậu của Santa Sôphia đê la Piêđat và do sự mất thăng bằng về thần kinh của Ucsula, Aurêlianô nhận thức thế giới nhỏ hẹp của ngôi nhà này theo sự giảng giải của những cụ cố này. Aurêlianô là một chú bé mảnh mai, kiêu kì, tò mò, một thứ tò mò dễ làm người lớn nổi giận nhưng ánh mắt chú long lanh mà lại lơ đễnh chứ không như ánh mắt dữ dằn và nhiều khi rực sáng của đại tá khi ngài ở độ tuổi chú. Trong khi Amaranta ở nhà trẻ thì Aurêlianô tìm bắt giun và hành hạ lũ sâu bọ ngoài vườn. Nhưng có một lần Phecnanđa bắt gặp chú đang nhét bò cạp vào hộp để bỏ vào chiếu của Ucsula, bà liền bắt chú về phòng ngủ cũ của Mêmê. Ở đó, để rút ngắn những giờ phút đơn độc, chú xem đi xem lại các tờ tranh ảnh minh hoạ trong cuốn bách khoa toàn thư. Một buổi chiều, khi Ucsula cầm bó cây tầm ma rảy nước mát cho căn nhà thì gặp Aurêlianô ở đấy, và mặc dù đã ở bên cạnh chú nhiều lần, cụ vẫn hỏi chú là ai.
- Cháu là Aurêlianô Buênđya, - chú nói.
- Ờ phải rồi, - cụ nói, - đã đến lúc cháu bắt đầu học nghề kim hoàn rồi đấy.
Ucsula lại lẫn chú với con trai mình bởi vì những cơn gió nóng tiếp theo những ngày mưa lụt từng đem lại cho cụ những tia chớp minh mẫn bất ngờ, nay đã thôi không thổi nữa. Lí tính của cụ không hồi phục được. Khi vào phòng ngủ, Ucsula gặp Pêtrônila Igoaran mặc chiếc váy xòe vướng víu và đeo chiếc túi nhỏ đang chờ khách đến chơi theo lời hẹn, gặp bà của mình là Trankilina Maria Miniata Alacôkê Buênđya đang ngồi trên chiếc ghế dành cho người bại liệt và quạt bằng một chiếc lông công, gặp cụ ông của mình là Aurêlianô Accađiô Buênđya với chiếc áo khoác bắt chước theo kiểu áo của những người lính gác của Phó vương, gặp cha mình là Aurêlianô Igoaran, người đã nghĩ ra câu niệm chú khiến cho các loại sâu bọ hại bò bị chết thiêu, gặp bà mẹ nhút nhát của mình, gặp người anh họ có đuôi lợn, gặp Hôsê Accađiô Buênđya với những người con đã chết của ông, tất cả đều ngồi trên những chiếc ghế đặt dựa vào tường, cứ như họ đang ở trong một đám viếng người chết chứ không phải trong một cuộc gặp gỡ thăm hỏi. Ucsula vừa khâu vội khâu vàng chiếc áo màu sặc sỡ vừa bàn luận về các sự kiện xảy ra ở những nơi khác nhau và ở những thời điểm khác nhau; vậy là khi Amaranta Ucsula từ trường về và Aurêlianô đã mệt mỏi với bộ bách khoa toàn thư, thì họ thấy cụ đang ngồi nói chuyện một mình trên giường và chìm đắm trong một trận đồ bát quái của những người đã chết. "Cháy!", có một lần Ucsula hét lên khủng khiếp khiến cả nhà được một phen hoảng hồn, nhưng đó là cụ đang nói về đám cháy ở một trại ngựa bốn mươi năm về trước. Cứ như vậy, Ucsula lẫn lộn giữa quá khứ và hiện tại, cho đến trước lúc chết tuy hai hoặc ba lần những tia chớp minh mẫn xuất hiện ở cụ, nhưng những lúc đó cũng chẳng ai biết chắc chắn rằng cụ nói về điều mình đang cảm nhận hay là nói về điều mình đang nhớ lại. Mỗi ngày Ucsula một choắt lại, một gày nhom, một khô đét thêm đến mức vài tháng trước khi chết cụ chỉ như một trái mận lọt thỏm trong chiếc áo rộng, và cánh tay trước kia thường giơ cao lúc đó chỉ giống như tay khỉ.
Ucsula không động đậy trong vài ngày. Santa Sôphia đê la Piêđat phải đến tận nơi để xem cụ còn sống hay không và đặt cụ lên đùi để cho uống vài thìa nhỏ nước đường. Lúc ấy Ucsula giống như một bà lão vừa mới chào đời. Amaranta Ucsula và Aurêlianô ẵm cụ từ chỗ này đến chỗ khác trưởng phòng ngủ và đặt cụ lên bàn thờ để xem cụ có lớn hơn Chúa hài đồng hay không, và một buổi chiều chúng đem giấu cụ vào trong một chiếc hòm đựng thóc, nơi lũ chuột có thể ăn thịt cụ. Một ngày chủ nhật, trong khi Phecnanđa đang cầu kinh, Amranta Ucsula và Aurêlianô vào phòng ngủ, túm lấy gáy và cổ chân Ucsula, khiêng cụ đi.
- Cụ cố thật tội nghiệp, - Amaranta Ucsula nói, - cụ đã chết vì tuổi già!
Ucsula giãy lên:
- Ta còn sống đây!
- Thấy chưa, - Amaranta Ucsula nín cười và nói, - ngay cả hơi thở cung chẳng còn.
- Ta đang nói đây! - Ucsula gào lên.
- Nói đâu mà nói, - Aurêlianô bảo - Cụ cố chết như một con dế nhỏ ấy.
Lúc đó Ucsula đành chịu. "Trời ơi!", Ucsula thầm kêu: "Vậy ra đây là cái chết". Ucsula bắt đầu đọc lời cầu nguyện không dứt, vội vã và sâu sắc, lời nguyện cầu kéo dài tới hơn hai ngày, và hôm thứ ba thì biến thành sít pha tạp giữa lời cầu Chúa với những lời chỉ bảo thiết thực để cho những con kiến đỏ không làm đổ ngôi nhà, để ngọn đèn ở trước tấm ảnh của Rêmêđiôt không bao giờ tắt, để mọi người hãy giữ gìn không để bất kì người nào trong dòng họ Buênđya lấy người cùng chung huyết thống, bởi vì những cuộc hôn nhân như vậy sẽ cho ra đời những đứa con có đuôi lợn. Aurêlianô Sêgunđô cố lợi dụng tình trạng mê sảng của Ucsula để cụ nói cho biết nơi chôn cất vàng, nhưng lại một lần nữa những lời van nài ấy không có kết quả. "Khi nào chủ của số vàng ấy xuất hiện, - Ucsula nói, - thì trời sẽ chiếu sáng để người ấy nhìn thấy". Santa Sôphia đê la Piêđat thì tin chắc rằng chỉ một sớm một chiều là Ucsula sẽ chết thôi, vì trong những ngày đó bà đã nhìn thấy điềm gở của trời đất: những bông hồng lại có mùi hương của loài rau muối, một quả bí đựng hạt đậu xanh rơi xuống đầu bà và những hạt dậu ở trên nền nhà nằm theo một trật tự hình học hoàn chỉnh và có hình con sao biển, rồi một đêm bà thấy có một hàng đĩa màu da cam rực sáng bay ngang trời.
Ucsula chết vào sáng sớm ngày thứ năm lễ thánh. Lần cuối cùng mà người ta giúp cụ tính tuổi thọ, dựa vào những năm tháng của Công ty chuối, đã ước tính rằng cụ đã sống khoảng từ một trăm mười lăm đến một trăm hai mươi hai năm. Người ta đặt Ucsula trong một chiếc hộp nhỏ để đưa đi chôn cất, cái hộp ấy có lẽ không lớn hơn cái làn mà người ta đã xách Aurêlianô về nhà thuở chú mới sinh; và có rất ít người đưa đám Ucsula, một phần vì chẳng mấy ai nhớ đến cụ, phần nữa vì trưa hôm ấy trời nóng quá, nóng đến mức những con chim lạc đường bay bổ nhào cả vào tường, làm rách các tấm lưới kim loại ở cửa sổ, chui tọt vào phòng ngủ và chết trong đó.
Thoạt tiên, người ta tin rằng đó là một nạn dịch hạch. Những bà nội trợ mệt nhoài vì phải quét dọn xác chim, nhất là vào lúc giữa trưa, còn đàn ông thì đem hàng xe bò những xác chim ấy quẳng xuống sông. Trong ngày chủ nhật lễ phục sinh, từ trên bục lễ vị cha cố trăm tuổi Antôniô Isaben quả quyết rằng những con chim kia chết do ảnh hưởng xấu xa của quỷ dữ Giuđiô Erantê(2) mà chính cha đã nhìn thấy đêm hôm trước. Vị cha cố ấy miêu tả nó như là đứa con lai giữa một con dê đực với một người đàn bà phản đạo, đó là một con quỷ sứ mà hơi thở của nó thiêu đốt không khí, nó đi đến nơi nào thì những cô gái mới lấy chồng ở nơi ấy sẽ mất khả năng thai nghén. Chẳng mấy ai chú ý đến bài thuyết giảng về ngày khải huyền của cha, vì dân làng tin rằng tuổi tác già nua đã khiến cha nói năng nhảm nhí. Nhưng sáng sớm hôm thứ tư một phụ nữ đã đánh thức mọi người dậy, vì bà ta đã thấy những dấu vết của một con vật hai chân có móng guốc. Những dấu vết quá ư rõ ràng và không thể nhầm lẫn được, đến mức những người tới xem chúng không nghi ngờ gì về sự tồn tại của một con vật đáng sợ giống hệt như vị cha cố miêu tả, và họ cùng nhau đặt bẫy trong các sân vườn nhà mình. Thế rồi họ bắt được nó. Hai tuần lễ sau khi Ucsula chết, Pêtra Côtêt và Aurêlianô Sêgunđô giật mình tỉnh thức khi nghe thấy tiếng gào khóc của một con bê từ gần đó vẳng lại.
Khi họ dậy thì dã thấy một đám người đang gỡ con quái vật khỏi những chiếc chông nhọn cắm dưới đáy một cái hố được phủ lá khô ở trên. Con vật không còn kêu được nữa rồi. Tuy nó không cao hơn một đứa trẻ, nhưng nặng như một con bò, và từ các vết thương, một chất máu nhờn màu xanh chảy ra. Trên mình con vật ấy phủ kín một lớp lông thô cứng mà rậm rạp, da nó đã hỏa đá bởi một lớp vảy cá ép; nhưng khác với sự miêu tả của cha cố, các bộ phận của cơ thể con vật ấy giống các bộ phận cơ thể của một vị thần gầy yếu hơn là của con người, vì đôi tay nó nhẵn nhụi và khéo léo, đôi mắt mở to và mờ ảo, và trên bả vai có những vết chai sẹo là dấu vết của một đôi cánh to khỏe đã bị rìu chặt đi. Người ta cột chân nó vào một cây hạnh đào ở bãi đất rộng để mọi người đều được nhìn thấy, và đến khi nó bắt đầu thối rữa thì họ đem thiêu trên giàn lửa bởi lẽ không thể xác định được bản chất của nó thuộc loài vật hay thuộc một con chiên của đạo Cơ đốc, để có cách xử lí thích hợp: quẳng xác nó xuống sông hay là đem mai táng. Chẳng bao giờ biết chắc rằng có phải đúng nó đã làm những con chim kia chết hay không, nhưng số người đàn bà vừa mới lấy chồng đã không có thai và cái nóng cũng chẳng giảm đi.
Cuối năm đó Rêbêca chết. Arhêniđa, người suốt đời ở cho Rêbêca, nhờ nhà đương cục giúp đỡ để phá cửa phòng ngủ, nơi thấy Rêbêca nằm trên một chiếc giường đơn độc, mình co quắp trong miệng. Aurêlianô Sêgunđô mai táng cho Rêbêca và cố gắng tu sửa nhà cửa để bán đi, nhưng ngôi nhà đã bị hư hại quá nặng đến mức các bức tường đã hỉ lở vỡ ngay sau khi sởn những cây vạn niên thanh làm hỏng các cột trụ.
Tất cả sự phá sản đã diễn ra như vậy từ khi mưa lại. Sự lười biếng của mọi người được chứng nghiệm bằng sự lãng quên gậm nhấm dần những kỉ niệm một cách không thương tiếc, đến mức độ cao nhất là trong thời gian ấy, vào dịp kỉ niệm ngày kí hiệp định Neclanđia, mấy vị đại diện của Tổng thống nước cộng hoà đến Macônđô để trao tặng tấm huân chương từng nhiều lần bị đại tá Aurêlianô Buênđya khước từ đã phải mất trọn một buổi chiều kiếm người chỉ cho biết nơi có thể tìm thấy một người nào đó thuộc dòng dõi của đại tá. Aurêlianô Sêgunđô háo hức nhận tấm huân chương đó vì tin rằng nó bằng vàng, nhưng trong khi các vị đại diện của Tổng thống chuẩn bị dàn nhạc và diễn văn cho buổi lễ, Pêtra Côtêt đã thuyết phục ông rằng làm như vậy là nhục nhã. Cũng vào thời gian ấy, những người digan trở lại, đó là những người cuối cùng kế thừa được khoa học của Menkyađêt, họ thấy thôn xóm quá xơ xác và dân làng quá biệt lập với thế giới bên ngoài, đến mức họ lại vào từng nhà và kéo theo những thỏi sắt đã nhiễm từ, cứ như thể những thỏi sắt ấy thật sự là phát hiện mới nhất của các nhà thông thái xứ Babilon, họ lại dùng thấu kính hội tụ khổng lồ để tập trung ánh sáng mặt trời; và chẳng phải là không có người há hốc mồm nhìn những chiếc xoong bị đổ và những chiếc chảo lăn lông lốc, cũng chẳng thiếu gì kẻ bỏ ra năm mươi xu để kinh ngạc trước việc một cô gái digan tháo hàm răng giả ra rồi lại lắp vào. Một đoàn xe lửa xộc xệch màu vàng chẳng chở ai đến cũng chẳng chở ai đi và hầu như không dừng lại ở một nhà ga vắng vẻ, đó là hình ảnh duy nhất còn lại của một đoàn tàu đông người - ở đó, ngài Brao giữ một toa có mái che bằng kính và những chiếc ghế bành như ghế của Giáo chủ - và của những đoàn tàu chở hoa quả gồm một trăm hai chục toa mà chiều nào cũng chậm chạp chạy qua đây hết đúng một buổi chiều. Các vị đại diện của toà án đi xác minh tin tức về cái chết lạ lùng của những con chim và cái chết của con quỷ Giuđiô Erantê đã gặp cha cố Antôniô Isaben đang chơi trò bịt mắt bắt dê với lũ trẻ nhỏ, họ cho rằng thông báo của cha là sản phẩm của sự lẩm cẩm của tuổi già, nên đã đưa cha về một trại an dưỡng. Sau đó không lâu người ta phái cha Augustô Anhên về. Ðó là một người lính thập tự chinh mới được đào luyện, một người kiên quyết, dũng cảm và liều lĩnh, muỗi ngày tự tay kéo chuông vài lần để tinh thần khỏi trì trệ, đi từ nhà này qua nhà khác để đánh thức những kẻ ngủ quá nhiều dậy đi lễ; nhưng chưa được một năm thì cha cũng bị gục vì đã hít thở phải những uế tạp trong không khí, vì bụi nóng đã làm cha già xọm và đi đứng khó khăn, vì món thịt băm viên của những bữa cơm trưa trong cái nóng không thể chịu nổi đã làm cha mắc chứng ngủ gà ngủ gật.
Từ khi Ucsula chết, ngôi nhà lại rơi vào tình trạng bị bỏ hoang không gì có thể khắc phục được, kể cả một ý chí rất kiên trì và mạnh mẽ như của Amaranta Ucsula, người mà nhiều năm sau đó, vì là một phụ nữ cởi mở, vui tươi, và thời thượng, gắn bó với xã hội bên ngoài, đã mở rộng cửa để tránh sự suy sụp, sửa sang lại vườn hoa, diệt lũ kiến đỏ giữa ban ngày ban mặt dám bò ra tận hành lang, và cố gắng làm thức dậy tinh thần hồ hởi hiếu khách đã bị lãng quên. Nỗi đam mê mang màu sắc tu viện của Phecnanđa đã dựng cả một con đê vững chắc trước cuộc đời trăm năm sôi động ào ạt như thác nước của Ucsula. Phecnanđa chẳng những không mở cửa ra vào khi cơn gió nóng đã qua mà còn lấy then gỗ cài chặt cửa sổ lại, làm theo lời dặn của cha thánh thần, tức là bà đã tự chôn mình giữa cuộc đời. Việc thư từ liên lạc đầy tốn kém với các thầy thuốc không thể nhìn thấy đã thất bại. Sau rất nhiều lần trì hoãn, vào một ngày giờ thích hợp, Phecnanđa đã tự giam mình trong phòng ngủ, chỉ đắp một chiếc khăn trắng, quay đầu về hướng bắc, và lúc một giờ sáng bà cảm thấy người ta phủ lên mặt mình một chiếc khăn thấm nước lạnh. Khi Phecnanđa thức dậy mặt trời đã chiếu sáng cửa sổ, và trên mình bà có một đường khâu chạy suốt từ bẹn lên đến chỗ xương mỏ ác. Nhưng trước khi thực hiện sự yên nghỉ theo dự kiến, Phecnanđa đã nhận được một bức thư khó hiểu của các thầy thuốc không thể nhìn thấy, trong thư họ nói rằng đã khám nghiệm bà trong suốt sáu giờ đồng hồ nhưng chẳng thấy những triệu chứng mà nhiều lần bà đã miêu tả tỉ mỉ. Quả thật, thói quen không gọi sự vật bằng cái tên của nó của Phecnanđa là một thói quen có hại, nó chính là nguồn gốc của một sự lầm lẫn mới, bởi vì các nhà giải phẫu viên cảm chỉ thấy bà bị sa tử cung thôi và có thể chữa bằng một chiếc vòng treo. Phecnanđa muốn có một thông báo cụ thể, nhưng những người viết thư không quen biết kia không viết thêm cho bà nữa. Quá băn khoăn về một từ lạ, Phecnanđa đã vượt qua sự ngượng ngùng, đánh bạo hỏi xem vòng treo tử cung là cái gì, nhưng cho đến lúc ấy bà mới biết rằng ba tháng về trước ông thầy thuốc người Pháp đã treo cổ trên xà nhà và được một chiến hữu cũ của đại tá Aurêlianô Buênđya mai táng, trái với ý muốn của dân làng. Phecnanđa đành phải trông cậy anh con trai mình, Hôsê Accađiô, và anh ta đã gửi từ Rôm về cho bà những chiếc vòng kèm tờ chỉ dẫn mà bà đã giấu biệt sau khi học thuộc lòng để không ai biết thực trạng bệnh tật của mình. Cẩn thận như vậy là vô ích, bởi vì những người sống trong ngôi nhà này hình như chẳng hề quan tâm đến điều ấy. Santa Sôphia đê la Piêđat sống trong tuổi già cô quạnh, bà nấu nướng thức ăn cho cả nhà, và dường như dành tất cả sức lực cho việc chăm sóc Hôsê Accađiô Sêgunđô. Amaranta Ucsula, người thừa kế những vẻ quyến rũ của Rêmêđiôt - Người đẹp lo dành toàn bộ thời gian cho việc học hành mà trước đây cô thường lãng phí vào việc trêu chọc Ucsula, bắt đầu tỏ ra có ý thức tốt và cố gắng trong học tập, điều đó làm hồi sinh những hi vọng tốt đẹp mà Mêmê đã khơi gợi lên ở Aurêlianô Sêgunđô. Aurêlianô Sêgunđô đã hứa là sẽ gửi cô sang Bruxen để học tiếp, theo tập quán của thời kì Công ty chuối, và mộng ước đó đã khiến ông cố công phục hoá số ruộng đất từng bị mưa lụt tàn phá. Hồi ấy, rất ít khi người ta thấy Aurêlianô Sêgunđô ở nhà. Ông đi làm việc vì Amaranta Ucsula, vậy nên đối với Phecnanđa ông đã trở thành một người khác lạ. Còn Aurêlianô càng đến tuổi phát dục càng xa lánh mọi người và đăm chiêu suy tư hơn. Aurêlianô Sêgunđô tin rằng tuổi già sẽ làm mềm dịu trái tim của Phecnanđa, để Aurêlianô có thể hoà mình vào cuộc sống của một làng mà ở đó chắc chắn sẽ không có ai mất công tìm hiểu gốc gác của chú. Nhưng chính Aurêlianô lại thích sống tự giam mình trong nỗi cô đơn và chẳng tỏ ra có một chút thích thú nào với việc làm quen thế giới bên ngoài khung cửa. Khi Ucsula mở cửa phòng Menkyađêt, Aurêlianô cứ lượn lờ xung quanh, tò mò nhìn cánh cửa khép hờ, và chẳng ai biết rằng quan hệ thân mật qua lại giữa chú và Hôsê Accađiô Sêgunđô đã nảy sinh từ lúc nào. Mãi về sau, khi nghe Aurêlianô nói về vụ thảm sát ở nhà ga xe lửa, Aurêlianô Sêgunđô mới phát hiện ra quan hệ đó. Số là, một hôm trong bữa ăn, có người nào đó than vãn về sự suy sụp và chìm đắm của làng xóm khi bị Công ty chuối bỏ rơi, và Aurêlianô đã bác bỏ ý kiến đó với sự chín chắn và cách nói năng của người lớn. Theo quan điểm của chú đối lập với cách hiểu của mọi người nói chung, thì trước khi bị Công ty chuối làm cho điêu đứng, suy thoái và sau đó bị áp bức, Macônđô là một vùng giàu có và đang đi lên, và chính các kĩ sư của Công ty chuối đã gây nên nạn lụt để lấy cớ huỷ bỏ hợp đồng với những người lao động. Khi miêu tả với những chi tiết chính xác và có tính thuyết phục việc quân đội bắn chết hơn ba ngàn người bị vây chặt ở nhà ga rồi dùng một đoàn xe lửa hai trăm toa chở xác họ quăng xuống biển, Aurêlianô đã nói rõ ràng đến mức làm cho Phecnanđa có cảm tưởng như chú đang bắt chước Chúa Giêsu một cách vô lễ khi Chúa nói với các tông đồ của mình. Cũng như phần lớn những người khác, tin vào lẽ phải chính thống cho rằng không có chuyện ấy, Phecnanđa đùng đùng nổi giận và bắt Aurêlianô phải ngừng lời vì nghĩ rằng chú đã kế thừa những thói xấu vô chính phủ của đại tá Aurêlianô Buênđya. Ngược lại, Aurêlianô Sêgunđô chấp nhận ý kiến của người anh em sinh đôi Hôsê Accađiô Sêgunđô. Trên thực tế, mặc dù bị coi là điên dại, Hôsê Accađiô Sêgunđô là người sáng láng nhất nhà. Hôsê Accađiô Sêgunđô đã dạy chú bé Aurêlianô biết đọc biết viết, hướng dẫn chú bắt đầu nghiên cứu những thứ được ghi chép trên các tấm da thuộc và in sâu vào chú những cách lí giải rất riêng về ý nghĩa của Công ty chuối đối với Macônđô mà nhiều năm sau này, khi đã hoà mình vào cuộc sống chung, Aurêlianô vẫil còn nghĩ rằng Hôsê Accađiô Sêgunđô đã kể chuyện huyền thoại, bởi vì nó khác hẳn với sự giảng giải lừa bịp mà các nhà sử học đã thừa nhận và đưa vào các bài giảng ở trường học. Trong căn phòng nhỏ hẹp, nơi không bao giờ có gió khô, bụi đỏ và sự nóng nực, Aurêlianô và Hôsê Accađiô Sêgunđô nhớ lại hình ảnh cha truyền con nối về một ông già đội chiếc mũ cánh quạ đang nói về thế giới ở đằng sau cánh cửa có từ rất nhiều năm trước khi họ ra đời. Cả hai cùng nhận ra rằng ở đó luôn luôn là tháng ba và luôn luôn là ngày thứ hai, cũng khi đó, họ hiểu rằng cụ cố Hôsê Accađiô Buênđya không phải điên dại như những người trong gia đình kể lại, mà là người duy nhất trong gia đình, với trí tuệ khá minh mẫn, đã thấy mơ hồ một chân lí là thời gian cũng bị vấp váp và bị tai nạn, bởi vậy nó có thể tự tan vỡ ra, và để lại trong phòng một mảnh đã được vĩnh cừu hoá. Ngoài ra, Hôsê Accađiô Sêgunđô còn phân loại được những mã chữ ghi trên các tấm da thuộc. Hôsê Accađiô Sêgunđô quả quyết rằng những mã chữ đó thuộc một loại hình văn tự có từ bốn mươi bảy đến năm mươi hai nét chữ cái, khi tách rời ra chúng như những con nhện và những con bọ, và với cách viết nắn nót của Menkyađêt chúng lại giống như những mảnh quần áo phơi trên dây. Aurêlianô nhớ lại rằng chú đã thấy một bảng chữ như vậy trong bộ bách khoa toàn thư của Anh, và thế là chú mang bảng của mình đến phòng để đối chiếu giới bảng của Hôsê Accađiô Sêgunđô. Hai bảng ấy hoàn toàn giống nhau.
Trong thời kì mở xổ số với các câu đố, Aurêlianô Sêgunđô thường thức dậy khi bị nghẹn cứng ở cổ họng như thể phải cố nín khóc vậy. Pêtra Côtêt coi đó như là một trong những sự trắc trở do hoàn cảnh xấu đưa lại, và trong suốt thời gian hơn một năm, sáng nào cũng bôi vào vòm họng Aurêlianô Sêgunđô một ít mật ong và cho uống nước củ cải. Khi cái cổ họng sưng tấy lên đến mức gây khó thở, Aurêlianô Sêgunđô tìm đến Pila Tecnêra xem bà lão có biết dùng thứ cỏ gì để chữa hay không. Người bà nội có tính cách cứng rắn ấy, người đã sống đến trăm tuổi ngay trước một nhà chứa bí mật, không tin ở thuốc thang, mà chữa bằng cách bói bài tây. Bà lão thấy một con ngựa vàng bị thương ở cổ họng vì mũi gươm của con "J" và bói rằng Phecnanđa đang cố lôi chồng trở về nhà bằng một thuật chẳng linh nghiệm gì là đóng đinh ghim lên ảnh chồng, nhưng do một sự hiểu biết ngu dốt về cái thuật xấu xa ấy mà làm cho chồng bị mọc mụn nhọt ở bên trong. Vì không có tấm chân dung nào khác ngoài nhũng tấm hình chụp ngày cưới mà tất cả vẫn nằm trong tập ảnh gia đình, nên nhân những lúc vợ không để ý, Aurêlianô Sêgunđô tiếp tục lục lọi khắp nơi trong nhà, cuối cùng ông tìm thấy ở dưới đáy hòm quần áo nửa tá vòng treo tử cung vẫn còn nằm nguyên trong hộp. Tin rằng những chiếc vòng đó là bùa chú, Aurêlianô Sêgunđô bỏ một chiếc vào túi rồi mang đến cho Pila Tecnêra xem. Pila Tecnêra không thể xác định được bản chất của nó, nhưng đầy nghi ngờ, bà lão bảo Aurêlianô Sêgunđô đưa cả nửa tá vòng ấy đến, rồi đem đốt trên một đống lửa nhóm ở trong sân. Ðể giải bùa của Phecnanđa, bà lão bảo Aurêlianô Sêgunđô đem con gà mái đang ấp nhúng ướt rồi chôn ở dưới gốc cây dẻ; Aurêlianô Sêgunđô làm theo lời bà lão với lòng đầy tin tưởng, đến mức ngay sau khi lấy lá khô che phủ chỗ đất mới đào, ông đã cảm thấy dễ thở rồi. Phecnanđa thì còi việc những chiếc vòng treo tử cung kia bị biến mất là sự báo thù của các thầy thuốc không thể nhìn thấy bởi vậy bà khâu một chiếc túi nhỏ ở bên trong chiếc áo khoác để đựng những chiếc vòng mới rnà con trai bà gửi về.
Sáu tháng sau khi chôn con gà, một hôm giữa đêm Aurêlianô Sêgunđô thức dậy vì một cơn ho và cảm thấy như có những chiếc càng cua đang kẹp xé ở bên trong. Lúc đó Aurêlianô Sêgunđô hiểu rằng dù có đất nhiều vòng cao su và nhúng ướt nhiều gà mái đang ấp để giải bùa thì vẫn không tránh khỏi cái sự thật đau buồn cuối cùng là ông đang chết dần. Aurêlianô Sêgunđô không nói điều ấy với ai. Day dứt vì lo rằng chết mà vẫn không kịp gửi Amaranta Ucsula sang học ở Brucxen, Aurêlianô Sêgunđô làm việc nhiều hơn bao giờ hết, và nếu trước đây mỗi tuần ông chỉ mở một kì xổ số thì bây giờ mở đến ba kì. Mới sáng sớm đã thấy Aurêlianô Sêgunđô đi khắp nơi trong làng, và còn đến tận những xóm hẻo lánh và nghèo nàn nhất, cố gắng bán các vé xổ số, với một khát vọng mà chỉ có thể thấy ở một người hấp hối: "Vé số Ðấng Toàn năng linh thiêng đây!", Aurêlianô Sêgunđô rao, "đừng bỏ qua vận may trăm năm có một". Aurêlianô Sêgunđô cố gắng một cách đầy cảm động, làm ra vẻ vui tươi, hồ hởi và cởi mở, nhưng chỉ nhìn mồ hôi và sắc mặt tái nhợt của ông, cũng biết rằng ông không thể thực hiện được điều mong muốn. Ðôi khi Aurêlianô Sêgunđô rẽ vào các khu ruộng hoang, ở đó không ai nhìn thấy, ông nghỉ ngơi chốc lát để giảm bớt cơn đau như kìm bóp kẹp ở bên trong. Ðến nửa đêm, Aurêlianô Sêgunđô vẫn còn ở trong khu gái điếm, cố an ủi những người đàn bà cô đơn đang sùi sụt khóc bên cạnh những chiếc máy hát quay tay, bằng những lời diễn thuyết về vận may: "Số này bốn tháng nay chưa về đấy!". Aurêlianô Sêgunđô nói và chìa các vé số ra: "Ðừng để vận may đi mất, vì cuộc đời còn ngắn hơn là người ta tưởng!". Aurêlianô Sêgunđô không còn được coi trọng nữa, người ta nhạo báng ông, và những tháng sau cùng người ta không gọi ông là Ngài Aurêlianô nữa mà gọi thẳng vào mặt ông là "Ðấng Toàn năng linh thiêng". Giọng nói của Aurêlianô Sêgunđô ngày một lạc đi và cuối cùng, sau một cơn rống lên như tiếng chó, thì mất hẳn giọng, nhưng Aurêlianô Sêgunđô vẫn mong rằng niềm hi vọng của ông không bị tiêu tan trong cuộc mở xổ số ở sân nhà Petra Côtêt. Nhưng vì mất tiếng nói nên Aurêlianô Sêgunđô biết rằng chẳng bao lâu nữa ông sẽ không còn chịu đựng nổi cơn đau, và ông thấy không thể bằng cách mở xổ số với những con lợn, con dê mà con gái ông có thể đi Bruxen, vậy nên ông nảy ra ý định mở xổ số với giải thưởng là miền đất đã bị nạn lụt lội tàn phá, đất đai ấy sẽ được phục hồi do người bỏ nhiều vốn. Ðó là một sáng kiến đầy hấp dẫn, đến mức khiến cho ông thị trưởng đả đích thân cùng với một dàn nhạc đi quảng cáo, và người ta đã vào hội với nhau để mua xổ số với giá mỗi vé một trăm pêxô, do đó vé đã được bán hết trong thời gian chưa đầy một tuần. Trong đêm mở xổ số những người trúng thưởng tổ chức một cuộc vui linh đình có thể so sánh với những cuộc hội hè trong thời kì tốt đẹp nhất của Công ty chuối, và đêm ấy là lần cuối cùng Aurêlianô Sêgunđô biểu diễn những bài hát bị lãng quên của cụ Phranxiscô - Con Người bằng đàn phong cầm, ông không thể hát được nữa rồi.
Hai tháng sau đó, Amaranta Ucsula sang Bruxen, Aurêlianô Sêgunđô chẳng những đưa cho con gái số tiền thu được trong cuộc xổ số đặc biệt mà còn đưa cả tiền tiết kiệm trong mấy tháng trước đó cùng một ít tiền bán đàn pianô tự động, đàn tiểu phong cầm, và một vài đồ vật cũ. Theo Aurêlianô Sêgunđô tính toán thì số vốn đó đủ để Amaranta Ucsula ăn học, vậy là chỉ còn thiếu tiền mua vé trở về nữa thôi. Phecnanđa chống lại chuyến đi đó, bà bực bội vì nghĩ rằng Bruxen ở quá gần cái thành phố Paris đồi truỵ, nhưng cuối cùng, bà đã yên lòng khi xem bức thư của cha Anhen gửi một nhà trọ dành cho những thanh niên theo đạo Thiên chúa, nhà trọ ấy do những người phụ nữ có đạo trông nom, và Amaranta Ucsula đã hứa là sẽ ở đó cho đến khi học xong. Hơn nữa, vị cha cố còn tạo cơ hội cho Amaranta Ucsula đi cùng một nhóm nữ tu sĩ dòng Phranxiscô, những người này đến Tôlêđô, ở đó họ hi vọng gặp được người có thể tin tưởng để gửi gắm cô ta sang Bỉ. Trong khi sự liên hệ được gấp rút thực hiện để có thể phối hợp được như vậy thì Aurêlianô Sêgunđô, với sự giúp đỡ của Pêtra Côtêt, lo sắp xếp hành trang cho Amaranta Ucsula. Vào buổi tối mà họ sắp xếp một trong những chiếc rương đựng đồ cưới của Phecnanđa, mọi chuyện đã được chuẩn bị kĩ càng đến mức cô học sinh Amaranta Ucsula nhớ như in chỗ nào để bộ lễ phục và đôi dép nhung dùng khi qua Ðại Tây Dương, chỗ nào để chiếc áo khoác bằng len dày màu xanh có khuy đồng cùng đôi giày da dê dùng khi cập bến. Amaranta Ucsula còn biết cách đi như thế nào để khỏi ngã xuống nước khi leo lên bờ, rằng không lúc nào được rời các nữ tu sĩ hoặc ra khỏi phòng ngủ trên tàu nếu không phải là di ăn, rằng khi ở ngoài biển khơi không được trả lời bất kì câu hỏi nào của bất kì ai, kể cả đàn ông và đàn bà. Cô mang theo một lọ thuốc để chống say sóng và một cuốn sổ có sáu câu cầu nguyện để tránh bão tố, do chính cha Anhen viết. Phecnanđa may cho cô một chiếc thắt lưng bằng vải bạt để đựng tiền và chỉ dẫn cho cô cách dùng, dặn cô luôn luôn buộc nó vào người, không lúc nào được tháo ra, kể cả khi ngủ cũng vậy. Phecnanđa còn định cho cô một chiếc bô nhỏ bằng vàng đã được tráng kiềm và tẩy rửa bằng cồn, nhưng Amaranta Ucsula không nhận vì sợ rằng các bạn gái ở trường sẽ chế nhạo. Vài tháng sau, vào lúc sắp qua đời, Aurêlianô Sêgunđô còn nhớ lại lần cuối cùng ông nhìn thấy Amaranta Ucsula khi cô đang cố hạ tấm kính cửa sổ bám đầy bụi ở một toa hạng hai để nghe những lời căn dặn cuối cùng của Phecnanđa, nhưng không hạ được. Hôm đi, Amaranta Ucsula mặc bộ lễ phục bằng lụa hồng với một chùm hoa giả nho nhỏ cài trên cầu vai bên trái, đi đôi giày da dê gót thấp có dây thắt, đôi bít tất với những dây nịt bằng cao su nổi bật trên bắp chân. Amaranta Ucsula có thân hình thon thả, mái tóc dài buông toả và đôi mắt linh lợi như mắt Ucsula khi bà ở tuổi cô. Lúc từ biệt, Amaranta Ucsula không khóc cũng không cười, điều đó cũng biểu lộ tính vững vàng như tính cách của Ucsula. Ði bên cạnh toa lúc tàu chuyển bánh, vịn vào cánh tay Phecnanđa để khỏi vấp ngã, Aurêlianô Sêgunđô vẫn còn có thể giơ một tay lên chào lại khi con gái ông đưa ngón tay lên miệng gửi cha chiếc hôn giã từ. Vợ chồng Aurêlianô Sêgunđô ngồi yên dưới ánh nắng gay gắt và nhìn theo đoàn tàu cho đến khi nó chỉ còn như một chấm nhỏ ở phía chân trời, và lúc ấy, lần đầu tiên kể từ ngày cưới, họ ôm lấy cánh tay nhau.
Ngày mồng chín tháng tám, trước khi có thư từ Bruxen gửi về, Hôsê Accađiô Sêgunđô trò chuyện với Aurêlianô trong phòng của Menkyađêt và bỗng nói bâng quơ:
- Hãy luôn luôn nhớ rằng họ, hơn ba ngàn người, đã bị quăng xuống biển đấy!
Sau đó Hôsê Accađiô Sêgunđô gục xuống những tấm da thuộc đầy chữ và chết với đôi mắt vẫn mở to. Cùng lúc đó, trên giường của Phecnanđa, người anh em sinh đôi của ông đã không còn phải chịu đựng nỗi đau kéo dài như thể do những chiếc càng cua bằng thép kẹp chặt một cách khủng khiếp trong cổ họng gây nên nữa. Một tuần trước đó, để thực hiện lời nguyền là sẽ chết bên cạnh vợ, Aurêlianô Sêgunđô đã trở về nhà, nói không được, thở không được, dường như chỉ còn da bọc xương, mang theo về những chiếc hòm của kẻ lang thang nay đây mai đó và chiếc phong cầm cũ kĩ. Pêtra Côtêt đã giúp ông thu dọn quần áo để mang về, và đã đưa tiễn ông mà không hề nhỏ một giọt nước mắt, nhưng lại quên không đưa cho Aurêlianô Sêgunđô đôi ủng da mà ông muốn được bỏ vào quan tài của mình. Ðến khi biết rằng Aurêlianô Sêgunđô đã chết, Pêtra Côtêt liền mặc một bộ đồ đen và lấy báo gói đôi ủng lại, đến xin phép Phecnanđa vào viếng người quá cố. Phecnanđa không cho Pêtra Côtêt bước qua cửa.
- Bà hãy đặt mình vào địa vị tôi, - Pêtra Côtêt nói, - và bà hãy tưởng tượng xem tôi yêu ông ấy như thế nào để đến nỗi phải chịu sự khổ nhục này.
- Chẳng có sự khổ nhục nào mà lại không xứng với một con ở, - Phecnanđa nói. - Hãy chờ đến khi có một kẻ nào khác trong đám đàn ông ấy chết đi, để mà đặt đôi ủng đó vào quan tài!
Thực hiện lời hứa của mình, Santa Sôphia đê la Piêđat dùng một con dao làm bếp cắt cổ họng Hôsê Accađiô Sêgunđô để đảm bảo chắc chắn rằng ông ta không bị chôn khi vẫn còn sống. Hai từ thi được đặt trong hai chiếc quan tài giống nhau, và ở đó người ta thấy họ trở lại giống nhau như đúc cũng như họ từng giống nhau từ thuở lọt lòng đến khi thành niên. Những người trong đám bạn ăn chơi ngày trước của Aurêlianô Sêgunđô đặt lên quan tài của ông một vòng hoa đính một dải băng đen mang dòng chữ: "Những con bò cái hãy giạng háng ra, kẻo cuộc đời ngắn lắm!". Phecnanđa rất bực bội với sự bất kính đó và sai quẳng vòng hoa vào đống rác. Trong sự lộn xộn của những giờ phút cuối cùng, khi đưa thi hài hai người ra khỏi nhà, đám thanh niên say rượu và buồn bã đã lầm lẫn quan tài và do đó chôn quan tài người nọ vào huyệt người kia.
Chú thích:
(1) Ðơn vị đo trọng lượng, mỗi libra bằng 0.445kg.
(2) Nghĩa: tên Do Thái lang thang.
Chương 18
Trong suốt một thời gian dài Aurêlianô không ra khỏi phòng của Menkyađêt. Chú học thuộc lòng các truyện cổ hoang đường trong cuốn sách đã rách rời, các bản tóm tắt những công trình nghiên cứu của Hecman, một người bại liệt, các chỉ dẫn về khoa quỉ thẩn học, các điểm mấu chất của loại đá giả kim, và cuốn Những lời sấm truyền... của Nôstrađam và những nghiên cứu của ông về bệnh dịch hạch, bởi vậy, khi đến tuổi trưởng thành chú không hề hiểu biết gì về thời đại mình, nhưng lại có những kiến thức cơ bản của người thời Trung cổ. Lúc nào bước vào căn phòng đó, Santa Sôphia đê la Piêđat cũng thấy chú vùi đầu vào sách vở. Cụ mang cho chú một tách cà phê không đường vào buổi sáng và một đĩa cơm với vài lát chuối rán vào buổi trưa, đó là món ăn duy nhất ở nhà này kể từ khi Aurêlianô Sêgunđô mất. Santa Sôphia đê la Piêđat lo việc cắt tóc bắt chấy rận cho Aurêlianô, sửa quần áo cũ trong những chiếc rương đã bị lãng quên cho chú mặc, khi thấy râu ria chú nhú ra, cụ mang dao cạo và chổi bôi xà phòng của đại tá Aurêlianô Buênđya đến cho chú. Chẳng ai trong số những người con của đại tá, kể cả Aurêlianô Hôsê, lại giống ngài đến như Aurêlianô, nhất là ở đôi gò má cao và đường nét cương nghị có chút vẻ tàn nhẫn của khoé miệng. Trước đây Ucsula tin rằng Aurêlianô Sêgunđô thường nói một mình trong khi ngồi học ở trong phòng, bây giờ Santa Saphia đê la Piêđat cũng nghĩ như vậy Thực ra, Aurêlianô nói chuyện với Menkyađêt. Sau cái chết của hai anh em sinh đôi kia, vào một buổi trưa oi ả, qua sự phản chiếu của cánh cửa sổ, Aurêlianô nhìn thấy ông già tang thương với cái mũ cánh quạ, như đó là sự hiện hình cụ thể của một ký ức đã hình thành trong đầu óc chú từ rất lâu trước khi chú ra đời. Trước đó Aurêlianô đã hoàn thành việc phân loại thứ chữ cái viết trên các tấm da thuộc. Khi Menkyađêt hỏi Aurêlianô rằng chú đã biết người ta ghi thứ ngôn ngữ nào trên đó chưa, chú trả lời không chút do dự:
- Tiếng Phạn.
Menkyađêt hé cho Aurêlianô biết rằng mình chẳng còn nhiều dịp trở lại căn phòng này. Nhưng Menkyađêt bình tâm đi đến cái chết vĩnh hằng, bởi vì Aurêlianô có thời gian để học tiếng Phạn trong những năm tháng trước khi các tấm da thuộc kia tròn trăm tuổi và người ta có thể đọc được chúng. Chính Menkyađêt đã chỉ cho Aurêlianô biết rằng ở trên con đường chạy đến bờ sông, nơi ở thời kỳ Công ty chuối người ta thường xem hậu vận và đoán mộng, trong cửa hàng sách của một nhà thông thái người xứ Catalunha có cuốn Sánskrit Primer(l) mà nếu Aurêlianô không mua vội thì chỉ sáu năm sau sẽ bị gián nhấm hết. Lần đầu tiên trong rất nhiều năm tháng đã qua của đời mình, Santa Sôphia đê la Piêđat để lộ một tình cảm, và đó là một tình cảm sững sờ, khi Aurêlianô đòi hỏi cụ mang về cho chú cái cuốn sách nằm giữa tập Giêrudalem giải phóng(2) và tập thơ của Mintôn(3), phía bên phải cùng thuộc hàng thứ hai của giá sách. Vì không biết chữ nên Santa Sôphia đê la Piêđat học thuộc lòng những lời hướng dẫn đó và cụ chạy tiền bằng cách đem bán một trong mười bảy con cá vàng còn lại ở xưởng kim hoàn mà chỉ có cụ và Aurêlianô biết chúng đã được cất giấu ở chỗ nào trong đêm bọn lính lục soát ngôi nhà.
Aurêlianô tiến bộ trong việc học tiếng Phạn, trong khi đó Menkyađêt ngày một thưa nhạt và xa vời, lẫn dần vào ánh sáng ban trưa rực rỡ. Lần cuối cùng Aurêlianô cảm thấy cụ là lúc Menkyađêt dường như chỉ còn là một cái bóng không thể nhìn thấy đang lầm rầm "Ta đã chết vì bị siết trên những cồn cát ở bờ biển Singapore". Căn phòng lúc đó bỗng trở nên thiếu sức đề kháng trước sự tấn công của bụi bặm và nóng bức, của mọt và kiến, của mối và gián, những con vật từng biến kiến thức trong sách vở và các tấm da thuộc kia thành bụi.
Trong nhà không thiếu thức ăn, Aurêlianô Sêgunđô chết hôm trước thì hôm sau một trong những người bạn của ông từng đem tới chiếc vòng hoa với dòng chữ bất kính kia đã trả cho Phecnanđa một khoản tiền mà ông ta nợ chồng bà. Cũng từ hôm ấy một người làm nghề chuyển hàng cứ vào ngày thứ tư lại mang tới một làn thức ăn đủ cho cả một tuần lễ. Chẳng bao giờ có ai biết rằng những thức ăn đó là do Pêtra Côtêt gửi tới với ý nghĩ: bằng cách tỏ lòng thương hại kéo dài, bà sẽ làm khổ nhục người đã từng làm mình khổ nhục. Nhưng sự thù hằn đã tan biến nhanh hơn cả chính Pêtra Côtêt tưởng, và khi ấy bà vẫn tiếp tục gửi thực phẩm tới vì kiêu hãnh, và sau đó vì cảm thương. Có những lần khi Pêtra Côtêt không muốn đi bán vé xổ số nữa và dân chúng cũng đã mất hứng thú với trò cờ bạc ấy, bà đã nhịn để nhường thức ăn cho Phecnanđa, và Pêtra Côtêt luôn luôn thực hiện trách nhiệm gửi thực phẩm chừng nào Phecnanđa chưa qua đời.
Ðối với Santa Sôphia đê la Piêđat, việc giảm số người trong nhà có lẽ cho cụ một sự nghỉ ngơi mà cụ được quyền hưởng sau hơn nửa thế kỷ làm việc. Không bao giờ người ta nghe thấy một tiếng thở than của người đàn bà kín đáo và khó hiểu ấy, người đã gieo vào gia đình này những mầm mống thần thánh của Rêmêđiôt - Người đẹp và sự trịnh trọng bí ẩn của Hôsê Accađiô Sêgunđô, người đã dành cả cuộc đời cô đơn và thẳm lặng của mình vào việc nuôi nấng lũ trẻ mà chúng không nhớ rõ bằng mình là con hay cháu của cụ. Cụ chăm sóc Aurêlianô như thể chú ra đời từ sự mang nặng đẻ đau của mình, và chính cụ cụng không biết rằng mình là cố của chú nữa. Phải ở trong một gia đình như vậy mới có thể nghĩ được rằng Santa Sôphia đê la Piêđat thường ngủ trên một tấm thảm dệt bằng lá cọ trải trên nền nhà kho chứa ngũ cốc, giữa tiếng ếch nhái kêu đêm, và cụ cũng không kể với ai rằng có một đêm cụ đã thức dậy bởi một cảm giác hãi hùng là có ai đó đang nhìn mình trong bóng tối, thì ra đó là một con rắn độc trườn trên bụng cụ. Santa Sôphia đê la Piêđat biết rằng nếu thuở trước cụ kể với Ucsula chuyện đó thì thế nào Ucsula cũng bắt cụ phải ngủ trên giường của mình, nhưng ở thời buổi này chẳng ai để ý đến điều gì nếu cụ không kêu lên ở ngoài hành lang, bởi vì công việc chân tay ở lò bánh, những nỗi hãi hùng về chiến tranh, việc nhăn sóc con cháu khiến cho người ta không còn thời gian để nghĩ đến hạnh phúc của người khác nữa. Chỉ có Pêtra Côtêt, người mà Santa Sôphia đê la Piêđat chưa từng biết mặt, là nhớ đến cụ thôi. Sắm cho cụ một đôi giày đẹp và một bộ lễ phục, đó là món nợ mà Pêtra Côtêt vẫn chưa trả được ngay cả trong những ngày tháng tuyệt vời với khoản tiền do các cuộc xổ số đưa lại. Thuở mới đặt chân đốn nhà này Phecnanđa có nhiều lý do để tin rằng Santa Sôphia đê la Piêđat là một người làm đày tớ suốt đời, và nếu có một vài lần Phecnanđa nghe nói đó là mẹ chồng mình thì đó cũng là điều rất khó tin, đến mức bà phải mất rất nhiều thời gian mới biết rằng quả đúng như vậy, nhưng chẳng bao lâu bà lại quên đi. Santa Sôphia đê la Piêđat không bao giờ thấy khó chịu với cái vị trí thấp kém đó. Ngược lại, cụ cảm thấy thích thú với việc đi hết từ xó xỉnh này đến xó xỉnh khác, không kêu ca một lời, luôn chân luôn tay sắp xếp và dọn dẹp lại ngôi nhà rộng thênh thang nơi mình đã sống từ khi còn trẻ, và riêng trong thời kỳ còn Công ty chuối ngôi nhà ấy giống một trại lính hơn là một cư xá. Nhưng khi Ucsula qua đời, tính cấn thận đến mức khắc nghiệt và khả năng làm việc phi thường của Santa Sôphia đê la Piêđat cũng bắt đầu suy giảm. Không phải chỉ vì cụ đã tuổi cao sức kiệt, mà còn vì ngôi nhà đã nhanh chóng rơi vào tình trạng ọp ẹp. Một lớp rêu non xanh rờn phủ các bức tường. Khi ngoài vườn không còn chỗ đất nào trống, các loại cỏ dại liền đội vỡ nền xi măng ở hành lang như thể đội vỡ một tấm kính, và từ các kẽ nứt đã mọc lên chính những bông hoa nhỏ màu vàng mà trước đó đến gần một thế kỷ Ucsula từng nhìn thấy trong chiếc cốc đựng hàm răng giả của Menkyađêt. Chẳng có thời giờ và cũng chẳng có cách gì ngăn chặn những cuộc tấn công tàn bạo đó của thiên nhiên, suốt ngày Santa Sôphia đê la Piêđat xua đuổi những con thằn lằn đã chui vào phòng hồi đêm.
Một buổi sáng cụ trông thấy những con kiến đỏ rời bỏ những chỗ xi măng đã bị đào thủng, bò qua vườn, leo lên những bờ thành của thang gác, nơi có những cây thu hải đường đã úa màu đất, và vào đến tận chỗ trong cùng của ngôi nhà. Thoạt đầu cụ dùng chổi, sau đó dùng thuốc sâu và cuối cùng dùng vôi để giết lũ kiến ấy, nhưng ngày hôm sau chúng lại xuất hiện ở đúng chỗ cũ, thường xuyên qua lại, bền bỉ và bất khả chiến thắng. Lúc đó, vì đang viết thư cho các con mình nên Phecnanđa không hay biết gì về cuộc tấn công không thể ngăn chặn ấy của đám cỏ dại và lũ sâu bọ đang phá hoại. Một mình Santa Sôphia đê la Piêđat tiếp tục chiến đấu, chống chọi với cỏ dại để không không thể tràn vào nhà bếp, xua những bối mạng nhện sinh sôi nảy nở rất nhanh ở trên tường và miết xát lũ mọt. Nhưng khi thấy căn phòng của Menkyađêt cũng bị mạng nhện chăng và bụi phủ, thì Santa Sôphia đê la Piêđat bèn mỗi ngày quét dọn ba lần và khi thấy rằng, bất chấp sự dọn dẹp cần mẫn của mình, căn phòng vẫn bị đe doạ bởi những đống gạch ngói đổ vỡ và bầu không khí hôi hám mà chỉ có đại tá Aurêlianô Buênđya và viên sĩ quan trẻ xưa kia tiên đoán được thì cụ hiểu rằng mình đã thất bại. Lúc ấy Santa Sôphia đê la Piêđat mặc bộ lễ phục ngày chủ nhật đã sờn, đi đôi giày cũ của Ucsula và một đôi tất sợi bộng mà Amaranta Ucsula đã tặng mình, rồi gói hai hoặc ba bộ quần áo còn lại thành một bọc.
- Ta chịu rồi, - cụ bảo Aurêlianô, - cái nhà này thật là quá rộng, và cái thân còm này không thể nào kham nổi việc thu dọn cho nó tươm tất được.
Aurêlianô hỏi Santa Sôphia đê la Piêđat định đi đâu thì cụ trả lời bằng một cử chỉ mập mờ như thể chẳng hề có một chút ý thức nào về số phận của mình. Tuy vậy, cụ cũng cố xác định rằng sẽ sống những ngày cuối của đời mình với một bà em họ ở Riôacha. Ðiều ấy cũng không lấy gì làm chắc. Vì từ khi các vị thân sinh của Santa Sôphia đê la Piêđat qua đời, cụ không có quan hệ với ai trong làng, không hề có thư từ hoặc lởi nhắn hẹn, và cũng chẳng ai nghe thấy cụ nói về một người họ hàng nào cả. Aurêlianô đưa cho Santa Sôphia đê la Piêđat mười bốn con cá vàng, bởi vì cụ đã quyết ra đi khi trong túi chỉ còn một pêxô và hai mươi lăm xu. Qua cửa sổ, Aurêlianô nhìn thấy Santa Sôphia đê la Piêđat, với tấm thân còng vì tuổi tác, lê bước qua vườn mang theo một gói nhỏ quắn áo, và nhìn thấy cụ thò tay vào lỗ cửa để cài then lại sau khi đã ra khỏi nhà. Từ ấy không ai hay biết gì về cụ nữa.
Sau khi biết rằng Santa Sôphia đê la Piêđat đã bỏ chạy, Phecnanđa nói lảm nhảm suốt một ngày ròng trong khi xem lại từng chiếc rương một, từng chiếc tủ một để yên tâm rằng cụ đã không lấy một thứ gì mang đi. Lần đẩu tiên trong đời Phecnanđa nhóm bếp và bà bị bỏng tay, rồi bà phải nhờ Aurêlianô bày cho cách thức pha cà phê. Từ đó về sau, chính Aurêlianô là người làm việc bếp núc. Khi Phecnanđa thức dậy thì thức ăn đã được Aurêlianô chuẩn bị sẵn và ủ trong tro nóng, bà chỉ cần ra khỏi phòng ngủ mang về ăn trên một chiếc bàn phủ khăn bằng vải gai, bên trên có đặt những cây đèn nến; khi ăn, bà ngồi trên chiếc ghế trong cùng của mười lăm chiếc ghế trống. Trong khung cảnh đó Aurêlianô và Phecnanđa không chia sẻ với nhau nỗi cô đơn, mà ai lo việc người nấy. Họ quét dọn phòng mình; trong khi mạng nhện giăng trên các khóm hồng, phủ trên xà nhà và dệt trên các bức tường. Ðó là thời kỳ Phecnanđa có ấn tượng rằng ngôi nhà này đầy ma quái. Chẳng thế mà các đồ vật, nhất là những thứ hàng ngày thường dùng, luôn luôn tự nó thay đổi vị trí. Phecnanđa mất thời gian tìm kiếm chiếc kéo mà bà cứ đinh ninh rằng mình để trên giường, và sau khi lục lọi khắp nơi lại thấy nó trong chiếc tủ ở nhà bếp, nơi bà tin rằng đã bốn ngày rồi mình không đặt chân đến. Ðột nhiên trong tủ đựng các bộ đồ ăn không còn lấy một chiếc đĩa, thế rồi lại thấy sáu chiếc trên bàn thờ và ba chiếc ở chậu rửa bát. Khi Phecnanđa ngồi viết lại càng thấy các đồ vật di chuyển bất ngờ hơn. Lọ mực đặt ở bên phải sau lại thấy ở bên trái, bàn thấm giấy biến mất và hai ngày sau bà lại thấy nằm ở dưới gối, những trang viết cho Hôsê Accađiô lẫn với những trang viết cho Amaranta Ucsula, và bà luôn luôn băn khoăn là đã bỏ thư nọ vào bì kia như nhiều lần từng xảy ra trên thực tế. Có lần bà mất bút. Mười lăm ngày sau người đưa thư mang trả lại. Ông ta thấy ở trong túi của mình và đã đi khắp các nhà hỏi xem ai có cây bút đó. Thoạt đầu, Phecnanđa tin rằng những chuyện đó là do các thầy thuốc không thể nhìn thấy gây ra, giống như việc mất những chiếc vòng treo tử cung dạo trước, và bà bắt đầu viết một bức thư cầu xin họ để cho mình yên, nhưng rồi bà phải ngừng lại để làm một việc khác, và khi trở về phòng chẳng những bà không thấy lá thư bắt đầu viết ấy đâu, mà ngay cả mục đích của việc viết thư là gì bà cũng quên nốt. Có một dạo bà nghĩ là tại Aurêlianô. Bà theo dõi Aurêlianô, đặt các đồ vật ở lối đi với ý định sẽ bắt quả tang khi cnù đang mang chúng từ chỗ nọ bỏ vào chỗ kia, nhưng ngay sau đó bà lại yên trí rằng Aurêlianô không ra khỏi phòng của Menkyađêt nếu không cần đến nhà bếp hoặc nhà vệ sinh, và chú còn không phải là người thích đùa nữa. Thế rồi cuối cùng Phecnanđa tin rằng đó là sự quấy nhiễu của ma quái và bà chọn cách đối phó là để vật nào cần sử dụng vào đúng chỗ ấy thật chắc chắn. Bà buộc chiếc kéo vào đầu giường bằng một sợi dây dài, buộc ống bút và bàn thấm giấy vào chân bàn; dùng keo gắn lọ mực vào mặt bàn, ở phía bên phải chỗ bà thường ngồi viết. Nhưng rồi chẳng phải mọi chuyện êm đẹp ngay, bởi vì vừa ngồi may được một lúc lại không thể lôi cái kéo ra chỗ cần phải cắt, vì sợi dây buộc ngắn quá như thể ma quỉ đã cắt bớt đi. Sợi dây buộc ống bút cũng vậy và đến cả cánh tay Phecnanđa cũng ngắn đi, vì vừa ngồi viết một lúc bà đã không với tới lọ mực nữa rồi. Cả Amaranta Ucsula ở Bruxen và Hôsê Accađiô ở Rôm, cả hai chẳng bao giờ biết những điều bất hạnh này. Phecnanđa viết cho các con ràng bà sống hạnh phúc, và quả có thế thực, chính là vì bà thấy mình thoát khỏi mọi sự ràng buộc, như thể một lần nữa cuộc đời đang kéo bà về thế giới của cha mẹ mình, ở đó bà sẽ không phải khổ sở về những chuyện hàng ngày bởi vì chúng đã được giải quyết ngay trong tưởng tượng. Việc trao đổi thư từ với con cái làm cho Phecnanđa quên mất khái niệm về thời gian, nhất là từ khi Santa Sôphia đê la Piêđat bỏ đi. Trước kia bà có thói quen tính ngày, tính tháng và tính năm xem còn bao lâu nữa thì các con bà trở về theo dự định. Nhưng khi hết lần này đến lần khác họ báo thay đổi thời hạn thì bà thấy ngày tháng lẫn lộn, và thời gian dường như không trôi đi. Lẽ ra phải sốt ruột lắm thì bà lại thấy hài lòng với sự chậm trễ. Phecnanđa không nóng lòng với chuyện nhiều năm sau khi Hôsê Accađiô thông báo với bà rằng sắp làm lễ tuyên thệ tu hành suốt đời, rồi sau đó lại nói rằng anh ta đang chờ kết thúc chương trình thần học cao cấp để học về ngoại giao, bởi vì bà nghĩ ràng có biết bao khó khăn trắc trở trên chiếc thang ốc rất dài dẫn đến chiếc ghế của Thánh Piôtr(4) Ngược lại, bà xốn xang bởi những tin tức mà đối với người khác chẳng có nghĩa gì, ví dụ như chuyện con trai bà đã nhìn thấy Giáo hoàng. Bà củng sung sướng như vậy khi Amaranta Ucsula cho biết rằng chương tnnh học của cô sẽ kéo dài thêm, vì cô được xếp loại ưu nên được ưu đãi, đó là điều cha cô không nghĩ đến trong khi tính toán.
Ba năm đã trôi qua kể từ khi Santa Sôphia đê la Piêđat mang về cho Aurêlianô cuốn sách ngữ pháp tới khi chú dịch được trang đầu tiên. Việc làm của chú chẳng phải vô ích, nhưng cũng mới chỉ là bước đầu trên con đường dài như chẳng thể nào lường hết, bởi vì văn bản bằng tiếng Tây Ban Nha chẳng có ý nghĩa gì: đó chỉ là những bài thơ được mã hoá, Aurêlianô không còn các phương tiện để tạo cơ sở cho mình đi sâu vào các bài thơ đó, nhưng vì Menkyađêt đã từng nói với chú rằng ở cửa hàng sách của nhà thông thái xứ Catalunha có những cuốn sách sẽ giúp chú hiểu hết các tấm da thuộc nên chú quyết định xin phép Phecnanđa đi kiếm những cuốn sách đó. Trong căn phòng đầy gạch ngói đổ vỡ - mà sự gia tăng của những mảnh gạch ngói này sẽ dẫn đến cái kết cục là làm đổ căn phòng - Aurêlianô suy nghĩ tìm kiếm cách trình bày thích đáng yêu cầu của mình, chú dự đoán khung cảnh và cơ hội thích hợp, nhưng khi thấy Phecnanđa lấy thức ăn ủ trong tro nóng - cơ hội duy nhất để nói với bà - thì những lời yêu cầu đã chuẩn bị rất kỹ càng bị ứ lại trong cổ, không thể nói thành lời. Ðó là lần duy nhất mà Aurêlianô theo dõi Phecnanđa. Chú lắng nghe tiếng chân Phecnanđa đi lại trong phòng ngủ. Chú nghe thấy tiếng bà bước ra cửa để nhận thư của con cái và gửi người đưa thư những lá thư bà viết cho họ; đến rất khuya chú còn nghe thấy tiếng bút dằn mạnh trên mặt giấy trước khi nghe thấy tiếng tắt đèn và tiếng cầu kinh lầm rầm trong bóng tối. Cho đến tận lúc ấy Aurêlianô mới ngủ và chú tin rằng ngày mai cơ hội mình mong mỏi sẽ đến. Aurêlianô có ảo tưởng rằng điều yêu cầu của mình sẽ không bị chối từ, nên một buổi sáng chú đã cắt đi mái tóc dài chấm vai, cạo đi bộ râu tua tủa, mặc chiếc quần chẽn và chiếc áo có cổ giả mà chẳng biết là đã được thừa hưởng của ai, rồi chú đến nhà bếp chờ Phecnanđa đi ăn. Nhưng không đến người đàn bà ngày ngày vẫn sống ở đây, người đàn bà đầu ngẩng cao, người đàn bà đi lại rắn rỏi ấy, mà chỉ đến một bà lão đẹp tuyệt vời mặc chiếc áo khoác lông điêu thử màu vàng, đội chiếc miện bằng bìa cứng mạ vàng và có dáng vẻ yếu đuối của một người thường khóc thầm. Thực ra, từ khi thấy bộ trang phục hoa hậu đã bị gián nhấm ở trong rương của Aurêlianô Sêgunđô, Phecnanđa đã mặc nó nhiều lần. Nếu có ai đó thấy bà đứng trước gương làm đáng với cử chỉ có vẻ đài các đế vương chắc hẳn sẽ cho rằng bà bị điên. Nhưng không phải thế. Phecnanđa chỉ biến bộ áo hoa hậu ấy thành một cái máy nhớ mà thôi. lần đầu tiên mặc nó vào người, Phecnanđa đã không tránh khỏi cảm giác ứ nghẹn trong tim và mắt bà đẫm lệ, vì lúc ấy Phecnanđa như cảm thấy mùi xi trên đôi ủng của một quân nhân đã đến tận nhà tìm mình để cho mình làm hoa hậu, và tâm hồn bà trở nên trong suốt với sự tiếc nuối những giấc mơ đã qua. Bà cảm thấy mình đã già yếu và cằn cỗi lắm rồi, đã khác xa biết bao nhiêu với Phecnanđa của những giờ phút đẹp đẽ nhất trong đời, đến mức bà cũng nhớ tiếc cả những giờ phút mà bà coi là tồi tệ nhất, và chỉ khi đó Phecnanđa mới thấy rằng những chùm hoa kinh giới ở ngoài hành lang và hơi nước bốc lên từ những khóm hồng vào lúc chiều về, thậm chí cả bản chất hung dữ của những kẻ đến từ nơi xa lạ, là cần thiết biết bao đối với mình. Trái tim nguội lạnh của bà, từng chống đỡ vững vàng với những miếng đòn rất chính xác của đời sống thường ngày, giờ đây bị rạn vỡ bởi cuộc tấn công đầu tiên của nỗi hoài nhớ. Cảm giác đau buồn đã trở thành một nhu cầu của bà, nó tăng lên theo năm tháng và dần dần trở thành một thói xấu. Bà làm cho mình trở thành một người nhân từ trong nỗi cô đơn. Nhưng buổi sớm ấy khi bà vào bếp và thấy tách cà phê mà chàng trai trẻ gầy gò, xanh xao và có ánh mắt mơ màng kia pha cho mình, thì bà cảm thấy như bị một cái gì đó rất kỳ quặc đập vào mình. Chẳng những Phecnanđa đã không cho phép Aurêlianô đi, mà từ đó bà còn cất kỹ chìa khoá nhà trong chiếc túi đựng những chiếc vòng treo tử cung không dùng đến. Sự cẩn thận ấy là vô ích, bởi vì nếu như Aurêlianô muốn thì chú có thể ra đi rồi lại trở về mà bà không thể nhìn thấy. Nhưng sự giam hãm lâu ngày, sự mơ hồ về thế giới bên ngoài và thói quen phục tùng đã làm khô héo những mầm mống bướng bỉnh trong Aurêlianô. Thế là chú trở về phòng mình, xem đi xem lại những tấm da thuộc và đến tận đêm khuya vẫn nghe tiếng khóc sụt sùi của Phecnanđa ở phòng ngủ của bà. Một buổi sáng, như thường lệ, Aurêlianô đi nhóm bếp, chú thấy trong đống tro lạnh vẫn còn nguyên những thức ăn để cho Phecnanđa từ hôm trước. Aurêlianô vội ngó vào phòng và thấy Phecnanđa nằm trên giường, đắp chiếc áo khoác lông điêu thử, bà đẹp hơn bao giờ hết, và da bà trắng như ngà. Bốn tháng sau đó, khi Hôsê Accađiô trở về thì đã thấy bà bất động.
Không thể thấy ai giống mẹ hơn Hôsê Accađiô. Anh chàng mặc một bộ lễ phục bằng lụa màu đen, chiếc áo cổ tròn và cứng, và thắt một dải lụa mềm thay cà vạt. Ðó là một chàng trai xanh xao, suy nhược, ánh mắt mệt mỏi và khoé miệng yếu đuối. Mái tóc đen, bóng và mượt, được phân đôi bởi một đường ngôi thẳng tắp và trắng bệch chạy giữa đầu, giống như tóc của các thánh mà người ta thường thấy qua tranh tượng. Bóng mờ của bộ râu đã được cạo trên khuôn mặt như được làm bằng nến là dấu hiệu của người đã trưởng thành. Ðôi tay trắng nhợt với những đường gân xanh, những ngón tay như những con giun, trên ngón trỏ ở bàn tay trái có một chiếc nhẫn to bằng vàng gắn mặt đá quý. Khi mở cổng cho Hôsê Accađiô, Aurêlianô chẳng cần đoán xem là ai cũng biết rằng đây là người từ xa đến. Khi Hôsê Accađiô vào, ngôi nhà ngào ngạt mùi nước hoa mà Ucsula đã rảy lên đầu khi anh chàng còn nhỏ để bà cụ trong cảnh mịt mù có thể nhận ra thằng chút. Không thể hiểu được vì sao mà sau rất nhiều năm đi xa, Hôsê Accađiô vẫn là một chú bé già trước tuổi, buồn và cô đơn ghê gớm. Hôsê Accađiô đến thẳng phòng của mẹ anh, ở đó Aurêlianô đã làm theo cách của Menkyađêt: cho thuỷ ngân bốc hơi bốn tháng trong cái ống của cụ tổ sáu đời, để giữ gìn thi thể. Hôsê Accađiô không hỏi một điều gì. Anh chàng hôn lên trán tử thi, rồi lấy từ dưới váy ra một chiếc túi nhỏ trong có ba chiếc vòng treo tử cung chưa dùng và chiếc khoá hòm quần áo Anh ta làm tất cả những việc đó một cách dứt khoát, khác hẳn với sự mềm yếu của mình. Hôsê Accađiô lấy từ hòm quần áo ra một chiếc hộp nhỏ có nạm gia huy và trong chiếc hộp ngào ngạt hương gỗ trắc bá ấy, anh ta thấy một bức thư rất dài, ở đó Phecnanđa như rút ruột rút gan kể biết bao nhiêu sự thật mà bà đã giấu kín. Anh chàng đứng đọc lá thư ấy một cách đầy khao khát nhưng không hề băn khoăn, đến trang thứ ba thì dừng lại nhìn Aurêlianô với vẻ hơi hờ hững.
- Vậy ra, - Hôsê Accađiô nói với giọng sắc ngọt như dao cạo, - Mày là một đứa con hoang.
- Cháu là Aurêlianô Buênđya mà!
- Cút về phòng của mày đi - Hôsê Accađiô nói.
Aurêlianô về phòng và không ra khỏi đấy nữa, kể cả khi nghe thấy tiếng ồn ào của đám tang cô đơn chú cũng không vì tò mò mà bước ra. Thỉnh thoảng, từ nhà bếp Aurêlianô nhìn thấy Hôsê Accađiô đi đi lại lại quanh nhà để mà lịm đi trong nhịp thở đầy khao khát dục vọng của mình, và đến quá nửa đêm chú vẫn còn dõi theo tiếng bước của Hôsê Accađiô trong các phòng ngủ đổ nát. Trong nhiều tháng Aurêlianô không nghe thấy tiếng nói của Hôsê Accađiô, chẳng phải chỉ vì anh ta không nói với chú, mà còn vì chú chẳng muốn có chuyện gì xảy ra và chẳng muốn mất thời gian suy nghĩ về bất cứ việc gì ngoài những tấm da thuộc kia. Khi Phecnanđa chết, Aurêlianô đã lấy đến con cá vàng gần như là con cuối cùng và đã đến hiệu sách của nhà thông thái xứ Catalunha để mua những cuốn sách mà chú cần. Trên đường đi, Aurêlianô chẳng hề quan tâm tới những gì mà mắt mình nhìn thấy, có lẽ vì chú không có những ký ức về chúng để so sánh, và những con đường vắng vẻ, những ngôi nhà buồn tẻ cũng chẳng khác gì những con đường và những ngôi nhà chú đã từng tưởng tượng thấy trước đây, khi chú còn khao khát làm quen với chúng. Aurêlianô đã tự cho phép mình làm điều mà Phecnanđa cấm, đó là lần duy nhất với mục đích duy nhất và trong một khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi, chú đi một mạch qua mười một ô phố ngăn cách nhà mình với con đường mà ở đó trước đây người ta thường đoán mộng, rồi khó khăn lắm mới vào đến một nơi nhem nhuốc, tối tăm và chật chội đến mức dường như không thể xoay trở được thân mình. Ngôi nhà chẳng giống một hiệu sách mà giống như một nơi chứa rác với những cuốn sách cũ để lộn xộn trên những chiếc giá đã bị mọt, trong các xó xỉnh đầy mạng nhện, và ngay cả ở những chỗ lẽ ra là lối đi. Trên một chiếc bàn dài cũng chất đầy sách, chủ nhà đang viết một bài văn dài dằng dặc với những chữ bay bướm và hơi rối rắm trên những tờ giấy rời xé từ cuốn vở học trò. Ông ta có một mái tóc bạc rất đẹp và nhô ra trước trán, trông giống chiếc mào của con chim dẻ cùi; đôi mắt màu xanh, linh lợi và hẹp toát ra sự nhân từ của một người đã từng đọc tất cả các thứ sách. Ông ta mặc một quần cộc đẫm mồ hôi, và không ngừng viết để xem ai đến. Aurêlianô dễ dàng thấy năm cuốn sách mình cần giữa đống sách hỗn độn đó, bởi vì nó nằm đúng ở chỗ Menkyađêt đã bảo cho chú biết. Không nói một lời nào, Aurêlianô đưa cho ông già thông thái người xứ Catalunha năm cuốn ấy và con cá vàng; ông già ngắm nghía những thứ đó, đôi lông mày ông nhíu lại như hai con sâu róm.
"Có lẽ mày điên chắc", ông già vừa nói bằng ngôn ngữ địa phương của mình vừa nhún vai, rồi đưa lại cho Aurêlianô năm cuốn sách và con cá vàng.
- Hãy mang chúng đi, - ông già nói tiếng Catalan(5) - Người duy nhất đọc những cuốn sách này là cụ Isăc, Người MÙ(6). Vậy chú mày hãy nghĩ kỹ về việc mình làm.
Hôsê Accađiô sửa chữa lại phòng ngủ của Mêmê, anh sai quét dọn, sửa lại các tấm rèm cửa bằng nhung và tấm trướng gấm trước chiếc giường phó vương, và sử dụng lại phòng tắm đã bị bỏ mà cái bồn chứa nước bằng xi măng ở đó bị váng nước đặc và bẩn làm cho đen lại. Trong hai căn phòng ấy, sự cao ngạo của các loại vật dụng, của những thứ hàng ngoại lai, của các thứ nước hoa rởm và của các loại đá trang sức rẻ tiền đã giảm hẳn đi. Thứ duy nhất ở trong phần còn lại của ngôi nhà cản trở Hôsê Accađiô là những bức tượng thánh trên bàn thờ, do đó một buổi chiều anh ta đem chúng đất thành tro trên một đống lửa nhóm ở sân. Hôsê Accađiô ngủ đến quá mười một giờ. Anh chàng vào nhà tắm với một chiếc áo rộng mặc trong nhà được trang điểm bằng cách rút chỉ và thêu hình con rồng màu đỏ, đi đôi dép có đường viền màu vàng; và ở đó, vừa cầu kinh chậm rãi và kéo dài, anh ta vừa nhớ đến Rêmêđiôt - Người đẹp. Trước khi tắm, Hôsê Accađiô dùng các chất muối đựng trong ba chiếc lọ bằng đá vân vẩy thơm bồn đựng nước. Anh chàng không lấy gáo làm bằng vỏ quả bí để dội nước lên người mà lại ngâm mình trong nước thơm ngát, nằm ngửa ở đó đến hai giờ đồng hồ mơ màng với sự mát mẻ và với nỗi hoài nhớ Amaranta. Vài ngày sau khi trở về, Hôsê Accađiô đã bỏ bộ quần áo bằng lụa đen, không những vì nóng mà còn vì ở đây bộ đồ ấy chỉ mình anh ta có thôi thay vào đó anh ta mặc quần chẽn, rất giống quần của Piêtrô Crêspi mặc trong những buổi dạy khiêu vũ và chiếc áo bằng lụa tơ tằm có thêu những chữ viết tắt tên mình trên ngực. Mỗi tuần hai lần anh chàng giặt tất cả những quần áo thay ra, và trong khi chờ quần áo ấy kịp khi anh ta mặc bộ đồ rộng dùng trong nhà, vì chẳng còn bộ nào khác. Không bao giờ Hôsê Accađiô ăn ở nhà. Anh chàng đi khỏi nhà từ lúc cái nóng ban trưa bắt đầu dịu đi và khuya mới trở về. Khi ấy anh chàng tiếp tục đi đi lại lại buồn bã, thở hít như một con mèo, và nghĩ tới Amaranta. Bà ta và cái nhìn hết hoảng của cái vị thánh trong ánh sáng của ngọn đèn đêm là hai kỷ niệm còn lại trong anh chàng về ngồi nhà này. Rất nhiều lần, vào cái tháng tám kỳ lạ ở Rôm, giữa giấc mơ Hôsê Accađiô mỏ mắt trừng trừng và nhìn thấy Amaranta từ trong bể nước xây bằng đá vân chui lên, với chiếc váy mỏng và chiếc băng đen băng trên tay, bà đã được lý tưởng hoá bởi nỗi buồn khổ của kẻ sống biệt xứ. Nếu như Aurêlianô Hôsê cố gắng dìm nghẹt hình ảnh đó trong bùn máu của chiến tranh, thì ngược lại, Hôsê Accađiô lại cố gắng lưu giữ nó sống động trong bùn lầy của dực vọng, trong khi làm vui lòng bà mẹ với sự dơi trá về lòng ước muốn trở thành Giáo hoàng. Cả Hôsê Accađiô và Phecnanđa đều không bao giờ nghĩ rằng những thư từ họ viết cho nhau là sự trao đổi về những điều bịa đặt hoang đường. Hôsê Accađiô, từng bỏ lớp học chuyên đề ngay sau khi đến Rôm, vẫn tiếp tục đọc sách về thần học và luật tu hành để tránh nguy hiểm cho việc thừa kế tài sản lớn lao mà mẹ anh ta thường nói đến trong những bức thư đầy cám dỗ, và nó có thể giải thoát cho anh ta khỏi cảnh sống nghèo khó và bẩn thỉu mà anh ta đang chung đụng với hai người bạn trên một chiếc gác xép ở Tristêvêra. Khi Hôsê Accađiô nhận được lá thư cuối cùng của Phecnanđa, lá thư được viết theo dự cảm về cái chết đang đến gần, anh chàng liền nhặt những mảnh cuối cùng của đồ trang sức giả của mình bỏ vào va-li, rồi chui vào hầm một chiếc tàu thuỷ để vượt biển, tại đó những người di cư chen chúc như một lũ bò ở lò sát sinh, họ ăn mì ống và pho mát đã có giòi. Trước khi đọc bản chúc thư của Phecnanđa - bản chúc thư chỉ là một bản tóm tắt vụn vặt và muộn màng những sự bất hạnh - thì những thứ đồ đạc đã rêu rã và những đám cỏ dại ở hành lang đã chỉ cho Hôsê Accađiô biết rằng anh ta đã rơi vào một cạm bẫy không bao giờ có thể thoát ra được, đã bị đẩy ra khỏi cái vầng sáng của kim cương và bầu không khí cổ kính của mùa xuân xứ Rôm. Những lúc mất ngủ đầy mệt mỏi vì bệnh hen, Hôsê Accađiô đo đi đo lại chiều sâu nỗi bất hạnh của mình, và lục lọi ngôi nhà u tối, ở đó tiếng la hét già nua của Ucsula đã từng khiến cho Hôsê Accađiô khiếp sợ thế giới bên ngoài. Ðể chắc chắn là chú bé Hôsê Accađiô không lạc trong sự mịt mù, xưa kia cụ đã bắt chú phải ở cố định trong một góc phòng ngủ, đó là nơi duy nhất của chú, còn những người chết thì thường đi đi lại lại trong nhà từ lúc trời về chiều. "Bất cứ một việc làm xấu gì của mày các thánh cũng sẽ nói với ta", Ucsula bảo chú thế. Những đêm hãi hùng thuở ấu thơ của Hôsê Accađiô đã thu lại trong góc nhà, ở đó chú bé phải ngồi yên như bất động trên một chiếc ghế cho đến giờ đi ngủ, toát mồ hôi vì khiếp sợ, dưới cái nhìn cảnh giác và lạnh lùng của các vị thánh mách lẻo. Cái hình phạt ấy thật là vô ích, bởi vì thuở ấy Hôsê Accađiô đã sợ hãi tất cả những gì ở quanh mình và đã được chuẩn bị sẵn sàng để giật mình kinh sợ trước bất cứ cái gì sẽ gặp trong cuộc đời: những người đàn bà ngoài xã hội nếu không nghe lời cha mẹ sẽ bị băng huyết; những người đàn bà trong gia đình này nếu không cẩn thận sẽ đẻ ra những đứa con có đuối lợn, những con gà chọi đưa lại cái chết cho những người đàn ông và sự giày vò lương tâm cho những người khác; những khẩu súng mà chỉ sờ vào thôi cũng bị người ta kết án ra trận hai mươi năm; những công trình sai lệch chỉ đưa đến nỗi thất vọng và sự điên loạn, tất cả, tất cả những thứ mà Chúa trời đã sáng tạo nên với lòng từ thiện vô biên thì quỉ sứ đã làm cho hư hại. ánh sáng nơi cửa sổ cùng tiếng kỳ cọ của Amaranta ở trong bồn tắm và cảm giác thú vị do "củ khoai bằng lụa" đưa lại cứ lan lan trên đôi chân, tất cả đều đã giải thoát Hôsê Accađiô khỏi nỗi kinh hoàng từng khiến chú thẫn thờ sợ sệt khi thức dậy. Khi ấy, đến cả Ucsula cũng khác hẳn đi dưới ánh sáng rực rỡ rạng toả trên vườn, bởi vì ở đó cụ không nói với chú những chuyện khủng khiếp mà lại dùng bột than đánh bóng hàm răng cho chú để chú có nụ cười rạng rỡ của một Giáo hoàng, eắt và mài nhẵn móng tay cho chú để cho những người hành hương đến Rôm từ mọi nơi trên trái đất sẽ phải kinh ngạc trước sự thanh khiết của đôi tay Giáo hoàng khi ngài ban phước lành cho họ, và chải cho chú kiểu tóc của một Giáo hoàng, phun nước hoa vào chú để thân thể và quần áo chú toả hương thơm của một Giáo hoàng. Ở sân Castenganđônphô, Hôsê Accađiô đã nhìn thấy Giáo hoàng trên ban công khi ngài đọc một bài diễn văn bằng bảy thử tiếng trước một đám đông khách hành hương, và quả thật là Hôsê Accađiô chỉ chú ý đến màu trắng ngần trên đôi tay như được nhúng bột của Giáo hoàng, sự rực sáng của bộ áo quần mùa hè ngài mặc và mùi hương bí ẩn của thứ nước thơm ngài dùng.
Khoảng một năm sau khi trở về nhà, để có tiền ăn, Hôsê Accađiô đã bán hết những cây đèn nến bằng bạc và chiếc bô vàng có khảm gia huy mà đến phút cuối cùng anh chàng mới biết rằng thật ra chỉ có những đường khảm mới bằng vàng thôi, thì sự giải trí duy nhất của Hôsê Accađiô là tụ tập bọn trẻ trong làng lại để chơi đùa ở nhà mình. Anh chàng chơi với chúng từ trưa, bảo chúng nhảy dây ở vườn, hát ở hành lang và nhào lộn trên những chiếc ghế ở phòng khách, trong khi đó anh chàng đi đến từng nhóm dạy chung những bài học về cách cư xử tốt đẹp. Khi ấy, những chiếc quần chẽn và áo lụa chẳng còn, Hôsê Accađiô vận bộ đồ cũ xoàng xĩnh mua ở một kho của những người A-rập, nhưng anh chàng vẫn giữ vẻ trịnh trọng yếu đuối và phong thái giáo hoàng của mình. Bọn trẻ con xâm chiếm ngôi nhà giống như trước đây đám bạn gái của Mêmê từng làm. Ðến tận đêm khuya vẫn còn thấy tiếng chúng hò reo nhảy múa, khiến cho ngôi nhà giống như một nhà trẻ không có kỷ luật. Aurêlianô không bận tâm về sự xâm lấn ấy khi bọn trẻ con chưa quấy rầy đến chú ở trong phòng của Menkyađêt. Một buồi sáng hai đứa nhỏ đẩy cửa và chúng kinh ngạc khi nhìn thấy một người đàn ông bẩn thỉu, râu tóc bù xù đang dịch những tấm da thuộc trên bàn làm việc. Chúng không dám vào nhưng vẫn tiếp tục lượn quanh căn phòng, chúng lấp ló và xì xào qua những kẽ hở, ném sâu bọ vào những ô cửa sổ tròn, và có lần chúng đóng đinh vít cửa ra vào và cửa sổ, khiến cho Aurêlianô tốn nửa ngày mới mở được. Khoái trá vì những trò nghịch ngợm của mình không bị trừng trị, một buổi sáng khác bốn đứa nhỏ đã vào phòng trong khi Aurêlianô đang ở bếp, chúng quyết định phá huỷ những tấm da thuộc. Nhưng ngay khi chúng vừa mới túm lấy những tấm da ngả màu vàng ấy thì một sức mạnh thần linh đã nâng chúng lên khỏi mặt đất, giữ chúng lơ lửng trong không trung cho đến khi Aurêlianô quay trở về và giằng lại những tấm da thuộc đó. Từ ấy, bọn trẻ không còn đến quấy rầy Aurêlianô nữa.
Bốn đứa trẻ lớn nhất, những đứa vẫn còn mặc quần cộc mặc dù đã chớm bước vào tuổi thành niên, quan tâm đến dáng vẻ bên ngoài của Hôsê Accađiô. Chúng đến sớm hơn những đứa khác, dành cả buổi sáng để cạo râu, dùng khăn nóng xoa bóp, sửa sang móng tay móng chân và xức nước hoa cho anh ta. Có vài lần chúng vào bồn tắm, xát xà phòng từ chân tới đầu Hôsê Accađiô, trong khi đó anh chàng nằm ngửa trong nước nghĩ đến Amaranta. Sau đó chúng lau người, thoa phấn khắp người và mặc quần áo cho anh chàng. Trong đám trẻ ấy có một đứa tóc nâu và quăn, đôi mắt như thuỷ tinh nâu hồng giống mắt thỏi thường ngủ trong nhà. Nó gắn bó rất chặt chẽ với Hôsê Accađiô, thường ở bên cạnh anh chàng trong những đêm mất ngủ vì bệnh hen, im lặng và theo anh chàng đi đi lại lại trong ngôi nhà u tối. Một đêm, qua lớp xi măng trong, Hôsê Accađiô và đứa bé kia nhìn thấy trong phòng ngủ của Ucsula một thứ ánh sáng màu vàng, như thể mặt trời vừa từ trong lòng đất chiếu hắt ánh sáng lên đã biến nền nhà thành một tấm kính mờ. Họ không cần phải tìm tâm điểm nguồn sáng đó. Chỉ cần nâng những tấm kính vẽ hình đã vỡ ở góc nhà, nơi thường xuyên đặt chiếc giường của Ucsula và là nơi ánh sáng tập trung nhất, là thấy ngay cái hầm bí mật mà Aurêlianô Sêgunđô đã tìm kiếm khổ sở trong những cuộc đào bới phát sốt lên mà không thấy. Trong hầm có ba chiếc túi tải được chằng buộc bằng dây đồng đựng bảy ngàn hai trăm mười bốn đồng đôblông và mỗi đồng đôblông trị giá bốn đồng đôbla(7), những đồng tiền vàng ấy đang tiếp tục phát sáng như than hồng.
Việc tìm thấy kho báu giống như một cú bùng cháy vậy. Ðáng lẽ trở lại Rôm với vận may trái mùa - đó là giấc mơ ấp ủ từ lâu trong cảnh nghèo khó - thì Hôsê Accađiô lại biến ngôi nhà thành thiên đường ở mặt đất. Anh chàng thay các rèm cửa sổ và tấm trướng ở phòng ngủ bằng nhung mới, sai lát gạch nền nhà tắm và ốp gạch men màu lên các bức tường. Chiếc tủ ở phòng ăn chất đầy các loại quả ngọt, giăm bông và hoa quả ướp vang nho; căn nhà kho chứa ngũ cốc bấy lâu nay bỏ không, nay lại được mở cửa để chứa các loại rượu mà chính Hôsê Accađiô lấy ở nhà ga xe lửa, đựng trong những chiếc hộp có ghi tên anh ta. Một đêm, Hôsê Accađiô và bốn đứa trẻ lớn nhất kia mở một cuộc liên hoan kéo dài đến tận sáng. Ngay từ sáu giờ sáng chúng trần truồng ra khỏi phòng ngủ, trút hết nước trong bồn tắm và đổ đầy rượu sâm banh vào đấy. Chúng đàn đúm lặn ngụp bơi lội trong đó giống như những con chim bay trên một bầu trời màu vàng đầy những bọt bong bóng thơm ngát, trong khi Hôsê Accađiô không đùa vui với chúng mà nằm ngửa thả nổi mình, đôi mắt mở to, đang tưởng nhớ tới Amaranta. Hôsê Accađiô nằm như vậy, suy tư và nhấm nháp lại vị đắng của những thú vui lầm lỗi của thình, cho đến khi bọn trẻ đã mệt và nháo nhác ùa vào trong phòng ngủ, ở đó chúng giật những tấm rèm nhung để lau người, trong cảnh nhốn nháo chúng làm tấm gương rạn vỡ làm bốn, chen nhau ngủ làm rách cả khăn trải giường. Hôsê Accađiô từ phòng tắm trở về thì thấy chúng đang trần truồng nằm ngủ chen chúc trong căn phòng ngột ngạt. Anh ta bực bội, vì sự phá hoại của chúng thì ít mà vì cảm giác ghê tởm và thương hại đối với chính bản thân mình trong cảnh trống rỗng buồn tẻ do cuộc trác táng gây nên thì nhiều, liền túm vội lấy chiếc gậy đuổi chó của linh mục vẫn để ở dưới đáy hòm cùng những công cụ trừng phạt khoe mà giáo hội vẫn dùng, rồi đuổi chúng ra khỏi nhà, anh ta la hét như điên và quất vào chúng không thương xót. Hôsê Accađiô suy sụp vì một cơn hen kéo dài hàng mấy ngày, và trông như người hấp hối. Ðến đêm thứ ba, vì không chịu nổi sự tức thở, Hôsê Accađiô đành tới phòng Aurêlianô nhờ đến một hiệu thuốc gần đấy mua giúp một ít thuốc bột để về xông đường hô hấp. Thế là Aurêlianô ra khỏi nhà lần thứ hai. Chú chỉ cần qua hai ô phố là đã đến một hiệu thuốc có những tủ kính đầy bụi bặm đựng những lọ sành nhãn ghi tên thuốc bằng tiếng Latinh; ở đó, một cô gái có sắc đẹp bí ẩn của một con rắn vùng sông Nin, bán cho chú thứ thuốc mà Hôsê Accađiô đã ghi trên giấy. Lần thứ hai nhìn thấy phố xá hoang vắng, lúc này đang nằm trong ánh sáng vàng vọt của những ngọn đèn đường, Aurêlianô cũng chẳng tò mò hơn lần trước. Khi Hôsê Accađiô tưởng rằng Aurêlianô đã trốn đi mất rồi thì thấy chú trở về, lúc ấy Aurêlianô hơi tức thở một chút vì vội vàng, vì cố lê đôi chân mềm yếu và chậm chạp do bị tù túng và thiếu hoạt động. Thái độ dửng dưng với thế giới bên ngoài của chú được thể hiện quá rõ ràng cho nên sau đó vài ngày, khi Hôsê Accađiô không thực hiện lời hứa với mẹ mình, đã cho phép Aurêlianô tự do đi đến nơi mà chú muốn, Aurêlianô đã trả lời:
- Cháu chẳng có việc gì làm ở ngoài đường cả.
Aurêlianô tiếp tục tự giam mình trong phòng và vùi đầu vào những tấm da thuộc, dần dần chú đọc được những điều ghi trên đó nhưng vẫn chưa diễn giải được nội dung của chúng. Hôsê Accađiô mang đến phòng cho Aurêlianô những lát giăm bông và những hoa trái ngọt ngào để lại trên miệng dư vị của mùa xuân, và có hai lần còn cho cả rượu ngon nữa. Hôsê Accađiô không quan tâm đến những tấm da thuộc mà anh ta coi là một trò tiêu khiển bí ẩn, nhưng lại chú ý đến sự thông thái kỳ lạ và kiến thức về thế giới không hiểu vì sao có được ở thằng cháu ưu sầu ấy của mình. Anh ta biết rằng Aurêlianô có khả năng đọc được tiếng Anh và trong khi nghiên cứu những tấm da thuộc Aurêlianô còn đọc từ đầu chí cuối sáu tập bách khoa toàn thư như đọc tiểu thuyết. Thoạt đẩu anh ta cho là như vậy khi thấy Aurêlianô có thể nói về Rôm như là đã từng sống ở đó nhiều năm, nhưng ngay sau đó anh ta biết rằng Aurêlianô còn biết nhiều thứ không có trong bách khoa toàn thư, ví dụ như giá hàng chẳng hạn. "Người ta biết tất", đó là câu trả lời duy nhất của Aurêlianô khi Hôsê Accađiô hỏi chú rằng làm thế nào mà có được hiểu biết đó. Về phần mình, Aurêlianô ngạc nhiên vì thấy khi nhìn gần Hôsê Accađiô rất khác với hình ảnh mà mình ghi nhận khi nhìn anh ta đi đi lại lại trong nhà: Hôsê Accađiô là người có thể cười, thỉnh thoảng có thể tự cho phép mình nuối tiếc quá khứ của gia đình, và có thể băn khoăn về cảnh nghèo nàn trong căn phòng của Menkyađêt. Việc nhích lại gần nhau ấy giữa hai người cô đơn cùng dòng máu còn xa mới đạt đến một tình hữu nghị, nhưng nó cho phép họ chịu đựng được nỗi cô đơn sâu lắng không thể nào đo, nỗi cô đơn ấy vừa làm cho họ xa nhau vừa làm cho họ gần nhau. Khi ấy, Hôsê Accađiô có thể nhờ Aurêlianô giải quyết giúp những khó khăn nhất định trong những việc nhà mỗi ngày một nặng nề thêm. Aurêlianô thì đã có thể ngồi đọc ở ngoài hành lang, nhận những bức thư thường xuyên đến đúng hạn của Amaranta Ucsula và có thể sử dụng cái phòng tắm mà khi mới về Hôsê Accađiô đã không cho chú bén mảng tới. Một sớm nóng nực cả hai người bị đánh thức bởi những tiếng gõ cổng khẩn cấp. Người đến nhà là một ông già đen đủi có đôi mắt to và xanh đem lại cho gương mặt ông ta một thứ ánh lân tinh ma quái, trên trán in hình chữ thập tro thánh. Bộ quần áo mạt hạng, đôi giày rách, chiếc ba lô eũ đeo trên vai là hành trang duy nhất, những thử đó khiến ông ta có vẻ một người hành khất, nhưng tư thế của ông ta lại đĩnh đạc khác hẳn với cái vẻ ngoài ấy. Chỉ cần nhìn qua ông ta một lần, dù là ở trong phòng khách tối mờ, cũng đủ nhận biết rằng sức mạnh huyền bí đã cho phép ông ta sống được không phải là bản năng sinh tồn mà là thói quen sợ sệt. Ðó là Aurêlianô Buênđya Amađô, người duy nhất trong số mười bảy người con của đại tá Aurêlianô Buênđya còn sống sót, đang đi tìm một chút nghỉ ngơi trong cuộc sống trốn tránh rất dài và đắy mạo hiểm của mình. Ông ta tự giới thiệu rồi cầu xin cho phép ẩn nấu trong ngôi nhà này, ngôi nhà mà trong những đêm khốn khổ ông ta vẫn hằng nghĩ tới và coi là nơi trú ẩn an toàn cuối cùng còn lại trong đời mình. Nhưng Hôsê Accađiô và Aurêlianô không nhận ra ông ta. Họ nghĩ rằng ông ta là một kẻ du thủ du thực nên đã đẩy ông ta ra đường. Ðến lúc ấy, từ cổng hai người chửng kiến cái cảnh chót của tấn thảm kịch mở màn từ trước khi Hôsê Accađiô biết nhận xét. Hai nhân viên cảnh sát, từng truy nã Aurêlianô Amađô trong nhiều năm và như chó bám theo ông khắp nửa trái đất, bỗng nhô lên giữa đám những cây hạnh đào phía hàng rào đối diện, bắn ông hai phát súng mô de, đạn xuyên thẳng vào dấu chú thập tro thánh.
Thực ra, từ khi đuổi bọn trẻ con khỏi nhà, Hôsê Accađiô thường đợi tin tức về một con tàu vượt Ðại Tây Dương sẽ rời bến trước lễ Noen để đi Napôlet. Hôsê Accađiô đã nói với Aurêlianô điều đó, anh ta còn vạch kế hoạch để Aurêlianô tiến hành một cuộc kinh doanh lấy tiền sinh sống, vì từ sau đám tang Phecnanđa những chiếc làn thực phẩm không được chuyển tới nữa. Nhưng, cái giấc mơ cuối cùng ấy của Hôsê Accađiô cũng không được thực hiện. Một buổi sáng tháng chín, sau khi uống cà phê với Aurêlianô ở nhà bếp, Hôsê Accađiô đi tắm theo lệ thường và khi anh ta sắp tắm xong, thì bốn đứa trẻ đã bị đuổi ra khỏi nhà bỗng ập vào theo lối những lỗ hổng trên mái ngói. Không để cho Hôsê Accađíô có thời gian tự vệ, chúng mặc nguyên cả quần áo nhảy vào bốn tắm, túm tóc và dìm đầu anh ta xuống nước, cho tới khi trên mặt nước không còn nổi lên một chút bọt nào của hơi thở hấp hối nữa, tấm thân như cá heo của Hôsê Accađiô bất động và tái nhợt nằm duỗi dài dưới đáy nước thơm. Sau đó chúng mang đi ba túi tiền vàng mà chỉ có chúng và nạn nhân của chúng mới biết nơi cất giấu. Ðó là một việc làm nhanh chóng, có phương pháp và tàn bạo, giống như một cuộc tấn công của những nhà quân sự. Aurêlianô ở trong phòng kín nên không hay biết gì. Buổi chiều hôm ấy, khi ở bếp, Aurêlianô nhớ Hôsê Accađiô nên đi tìm anh ta khắp nhà và thấy anh ta nổi trên mặt nước thơm trong bồn tắm, đã trương phềnh, nhưng lòng vẫn còn nghĩ đến Amaranta. Ðến lúc ấy Aurêlianô mới biết mình đã bắt đầu yêu mến anh ta như thế nào.
Chú thích:
(1) Tiếng Anh, "Giáo trình cơ sở về tiếng Phạn.
(2) Tập anh hùng ca gồm 20 chương của Torcualô Tatsô (1575-?)
(3) Mintôn (1608-1674) nhà thơ và nhà viết kịch người Anh. Một trong những tác phẩm nối tiếng của ông là tập anh hùng ca mang nội dung tôn giáo Thiên đường đã mất, viết về sự ra đời và sự suy vong của nhân loại. Ông bị mù từ năm 1652. Tác phẩm trên được ông đọc để vợ và các con gái ghi chép lại.
(4) Thánh Piôtr là vị thánh tông đồ số một của Chúa Giêsu. Sinh khoảng năm thứ 10 trước Công nguyên và mất khoảng năm 67 sau Công nguyên, dưới triều đại Nerô. Trên khu đất mai táng ông người ta đã xây dựng thánh đường Vaticăng. Ngày lễ. 29 tháng 6.
(5) Một thứ tiếng địa phương được dùng ở Catulut, thuộc Tây Ban Nha.
(6) Nhân vật trong Cựu ước, là con của Abraham và Sara và là cha của Jabơ.
(7) đôblông và đôbla: tiền vàng Tây Ban Nha từ thời Trung cổ.
Chúc các bạn online vui vẻ !