Tiểu thuyết tình yêu

Tiểu Thuyết Tình Yêu

Đọc truyện tại Tiểu Thuyết Tình Yêu

Loading...

Tiểu thuyết - Trước ngày em đến - Trang 1

Full | Tiếp trang 2

MỞ ĐẦU

2007

Khi anh chui ra khỏi phòng tắm thì cô dậy rồi, cô đang chống tay lên gối và giở phần phật những cuốn sách bướm du lịch đặt bên cạnh giường anh. Mặc một chiếc áo phông của anh, mái tóc dài rối bời của cô tự nhiên gợi ra những ý nghĩ về đêm trước. Anh đứng đó, vừa tận hưởng khoảnh khắc hồi tưởng ngắn ngủi ấy vừa lau nước trên tóc bằng khăn tắm.

Cô ngẩng lên khỏi một cuốn sách bướm và bĩu môi. Có lẽ cô đã hơi quá tuổi làm trò bĩu môi, nhưng vì họ đi chơi với nhau chưa được bao lâu nên cái bĩu môi ấy vẫn thật dễ thương.

“Thực sự chúng ta phải làm gì đó dính dáng tới leo núi hay trườn vách núi sao? Đây là kỳ nghỉ đúng nghĩa đầu tiên cùng nhau của chúng ta, thế mà thật tình trong mấy cuốn sách bướm này chẳng có hành trình nào không buộc ta phải quăng quật bản thân hoặc -” cô vờ nhún vai “- mặc áo nỉ.”

Cô liệng xấp sách bướm xuống giường, duỗi đôi cánh tay màu caramel qua đầu. Giọng cô khàn khàn, kết quả của những giờ họ thiếu ngủ. “Một chuyến nghỉ dưỡng hạng sang ở Bali thì sao? Chúng ta có thể nằm trên cát… dành nhiều giờ chăm sóc toàn thân… nhiều đêm dài thư giãn…”

“Đi nghỉ kiểu ấy thì anh xin kiếu. Anh cần phải làm gì đó.” “Như kiểu quẳng mình ra khỏi máy bay ấy hả?”

“Em thử trò đó đi đã rồi hẵng phê phán chứ.”

Cô làm mặt xấu. “Nếu anh không phiền thì phải nói là em sẽ vẫn cứ chỉ trích nó.”

Áo sơ mi của anh hơi dính vào làn da ẩm. Anh vừa chải tóc vừa bật điện thoại, rồi nhăn mặt khi thấy danh sách tin nhắn lập tức lũ lượt hiện ra trên màn hình nhỏ bé.

“Tốt thôi,” anh nói. “Anh phải đi đây. Tự lo bữa sáng nhé.” Anh vươn người tới giường để hôn cô. Mùi cơ thể cô thật ấm, thật thơm và vô cùng gợi cảm. Anh hít vào hương tóc cô, và trong một thoáng ngẩn cả người khi cô vòng tay quanh cổ kéo anh xuống giường.

“Cuối tuần này chúng ta vẫn đi chơi xa đấy chứ?”

Anh miễn cưỡng chui ra khỏi vòng tay cô. “Tùy xem hợp đồng này thế nào. Giờ thì tất cả còn hơi mông lung. Vẫn có khả năng anh sẽ phải ở New York. Nhưng mà thứ Năm tới chỗ nào đẹp ăn tối nhé? Em chọn nhà hàng đi.” Bộ đồ da mặc chạy xe máy của anh treo sau cánh cửa, anh với tay lấy xuống.

Cô nheo mắt. “Ăn tối. Có hay không có Mr BlackBerry đây?” “Gì cơ?”

“Mr BlackBerry khiến em thấy mình giống Miss Gooseberry(1).” Cô lại bĩu môi. “Em cảm thấy luôn có người thứ ba tranh giành sự chú ý của anh.” “Anh sẽ chuyển điện thoại sang chế độ im lặng.”

“Will Traynor!” cô la lên. “Cũng phải có lúc anh tắt điện thoại chứ.” “Không phải tối qua anh tắt máy đó sao?”

“Đó là vì anh bị câu thúc thôi.”

Anh cười nhăn nhở. “Từ nay chúng ta gọi nó như thế nhé.” Anh mặc bộ đồ da vào. Và hình ảnh Lissa đeo bám trong trí tưởng tượng của anh cuối cùng cũng tan biến. Anh vắt chiếc jacket chạy xe qua cánh tay, rồi hôn gió cô khi đi ra. Một rắc rối về luật pháp. Anh đi thang máy xuống tầng hầm để xe, cố cập nhật cho mình những sự kiện tối qua.

“Chào buổi sáng, ngài Traynor.”

Ông bảo vệ bước ra khỏi phòng trực. Căn phòng được xây kín đáo để tránh mưa nắng, dù ở dưới này chẳng lấy đâu ra mưa nắng mà tránh. Đợi khi Will tự hỏi không biết ông ta làm gì ở dưới này lúc trời còn mờ đất như thế, gí mắt vào chiếc camera quan sát và thanh ba-đờ-xốc láng coóng của những chiếc xe con giá 60.000 bảng không bao giờ nhem bẩn.

Anh xốc chiếc jacket da vào người. “Ngoài trời thế nào Mick?” “Tệ cắm. Mưa như xối.”

Will dừng bước. “Thật sao? Trời không ủng hộ chạy xe máy à?”

Mick lắc đầu. “Không đâu thưa ngài. Trừ phi ngài có áo phao. Hoặc muốn chết.”

Will nhìn chằm chằm vào chiếc xe, rồi cởi bộ đồ da ra. Lissa nghĩ gì thì nghĩ, anh không phải kiểu người thích làm những trò liều lĩnh vô bổ. Anh mở hộp đựng đồ trên xe rồi bỏ bộ đồ da vào, khóa hộp lại rồi thảy chìa khóa cho Mick, ông tóm gọn nó bằng một tay. “Tra chìa khóa vào cửa nhà tôi được không?”

“Được chứ. Ngài muốn tôi gọi taxi cho ngài không?” “Không đâu. Nhúng ướt cả hai chúng ta để làm gì chứ.”

Mick ấn nút mở cửa lưới tự động và Will bước ra, vẫy tay tỏ ý cảm ơn. Bình minh quanh anh mờ tối và ì ầm sấm động, giao thông khu Trung tâm London đã đông đúc và chậm chạp dù lúc này mới bảy rưỡi. Anh dựng cổ áo ôm quanh cổ, sải bước xuống đường đi tới ga đầu mối, ở đó rất có khả năng anh sẽ đón được taxi. Đường mưa trơn trượt, ánh sáng bàng bạc tỏa trên vỉa hè loang loáng.

Anh thầm nguyền rủa trong khi dò xét những người mặc com-lê đứng bên lề đường. Từ bao giờ mà toàn thể London bắt đầu dậy sớm tới thế? Ai ai cũng có chung cái ý tưởng ấy.

Anh đang nghĩ xem mình đứng chỗ nào là tốt nhất thì điện thoại reo. Rupert gọi.

“Tớ đang trên đường tới. Đang cố bắt taxi đây.” Thoáng thấy bóng một chiếc taxi có đèn tín hiệu màu cam lướt tới, anh rảo bước về phía nó, thầm hy vọng không ai khác nhìn thấy. Một chiếc xe buýt rầm rầm lao qua, nối đuôi là chiếc xe tải có bộ phanh kêu ken két khiến anh chẳng nghe thấy Rupert nói gì. “Không nghe ra cậu nói gì cả, Rupe,” anh hét át tiếng ồn xe cộ. “Cậu nói lại đi.” Trong một thoáng không gian lặng lẽ như trên đảo hoang, xe cộ lướt qua như luồng gió, anh có thể nhìn thấy rõ chiếc đèn màu cam tỏa sáng, thế là anh giơ bàn tay còn rảnh lên, hy vọng người lái xe có thể nhìn thấy mình qua màn mưa dày đặc.

“Cậu phải gọi cho Jeff bên New York đi. Ông ấy vẫn đang thức chờ cậu đấy.

Tối qua bọn tớ đã ra sức liên lạc với cậu.” “Có chuyện gì vậy?”

“Vướng mắc pháp luật. Hai điều khoản người ta đang tạm ngừng… chữ ký… giấy tờ…” Giọng Rupert bạt đi vì một chiếc xe con lướt qua, lốp xe xào xạo trong nước.

“Tớ chẳng nghe gì cả.”

Chiếc taxi đã trông thấy anh. Nó chạy chậm lại, bắn tung một vạt nước lớn trong khi lừ đừ lăn bánh bên kia đường. Anh để ý thấy người đàn ông mặc quần đùi thể thao ở phía xa thất vọng đi chậm lại khi nhận ra chắc hẳn Will sẽ tới được chiếc taxi trước anh ta. Will thầm có cảm giác chiến thắng. “Nghe này, bảo Cally để sẵn giấy tờ trên bàn tớ nhé,” anh gào lên. “Mười phút nữa tớ có mặt.”

Anh liếc nhìn cả hai bên rồi cắm đầu chạy mấy bước cuối băng qua đường tới chỗ chiếc taxi, từ “Blackfriars” đã ở sẵn trên môi. Mưa luồn xuống qua khe hở giữa cổ áo và thân áo anh. Thể nào khi tới được văn phòng anh cũng đã ướt như chuột lột, dù chỉ đi bộ một quãng ngắn thế này. Có thể anh sẽ phải bảo thư ký ra ngoài kiếm cho anh một chiếc sơ-mi khác.

“Và chúng ta cần giải quyết xong hoạt động đánh giá với trách nhiệm cao nhất này trước khi Martin tới…”

Anh liếc nhìn về phía âm thanh chói tai, một tiếng còi dữ dội. Anh thấy hông chiếc taxi đen bóng ngay trước mặt mình, tay tài xế đã hạ cửa kính xuống, và từ khóe mắt anh thấy một thứ chưa rõ là gì, một thứ đang lao về phía anh với tốc độ kinh hoàng.

Anh quay về phía nó, và trong một phần nghìn giây ấy anh nhận ra rằng anh đang ở trong đường chạy của nó, rằng anh không có cách nào thoát ra khỏi đường chạy của nó. Bàn tay anh bất thần xòe ra, làm chiếc Blackberry rơi xuống đất. Anh nghe thấy một tiếng hét, có thể đó là tiếng của chính anh. Thứ cuối cùng anh nhìn thấy là một chiếc găng tay da, một gương mặt dưới mũ bảo hiểm, nỗi bàng hoàng trong đôi mắt của người đàn ông ấy phản chiếu nỗi bàng hoàng của chính anh. Có một tiếng nổ khi mọi thứ vỡ tan tành.

Rồi chẳng còn lại gì.

CHƯƠNG 1

2009

B ến xe buýt cách nhà 158 bước chân, nhưng có thể kéo ra thành 180 bước nếu không rảo cẳng, ví như phải lúc đang đi giày đế bục chẳng hạn. Hoặc khi đi đôi giày mua từ một cửa hàng từ thiện, đôi giày có nơ bướm trên ngón chân nhưng không ôm gót, thế nên chẳng lạ khi nó hạ xuống chỉ còn 1.99 bảng. Tôi rẽ qua góc vào đường nhà chúng tôi (68 bước) thì thấy ngay ngôi nhà – một căn nhà liên kế bốn phòng ngủ nằm trong dãy những căn nhà liên kế có ba đến bốn phòng ngủ. Xe của bố vẫn ở bên ngoài, thế có nghĩa là bố vẫn chưa đi làm.

Sau lưng tôi, mặt trời cấp ló sau Lâu dài Stortfold, bóng tòa lâu đài đổ dài như sáp chảy xuống phủ chụp đấy tôi. Khi tôi còn nhỏ, cha con tôi thường chơi trò đấu súng với cái bóng dài ngoằng của chính mình, con đường chạy trước nhà là đấu trường O. K. Corral. Nếu phải ngày khác, có lẽ tôi đã kể cho bạn nghe bao chuyện từng xảy ra với tôi trên tuyến đường này: nơi bố dạy tôi đi xe đạp mà không có bánh phụ; nơi bà Doherty có mái tóc giả rẽ ngôi lệch thường làm bánh kiểu xứ Wales cho chúng tôi; nơi mà năm mười một tuổi, Treena thọc tay vào bờ rào quậy một tổ ong vò vẽ để rồi chúng tôi vừa chạy vừa la hò ầm ĩ suốt dọc đường trở lại lâu đài.

Chiếc xe đạp bát bánh của Thomas nằm chổng vó trên con đường, thế nên khi đã khép cổng lại sau lưng, tôi kéo nó vào dưới thềm rồi mở cửa nhà. Khí ấm ùa vào tôi như một túi khí bung ra; mẹ rất sợ cái lạnh nên luôn giữ nhà ấm áp quanh năm. Bố thì luôn mở cửa sổ, phàn nàn rằng mẹ tiêu phí bao nhiêu tiền của gia đình. Ông nói tiền sưởi nhà tôi còn cao hơn GDP của một đất nước be bé ở châu Phi.

“Con đó à, con yêu?”

“Vâng ạ.” Tôi treo áo khoác lên móc, phải chật vật lắm mới kiếm được chỗ cho nó giữa đống quần áo khác.

“Mà đứa nào đấy nhỉ? Lou à? Hay Treena?” “Lou ạ.”

Tôi ngó quanh cửa phòng khách. Bố tôi úp mặt lên sofa, cánh tay ông chọc sâu vào giữa đống gối nệm, như thể chúng đã nuốt gọn cả cánh tay ông. Thomas, thằng cháu lên năm của tôi, đang ngồi trên mông ông, chăm chú ngắm nhìn ông.

“Hãng đồ chơi Leo.” Bố ngoảnh bên nhìn tôi, mặt nhăn nhúm vì nỗ lực. “Sao người ta phải làm những mảnh nhỏ thế này bố cũng chẳng biết nữa. Con có thấy cánh tay trái của Obi-Wan Kenobi không?”

“Nó nằm trên đầu đĩa DVD đấy ạ. Con nghĩ thằng bé đã đổi hai cánh tay của Obi với hai cánh tay của Indiana Jones.”

“À, có vẻ như giờ Obi không thể nào mang cánh tay màu be được nữa. Chúng ta phải có cánh tay màu đen.”

“Chuyện đó thì có gì đáng lo đâu bố. Chẳng phải ở tập hai Darth Vader chặt đứt cánh tay của Obi sao?” Tôi chỉ vào má mình để bảo Thomas hôn. “Mẹ đâu bố?”

“Trên lầu. Thế thì sao chứ? Một mảnh ghép hai bảng đấy!”

Tôi ngước lên, chỉ nghe được tiếng lách cách của cầu ủi. Mẹ tôi, Josie Clark, không bao giờ ngồi không. Đó là một chuyện để tự hào. Điển hình nhất là cảnh bà đứng trên cái thang ngoài trời để sơn cửa sổ, thỉnh thoảng lại ngừng lại, vẫy vẫy tay, trong khi cả nhà chúng tôi đang ăn đồ nướng.

“Con có cầm cái cánh tay chết tiệt này cho bố được không? Thằng bé bắt bố tìm nửa tiếng rồi, mà giờ bố phải chuẩn bị đi làm.” “Bố phải làm đêm à?”

“Ừ. Năm rưỡi.”

Tôi liếc nhìn đồng hồ. “Thật ra mới bốn rưỡi mà.”

Ông rút cánh tay ra khỏi đống gối rồi xem đồng hồ. “Thế con làm gì ở nhà lúc còn sớm thế này?”

Tôi khe khẽ lắc đầu, như thể mình không hiểu được câu hỏi ấy, rồi đi vào bếp.

Ông ngoại đang ngồi trên chiếc ghế quen thuộc bên cửa sổ gian bếp, nghiên cứu một bảng giải ô số. Bác sĩ thăm bệnh tại nhà đã nói với chúng tôi rằng trò đó tốt cho tính tập trung của ông, giúp ông dễ tập trung hơn sau khi bị tai biến. Tôi ngờ rằng mình là người duy nhất để ý thấy ông chỉ điền bừa vào tất cả các ô trống bất kể con số nào ngẫu nhiên xuất hiện trong đầu.

“Chào ông.”

Ông ngước lên mỉm cười. “Ông muốn uống trà không ạ?” Ông lắc đầu, hơi mở miệng. “Nước mát nhé?”

Ông gật đầu.

Tôi mở cửa tủ lạnh. “Không có nước táo rồi.” Tôi sực nhớ ra nước táo quá đắt. “Nước ngọt Ribena nhé?”

Ông lắc đầu. “Nước lọc?”

Ông gật đầu, lẩm bẩm gì đó nghe như cảm ơn khi tôi đưa ly nước cho ông.

Mẹ tôi đi vào bếp, bưng một giỏ bự đựng đồ mới giặt được gấp gọn gàng.

Mẹ tôi huơ huơ một đôi tất. “Của con à?”

“Chắc là của Treena đấy.”

“Thế mà mẹ cứ tưởng. Màu mè gì mà kỳ cục. Mẹ nghĩ đôi này đi tông với bộ pyjama màu mận chín của bố con. Con về sớm thế. Định đi đâu à?” “Không ạ.” Tôi vặn vòi hứng một ly nước đầy rồi uống.

“Chốc nữa Patrick có tới không? Ban nãy nó gọi đấy. Con tắt điện thoại à?” “Ừm.”

“Nó nói nó đặt xong chỗ cho kỳ nghỉ của hai đứa rồi. Bố con nói ông ấy có nghe về chỗ đó trên ti-vi. Chỗ bọn con thích nằm ở đâu ấy nhỉ? Ipsos? Kalypsos?”

“Skiathos.”

“Đúng là nó rồi. Con phải kiểm tra lại khách sạn thật cẩn thận nhé. Kiểm tra qua internet ấy. Lúc trưa khi đang ăn, bố con và ông ngoại xem thấy gì đó trên bản tin. Hình như người ta đang xây mấy tòa nhà, nửa số ngân sách được duyệt rồi đấy, chưa tới tận nơi thì con chưa biết chắc được gì đâu. Bố ơi, bố uống trà không ạ? Lou không mời bố à?” Mẹ tôi bật ấm nước lên rồi liếc nhìn tôi. Có lẽ cuối cùng bà cũng nhận ra nãy giờ tôi chưa nói gì. “Con ổn cả chứ con yêu? Trông con nhợt nhạt kinh khủng.”

Bà đưa tay kiểm tra trán tôi, như thể tôi còn bé bỏng lắm chứ không phải đã hai sáu tuổi.

“Con không nghĩ bọn con sẽ đi nghỉ đâu.”

Tay mẹ tôi khựng lại. Ánh mắt bà vẫn chứa cái vẻ thấu hiểu vốn có từ thời tôi còn thơ dại. “Con với Pat đang trục trặc à?”

“Mẹ à, con…”

“Mẹ không định can thiệp đâu. Chỉ có điều hai đứa đã bên nhau lâu lắm rồi. Cũng tự nhiên thôi nếu đôi khi mọi chuyện trở nên hơi bế tắc. Ý mẹ là, mẹ với bố con, bố mẹ…”

“Con mất việc rồi.”

Giọng tôi khiến cả không gian lặng như tờ. Những từ ấy cứ treo lơ lửng ở đó, rất lâu sau khi âm thanh đã tắt ngấm chúng mới chịu tự mình biến đi. “Con làm sao cơ?”

“Frank đóng cửa quán cà-phê. Từ ngày mai.” Tôi giơ ra chiếc phong bì hơi ẩm do tôi đã quá hoang mang mà siết chặt trên suốt đường về nhà. Suốt 180 bước chân từ bến xe buýt. “Ông ấy đưa con ba tháng lương.”

Hôm nay cũng bắt đầu như bao ngày khác. Ai ai tôi biết cũng đều chẳng ưa gì sáng thứ Hai, nhưng với tôi thì không thành vấn đề. Tôi luôn thích đến quán Bánh Bơ thật sớm, đỏ lửa đun bình trà to đùng để trong góc, bưng mấy thùng đựng sữa và bánh mì từ sân sau vào trong, và trò chuyện với Frank trong lúc chúng tôi chuẩn bị mở cửa tiệm.

Tôi thích hơi ấm nồng hương thịt xông khói của quán cà-phê, luồng khí lạnh khẽ ùa vào khi cửa mở ra khép lại, tiếng trò chuyện rì rầm, và khi không gian yên lặng thì có tiếng cái đài của Frank một mình ngân nga nho nhỏ trong góc. Cái quán này không phải một nơi thời thượng – tường vẫn dán tranh phong cảnh tòa lâu đài trên đồi, mặt bàn vẫn đóng phoóc-mi-ca, thực đơn chẳng thay đổi gì kể từ ngày tôi vào làm, ngoài vài thay đổi ở mục lựa chọn thanh sô-cô-la và mục bánh sô-cô-la và bánh xốp ăn kèm với bánh kem.

Nhưng điều quan trọng nhất là tôi rất yêu mến khách. Tôi thích Kev và Angelo, thợ sửa ống nước, hầu như sáng nào cũng đến và trêu chọc Frank rằng không biết người ông lấy ở đâu ra lắm thịt thế. Tôi thích Quý bà Bồ công anh, biệt danh đặt cho mái tóc trắng lạ kỳ của bà cụ, sáng thứ Hai cho tới sáng thứ Năm nào cụ cũng ăn một trái trứng và khoai tây chiên, ngồi đọc báo miễn phí của tiệm, và uống một mạch hai tách trà. Tôi luôn cố trò chuyện với cụ. Tôi ngờ đó là cuộc trò chuyện duy nhất trong suốt ngày dài của cụ.

Tôi thích khách du lịch, những người dừng chân trên hành trình lên xuống tòa lâu đài, thích lũ học trò ồn ào chí chóe ghé qua sau buổi tan trường, thích khách quen từ công sở dọc con đường, thích hai cô thợ làm đầu Nina và Cherie biết số ca-lo của từng món mà Bánh Bơ đưa ra. Ngay cả những vị khách khó tính nhất, như cô nàng tóc đỏ chủ quán đồ chơi tuần nào cũng cự cãi chuyện tiền thừa ít nhất một lần, cũng không khiến tôi phiền lòng.

Tôi quan sát những tình yêu chớm nở rồi tàn bên những chiếc bàn ở đó, lũ trẻ chuyền qua đổi lại giữa những cặp đôi đã ly hôn, cảm giác được giải thoát dù trong lòng vẫn thấy có lỗi của những ông bố bà mẹ lười nấu ăn, và niềm vui sướng âm thầm của những người sống bằng tiền trợ cấp bên bữa điểm tâm toàn đồ chiên. Bao nhiêu kiểu người ghé qua đây, hầu hết đều chia sẻ vài lời với tôi, pha hài hoặc bình luận qua những tách trà nghi ngút khói. Bố luôn nói ông chẳng tài nào biết được lần tiếp theo tôi sẽ nói cái gì, nhưng trong quán cà phê thì chuyện đó đâu thành vấn đề.

Frank quý tôi. Tính ông trầm lặng, thế nên ông bảo có tôi ở đó làm cho quán sôi động hẳn lên. Công việc này hơi giống phục vụ quán bar, nhưng không có tiếng cãi lộn ầm ĩ của những kẻ say.

Thế rồi buổi chiều hôm đó, sau khi bữa trưa bận rộn kết thúc, khi quán ăn vắng lặng trong chốc lát, Frank lau tay vào tạp dề, rồi bước từ sau lò sưởi tới quay tấm bảng nhỏ có đề chữ Đóng cửa ngoảnh mặt ra đường.

“Nào nào, Frank, cháu bảo với chú rồi mà. Giờ làm thêm không tính vào lương tối thiểu đâu.” Nói theo cách của bố tôi thì Frank lạ lùng như một con linh dương đầu bò. Tôi ngước nhìn lên. Ông không mỉm cười.

“Ôi. Cháu lại cho muối vào hũ đường phải không ạ?”

Ông vặn vẹo chiếc khăn mù-soa giữa hai bàn tay, trông ông bối rối hơn bao giờ hết. Trong một thoáng tôi tự hỏi không biết có phải có vị khách nào phàn nàn về tôi. Thế rồi ông bảo tôi ngồi xuống.

“Xin lỗi, Louisa,” ông nói tiếp. “Nhưng chú sắp trở lại Úc. Sức khỏe bố chú không tốt lắm, mà có vẻ như tòa lâu đài cũng đang bắt đầu những ngày an dưỡng của chính nó rồi. Thời khắc suy tàn sắp đến.”

Tôi nghĩ khi ấy tôi đã ngồi đơ ra với cái miệng há hốc. Rồi Frank đưa cho tôi chiếc phong bì, và trả lời câu tôi toan hỏi thước khi nó kịp thoát khỏi môi tôi. “Chú biết chúng ta chưa bao giờ ký hợp đồng chính thức hay gì cả, nhưng chú muốn chăm sóc cháu. Trong đó là ba tháng lương. Từ mai chúng ta đóng cửa.”

“Ba tháng!” bố tôi la toáng lên, trong khi mẹ tôi dúi một tách trà ngọt vào tay tôi. “Ôi chao, ông ta mới phóng khoáng làm sao, vì con bé đã làm việc như trâu như ngựa ở đó suốt sáu năm liền cơ mà.”

“Bernard.” Mẹ tôi ném cho bố một cái nhìn cảnh cáo, rồi gật đầu với Thomas. Bố mẹ tôi chăm sóc thằng bé sau mỗi chiều tan học cho tới khi Treena xong việc.

“Giờ thì con bé phải làm việc gì đây hả trời? Đáng lẽ ông ta phải cho nó hơn

một ngày chuẩn bị sau cái thông báo chết toi đó chứ.” “Ờ thì… con bé đi tìm việc khác là được chứ sao.”

“Chẳng có việc cóc khô nào cả, Josie. Em biết rõ không thua gì anh mà.

Chúng ta đang trong một cuộc khủng hoảng tồi tệ.”

Mẹ nhắm mắt lại một chốc, như thể để tự trấn an bản thân, rồi nói tiếp. “Nó là đứa thông minh sáng láng. Nó sẽ tìm được cho mình việc gì đó. Nó có hồ sơ lao động đáng tin cậy phải không nào? Frank sẽ nói tốt cho con bé.”

“Ôi tuyệt làm sao… ‘Louisa Clark rất giỏi phủ bơ cho bánh mì nướng, và có tài xoay xở với bình trà cũ rích.'”

“Cảm ơn vì sự khích lệ của bố.” “Bố chỉ nói thế thôi.”

Tôi biết nguyên nhân sâu xa sự căng thẳng của bố. Bố mẹ sống dựa vào đồng lương của tôi. Treena chẳng kiếm được là bao từ cửa hàng hoa. Mẹ không làm được gì vì bà còn phải chăm sóc ông ngoại, và tiền trợ cấp của ông ngoại cũng không đáng kể. Bố sống trong trạng thái lo lắng triền miên cho công việc ở xưởng sản xuất đồ gỗ gia dụng. Mấy tháng nay ông chủ của bố cứ lầm rầm về khả năng thừa nhân sự. Ở nhà thì lại có tiếng lầm rầm về nợ nần và chuyện duy trì thẻ tín dụng. Hai năm trước bố đã bán hạ giá chiếc xe của ông cho một tay tài xế không có bảo hiểm, và chẳng hiểu sao chuyện đó đủ khiến cho toàn bộ cái cơ ngơi đang lung lay là tài chính của bố mẹ tôi cuối cùng cũng sụp đổ. Từ đó đồng lương nhỏ nhoi của tôi là khoản tiền chính eo hẹp dành cho chi tiêu trong nhà, đủ để giúp gia đình sống đắp đổi qua ngày.

“Chúng ta đừng nói trước điều gì cả. Ngày mai con bé có thể đi thẳng xuống Trung tâm giới thiệu việc làm để xem có việc gì đang cần người không. Giờ thì nó phải chịu đựng đủ rồi đấy.” Họ nói chuyện cứ như thể tôi không ở đó. “Con bé rất thông minh cơ mà. Con thông minh lắm, phải không con yêu? Có lẽ con bé sẽ học một khóa đánh máy. Đi làm việc văn phòng.”

Tôi ngồi đó, trong khi bố mẹ tôi bàn luận xem bằng cấp hạn chế như tôi thì có thể làm được việc gì. Công nhân, thợ máy, người đánh bơ. Lần đầu tiên trong buổi chiều hôm đó, tôi muốn khóc. Thomas nhìn tôi chăm chú với đôi mắt to tròn và lẳng lặng đưa cho tôi một chiếc bánh quy.

“Cảm ơn Tommo,” tôi thì thào khe khẽ, rồi ăn cái bánh.

Anh đang ở dưới đường, tôi biết rõ như thế. Từ thứ Hai tới thứ Năm, đều đặn như giờ tàu chạy, Patrick không ở trong phòng tập thể hình thì cũng chạy vòng vòng quanh con đường tràn ánh sáng. Tôi bước xuống bậc tam cấp, khoanh tay ôm người cho đỡ lạnh, chầm chậm bước ra đường, vẫy vẫy khi anh tới đủ gần để nhận ra tôi.

“Chạy với anh,” anh nói hổn hển khi tiến lại gần hơn. Hơi thở của anh tạo thành đám khói mờ mờ. “Anh còn phải chạy bốn vòng nữa.”

Tôi ngần ngừ một thoáng, rồi bắt đầu chạy bên cạnh anh. Đó là cách duy nhất giúp tôi có thể trò chuyện đôi lời với anh. Tôi đang đi đôi giày màu hồng với dây buộc màu xanh ngọc, đôi giày duy nhất tôi đủ tiền mua.

Cả ngày hôm nay tôi ở nhà, cố gắng tỏ ra có ích. Nhưng chắc chỉ được một giờ đồng hồ là tôi ríu chân mẹ. Mẹ và ông ngoại tôi có nhịp sống riêng, thế nên sự có mặt của tôi làm họ vướng víu. Bố thì đang ngủ, vì tháng này phải làm đêm, nên không bị quấy quả. Tôi dọn phòng riêng, rồi bật ti-vi thật nhỏ để xem, chốc chốc khi nhớ ra vì sao mình lại ở nhà giữa buổi ngày thế này, tôi lại cảm thấy ngực mình đau nhói.

“Anh không nghĩ lại thấy em cơ đấy.”

“Em chán ở nhà rồi. Em đã nghĩ biết đâu chúng ta có thể làm gì đó.”

Anh nhìn nghiêng qua tôi. Anh khéo léo khoác lên vẻ mặt dịu dàng. “Em yêu, em tìm được việc khác càng sớm càng tốt đấy.”

“Em mới mất việc cũ cả thảy có hai mươi tư giờ thôi mà. Em có được phép buồn bã u sầu một chút xíu không? Anh biết đấy, chỉ trong hôm nay thôi?”

“Nhưng em phải nhìn vào mặt tích cực. Em đã biết em không thể làm ở chỗ đó mãi mà. Em phải tiến lên, tiến tới.” Hai năm trước Patrick được khen thưởng Doanh nhân trẻ Stortfold tiêu biểu, đến giờ vẫn chưa thoát khỏi cái bóng vinh quang đó. Từ ngày ấy, anh yêu cầu Ginger Pete, một cộng sự, đưa ra chương trình huấn luyện thể hình cho khách hàng trong vòng bán kính 40 dặm cùng hai xe tải chuyên dụng hỗ trợ. Trong văn phòng của anh còn có bảng trắng, anh thích dùng bút dạ màu đen thật đậm nguệch ngoạc lên đó doanh số dự kiến, sửa đi sửa lại những con số đó cho tới khi chúng khiến anh hài lòng mới thôi. Tôi chẳng bao giờ dám chắc mười mươi rằng chúng có giống với thực tế tí nào hay không.

“Mất việc nhiều khi có thể thay đổi cuộc đời của người ta đấy Lou ạ.” Anh liếc đồng hồ, kiểm tra ô đếm giờ. “Em muốn làm gì? Em có thể học nghề. Anh tin rằng họ sẽ làm được rất nhiều cho những người như em.”

“Người như em?”

“Những người đang tìm kiếm cơ hội mới. Em muốn trở thành người thế nào? Em có thể chăm sóc sắc đẹp. Em đủ xinh đấy.” Anh thúc tay tôi khi chúng tôi chạy, như thể tôi phải thấy biết ơn về lời khen ngợi đó.

“Anh biết nhịp điệu làm đẹp của em mà. Xà phòng, nước, túi giấy quê cục.” Patrick đang bắt đầu tỏ vẻ chán ngán.

Tôi dần dần tụt lại phía sau. Tôi ghét chạy. Tôi ghét anh không chịu chạy chậm lại.

“Nghe này… nhân viên bán hàng. Thư ký. Nhân viên đại lý nhà đất. Anh không biết nữa… phải có việc gì đó em muốn làm chứ.”

Nhưng đâu có. Tôi đã rất thích làm việc ở quán cà-phê. Tôi thích biết mọi thứ cần phải biết ở quán Bánh Bơ, thích nghe về cuộc đời của những người ghé qua đó. Tôi đã rất thoải mái khi ở đấy.

“Em không thể chán nản hoài được, em yêu. Phải vượt qua chứ. Mọi doanh nhân hàng đầu đều tìm được cho mình con đường vươn lên sau bước thăng trầm. Jeffrey Archer làm được. Richard Branson cũng thế.” Anh vỗ vào cánh tay tôi, cố thúc tôi chạy theo cho kịp.

“Em nghi ngờ liệu đã bao giờ Jeffrey Archer mất việc nướng bánh ngọt chưa.” Tôi thở không ra hơi. Tôi đang mặc áo lót không phù hợp. Tôi chạy chậm lại, thõng hai tay trên đầu gối.

Anh quay người, chạy giật lùi, giọng anh mang theo không khí tĩnh mịch lạnh ngắt. “Nhưng giả sử ông ấy từng… Anh nói thế thôi. Quên chuyện kia đi, mặc một bộ quần áo tươm tất, đi thẳng tới Trung tâm giới thiệu việc làm. Hoặc anh sẽ huấn luyện em để làm việc với anh, nếu em thích. Em biết việc đó cũng hái ra tiền đấy. Và đừng lo lắng về kỳ nghỉ. Anh sẽ trả.” Tôi mỉm cười với anh.

Anh hôn gió, giọng anh vang vọng khắp đường chạy vắng vẻ. “Em có thể trả lại anh khi em đã ổn định trở lại.”

Nỗ lực đầu tiên của tôi là tìm kiếm Trợ cấp cho người tìm việc. Tôi tham gia một cuộc phỏng vấn 45 phút, một cuộc phỏng vấn nhóm, trong đó tôi ngồi với một nhóm khoảng hai mươi người cả đàn ông và đàn bà chẳng tương hợp với nhau, một nửa số họ có cùng vẻ mặt hơi thảng thốt mà tôi ngờ là giống với nét mặt tôi, nửa khác là những người có bộ mặt vô hồn vô cảm vì họ đã tới đây quá nhiều lần rồi. Tôi mặc bộ đồ mà bố tôi gọi là “đồ bình dân.”

Hệ quả của những nỗ lực đó, tôi đã phải chịu đựng làm trọn một ca đêm ở lò giết mổ gà (việc này khiến tôi gặp ác mộng ròng rã suốt mấy tuần liền), và hai ngày theo khóa tập huấn làm Người tư vấn sức khỏe tại nhà. Chẳng mấy chốc tôi nhận ra rằng về cơ bản tôi đang được đào tạo để chăm sóc người già, thế nên tôi nói với Syed, “người tư vấn” của cá nhân tôi rằng tôi không làm được việc đó. Anh ta khăng khăng bảo tôi tiếp tục, vậy là tôi liệt kê ra một loạt việc người ta sẽ bắt tôi làm, nghe tôi nói thế thì anh im lặng một lát rồi gợi ý rằng chúng tôi (luôn là “chúng tôi” dù khá rõ ràng là người kia trong chúng tôi đã có việc làm) sẽ thử công việc khác.

Tôi làm hai tuần trong một chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh. Khoảng thời gian đó cũng ổn, tôi có thể đối phó được chuyện chiếc mũ đồng phục làm tóc tôi cứng đơ, nhưng tôi không chịu nổi cứ phải bám chặt vào kịch bản “những lời đáp phù hợp”, với những câu như “Hôm nay tôi có thể giúp gì cô?” và “Anh có muốn phần khoai tây chiên cỡ lớn với món đó không?” Tôi đã bị cho thôi việc sau khi một tràng những cô nàng bán bánh vòng bắt gặp tôi đang bàn tán về bao nhiêu giá trị khác nhau của đồ chơi trí tuệ với một đứa trẻ bốn tuổi. Tôi có thể nói gì được đây? Nó là một cô bé bốn tuổi rất thông minh. Tôi thì cũng có cùng ý nghĩ là những nàng công chúa ngủ trong rừng thật là ngớ ngẩn.

Giờ tôi đang ngồi tham dự cuộc phỏng vấn thứ tư, Syed lướt suốt màn hình máy tính cảm ứng để tìm thêm “cơ hội” việc làm. Ngay cả Syed, luôn mang thái độ vô cùng vui vẻ của một người đã giúp những ứng viên khó tìm việc nhất có công việc, cũng đang bắt đầu nói giọng hơi chán nản.

“À… Cô đã bao giờ nghĩ tới chuyện tham gia công nghiệp giải trí chưa?” “Sao cơ, như diễn viên kịch câm ấy hả?”

“Thật ra không phải thế. Nhưng có một vị trí trống cần vũ nữ múa cột. Đúng hơn là mấy vị trí.”

Tôi nhướng mày. “Xin hãy nói với tôi là anh đang đùa đi.”

“Ba mươi giờ một tuần tùy chọn thời điểm. Tôi tin là tiền boa sẽ cao.”

“Làm ơn, làm ơn nói với tôi là không phải anh đang tư vấn cho tôi làm một công việc mà tôi phải mặc đồ lót lượn lờ trước mặt người lạ.”

“Cô nói cô cởi mở với mọi người. Và trông cô có vẻ… lòe loẹt… quần áo.” Anh liếc nhìn xuống chiếc quần bó của tôi, nó mang màu xanh đính kim sa. Tôi đã nghĩ nó sẽ làm tôi vui vẻ lên. Thomas đã ngâm nga bản nhạc nền của phim hoạt hình Nàng tiên cá để trêu chọc tôi gần như suốt giờ ăn sáng.

Syed gõ gì đó lên bàn phím. “Thế ‘người giám sát phòng chat dành cho người lớn’ thì sao?”

Tôi nhìn anh trân trân.

Anh ta nhún vai. “Cô bảo cô thích nói chuyện với mọi người mà.”

“Không. Và không làm tiếp viên quán bar bán nuy. Hay nhân viên mát-xa. Hay người điều chỉnh webcam. Thôi nào, Syed. Phải có việc gì đó tôi có thể làm mà thực sự không khiến bố tôi lên cơn đau tim chứ.”

Điều này có vẻ làm anh ta bế tắc. “Chẳng còn gì nhiều ngoài những cơ hội bán hàng thời gian tự do.”

“Việc xếp hàng trên giá siêu thị buổi tối thì sao?” Tôi đã làm việc đó nhiều lần nên rất thành thạo.

“Có cả một danh sách chờ ở đây. Phụ huynh có xu hướng thích làm việc đó, vì nó trùng với giờ tới trường của con cái,” anh ta nói giọng có lỗi. Rồi anh ta lại nghiên cứu màn hình. “Thế thì chúng ta thực sự chỉ còn lại việc chăm sóc thôi.”

“Rửa đít cho người già.”

“Louisa ạ, tôi e là cô không đủ tiêu chuẩn làm gì khác. Nếu cô muốn được học nghề, tôi sẽ rất vui lòng chỉ cho cô định hướng đúng. Có rất nhiều khóa học ở trung tâm giáo dục dành cho người lớn.”

“Nhưng chúng ta đã nói rõ chuyện này rồi mà, Syed. Nếu tôi làm thế, tôi sẽ mất tiền trợ cấp người tìm việc, phải không?”

“Đúng thế, vì cô không còn rảnh rang để sẵn sàng làm việc.”

Chúng tôi ngồi im lặng một lát. Tôi nhìn ra cửa, nơi có hai anh chàng bảo vệ lực lưỡng đang đứng. Tôi tự hỏi có phải họ tìm được công việc đó qua Trung tâm giới thiệu việc làm này.

“Tôi không giỏi chăm sóc người già đâu Syed. Ông tôi sống cùng nhà kể từ khi bị tai biến, tôi không xoay xở được với ông.” “A! Thế là cô đã có chút kinh nghiệm chăm sóc.” “Không hẳn. Mẹ tôi làm mọi thứ cho ông.”

“Mẹ cô có thích công việc đó không?” “Buồn cười.”

“Có gì buồn cười đâu.”

“Còn để tôi chăm sóc ông tôi ư? Không đâu, cảm ơn. Ông tôi sẽ bảo thế, mà phải nói là cả tôi cũng vậy. Anh có việc gì ở quán cà-phê không?”

“Tôi không nghĩ là còn đủ quán cà-phê để đảm bảo việc làm cho cô, Louisa. Chúng ta có thể thử làm ở quán gà rán Kentucky. Ở đó cô kiếm được tốt hơn đấy.”

“Bởi vì phục vụ gà rán thì tôi sẽ nhận được nhiều hơn phục vụ bánh đùi gà hay sao? Tôi không nghĩ thế đâu.”

“À, thế thì có lẽ chúng ta sẽ phải tìm việc ra xa xa.”

“Chỉ có bốn chuyến xe buýt lên xuống từ thị trấn nhà tôi. Anh biết rồi đấy. Và tôi biết anh đã bảo tôi nên xem xét tới xe buýt du lịch, nhưng tôi đã gọi cho nhà ga thì biết năm giờ chiều là hết chuyến rồi. Vả lại giá vé đắt gấp đôi xe buýt bình thường.”

Syed ngả lưng ra ghế. “Thế thì thế này, Louisa ạ, tôi thực sự phải nói rõ rằng với tư cách một người phù hợp và được phép nhận tiền trợ cấp, để tiếp tục đủ tiêu chuẩn nhận khoản tiền đó, cô cần…”

“… thể thiện rằng tôi đang nỗ lực tìm việc. Tôi biết chứ.”

Làm sao tôi giải thích được với người đàn ông này tôi muốn làm việc tới mức nào? Anh ta có láng máng hiểu dù chỉ một chút xíu tôi nhớ công việc cũ ra sao hay không? Thất nghiệp với tôi vốn chỉ là một khái niệm, một thứ được nhắc đến bai bải trên bản tin về các xưởng đóng tàu và nhà máy sản xuất ô-tô. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng con người ta có thể nhớ công việc như nhớ chân tay mình – một thứ gắn bó máu thịt như thân thể. Tôi đã không nghĩ rằng mất việc không chỉ mang lại nỗi lo sợ hiện hữu về tiền bạc và tương lai, mà còn khiến ta thấy bản thân thiếu khả năng, hơi vô dụng. Ta sẽ cảm thấy khó thức dậy mỗi sáng hơn cả khi bị đồng hồ báo thức đánh thức một cách phũ phàng. Ta sẽ nhớ những người từng làm việc cùng mình, bất kể ta với họ có ít điểm chung ra sao. Hoặc thậm chí có khi ta còn phát hiện ra mình đang tìm kiếm những gương mặt thân quen trong khi cuốc bộ trên phố đông. Lần đầu tiên nhìn thấy Quý bà Bồ công anh thẩn thơ đi qua quán cũ, trông cụ ngơ ngác như chính cảm giác trong lòng tôi lúc đó, tôi phải cố lắm mới kiềm chế được thôi thúc bước tới ôm cụ một cái.

Giọng Syed phá tan khoảnh khắc mơ màng của tôi. “Aha. Việc này có khi phù hợp đây.”

Tôi cố soi mắt vào màn hình.

“Nhìn kỹ xem nào. Mục này nhỏ lắm. Vị trí chăm sóc.” “Tôi đã bảo anh là tôi không giỏi chăm sóc…”

“Đây không phải người già. Đây là một… vị trí riêng. Giúp việc trong nhà người ta, địa chỉ cách nhà cô khoảng ba cây số. ‘Chăm sóc và đồng hành với một người đàn ông khuyết tật.’ Cô biết lái xe không?”

“Có. Nhưng tôi có phải chùi…”

“Không yêu cầu chùi đít, theo tôi thấy thì thế.” Anh ta lướt khắp màn hình. “Anh ta bị… bị liệt tứ chi. Anh ta cần một người cho ăn và giúp việc ban ngày. Thường thì với những việc như thế này, người làm cần có mặt khi họ muốn đi đâu đó ra ngoài, giúp đỡ những việc căn bản mà họ không thể tự làm. Oa. Nhiều tiền đấy. Nhiều hơn lương tối thiểu nhiều.”

“Có lẽ là vì công việc đòi hỏi phải chùi đít.”

“Tôi sẽ gọi cho họ để đảm bảo không có vụ chùi đít. Nhưng nếu đó là yêu cầu bắt buộc, cô vẫn sẽ tới phỏng vấn chứ?”

Anh nói câu đó như đặt câu hỏi.

Nhưng cả hai chúng tôi đều biết câu trả lời.

Tôi thở dài, rồi cầm túi lên chuẩn bị lên đường về nhà.

“Chúa ơi,” bố tôi thốt lên. “Các người có tưởng tượng nổi không? Nếu kết cục cuộc đời phải ngồi trên một chiếc xe lăn kềnh càng chưa phải là một hình phạt đủ nặng, thì các người sẽ có Lou nhà tôi tới làm bạn với các người đây.”

“Bernard!” mẹ tôi gắt.

Sau lưng tôi, ông ngoại cười khùng khục bên tách trà trên tay.

Chú thích:

(1) Thành ngữ “Play gooseberry” có nghĩa là “Đi kèm một cô gái hoặc đôi tình nhân để canh gác, giữ gìn.” (Tất cả chú thích trong sách là của người dịch.)

CHƯƠNG 2

Tôi không ngu độn. Tôi chỉ muốn thoát khỏi ý nghĩ mình là đứa ngu độn. Nhưng thật khó mà không cảm thấy mình hơi thiếu tế bào não khi lớn lên bên một cô em gái không chỉ nhảy cóc một bậc vào lớp của tôi, mà rồi sau đó còn vượt lên học trước một lớp.

Tất cả những gì đòi hỏi sự nhạy cảm hoặc trí thông minh, Katrina đều làm trước, dù con bé thua tôi mười tám tháng tuổi. Tất cả sách tôi từng đọc nó đều đọc trước, mọi chuyện tôi kể lể bên bàn ăn tối nó đều biết tỏng cả rồi. Nó là người duy nhất trên đời mà tôi biết thực sự thích làm bài kiểm tra. Đôi khi tôi nghĩ tôi chọn cách ăn mặc hiện nay là vì thứ duy nhất Treena không thể làm là kết hợp quần áo. Nó là kiểu con gái chuyên quần jean, áo phông. Sáng kiến của nó là ủi quần jean trước.

Bố tôi bảo tôi là “cá biệt,” vì tôi thường nghĩ tới đâu nói tới đó. Ông hay bảo tôi giống cô Lily, một người tôi chưa từng biết. Kể cũng hơi lạ lùng khi cứ bị so sánh với một người mình chưa gặp bao giờ. Nếu tôi đi đôi bốt tím xuống gác, bố sẽ hất đầu với mẹ rồi nói, “Em có nhớ cô Lily với đôi bốt tím của cô ấy không hả?”, mẹ sẽ khùng khục trong cổ họng rồi cười phá lên như thể có trò đùa gì bí mật lắm. Mẹ bảo tôi là “cá tính”, một cách lịch sự cho biết bà chẳng hiểu nổi cách ăn mặc của tôi.

Nhưng ngoại trừ một giai đoạn ngắn thời tuổi teen, tôi không bao giờ muốn giống Treena, hay bất cứ bạn gái nào ở trường; tới năm mười bốn tuổi tôi vẫn thích quần áo con trai hơn, còn giờ tôi thường chiều ý mình – tùy theo tâm trạng ngày hôm ấy của tôi ra sao. Tôi không bận tâm tới chuyện phải cố khoác lên mình dáng dấp truyền thống. Tôi mi nhon, tóc đen, và theo bố tôi thì tôi có khuôn mặt tiểu yêu. Không phải giống như trong “nữ yêu xinh đẹp”. Tôi ưa nhìn, nhưng tôi không nghĩ có ai lại bảo tôi là xinh đẹp. Tôi không có vẻ duyên dáng yêu kiều. Patrick khen tôi tuyệt đẹp mỗi khi anh muốn làm tình, nhưng anh là kiểu người khá dễ hiểu như thế. Chúng tôi quen nhau đã gần bảy năm.

Tôi hai mươi sáu tuổi, tôi không thực sự hiểu rõ về cuộc đời mình. Tôi nghĩ rồi đây mình sẽ cưới Patrick, sinh ra mấy đứa con, sống cách nơi tôi ở suốt từ nhỏ tới giờ chỉ vài con phố. Ngoài chuyện ăn mặc hơi kỳ lạ và có chiều cao hơi khiêm tốn, không có gì nhiều phân biệt tôi với bất kỳ cô gái nào lướt qua trên phố. Có lẽ chẳng ai ngoái lại nhìn tôi lần nữa. Một cô gái bình thường, sống một cuộc sống bình thường. Điều đó thực sự rất phù hợp với tôi.

“Đi phỏng vấn thì con phải mặc vest chứ,” mẹ tôi khăng khăng. “Bây giờ ai cũng ăn mặc thoải mái quá thể.”

“Bởi vì mặc đồ sọc tăm sẽ hết sức cần thiết nếu con phải bón cơm cho một cụ già.”

“Đừng có tinh tướng.”

“Con không đủ tiền mua vest. Nếu con không nhận được việc đó thì sao?” “Con có thể mặc đồ của mẹ, mẹ sẽ ủi cái áo choàng dễ coi cho con, và ít nhất một lần này thôi, đừng có buộc tóc bằng những thứ kiểu…” bà chỉ nên mái tóc tôi, nó thường được buộc hai bên bằng hai cái nơ sẫm màu “… Công chúa Leia như thế. Thử cố trông như người bình thường một chút đi.”

Tôi biết tốt nhất là không nên tranh luận với mẹ. Và tôi biết chắc bố đã được phím trước là không được bình luận gì về quần áo của tôi khi tôi bước ra khỏi nhà, về dáng đi kỳ cục của tôi trong chiếc váy quá chật.

“Tạm biệt con yêu,” ông nói, khóe miệng cau lại. “Chúc may mắn nhé. Trông con rất có dáng… công sở.”

Điều gây khó xử không phải là chuyện tôi đang mặc bộ vest của mẹ, cũng không phải vì nó là mốt sau cùng của cuối thập niên 1980, mà là nó thực sự quá bé so với tôi. Tôi cảm thấy thắt lưng chiếc váy siết chặt lấy cơ hoành của mình, thế nên tôi kéo chiếc áo khoác đúp ngực sát vào người. Như bố tôi thường nói với mẹ, chỉ béo hơn có cái kẹp tăm.

Tôi ngồi suốt chặng xe buýt ngắn, cảm thấy hơi mệt mỏi. Tôi chưa bao giờ đi phỏng vấn xin việc đúng nghĩa. Tôi vào làm ở quán Bánh Bơ sau khi nghe Treena đánh cá là tôi không thể tìm được việc trong vòng một ngày. Tôi đi vào quán và hỏi thẳng Frank xem ông có cần một đôi tay còn rảnh rang không. Đó là ngày đầu tiên ông mở quán nên ông biết ơn chẳng để đâu cho hết.

Giờ nghĩ lại, tôi thậm chí không nhớ nổi mình có thảo luận về tiền bạc với ông hay không. Ông đề nghị trả lương theo tuần, tôi đồng ý, và mỗi năm một lần, ông bảo tôi là ông đã tăng ít lương cho tôi, thường là nhiều hơn một chút so với mức tôi định yêu cầu.

Tóm lại thì người ta hỏi gì khi phỏng vấn nhỉ? Và nếu họ yêu cầu tôi làm một việc gì đó thực tế với ông già này, kiểu như cho ông ta ăn hoặc tắm cho ông ta thì sao? Syed đã nói là có một người đàn ông chăm sóc đảm nhiệm “những yêu cầu tế nhị” (tôi để trong ngoặc kép). Anh ta bảo công việc của người chăm sóc thứ hai là “ở đây mô tả hơi mù mờ”. Tôi tưởng tượng ra cảnh mình chùi nước dãi khỏi miệng ông già, có thể còn hỏi thật to, “ÔNG TA CÓ MUỐN UỐNG TRÀ KHÔNG?”

Khi ông ngoại lần đầu hơi hồi tỉnh sau khi bị tai biến, ông không thể tự mình làm được việc gì. Mẹ tôi làm tất tật. “Mẹ con là một vị thánh,” bố nói, điều đó với tôi có nghĩa là bà chùi đít cho ông ngoại mà không phải lao ra khỏi nhà vừa chạy vừa la. Tôi khá chắc là sẽ không bao giờ có ai mô tả về tôi như thế. Tôi có thể cắt nhỏ đồ ăn và pha trà cho ông, nhưng còn tất cả những việc khác tôi không chắc mình có thể làm cho ra hồn.

Dinh thự Granta nằm phía bên kia lâu đài Stortfold, gần những bức tường thành xây từ thời trung đại, trên đoạn đường dài không lát đá chỉ mọc lên bốn ngôi nhà và cửa hàng National Trust, nằm ngay giữa khu du lịch. Tôi đã đi qua ngôi nhà này cả triệu lần mà chưa từng nhìn kỹ nó. Lúc này đây, khi bước ngang qua bãi đỗ xe và đường ray nhỏ, cả hai đều vắng bóng người và đều hoang lương như một nét quyến rũ của mùa hè xuất hiện giữa tháng Hai, tôi thấy nó lớn hơn hình dung, gạch đỏ với hai chái, kiểu nhà ta thường thấy trong những số cũ của tạp chí Country Life trong khi chờ đợi ở phòng khám.

Tôi bước trên con ngõ dài, cố không nghĩ xem liệu có ai đang quan sát mình từ cửa sổ hay không. Bước trên con ngõ dài hay đẩy người ta vào thế kẹt; tự nhiên nó khiến người ta cảm thấy mình thấp kém thế nào. Tôi đang tập trung nghĩ xem có nên vén tóc mái lên không thì cánh cửa bật mở khiến tôi giật nảy người.

Một phụ nữ, không lớn hơn tôi là bao, bước ra thềm. Cô mặc quần đen, áo thụng trông giống áo bác sĩ, dưới nách cặp một cái áo khoác và một xấp giấy tờ. Khi bước qua tôi, cô mỉm cười lịch sự.

“Và cảm ơn rất nhiều vì đã tới,” một giọng nói từ trong vẳng ra. “Chúng tôi sẽ liên lạc lại. A, chào.” Một phụ nữ xuất hiện, gương mặt đã tuổi trung niên nhưng còn rất đẹp ẩn dưới mái tóc cắt tỉa khéo léo xa xỉ. Bà mặc một bộ đồ tây mà tôi đoán là có giá cao hơn số tiền bố tôi kiếm được trong một tháng.

“Chắc cô là cô Clark.”

“Louisa ạ.” Tôi đưa tay ra, đúng như mẹ tôi đã ép tôi phải làm. Giới trẻ thời nay chẳng bao giờ đưa tay ra bắt nữa, bố mẹ tôi cùng có ý kiến đó. Thời xưa thì đừng có mơ có người dám nói “chào!”, hoặc tệ hơn là hôn phớt. Người phụ nữ này có vẻ không phải là kiểu người chào đón một cái hôn phớt.

“Phải. Đúng rồi. Cô vào đi.” Bà rút bàn tay khỏi tay tôi nhanh nhất trong chừng mực của phép giao tế, nhưng tôi cảm thấy ánh mắt bà còn nấn ná nhìn, như thể bà đang đánh giá tôi.

“Mời cô vào trong này. Chúng ta sẽ nói chuyện ở phòng khách. Tôi là Camilla Traynor.” Trông bà có vẻ chán nản, như thể ngày hôm nay bà đã thốt ra cùng những từ đó nhiều lần lắm rồi.

Tôi theo bà vào một căn phòng rộng bát ngát với những khung cửa sổ kiểu Pháp kéo từ trần xuống sàn nhà. Những tấm rèm nặng trịch trang nhã rủ xuống từ những thanh treo rèm to tướng bằng gỗ gụ, còn sàn nhà trải thảm Ba Tư trang trí cầu kỳ. Căn phòng mang mùi sáp ong và đồ nội thất cổ. Khắp phòng là những chiếc bàn nhỏ sang trọng, bề mặt bóng loáng của chúng đặt đầy những chiếc hộp trang trí. Trong một thoáng tôi tự hỏi chẳng biết nhà Traynor còn đặt tách trà vào đâu được.

“Cô tới đây thông qua tư vấn của Trung tâm giới thiệu việc làm phải không?

Cô ngồi đi.”

Trong khi bà lật tập hồ sơ, tôi lén nhìn quanh phòng. Lúc trước tôi cứ nghĩ có lẽ ngôi nhà mình sắp tới sẽ hơi giống viện dưỡng lão, với hàng loạt máy cẩu và mọi bề mặt đều trống trơn. Nhưng ngôi nhà này trông giống một trong những khách sạn đắt đỏ kinh hoàng, tắm trong tiền của giới đại gia lâu đời, với những thứ đồ tuyệt diệu thoạt trông đã biết rất giá trị. Có nhiều khung ảnh bằng bạc trên tủ ly, nhưng tôi ngồi quá xa để có thể nhìn rõ mặt người trong ảnh. Trong khi bà chủ lướt qua từng trang hồ sơ, tôi cựa người trên ghế, cố tạo dáng ưa nhìn hơn.

Đúng lúc đó tôi nghe thấy nó – âm thanh không lẫn vào đâu được của tiếng toạc chỉ. Tôi liếc xuống thì thấy hai vạt váy bên phải đã nứt toác ra, những mảnh xơ vải lụa xù lên lởm chởm ở một bên mép vải. Tôi thấy mặt mình đỏ bừng bừng.

“Thế. Cô Clark… cô có kinh nghiệm chăm sóc người bị liệt không?”

Tôi quay sang nhìn bà Traynor, nhoài người để chiếc áo khoác che được chiếc váy càng nhiều càng tốt.

“Không.”

“Cô làm công việc chăm sóc được lâu chưa?”

“À… Thực ra tôi chưa bao giờ làm việc đó,” tôi đáp, rồi nói tiếp, như thể đang nghe thấy tiếng Syed văng vẳng bên tai, “nhưng tôi chắc tôi có thể học.”

“Cô có biết một người bị liệt là thế nào không?”

Tôi nao núng. “Là khi… người đó ngồi rịt trên xe lăn phải không ạ?”

“Tôi nghĩ đó cũng là một cách định nghĩa. Có nhiều cấp độ khác nhau, nhưng trong trường hợp này chúng ta đang nói về tình trạng hoàn toàn mất khả năng điều khiển chân, và chỉ còn rất ít khả năng điều khiển bàn tay và cánh tay. Chuyện đó có gây phiền cho cô không?”

“Chắc chắn là không bằng nó gây phiền cho ông ấy.” Tôi cố mỉm cười, nhưng gương mặt của bà Traynor vô cảm. “Xin lỗi… tôi không có ý…”

“Cô biết lái xe không, cô Clark?” “Có.”

“Bằng lái sạch chưa phạm luật chứ?” Tôi gật đầu.

Camilla Traynor đánh dấu gì đó vào tờ danh sách.

Khoảng rách mỗi lúc một lớn. Tôi có thể thấy nó lấn lên đùi một cách không thể cưỡng lại. Cứ thế này thì tới lúc đứng lên tôi sẽ chẳng khác gì một cô nàng múa phụ họa ở Vegas.

“Cô ổn chứ?” Bà Traynor nhìn tôi chằm chằm.

“Tôi chỉ thấy hơi ấm. Tôi cởi áo khoác ra có được không ạ?” Bà chưa kịp nói gì, tôi đã kéo tuột áo khoác ra rồi buộc quanh hông, che giấu vết rách trên váy. “Nóng thật đấy,” tôi nói, mỉm cười với bà, “đi từ ngoài trời vào mà. Bà biết đấy.”

Sau chỉ một thoáng ngập ngừng, bà Traynor nhìn lại tập hồ sơ. “Cô bao nhiêu tuổi?”

“Tôi hai mươi sáu.”

“Và cô đã làm công việc cũ trong sáu năm.”

“Vâng. Bà có bản photo thư giới thiệu của tôi đấy ạ.”

“Ừm…” Bà Traynor giơ nó lên rồi nheo mắt. “Người chủ trước của cô bảo rằng cô ‘ấm áp, nhanh miệng và làm đẹp cho cuộc sống’.”

“Vâng, tôi đã trả tiền để ông ấy ghi thế.” Lại cái khuôn mặt lạnh như tiền đó.

Ôi trời ơi, tôi thầm kêu lên trong lòng.

Cứ như thể tôi đang bị dò xét ấy. Không hẳn là theo nghĩa tích cực. Chiếc sơ-mi của mẹ tôi đột nhiên trở nên thật rẻ tiền, sợi vải tổng hợp lóe lên trong ánh sáng lờ mờ. Thà tôi mặc bất cứ thứ gì còn hơn là bộ đồ này.

“Thế tại sao cô lại bỏ công việc đó, nơi mà rõ ràng là cô được đánh giá rất cao.”

“Ông chủ Frank đã bán quán cà-phê. Cái quán đang ở dưới chân tòa lâu đài đấy ạ. Quán Bánh Bơ. Đã,” tôi tự sửa lại. “Nếu còn được làm ở đó thì tôi mừng lắm.”

Bà Traynor gật đầu, hoặc vì bà cảm thấy chẳng cần nói thêm gì nữa về chuyện này, hoặc vì bà cũng thấy thật mừng cho tôi nếu tôi còn được làm ở đó.

“Thế chính xác thì cô muốn làm gì với cuộc đời mình?” “Gì cơ ạ?”

“Cô có khao khát làm công việc nào không? Đây có phải là bước đệm cho

một việc gì khác? Có giấc mơ sự nghiệp nào mà cô ao ước theo đuổi không?” Tôi nhìn bà vẻ mặt ngơ ngác.

Đây có phải là một dạng câu hỏi đánh đố không?

“Tôi… tôi chưa bao giờ thực sự nghĩ xa tới thế. Kể từ khi tôi bị mất việc. Tôi chỉ…” Tôi nuốt khan. “Tôi chỉ muốn lại được làm việc.”

Nghe thật lãng nhách. Kiểu người gì đi phỏng vấn mà thậm chí còn chẳng biết mình muốn làm gì? Vẻ mặt của bà Traynor cho thấy bà cũng nghĩ thế.

Bà đặt cây viết xuống. “Thế, cô Clark, tại sao tôi lại nên thuê cô mà không thuê người khác, ví như người xin việc liền trước cô với năm năm kinh nghiệm chăm sóc người bị liệt?”

Tôi nhìn bà. “Ừm… thật lòng ạ? Tôi không biết nữa.” Sau câu nói đó là một sự im lặng, thế nên tôi nói thêm, “Tôi nghĩ đó bà quyền của bà.”

“Cô không thể đưa ra lấy một lý do tại sao tôi nên thuê cô ư?”

Gương mặt mẹ tôi đột nhiên hiện ra trước mắt. Ý nghĩ trở về nhà với bộ váy rách và một cuộc phỏng vấn nữa thất bại thật quá sức chịu đựng của tôi. Mà công việc này được trả tới hơn 9 bảng một giờ.

Tôi hơi thẳng người lên. “À… Tôi học rất nhanh, tôi không ốm bao giờ, tôi sống ngay bên kia lâu đài, tôi khỏe mạnh hơn vẻ bề ngoài… có thể đủ khỏe để hỗ trợ đẩy chồng bà đi vòng vòng…”

“Chồng tôi? Cô sẽ không làm việc với chồng tôi. Đó là con trai tôi.”

“Con trai bà?” tôi chớp mắt. “Ừm… Tôi không sợ làm việc nặng. Tôi giỏi làm việc với mọi kiểu người và tôi pha trà ngon.” Tôi bắt đầu nói lảm nhảm lung tung. Ý nghĩ đó là con trai bà khiến tôi rối bời. “Ý tôi là, bố tôi thì nghĩ đó không phải chuyện gì vĩ đại mà phải kể ra. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi thì trên đời này không có nhiều thứ không thể thu xếp được bằng một tách trà ngon…”

Cách bà Traynor nhìn tôi có vẻ gì đó hơi lạ.

“Xin lỗi,” tôi lắp bắp khi nhận ra điều mình vừa nói. “Tôi không định nói tới thứ đó… bệnh liệt hai chân… liệt tứ chi… với… con trai bà… có thể giải quyết bằng một tách trà.”

“Tôi phải nói thế này, cô Clark, đây không phải một hợp đồng lâu dài. Lâu nhất cũng chỉ sáu tháng thôi. Vì thế nên mới có mức lương… cạnh tranh. Chúng tôi muốn thu hút người phù hợp.”

“Hãy tin tôi, khi đã làm mấy ca ở lò giết mổ gà, thì phải làm việc ở vịnh Guantánamo sáu tháng liền nghe vẫn hấp dẫn.” Ôi, im ngay, Louisa. Tôi cắn môi.

Nhưng bà Traynor dường như không để ý. Bà đóng hồ sơ lại. “Con trai tôi – Will – bị thương trong một tai nạn giao thông xảy ra gần hai năm trước. Nó cần được chăm sóc hai tư trên hai tư, phần lớn những công việc đó đã được một y tá có nghề thực hiện. Tôi mới đi làm trở lại, thế nên yêu cầu đối với người chăm sóc là ở đây suốt ngày để cận kề nó, giúp nó ăn uống, nói chung là thêm chân thêm tay, và đảm bảo nó không gặp nguy hiểm gì.” Camilla Traynor nhìn xuống lòng. “Điều quan trọng nhất là Will có một người ở bên cạnh hiểu rõ nhiệm vụ đó.”

Mọi điều bà nói, thậm chí cả cách bà nhấn mạnh từng từ, dường như bóng gió ám chỉ tới bản tính có phần ngờ nghệch của tôi.

“Tôi hiểu rồi ạ.” Tôi bắt đầu cầm túi lên. “Thế cô có muốn làm công việc này không?”

Câu nói đó quá bất ngờ tới nỗi thoạt tiên tôi nghĩ mình đã nghe nhầm. “Sao cơ ạ?”

“Chúng tôi cần cô bắt đầu càng sớm càng tốt. Lương trả theo tuần.”

Trong một thoáng tôi chẳng nói thành lời. “Bà muốn nhận tôi thay vì…” tôi mở miệng.

“Thời gian làm việc khá dài – tám giờ sáng tới năm giờ chiều, thỉnh thoảng muộn hơn. Không có nghỉ trưa, tuy nhiên vào giờ ăn trưa khi Nathan, y tá thường trực của nó tới chăm sóc cho nó, thì sẽ có nửa tiếng rảnh rang.”

“Bà không cần thứ gì liên quan tới… y tế?”

“Will có mọi chăm sóc y tế mà chúng tôi có thể dành cho nó rồi. Điều chúng tôi cần cho nó là một người khỏe mạnh… và vui vẻ. Cuộc sống của nó quá… khó khăn, thế nên điều quan trọng là nó được khích lệ để…” Bà bỏ dở câu, ánh mắt chăm chú vào đâu đó bên ngoài những ô cửa sổ kiểu Pháp. Cuối cùng, bà quay lại nhìn tôi. “Thôi, nói đơn giản là với chúng tôi sức khỏe tinh thần của nó cũng quan trọng không kém gì sức khỏe thể chất. Cô hiểu chứ?”

“Tôi hiểu rồi. Tôi có phải… mặc đồng phục không?”

“Không. Tuyệt đối không mặc đồng phục.” Bà liếc xuống chân tôi. “Tuy nhiên có lẽ cô nên mặc gì đó… bớt lộ hơn.”

Tôi liếc xuống chỗ chiếc áo khoác của tôi chệch ra, để lộ một mảng lớn đùi trần. “Nó… Tôi xin lỗi. Nó bị rách. Thật ra nó không phải của tôi.”

Nhưng có vẻ như bà Traynor không nghe nữa rồi. “Tôi sẽ giải thích những việc cần làm khi cô bắt đầu. Lúc này Will không phải người dễ tính nhất để ở bên cạnh đâu, cô Clark. Công việc này đòi hỏi thái độ tinh thần không thua gì bất kể… kỹ năng nghiệp vụ nào mà có thể cô có đâu. Thế nên. Ngày mai chúng tôi sẽ gặp cô chứ?”

“Ngày mai ư? Bà không muốn… bà không muốn tôi gặp anh ta sao?”

“Hôm nay tâm trạng Will không tốt. Tôi nghĩ tốt nhất chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu sau.”

Tôi đứng lên, nhận ra bà Traynor đã chờ thấy tôi đi về.

“Vâng,” tôi nói, giật cái áo khoác của mẹ ôm quanh người. “Ừm. Cảm ơn bà.

Tôi sẽ gặp bà vào tám giờ sáng ngày mai.”

Mẹ đang múc khoai tây vào vào đĩa của bố. Bà múc hai muỗng, ông gạt ra, múc muỗng thứ ba và thứ tư từ đĩa lớn. Mẹ chặn bố lại, xúc hai muỗng đó trở lại đĩa lớn, cuối cùng dùng muỗng gõ vào khớp tay bố khi ông đòi múc lại. quanh chiếc bàn nhỏ là bố mẹ tôi, em gái tôi và Thomas, ông ngoại tôi, và Patrick – tối thứ Tư nào anh cũng qua ăn.

“Bố ơi,” mẹ nói với ông ngoại. “Để ai đó cắt nhỏ thức ăn cho bố nhé?

Treena, con cắt nhỏ thức ăn cho ông được không?”

Treena vươn người tới bắt đầu cắt thức ăn trên đĩa của ông bằng những

đường dao khéo léo. Sau đó nó cũng làm y như thế cho Thomas. “Tình hình của anh chàng đó tệ tới mức nào hả Lou?”

“Chẳng thể kỳ vọng gì nhiều một khi người ta vui lòng để cho con gái chúng ta giải tỏa tinh thần cho cậu ta,” Bernard bình luận. Sau lưng tôi, ti-vi bật để bố và Patrick xem bóng đá. Thỉnh thoảng họ lại dừng, nhìn ló qua tôi, miệng ngừng nhai khi xem những pha qua người hoặc suýt vào.

“Em nghĩ đây là một cơ hội lớn. Con bé sẽ làm việc trong một dinh thự. Một gia đình tốt. Họ có quyền quý không con yêu?”

Trong phố chúng tôi, “quyền quý” thường dùng để chỉ một người không có người thân trong gia đình có chân trong hội Chống đối xã hội.

“Con nghĩ là có.”

“Hy vọng là con đã tập cúi đầu chào.” Bố tôi cười nhăn nhở.

“Thật ra chị đã gặp anh ta chưa?” Treena vươn người kéo ly nước ép của Thomas vào kẻo nó huých đổ xuống sàn. “Anh chàng bị tàn tật ấy? Trông anh ta thế nào?”

“Nhưng cũng kỳ cục nhỉ. Ngày nào con cũng ở bên cậu ta suốt cả ngày. Chín tiếng đồng hồ. Con sẽ gặp cậu ta nhiều hơn gặp Patrick.”

“Có gì ghê gớm đâu,” tôi nói.

Dù ngồi đối diện tôi qua bàn, Patrick vờ như chẳng nghe thấy tôi nói gì. “Nhưng con sẽ không phải lo lắng về trò quấy rối tình dục cũ mèm ấy, nhỉ?” bố tôi nói.

“Bernard!” mẹ tôi gắt.

“Anh chỉ nói lên điều ai cũng nghĩ thôi. Có lẽ là ông chủ tốt nhất cậu có thể tìm cho bạn gái, nhỉ, Patrick?”

Bên kia bàn, Patrick mỉm cười. Anh đang bận từ chối món khoai tây, dù mẹ ra sức mời. Tháng này anh không ăn món gì có các-bon để chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc thi marathon vào đầu tháng Ba.

“Con biết không, mẹ đang nghĩ, con có phải học ngôn ngữ ám hiệu không nhỉ? Ý mẹ là, nếu cậu ta không thể giao tiếp, làm sao con biết được cậu ta muốn gì?”

“Bà ấy không bảo anh ta không nói được, mẹ ạ.” Tôi chẳng nhớ rõ những gì bà Traynor đã nói. Tôi hơi choáng váng vì thật sự được nhận vào làm.

“Có thể anh ta nói qua một trong mấy cái thiết bị đó. Giống như ông nhà khoa học nọ ấy mà. Ông xuất hiện trong phim hoạt hình Gia đình nhà Simson ấy.

“Chết tiệt,” Thomas lên tiếng. “Không phải,” bố tôi đáp.

“Stephen Hawking,” Patrick nói.

“Cháu nói đúng đấy, chính là ông ta,” mẹ tôi nói, hết nhìn Thomas lại nhìn bố tôi bằng ánh mắt trách móc. Bà có thể cắt bít-tết bằng cái nhìn đó. “Dạy thằng bé những từ xằng bậy.”

“Đâu có. Anh không biết thằng bé lượm từ đó từ đâu.” “Chết tiệt,” Thomas nói, nhìn thẳng vào ông ngoại nó.

Treena cau mặt. “Em nghĩ em sẽ chết khiếp nếu anh ta nói qua một trong những loại thiết bị phát tiếng nói đó. Chị tưởng tượng nổi không? Lấy-cho-tôi- ly-nước,” Treena giả giọng.

Thông minh – nhưng không đủ thông minh để giúp mình khỏi bị lừa, bố tôi thỉnh thoảng vẫn lầm bầm như thế về Treena. Nó là thành viên đầu tiên trong nhà đi học đại học, thế rồi Thomas ra đời khiến nó phải bỏ giữa chừng khi đang học năm cuối. Bố mẹ vẫn ôm mộng một ngày nào đó nó sẽ làm rạng danh gia đình. Có thể làm việc ở một nơi có bàn tiếp tân không có màn hình an ninh ở bên cạnh. Hoặc có.

“Tại sao ngồi trên xe lăn lại đồng nghĩa với việc anh ta phải nói chuyện như một quái vật ngoài hành tinh?” tôi đáp.

“Nhưng chị sẽ phải tiếp xúc gần gũi và thân mật với anh ta. Ít nhất chị sẽ phải lau miệng cho anh ta, đưa nước và các thứ.”

“Thế thì sao? Thế đâu có phải là ngành khoa học nghiên cứu phản lực.” “Có ai đã từng thay bỉm cho Thomas mà kêu lên như thế còn gì.”

“Chỉ có mỗi một lần thôi.”

“Hai lần. Mà chị mới thay cho thằng bé có ba lần cả thảy.” Tôi múc ít đỗ xanh, cố tỏ ra lạc quan hơn cảm giác trong lòng.

Nhưng ngay từ khi ngồi trên chuyến xe buýt về nhà, những ý nghĩ tương tự cũng đã bắt đầu náo loạn trong đầu tôi. Chúng tôi sẽ nói gì đây? Sẽ ra sao nếu suốt ngày anh ta cứ nghẹo đầu nhìn tôi chăm chăm? Tôi có hoảng sợ không? Nếu tôi không hiểu nổi anh ta muốn gì thì sao? Tôi đặc biệt kém trong khoản chăm sóc mọi thứ; ở nhà chúng tôi chẳng còn cây cối hay vật nuôi gì nữa sau thảm họa hamster, bọ que và cá vàng. Và bà mẹ băng giá của anh ta có thường xuyên lượn lờ qua lại không? Tôi không thích cái ý nghĩ suốt ngày bị giám sát. Bà Traynor trông có vẻ là kiểu phụ nữ sẵn sàng nhúng tay vào mọi chuyện.

“Patrick, tóm lại thì cậu nghĩ gì về tất cả chuyện này?”

Patrick uống một hơi nước thật dài, rồi nhún vai. Bên ngoài, mưa đập trên ô cửa sổ, nghe rõ hơn cả tiếng thìa nĩa và chén đĩa.

“Công việc đó được trả nhiều tiền, chú Bernard. Dù sao thế còn tốt hơn làm ca đêm ở lò giết mổ gà.”

Mọi người quanh bàn đều lầm bầm đồng tình.

“À, thật buồn cười khi điều hay ho duy nhất anh có thể nói về công việc mới của em là nó tốt hơn việc vận chuyển lũ gà đã làm thịt lòng vòng trong cái lò giết mổ rộng như kho chứa máy bay,” tôi nói.

“Ồ, con có thể vừa làm vừa tập thể dục luôn rồi tới làm mấy việc huấn luyện thể hình với Patrick đây này.”

“Tập thể dục. Cảm ơn, bố.” Tôi đã đưa tay ra định xúc thêm một thìa khoai tây, nhưng giờ lại đổi ý.

“Ồ, sao lại không nhỉ?” Mẹ trông như định ngồi xuống – mọi người ngừng lại một chốc, nhưng không, mẹ lại thẳng người lên, múc cho ông ngoại một ít nước xốt. “Chuyện đó cũng đáng suy nghĩ cho tương lai đấy. Con có khiếu nói chuyện mà.”

“Nó có khiếu tích mỡ thì có,” bố tôi đập lại.

“Con đã có cho mình một công việc,” tôi nói. “Được trả nhiều hơn việc cũ, thưa bố.”

“Nhưng đó chỉ là tạm thời thôi,” Patrick xen vào. “Bố em nói đúng đấy. Có khi em sẽ muốn bắt đầu có cơ thể thon gọn trong khi em làm việc đó. Em có thể trở thành một huấn luyện viên thể hình giỏi, nếu em chịu khó một chút.”

“Em không muốn trở thành huấn luyện viên thể hình. Em không có hứng… tất cả những trò đó… nhảy tưng tưng.” Tôi lầm bầm xúc phạm Patrick, anh chỉ cười khì khì.

“Điều Lou muốn là một công việc để chị ấy có thể thư giãn, được xem ti-vi buổi ngày trong khi cho ông tướng đó ăn uống qua ống hút,” Treena nói.

“Đúng đấy. Bởi vì cắm lại mấy bông thược dược ẻo lả vào xô nước đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của tinh thần và thể chất mà, phải không Treen?”

“Mọi người đang trêu con mà con yêu.” Bố nâng cốc trà lên. “Con có việc là tuyệt rồi. Mọi người rất tự hào về con. Và bố cá với con là một khi con đã đặt được chân vào dinh thự đó thì các vị đại gia ấy sẽ không muốn loại bỏ con đâu.”

“Chết tiệt,” Thomas bi bô.

“Không phải anh,” bố vừa nói vừa nhai, trước khi mẹ kịp nói gì.

Full | Tiếp trang 2

Loading...

Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!

Chúc các bạn online vui vẻ !

Laptop Tùng Anh

Tour Phú Quốc

Vinhomes Cầu Rào 2

Trang Chủ

XtGem Forum catalog