80s toys - Atari. I still have
Tiểu thuyết tình yêu

Tiểu Thuyết Tình Yêu

Đọc truyện tại Tiểu Thuyết Tình Yêu

Loading...

Tiểu thuyết - Trước ngày em đến - Trang 3

Full | Lùi trang 2 | Tiếp trang 4

CHƯƠNG 5

Vấn đề của việc bị ném mạnh vào một cuộc đời hoàn toàn mới – hay ít nhất cũng là bị xô cật lực vào cuộc đời của người khác mà ở đó bạn phải cùng gí mặt vào ô cửa sổ nhà họ – nằm ở chỗ nó bắt bạn phải nghĩ lại về ý niệm bạn là ai. Hoặc trong mắt kẻ khác bạn là người như thế nào.

Với bố mẹ, tất cả những gì tôi mang lại trong bốn tuần ngắn ngủi là thêm đôi ba chút thú vị. Giờ đây tôi là cầu nối tới một thế giới khác. Đặc biệt là mẹ tôi, ngày nào mẹ cũng hỏi đủ thứ về dinh thự Granta và những thói quen trong gia đình đó theo cái cách mà một nhà động vật học say mê nghiên cứu một sinh vật mới lạ lùng và môi trường sống của nó. Mẹ hay hói “Bữa ăn nào bà Traynor cũng dùng khăn ăn bằng vải lanh à?” hoặc, “Họ làm gì với khoai tây?”

Sáng nào tiễn tôi đi làm mẹ cũng nghiêm khắc chỉ đạo tôi tìm hiểu xem họ dùng giấy vệ sinh của hãng nào, liệu có phải ga nhà họ đều là vải poly-cotton không. Tôi hầu như chẳng nhớ được lần nào, điều đó khiến mẹ vô cùng thất vọng. Mẹ tôi thầm tin rằng người quyền quý sống giống loài lợn – kể từ năm tôi lên sáu, khi tôi kể cho mẹ nghe về một bạn con nhà giàu cùng lớp, mẹ bạn ấy không cho chúng tôi chơi ở gian sảnh “vì chúng tôi sẽ quấy rối bụi bặm.”

Khi tôi về nhà tường thuật lại rằng, phải, tất nhiên là chó được phép ăn trong phòng bếp, hoặc là, không, không phải ngày nào nhà Traynor cũng lau chùi bậc tam cấp như mẹ, mẹ sẽ bĩu môi, liếc sang bố và khẽ gật đầu thỏa mãn, như thể tôi vừa thừa nhận mọi điều bà vốn đã nghi ngờ về tình trạng ăn ở lôi thôi luộm thuộm của giới thượng lưu.

Sự phụ thuộc của bố mẹ vào thu nhập của tôi, hay có lẽ là chuyện họ biết tôi thật sự không ưa công việc này, đồng nghĩa với việc tôi cũng nhận được thêm một chút tôn trọng trong nhà. Thật ra điều này cũng không có ý nghĩa gì nhiều – trong trường hợp của bố tôi, nó có nghĩa là bố thôi gọi tôi là “nàng mập”, còn với mẹ tôi, nó có nghĩa là thường có một tách trà đợi sẵn khi tôi về nhà.

Với Patrick, và với em gái tôi, tôi chẳng khác trước chút nào – vẫn là trung tâm của chọc ngoáy, vẫn là nơi nhận những cái ôm hôn, những giận hờn. Trong tôi cũng không thấy có gì thay đổi. Trông tôi vẫn như cũ, vẫn ăn mặc – theo lời Treen – giống như tôi đã có một trận đấu vật trong cửa hàng từ thiện.

Tôi không hay biết hầu hết mọi người trong dinh thự Granta nghĩ gì về tôi. Will thì khó dò. Với Nathan, tôi nghĩ tôi chỉ là người mới nhất trong chuỗi dài những người chăm sóc được thuê. Ông khá thân tình, nhưng hơi tư lự. Tôi có cảm giác ông không tin tôi sẽ trụ ở đây lâu. Ông Traynor thường lịch sự gật đầu chào mỗi khi chúng tôi đi qua nhau trong sảnh, thỉnh thoảng hỏi tôi giao thông hôm đó thế nào, hoặc tôi đã ổn mọi việc ở đó chưa. Tôi không chắc ông có thể nhận ra tôi không nếu ông được giới thiệu về tôi trong một hoàn cảnh khác.

Còn với bà Traynor – ôi trời ơi – với bà Traynor, tôi rõ ràng là người ngớ ngẩn vô tích sự nhất hành tinh.

Điều đó khơi nguồn từ chuyện khung ảnh. Chẳng có điều gì trong ngôi nhà đó lọt khỏi tầm mắt của bà Traynor, và lẽ ra tôi phải biết trước rằng chuyện vỡ khung ảnh to tát chẳng kém gì một vụ động đất. Bà vặn vẹo tôi xem chính xác thì tôi đã bỏ Will một mình trong bao lâu, điều gì đã khiến tôi làm thế, tôi dọn dẹp đống hỗn độn nhanh chậm thế nào. Thật tình bà không chỉ trích tôi – bà quá quý phái nên không thể dù chỉ cao giọng – nhưng cái cách bà chầm chậm chớp mắt trước những câu trả lời của tôi, tiếng hư-hử khe khẽ của bà khi tôi nói, bảo với tôi mọi điều tôi cần biết. Tôi chẳng ngạc nhiên khi Nathan nói với tôi rằng bà là quan tòa.

Bà nghĩ sẽ là một ý hay nếu lần tới tôi không bỏ mặc Will lâu như vậy, dù tình huống có khó xử tới mức nào, hử? Bà nghĩ có lẽ lần lau dọn tiếp theo, tôi nên đảm bảo rằng mọi thứ không quá gần mép để tránh trường hợp chẳng may chúng rơi xuống sàn, hử? (Dường như bà thích tin rằng đó là một tai nạn thì hơn.) Bà khiến tôi cảm thấy mình giống một con ngốc thượng hạng khi ở cạnh bà. Bà luôn xuất hiện ngay khi tôi đánh rơi thứ gì đó xuống sàn, hoặc đang đánh vật với nút vặn bếp lò, hoặc bà sẽ đứng ngay giữa lối đi nhìn với vẻ hơi bực bội lúc tôi bước vào nhà sau khi đi lấy củi bên ngoài, như thể tôi đã đi lâu hơn rất nhiều so với mức cần thiết.

Lạ lùng là thái độ của bà khiến tôi thấy sợ hơn sự thô lỗ của Will. Đôi lần tôi rất muốn hỏi thẳng bà xem có gì sai quấy không. Tôi muốn nói, Bà đã bảo bà mướn tôi vì thái độ của tôi chứ không phải kỹ năng nghiệp vụ cơ mà. Ồ, thì tôi đây, cứ tươi vui dù ngày nào cũng thật nghiệt ngã. Rất mạnh khỏe, đúng như bà mong muốn. Thế thì vấn đề của bà là gì đây?

Nhưng Camilla Traynor không phải kiểu phụ nữ mà ta có thể nói ra điều đó. Vả chăng, tôi có cảm giác là trong nhà đó chưa từng có ai nói thẳng điều gì với ai.

“Lily, cô giúp việc gần đây của chúng tôi, có thói quen rất thông minh là sử dụng cái chảo đó cho hai loại rau cùng một lúc,” có nghĩa Cô làm ăn lộn xộn quá.

“Con có muốn uống trà không Will,” thực sự có nghĩa Mẹ chẳng biết phải nói gì với con cả.

“Mẹ nghĩ có mấy công việc giấy tờ mẹ cần sắp xếp,” có nghĩa Con thô lỗ quá, mẹ ra khỏi cái phòng này đây. Tất cả những lời ấy luôn thốt ra cùng nét mặt thoáng đau thương, và những ngón tay gầy rộc cứ kéo cây thập ác lên xuống trên sợi dây chuyền. Bà quá kín kẽ, quá dè chừng. Bà khiến tôi thấy mẹ mình chẳng khác gì Amy Winehouse. Tôi mỉm cười lịch sự, vờ như tôi chẳng để ý thấy điều gì, chỉ làm công việc mà tôi được trả công để làm.

Hoặc chí ít, tôi cố tỏ ra như thế.

“Sao cô cứ giấu cà-rốt vào đĩa của tôi thế?”

Tôi liếc nhìn xuống đĩa thức ăn. Tôi đang mải nhìn cô phát thanh viên trên ti- vi và tự nghĩ không biết tóc mình sẽ thế nào nếu nhuộm cùng màu đó.

“Gì ạ? Đâu có.”

“Rõ là có. Cô nấu cà-rốt cho nhừ rồi cố che giấu trong nước xốt. Tôi thấy rồi.”

Tôi đỏ mặt. Anh ta nói đúng. Tôi đang ngồi đút cho Will ăn, trong khi hai chúng tôi cùng lơ đãng xem bản tin trưa. Bữa ăn có bò nướng và khoai tây hầm. Mẹ anh ta bảo tôi bỏ ba loại rau củ vào đĩa, dù anh ta đã nói rõ ràng rằng hôm nay anh ta không muốn ăn rau. Tôi không nghĩ có bữa ăn nào mà tôi được chỉ dẫn chuẩn bị lại hoàn toàn thiếu cân bằng dinh dưỡng tới vậy.

“Sao cô cứ cố nhồi cà-rốt cho tôi?” “Đâu có.”

“Thế không có cà-rốt trong món đó hả?”

Tôi nhìn vào những mẩu nhỏ xíu màu cam. “Ừm… à…” Anh ta nhướng mày chờ đợi.

“Ờ… tôi cho là tôi đã nghĩ rau sẽ rất tốt cho anh, phải không ạ?”

Chuyện này một phần là vì vâng lời bà Traynor, một phần là vì thói quen. Tôi thường xuyên cho Thomas ăn, rau của nó phải xay nhuyễn và giấu dưới từng ụ khoai tây, hoặc che trong những mẩu mì ống. Qua mặt được nó mẩu rau nào là chúng tôi lại thấy như một thắng lợi nho nhỏ.

“Để tôi nói thẳng chuyện này nhé. Cô nghĩ một thìa cà-phê cà-rốt sẽ làm tăng chất lượng cuộc sống của tôi hả?”

Thật ngớ ngẩn khi anh ta đánh giá chuyện này như thế. Nhưng tôi đã học được rằng điều quan trọng là không được tỏ ra ngạc nhiên trước bất kỳ điều gì Will làm hoặc nói. “Tôi hiểu ý anh rồi,” tôi nói bình thản. “Tôi sẽ không làm thế nữa.”

Thế rồi bỗng dưng, Will Traynor cười khanh khách. Cơn cười bật ra khiến anh ta thở hổn hển, như thể đây là chuyện vô cùng bất ngờ.

“Vì Chúa,” anh ta lắc đầu. Tôi nhìn anh ta chằm chằm.

“Cô đã lén cho thứ chết tiệt gì nữa vào thức ăn của tôi vậy? Tiếp theo cô sẽ bảo tôi mở đường hầm để Ngài Tàu hỏa có thể giao gửi ít cải Brussel mềm cho nhà ga đỏ.”

Tôi suy nghĩ điều này trong một phút. “Không,” tôi nói, mặt nghiêm trang. “Tôi chỉ xoay xở với Ngài Dĩa thôi. Ngài Dĩa trông chẳng giống con tàu chút nào.”

Thomas đã bảo với tôi như vậy, rất đinh ninh, mấy tháng trước. “Mẹ tôi đã bảo cô làm thế này à?”

“Không. Nghe này, Will, tôi xin lỗi. Tôi chỉ… không nghĩ.” “Kiểu như thế là bất bình thường.”

“Được rồi, được rồi. Tôi sẽ bỏ món cà-rốt phải gió này ra, nếu nó thực sự khiến anh bực mình tới vậy.”

“Không phải món cà-rốt phải gió làm tôi bực mình. Mà là chuyện cà-rốt giấu trong thức ăn của tôi bởi một cô nàng dở hơi cứ gọi dao dĩa và Quý ngài và Quý bà Dĩa.”

“Chỉ đùa thôi mà. Nghe này, để tôi lấy cà-rốt đi và…”

Anh ta quay đi. “Tôi không muốn ăn gì nữa. Chỉ cần pha cho tôi một tách trà.” Anh ta gọi với theo khi tôi rời khỏi phòng, “Và đừng có cố nhét bầu đất chết giẫm vào trà đấy.”

Nathan bước vào khi tôi vừa rửa xong đĩa. “Tâm trạng cậu ấy đang tốt,” ông nói, khi tôi đưa ông một tách trà.

“Thật sao?” Tôi đang ăn sandwich trong phòng bếp. Ngoài trời lạnh thấu xương thấu phổi, và chẳng hiểu sao gần đây không khí trong nhà có cảm giác không còn căng thẳng như trước.

“Cậu ấy nói cô đang cố đầu độc cậu ấy. Nhưng cậu ấy nói chuyện đó – cô biết đấy – với giọng vui vẻ.”

Thông tin này khiến tôi thấy vui sướng một cách kỳ cục. “À… ừm…” Tôi nói, cố che giấu cảm xúc đó. “Cứ đợi đấy.”

“Cậu ấy còn nói đôi điều nữa. Có nhiều tuần cậu ấy chẳng nói một lời nào, nhưng rõ ràng là mấy ngày gần đây cậu ấy đã chịu nói chút ít.”

Tôi nghĩ tới lúc Will bảo tôi nếu tôi không thôi cái trò huýt sáo dở hơi đi thì anh ta sẽ buộc phải tống cổ tôi đi. “Tôi nghĩ định nghĩa của anh ta và của tôi về hay nói có phần khác nhau.”

“À, chúng tôi đã nói đôi điều về cricket. Và tôi phải nói với cô…” Nathan hạ giọng “… Khoảng một tuần trước bà T hỏi tôi nghĩ cô có làm được việc không. Tôi nói tôi nghĩ cô rất chuyên nghiệp, nhưng tôi biết rằng bà ấy không định hỏi chuyện đó. Thế nên hôm qua bà ấy vào bảo với tôi rằng bà ấy nghe thấy hai cô cậu đang cười.”

Tôi nhớ lại chập chiều hôm qua. “Anh ấy cười tôi,” tôi nói. Will thấy thật ngộ nghĩnh khi tôi không biết sốt pesto là gì. Tôi đã bảo với anh ta bữa tối là “mì ống trộn nước xốt xanh xanh.”

“À, bà ấy không quan tâm đâu. Đã quá lâu rồi cậu ấy chẳng cười trước điều gì.”

Quả thực là thế. Will và tôi dường như đã tìm được cách dễ dàng hơn để ở cạnh nhau. Nó chủ yếu xoay quanh cách anh ta thô lỗ với tôi, và đôi khi tôi cũng thô lỗ lại. Anh ta nói gì đó không êm tai với tôi, tôi bật lại rằng nếu chuyện ấy thực sự quan trọng với anh thì hãy hỏi tôi cho tử tế. Anh ta nhiếc tôi, hoặc gọi tôi là kẻ lắm điều rắc rối, thì tôi sẽ bảo anh ta cứ thử không có kẻ lắm điều rắc rối này coi anh ta chịu được bao lâu. Cách này cần nỗ lực đôi chút, nhưng dường như nó hiệu quả với cả hai chúng tôi. Đôi khi thậm chí dường như anh ta cảm thấy nhẹ nhõm khi có người chuẩn bị cư xử thô lỗ với anh ta, cãi vã hoặc nói anh ta là kẻ tồi tệ. Tôi có cảm giác là mọi người đều rón chân quanh anh ta kể từ sau vụ tai nạn – có lẽ chỉ trừ Nathan, dường như Will đối xử với sự tôn trọng tự nhiên, còn ông thì miễn nhiễm với những lời bình luận châm chích của anh ta. Nathan giống như cỗ xe tăng đội lốt người.

“Cô chỉ cần đảm bảo rằng cô vẫn sẽ là trung tâm trêu chọc của cậu ấy, được chứ?”

Tôi đặt cái tách vào bồn rửa. “Tôi nghĩ chuyện đó không thành vấn đề.”

Một thay đổi lớn nữa, ngoại trừ sự thay đổi không khí trong ngôi nhà, là Will không thường xuyên bảo tôi để anh ta một mình như trước nữa, và có đôi buổi chiều anh ta còn hỏi tôi có muốn ở lại xem phim với anh ta không. Tôi chẳng quá phiền khi đó là phim The Terminator (Kẻ hủy diệt) – dù tôi đã xem trọn các tập phim Kẻ hủy diệt – nhưng khi anh ta chiếu cho tôi bộ phim của Pháp có phụ đề thì tôi liếc nhanh lên bìa đĩa rồi nói tôi nghĩ có lẽ tôi không nên tham gia.

“Tại sao?”

Tôi nhún vai. “Tôi không thích xem phim với phụ đề.”

“Thế thì khác gì nói cô không thích xem phim có diễn viên nam. Đừng có ngớ ngẩn thế. Cô không thích gì ở nó chứ? Chuyện cô vừa phải đọc vừa phải xem à?”

“Chỉ là tôi không thích phim nước ngoài.”

“Mọi phim sau phim Local Bloody Hero (Nhiệt huyết anh hùng) đều là phim nước ngoài cả. Cô nghĩ Hollywood là ngoại ô Birmingham chắc?”

“Buồn cười thật.”

Anh ta không tin nổi khi tôi thừa nhận thực sự tôi chưa bao giờ xem phim có phụ đề. Nhưng bố mẹ tôi thường chiếm quyền sở hữu cái điều khiển ti-vi vào buổi tối, còn Patrick thì thích xem phim nước ngoài cũng chẳng kém gì thích đề nghị chúng tôi tham gia lớp học thêu thùa buổi tối. Rạp chiếu phim ở thị trấn gần nhà chúng tôi nhất chỉ chiếu những bộ phim hành động hoặc phim hài lãng mạn mới nhất, cái rạp đó quá ồn ào với lũ trẻ mặc áo chui đầu la hò ầm ĩ mà đa phần người dân quanh thị trấn ấy hiếm khi để tâm.

“Cô phải xem phim này, Louisa. Nói thật nhé, tôi lệnh cho cô xem phim này.” Will lùi xe lại, hất đầu về chiếc ghế bành. “Kia. Cô ngồi kia. Phim chưa hết thì đừng có mà đi đâu. Chưa bao giờ xem phim nước ngoài. Chúa ơi,” anh ta lầm bầm.

Đó là một bộ phim cũ, kể về một anh gù được thừa kế một ngôi nhà ở miền quê nước Pháp, Will nói nó dựa trên một cuốn sách nổi tiếng, nhưng tôi nói tôi chưa từng nghe về tác phẩm ấy. Hai mươi phút đầu tôi cứ ngọ nguậy không yên, bực mình khi phải đọc phụ đề và tự hỏi Will có nổi giận không nếu tôi bảo là tôi cần đi tiểu.

Thế rồi có điều gì đó xảy ra. Tôi thôi nghĩ về chuyện thật quá khó khi phải vừa xem vừa nghe, quên luôn thời gian biểu dùng thuốc của Will, quên nỗi băn khoăn không biết bà Traynor có nghĩ tôi đang chây lười không, tôi bắt đầu lo lắng cho người đàn ông tội nghiệp và gia đình anh ta, đang bị đám hàng xóm độc ác gài bẫy. Khi Anh Gù chết, tôi khóc lặng lẽ, quệt nước mũi vào ống tay áo.

“Thế nào,” Will nói, xuất hiện bên cạnh tôi. Anh ta ranh mãnh liếc nhìn tôi. “Cô không thích xem phim đó chút nào hả.”

Tôi ngước lên, ngạc nhiên khi nhận ra bên ngoài trời đã tối sầm. “Giờ thì anh hả hê rồi phải không?” Tôi lầm bầm, với tay lấy hộp khăn giấy.

“Một chút. Tôi chỉ kinh ngạc khi cô đã tới độ tuổi trưởng thành là – bao nhiêu nhỉ?”

“Hai sáu.”

“Hai sáu, mà chưa từng xem bộ phim phụ đề nào.” Anh ta nhìn tôi lau mắt. Tôi liếc xuống khăn giấy thì nhận ra mình không còn chút mascara nào nữa.

“Tôi chẳng thấy chuyện đó là bắt buộc,” tôi gầm gừ.

“Được rồi. Thế cô làm gì với bản thân, Louisa Clark, nếu cô không xem phim?”

Tôi vo khăn giấy trong nắm tay. “Anh muốn biết tôi làm gì khi tôi không ở đây hả?”

“Cô là người muốn chúng ta biết về nhau mà. Thế thì nói đi nào, kể tôi nghe về cô.”

Anh ta có cái kiểu nói khiến người khác không bao giờ dám chắc anh ta không hề bỡn cợt họ. Tôi đang chờ anh ta tiếp tục trò bỡn cợt. “Tại sao?” tôi hỏi. “Tại sao tự nhiên anh lại muốn biết vậy?”

“Ôi, vì Chúa. Đó đâu phải bí mật quốc gia gì chứ, cuộc sống xã hội của cô ấy mà, phải không?” Anh ta bắt đầu tỏ ra bực bội.

“Tôi không biết…” tôi nói. “Tôi đi uống ở quán rượu. Thỉnh thoảng xem ti-vi. Tôi đi xem bạn trai chạy. Không thường xuyên lắm.” “Cô xem bạn trai chạy.”

“Phải.”

“Mà bản thân cô không chạy.”

“Không. Tôi không thực sự” – tôi liếc nhìn xuống ngực – “sinh ra để chạy.” Câu đó khiến anh ta mỉm cười.

“Còn gì khác nữa?”

“Còn gì khác ư, ý anh là sao?”

“Sở thích? Du lịch? Những nơi cô thích tới?”

Giọng anh ta đang bắt đầu nghe giống giọng ông thầy dạy nghề cũ của tôi.

Tôi cố nghĩ. “Tôi không thật sự có sở thích. Thỉnh thoảng tôi đọc. Tôi thích quần áo.”

“Xoàng,” anh ta nói cộc lốc.

“Anh hỏi mà. Thật sự tôi không phải người có nhiều sở thích.” Giọng tôi trở nên phòng vệ lạ thường. “Tôi không làm gì nhiều, được chưa? Tôi đi làm rồi về nhà thôi.”

“Cô sống ở đâu?”

“Phía bên kia tòa lâu dài. Đường Renfrew.”

Trông anh ta ngơ ngác không rõ. Tất nhiên là thế rồi. Có quá ít xe cộ qua lại giữa hai đầu lâu đài. “Nó ở cuối con đường hai làn. Gần quán McDonald.”

Anh ta gật đầu, nhưng tôi không chắc anh ta có thật sự biết nơi tôi đang nói tới không.

“Ngày nghỉ thì sao?”

“Tôi từng tới Tây Ban Nha, với Patrick. Bạn trai tôi,” tôi nói thêm. “Khi còn nhỏ, chúng tôi chỉ tới Dorset. Hoặc Tenby. Dì tôi sống ở Tenby.”

“Thế cô muốn gì?” “Tôi muốn gì là sao?”

“Từ cuộc sống của cô ấy mà?”

Tôi chớp mắt. “Như thế hơi sâu quá đấy nhỉ?”

“Chỉ chung chung thôi. Tôi đâu có đòi hỏi cô phân tích bản thân. Tôi chỉ hỏi, cô muốn gì? Kết hôn? Đẻ ra mấy nhóc? Công việc mơ ước? Du lịch thế giới?”

Tôi im lặng hồi lâu.

Tôi nghĩ trước khi nói ra những lời này tôi đã biết câu trả lời của mình sẽ khiến anh ta thất vọng. “Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ thực sự nghĩ về điều đó.”

Vào thứ Sáu, chúng tôi đi bệnh viện. Tôi mừng vì tôi không biết về cuộc hẹn của Will trước khi tôi tới làm sáng đó, vì nếu biết tôi sẽ nằm chong mắt suốt đêm lo lắng chuyện phải chở anh ta tới đó. Tôi biết lái xe, đúng. Nhưng tôi nói tôi biết lái xe đúng với cách tôi nói tôi biết nói tiếng Pháp. Phải, tôi đã tham gia kỳ sát hạch thích đáng và vượt qua. Nhưng từ khi có bằng tôi không sử dụng kỹ năng đặc biệt đó quá một lần mỗi năm. Ý nghĩ chất Will và chiếc xe lăn lên chiếc xe đa dụng rồi chở anh ta an toàn tới thị trấn bên cạnh rồi quay về khiến tôi tràn ngập nỗi sợ khủng khiếp.

Nhiều tuần liền, tôi đã hy vọng rằng ngày lao động của tôi có việc gì đó đòi hỏi phải ra ngoài. Nhưng giờ tôi sẵn sàng làm mọi thứ chỉ để được ở trong nhà. Tôi để tấm card bệnh viện của anh ta giữa đống giấy tờ liên quan tới sức khỏe của anh ta – một tập dày cộm chia thành các mục “vận chuyển”, “bảo hiểm”, “sống chung với tật nguyền,” và “lịch hẹn khám”. Tôi cầm tấm card lên và kiểm tra xem nó có ghi ngày hôm nay không. Trong tôi thoáng chút hy vọng rằng Will đã nhầm.

“Mẹ anh có tới không?”

“Không. Bà không tới các cuộc hẹn khám của tôi.”

Tôi không giấu được nỗi ngạc nhiên. Tôi đã nghĩ bà sẽ muốn giám sát mọi mặt công cuộc điều trị anh ta.

“Trước đây bà hay tới,” Will nói. “Giờ thì chúng tôi có một thỏa thuận.” “Nathan có tới không?”

Tôi đang quỳ trước mặt anh ta. Tôi quá căng thẳng tới nỗi đã đánh rơi ít thức ăn trưa xuống lòng anh ta và giờ đang nỗ lực tuyệt vọng lau nó đi, thế nên một mảng quần của anh ta bị ướt nhẹp. Will chẳng nói gì, chỉ bảo tôi làm ơn thôi xin lỗi đi, nhưng điều đó không giúp tôi hết cảm giác căng thẳng bao trùm.

“Để làm gì?”

“Không có gì.” Tôi không muốn anh ta biết tôi đang sợ thế nào. Tôi đã dành phần lớn buổi sáng hôm đó – thời gian tôi thường dành để lau chùi – để đọc đi đọc lại cuốn sách mỏng hướng dẫn sử dụng xe nâng nhưng giờ tôi vẫn cứ sợ chết khiếp khi nghĩ tới lúc tôi phải một mình thực hiện nhiệm vụ nhấc anh ta lên không trung bảy mươi phân.

“Thôi nào, Clark. Có chuyện gì thế?”

“Được rồi. Tôi chỉ… tôi chỉ nghĩ lần đầu này sẽ dễ dàng hơn nếu có ai đó khác biết về dây dợ.”

“Ai đó khác tôi hả,” anh ta nói. “Tôi không có ý đó.”

“Vì không thể kỳ vọng tôi biết chút gì về việc chăm sóc chính tôi hả?”

“Anh biết hoạt động bàn nâng xe lăn hả?” tôi nói không giấu giếm. “Anh có thể nói chính xác cho tôi biết phải làm gì đúng không?”

Anh ta quan sát tôi, cái nhìn của anh ta phẳng lặng. Nếu đang đấu tranh tư tưởng, thì dường như anh ta đã thay đổi ý định. “Được rồi. Đúng thế, ông ấy sẽ tới. Ông ấy sẽ phụ một tay. Vả lại tôi nghĩ nếu có ông ấy ở đây thì cô sẽ giúp mình bớt căng thẳng đi.”

“Tôi đâu có căng thẳng,” tôi phản đối.

“Rõ ràng còn gì.” Anh ta liếc nhìn xuống lòng mình, tôi vẫn đang dùng khăn lau chùi chỗ đó. Tôi đã đánh đổ sốt mì ống, nhưng ướt cả vào người anh ta. “Thế tôi sắp được tha chưa đây?”

“Tôi chưa xong,” tôi cắm máy sấy tóc vào ổ điện và chĩa thẳng ống sấy vào đũng quần anh ta.

Khi khí nóng lan tỏa lên quần, anh ta nhướng mày.

“À, ừm,” tôi nói. “Đó không hẳn là việc tôi nghĩ mình phải làm vào chiều thứ Sáu.”

“Cô rất căng thẳng phải không?”

Tôi biết rõ là anh ta đang quan sát tôi.

“Ôi, tươi tỉnh lên nào Clark. Tôi mới là người bị luồng khí nóng bỏng sấy thẳng vào hạ bộ cơ mà.”

Tôi không đáp. Tôi nghe giọng anh ta qua tiếng rào rào của máy sấy tóc. “Thôi nào, còn chuyện gì tệ hại hơn có thể xảy ra cơ chứ – rốt cuộc tôi đã ngồi xe lăn rồi còn gì?”

Nghe thì ngớ ngẩn, nhưng quả thực tôi không thể không phá lên cười. Đây là biểu hiện rõ ràng nhất Will thực sự đang cố làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn.

Nhìn bên ngoài chiếc xe trông giống một chiếc xe chở người bình thường, nhưng khi cửa sau chỗ ghế hành khách mở ra, một đường trượt hạ từ một bên hông xe xuống đất. Trước sự quan sát của Nathan, tôi đẩy chiếc xe đi ngoài trời của Will (anh ta có một chiếc dành riêng để du ngoạn) thẳng vào đường trượt, kiểm tra phanh khóa điện.

Nathan ngồi vào ghế khách còn lại, cài dây an toàn cho anh ta và chốt bảo vệ cho xe lăn. Cố ngăn đôi tay thôi run rẩy, tôi thả phanh tay rồi từ từ lái xe về phía bệnh viện.

Khi đi xa khỏi ngôi nhà, Will có vẻ hơi co người lại. Trời rét căm căm, Nathan và tôi đã bọc anh ta trong khăn choàng và áo khoác dày cộp, nhưng anh ta trở nên im lặng hơn, cằm đơ ra, trông nhỏ bé trước khung cảnh bao la hơn ở xung quanh. Mỗi lần tôi nhìn vào gương chiếu hậu (khá thường xuyên – vì dù Nathan ở đó tôi vẫn lo sợ bằng cách nào đó chiếc xe sẽ tuột khỏi dây chằng), tôi đều thấy anh ta đang nhìn trân trân ra ngoài cửa sổ, vẻ mặt không đoán định nổi. Ngay cả dăm ba lần khi tôi giảm tốc hoặc phanh quá đột ngột, anh ta cũng chỉ hơi cau mặt và chờ đợi cho tôi trấn tĩnh lại.

Khi tới được bệnh viện, tôi đã toát đẫm mồ hôi. Tôi lái xe quanh bãi đỗ của bệnh viện ba lần, quá lo sợ không dám chạy lùi vào chỗ nào chưa phải chỗ rộng nhất trong bãi, cho tới khi nhận thấy hai người đàn ông bắt đầu mất bình tĩnh. Thế rồi cuối cùng, tôi hạ thấp đường trượt và Nathan giúp đẩy xe lăn của Will xuống đường nhựa.

“Tốt lắm,” Nathan nói, vỗ lưng tôi khi ông ra khỏi xe, nhưng tôi thấy khó tin đó là sự thật.

Có những thứ phải tới khi đồng hành với người ngồi xe lăn ta mới để ý thấy. Một trong số đó là hầu hết các vỉa hè đều đầy rác rến, lỗ rỗ bao nhiêu hố hốc chắp vá khủng khiếp, hoặc đơn giản là không bằng phẳng. Đi chầm chậm bên Will trong khi anh ta tự điều khiển xe đẩy dọc đường, tôi để ý thấy từng phiến đá nham nhở đều khiến anh ta bật nảy lên đau đớn, anh ta phải cẩn thận tránh vòng quanh những chỗ có khả năng gây dằn xóc. Nathan vờ như không để ý nhưng tôi thấy ông cũng đang quan sát. Will thì chỉ lộ vẻ đăm đăm và quyết tâm.

Một điều khác nữa là, hầu hết các tài xế đều hết sức vô tâm. Họ đỗ xe sát vỉa hè hoặc quá gần nhau tới nỗi chẳng có lối cho xe lăn qua đường. Tôi quá kinh ngạc, đôi lần thậm chí còn muốn để lại một tờ giấy nhắn thô lỗ trên cần gạt nước, nhưng Nathan và Will dường như đã quen rồi. Nathan chỉ ra một chỗ có thể qua đường, thế rồi chúng tôi mỗi người đi một bên Will, cuối cùng cũng qua được bên kia.

Từ khi rời nhà, Will không nói một lời.

Bản thân bệnh viện là một tòa nhà thấp tầng sáng choang, khu vực tiếp tân sạch bong trông giống một khách sạn hiện đại hơn là bệnh viện, có lẽ đây là biểu hiện của bảo hiểm tư nhân. Tôi đứng lùi phía sau khi Will xưng tên với cô tiếp tân, rồi theo anh ta và Nathan xuống một hành lang dài. Nathan mang một ba-lô to đùng chứa mọi thứ mà có thể Will sẽ cần trong cuộc hẹn ngắn ngủi này, từ cốc bê-se cho tới quần áo dự phòng. Sáng nay ông đã gói ghém đồ đạc trước mặt tôi, trình bày tỉ mỉ từng tình huống có thể xảy ra. “Tôi nghĩ sẽ rất tốt nếu chúng ta không phải làm việc này quá thường xuyên,” ông nói khi thấy vẻ mặt sợ hãi của tôi.

Tôi không theo Will vào cuộc hẹn. Nathan và tôi ngồi trên những chiếc ghế thoải mái bên ngoài phòng bác sĩ tư vấn. Ở đây không hề có mùi bệnh viện, chỉ có hương hoa tươi trong bình bên cửa sổ. Cũng không có cả những bông hoa cũ. Những thứ đồ ngoại lai to đùng mà tôi không biết gọi tên là gì được sắp xếp nghệ thuật thành những khối đơn giản.

“Họ đang làm gì trong đó?” tôi nói sau khi chúng tôi ngồi chờ được nửa tiếng.

Nathan ngước lên khỏi cuốn sách. “Chỉ là cuộc kiểm tra định kỳ sáu tháng thôi.”

“Sao, để xem anh ấy có tiến bộ tí nào không à?”

Nathan đặt sách xuống. “Cậu ấy sẽ không tốt lên chút nào cả. Đó là tổn thương tủy sống.”

“Nhưng ông vẫn trị liệu các thứ cho anh ấy.”

“Đó là để cố giữ cho thể trạng của cậu ấy ổn định – để ngăn cho cậu ấy không bị teo cơ, xương không bị khử khoáng, chân không bị tụ máu, đại loại thế.”

Khi cất tiếng trở lại, giọng ông nhẹ nhàng, như thể ông nghĩ có lẽ ông đã làm tôi thất vọng. “Cậu ấy sẽ không đi được nữa đâu, Louisa. Những chuyện đó chỉ xảy ra trên phim Hollywood. Tất cả những gì chúng ta đang làm là tránh cho cậu ấy đau đớn, và duy trì biến chuyển của cậu ấy dù ở mức độ nào đi nữa.”

“Có phải anh ấy làm những thứ này là vì ông không? Những thứ vật lý trị liệu ấy? Dường như anh ấy không muốn làm bất cứ thứ gì mà tôi đề nghị.”

Nathan nhăn mũi. “Cậu ấy làm việc đó, nhưng tôi nghĩ cậu ấy không tin tưởng. Hồi đầu tôi tới, cậu ấy khá quyết tâm. Cậu ấy đã rất chịu khó chữa trị, nhưng sau một năm không tiến triển gì, tôi nghĩ cậu ấy thấy khó giữ niềm tin chuyện chữa trị có ý nghĩa.”

“Ông có nghĩ anh ấy nên tiếp tục cố gắng không?”

Nathan nhìn chằm chằm xuống sàn nhà. “Nói thật nhé? Cậu ấy bị liệt tứ chi mức độ C5/6. Điều đó có nghĩa không có gì hoạt động từ phần này trở xuống…” ông đặt một bàn tay lên phần trên của ngực mình. “Người ta chưa tìm ra cách chữa trị tổn thương cột sống.”

Tôi nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ, nghĩ về gương mặt của Will khi chúng tôi lái xe dọc con đường tràn nắng mùa đông, cái khuôn mặt tươi cười rạng rỡ của chàng thanh niên đi trượt tuyết trong kỳ nghỉ. “Nhưng có mọi loại dịch vụ y tế trên đời mà, phải không? Ý tôi là… ở chỗ nào đó như thế này… họ hẳn sẽ chữa trị những thứ bệnh trạng thế này mọi lúc.”

“Đây là một bệnh viện rất tốt,” ông nói bình thản. “Nơi còn sống, còn mọi thứ đó?”

Nathan nhìn tôi, rồi nhìn lại vào sách. “Phải,” ông nói.

Ba giờ kém mười lăm, tôi đi lấy một tách cà-phê, Nathan cũng muốn một tách. Ông nói rằng những cuộc hẹn khám thường kéo dài khá lâu, thế nên ông sẽ giữ chỗ cho tới khi tôi quay lại. Tôi giết thời gian một lát ở khu tiếp tân, lướt qua mấy cuốn tạp chí trên sạp báo, nấn ná bên những thanh sô-cô-la.

Có lẽ đúng như đoán trước, tôi bị lạc khi tìm đường trở lại hành lang cũ và phải hỏi mấy cô y tá xem tôi phải đi hướng nào, thậm chí hai người trong số họ cũng không biết. Khi tôi về lại chỗ đó, cà-phê đã lạnh trên tay, dãy hành lang trống trơn. Khi bước lại gần hơn, tôi thấy cửa phòng bác sĩ tư vấn hé mở. Tôi lưỡng lự bên ngoài, nhưng giờ đây lúc nào tôi cũng nghe thấy tiếng bà Traynor trong lỗ tai, chỉ trích tôi vì đã bỏ mặc anh ta. Tôi lại làm thế rồi.

“Thế thì chúng tôi sẽ gặp lại ngài sau ba tháng nữa, ngài Traynor,” một giọng đang nói. “Tôi vừa điều chỉnh thuốc chống co giật và tôi sẽ đảm bảo có người gọi cho ngài để báo kết quả xét nghiệm. Có lẽ là vào thứ Hai.”

Tôi nghe giọng Will. “Tôi lấy những viên này ở quầy thuốc dưới lầu được không?”

“Được. Đây. Có thể họ sẽ đưa cho ngài thêm một số viên kia nữa.” Một giọng phụ nữ. “Tôi lấy tập hồ sơ đó được chứ?”

Tôi nhận thấy chắc là họ sắp ra. Tôi gõ cửa, và có ai đó gọi mời tôi vào. Hai cặp mắt hướng về phía tôi.

“Xin lỗi,” bác sĩ tư vấn nói, đứng lên khỏi ghế. “Tôi tưởng cô là người chăm sóc y tế.”

“Tôi là… người giúp việc của Will,” tôi nói, đứng nán lại ở cửa. Will được giữ ngả người về phía trước trên ghế để Nathan kéo áo xuống cho anh. “Xin lỗi – tôi tưởng mọi người xong xuôi rồi.”

“Cho chúng tôi thêm một phút nữa thôi, được không, Louisa?” Giọng Will vang khắp căn phòng.

Tôi vừa lầm bầm xin lỗi vừa lui ra ngoài, mặt đỏ bừng. Không phải hình ảnh tấm thân trần trụi của Will khiến tôi kinh ngạc, gầy guộc và chằng chịt sẹo. Không phải cái nhìn hơi giận dữ của bác sĩ tư vấn, hệt như ánh mắt bà Traynor nhìn tôi ngày qua ngày – một cái nhìn khiến tôi thấy mình vẫn là con ngốc chuyên làm hỏng việc như cũ, dù thực tế tôi đã nhận được mức thù lao theo giờ cao hơn.

Không, mà đó là những đường đỏ bầm rạch trên cổ tay Will, những vết sẹo dài nham nhở không lẫn vào đâu được, dù Nathan có kéo ống tay áo của Will nhanh cỡ nào.

CHƯƠNG 6

Tuyết rơi đột ngột tới nỗi khi tôi rời khỏi nhà trời còn trong xanh thế mà chưa đầy nửa tiếng sau tôi đã lướt qua một tòa lâu đài trông chẳng khác gì cái bánh cưới, phủ xung quanh là một lớp kem trắng dày ịch.

Tôi lê bước vào ngõ, bước chân tôi nặng nề và những ngón chân đã tấy đỏ, tôi run cầm cập dưới cái áo khoác lụa Tàu quá mỏng. Một luồng tuyết trắng cuộn lên từ không gian xám ngắt vô tận, gần như che khuất dinh thự Granta, phủ lấp thanh âm, và làm thế gian chậm lại với một nhịp độ lạ kỳ. Bên kia bờ giậu cắt tỉa gọn gàng, xe cộ lướt qua cẩn trọng chưa từng có, khách bộ hành chệnh choạng rên rỉ trên vỉa hè. Tôi kéo khăn choàng qua mũi, thầm ước mình đã ăn mặc thứ gì đó hợp lý hơn đôi giày búp bê và chiếc váy ngắn vải nhung.

Tôi quá ngạc nhiên khi người mở cửa không phải là Nathan mà là bố Will. “Nó đang nằm trên giường,” ông nói, ngước nhìn lên từ dưới vòm. “Nó không ổn lắm. Tôi đang nghĩ có nên gọi bác sĩ không.”

“Nathan đâu ạ?”

“Sáng nay nghỉ. Tất nhiên là nghỉ ca ngày. Gã y tá đó đến rồi đi chỉ trong tích tắc. Nếu tuyết cứ rơi thế này thì tôi không chắc lát nữa chúng ta sẽ làm gì.” Ông ta nhún vai, như thể những chuyện này là vô phương cứu chữa, rồi mất hút xuống cuối hành lang, rõ ràng là nhẹ nhõm khi không phải gánh trách nhiệm nữa. “Cô biết nó cần gì, phải không?” ông ta nói với qua vai.

Tôi cởi áo khoác và giày, và vì biết bà Traynor đang ở tòa (bà đánh dấu những ngày có hẹn lên một cuốn lịch ghi nhớ để trong gian bếp của Will), tôi cho đôi tất ướt lên lò sưởi để sấy khô. Có một đôi tất của Will trong giỏ đồ đã giặt, thế là tôi đi vào. Đôi tất rộng đến nực cười so với chân tôi, nhưng thật tuyệt vời khi có đôi chân khô ráo ấm áp. Will không đáp khi tôi gọi, thế nên một lát sau tôi pha cho anh một cốc nước, khẽ gõ cửa rồi thò đầu vào phòng. Trong bóng tối lờ mờ tôi chỉ nhìn thấy hình hài anh dưới chiếc chăn lông vịt. Anh đang say ngủ.

Tôi lùi ra một bước, đóng cửa lại sau lưng, rồi bắt tay vào những công việc buổi sáng của mình.

Mẹ tôi dường như luôn gom góp được niềm thỏa mãn thể chất từ một ngôi nhà gọn gàng sạch sẽ. Giờ đây tôi đã phải hút bụi và quét nhà hằng ngày suốt một tháng ròng, thế mà tôi vẫn không cảm nhận được sự quyến rũ đó. Tôi ngờ rằng sẽ không có lúc nào trong đời mà tôi không muốn có người khác làm việc này hơn là phải tự làm.

Nhưng trong một ngày như hôm nay, khi Will nằm bệt trên giường, và thế giới bên ngoài kia dường như đã đóng băng, tôi có thể thấy có một dạng niềm vui thiền định trong trò đi tới đi lui từ đầu này tới đầu kia khu nhà phụ này. Trong khi tôi hút bụi và đánh bóng, tôi mang chiếc đài từ phòng này qua phòng khác cùng mình, mở tiếng nhỏ để không làm phiền Will. Chốc chốc tôi lại ló cổ qua cửa, lần nào cũng thấy anh thở đều đều, thế rồi chỉ tới khi đã một giờ trưa mà anh vẫn chưa tỉnh, tôi mới bắt đầu cảm thấy hơi lo lắng.

Tôi xếp đầy giỏ củi, để ý thấy tuyết đã phủ chừng năm phân trên mặt đất. Tôi pha cho Will một ly nước mới, rồi gõ cửa. Khi gõ lần nữa, tôi gõ thật mạnh.

“Sao?” Giọng anh khàn khàn, như thể tôi vừa đánh thức anh.

“Tôi đây.” Khi thấy anh không đáp, tôi nói, “Louisa ấy mà. Tôi vào được không?”

“Tôi khó mà nhảy nhót gì được.”

Căn phòng âm u, rèm cửa chưa kéo lên. Tôi bước vào trong, để mắt làm quen với ánh sáng lờ mờ. Will nằm nghiêng, một tay khoanh trước ngực như thể để giúp anh trụ thẳng người, vẫn giữ nguyên tư thế từ nãy tới giờ. Đôi khi tôi dễ quên mất là anh không thể tự mình trở người. Một bên tóc anh dựng lên, chiếc chăn lông vịt quấn chặt quanh người. Mùi da thịt đàn ông chưa tắm, âm ấm phủ khắp căn phòng – sự mở đầu của một ngày lao động như vậy kể ra thì không khó chịu, nhưng vẫn hơi đáng ngạc nhiên.

“Tôi có thể làm gì đây? Anh muốn uống nước không?” “Tôi cần thay đổi tư thế.”

Tôi đặt ly nước xuống mặt tủ kéo rồi đi tới bên giường. “Anh… anh muốn tôi làm gì?”

Anh nuốt vào từ tốn, như thể làm thế đau lắm. “Nhấc rồi trở tôi, rồi điều chỉnh thành giường cao lên. Đây…” Anh hất đầu bảo tôi lại gần hơn. “Đặt cánh tay cô dưới cánh tay tôi, vòng hai tay sau lưng tôi rồi kéo ra sau. Cứ ngồi trên giường, như thế mới không bị trẹo thắt lưng.”

Tôi không thể coi như chuyện này không có chút nào kỳ quặc. Tôi vòng tay quanh anh, hương cơ thể anh phả đầy cánh mũi tôi, da anh ấm áp cọ vào da tôi. Trừ gặm tai anh, chẳng còn cách nào đưa tôi gần sát anh hơn được nữa. Ý nghĩ đó hơi kích thích tôi, tôi phải cố hết sức giữ vững tinh thần.

“Sao thế?”

“Không có gì.” Tôi hít một hơi, đan hai tay vào nhau và điều chỉnh vị trí cho tới khi tôi cảm thấy đã ôm được anh vững chãi. Anh to hơn tôi nghĩ, chẳng hiểu sao cả nặng hơn nữa. Thế rồi, đếm từ một đến ba, tôi kéo mạnh ra sau.

“Chúa ơi,” anh càm ràm vào vai tôi. “Sao?” Tôi suýt thả rơi anh.

“Tay cô lạnh kinh khủng.”

“Vâng. À, nếu anh mà thèm ra khỏi giường, anh sẽ biết ngoài trời tuyết rơi thật rồi đấy.”

Tôi chỉ nửa đùa, nhưng giờ tôi nhận ra da anh nóng hổi dưới lần áo phông – cái nóng ran chừng như tỏa ra từ sâu trong cơ thể anh. Anh rên khẽ khi tôi điều chỉnh cho anh dựa vào gối, tôi cố thao tác nhẹ nhàng chậm rãi hết sức. Anh chỉ cái điều khiển từ xa có thể nâng đầu và vai anh lên một chút. “Nhưng đừng cao quá,” anh lẩm bẩm. “Hơi chóng mặt.”

Tôi bật đèn ngủ lên, mặc kệ anh phản đối yếu ớt, để tôi nhìn rõ được mặt anh. “Will – anh ổn không?” Tôi phải nói câu đó hai lần anh mới trả lời tôi.

“Không phải ngày tốt nhất của tôi.” “Anh cần thuốc giảm đau không?” “Có… loại mạnh nhé.”

“Có lẽ paracetamol nhỉ?”

Anh dựa lưng vào chiếc gối lạnh ngắt rồi thở dài. Tôi đưa cái cốc bê-se cho anh, nhìn anh nuốt.

“Cảm ơn,” sau đó anh nói, và đột nhiên tôi cảm thấy không thoải mái. Will chưa bao giờ cảm ơn tôi về điều gì.

Anh nhắm mắt, trong một lát tôi cứ đứng ở cửa quan sát anh, ngực anh phập phồng dưới áo, miệng anh hơi mở ra. Hơi thở anh ngắn, và có lẽ hơi nặng nhọc hơn mọi ngày. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy anh không ngồi trên xe lăn, và tôi không chắc có phải anh nằm thế là để ổn định huyết áp hay không.

“Đi đi,” anh lẩm bẩm.

Tôi đi ra.

Tôi đọc tạp chí, chỉ thỉnh thoảng ngóc đầu lên để xem tuyết phủ dày quanh ngôi nhà, giăng lên bậu cửa sổ tạo nên khung cảnh trắng xóa như rải bột. Tới

12.30 trưa, mẹ nhắn tin cho tôi bảo rằng bố không thể chạy xe xuống đường. “Về nhà thì phải gọi điện báo trước cho bố mẹ nhé,” bà chỉ bảo. Tôi không hiểu nổi mẹ nghĩ mẹ đang làm gì nữa – tiễn bố ra đường với một chiếc xe trượt tuyết và chú chó kéo xe giống St Bernard ư?

Tôi nghe tin tức địa phương trên đài, xa lộ ùn tắc, tàu hoãn chuyến, trường học tạm thời đóng cửa là những gì trận mưa tuyết bất thần kéo theo. Tôi trở vào phòng Will, nhìn lại anh. Tôi không thích màu da của anh. Anh tái nhợt, bên má nào cũng có nhiều điểm trắng bợt.

“Will?” tôi gọi khẽ. Anh không nhúc nhích. “Will?”

Tôi thoáng trào lên cảm giác sợ hãi. Tôi gọi tên anh thật to hai lần nữa. Không có tiếng đáp. Cuối cùng, tôi cúi xuống bên anh. Mặt anh chẳng có cử động nào lộ rõ, ngực anh tôi không thấy phập phồng. Hơi thở của anh. Lẽ ra tôi phải cảm nhận được hơi thở của anh chứ nhỉ. Tôi cúi mặt xuống sát mặt anh, cố tìm một hơi thở ra. Khi không tìm được, tôi với tay ra chạm nhẹ vào mặt anh.

Anh chùn lại, mắt bật mở, chỉ cách mắt tôi chừng dăm phân. “Tôi xin lỗi,” tôi nói, nhảy bật ra sau.

Anh chớp mắt, liếc nhìn quanh phòng, như thể anh vừa ở nơi nào rất xa nhà. “Lou đây mà,” tôi nói, khi không dám chắc anh có nhận ra mình không.

Vẻ mặt anh hơi ngơ ngác. “Tôi biết.” “Anh ăn chút súp nhé?”

“Không. Cảm ơn.” Anh nhắm mắt lại. “Thêm thuốc giảm đau nhé?”

Gò má anh hơi bóng mồ hôi. Tôi đưa tay ra, chiếc chăn của anh cảm giác khá nóng và ướt đẫm. Điều đó khiến tôi lo lắng.

“Có việc gì tôi nên làm không? Ý tôi là, nếu Nathan không thể tới đây?”

“Không… Tôi ổn,” anh lẩm bẩm, rồi nhắm mắt lại.

Tôi xem qua tập tài liệu, cố tìm hiểu xem liệu tôi có bỏ sót điều gì. Tôi mở tủ thuốc, hộp đựng găng tay cao su và băng dán vết thương, tôi nhận ra mình không hề biết phải làm gì với những thứ này. Tôi gọi điện thoại nội bộ để nói chuyện với bố Will, nhưng tiếng chuông điện thoại chừng như đã mất hút vào một gian phòng trống rỗng. Tôi nghe thấy nó dội lại vào cánh cửa khu nhà phụ.

Tôi định gọi cho bà Traynor thì cánh cửa sau bật mở, Nathan bước vào, người ông bọc trong lớp lớp áo quần dày sụ, chiếc khăn len và cái mũ hầu như bịt kín cả đầu ông. Ông mang theo một luồng gió lạnh ngắt và một cơn mưa tuyết nhỏ.

“Chào,” ông nói, rũ tuyết ra khỏi giày và đóng sầm cánh cửa lại sau lưng. Cảm giác như căn nhà đột ngột bừng tỉnh sau cơn mộng mị.

“Ôi ơn Chúa ông tới rồi,” tôi nói. “Anh ấy không khỏe. Anh ấy đã ngủ gần hết cả buổi sáng mà hầu như chẳng uống gì. Tôi không biết phải làm gì nữa.”

Nathan trút vội áo khoác. “Phải đi bộ cả đoạn đường tới đây. Xe buýt ngừng chạy cả.”

Tôi đi pha trà cho ông, khi ông vào kiểm tra Will.

“Cậu ấy nóng rẫy,” ông nói. “Cậu ấy thế này lâu chưa?”

“Cả buổi sáng. Tôi đã nghĩ anh ấy sốt, nhưng anh ấy nói chỉ muốn ngủ thôi.” “Chúa ơi. Cả buổi sáng? Cô không biết cậu ấy không thể tự điều hòa nhiệt độ bản thân sao?” Ông lướt qua tôi, bắt đầu sục sạo khắp tủ thuốc. “Kháng sinh.

Loại mạnh.” Ông giơ một cái lọ lên, dốc một viên vào cái cối rồi dùng chày nghiền nát với vẻ giận dữ.

Tôi tiến lại phía sau ông. “Tôi đã cho anh ấy một viên paracetamol.” “Thế thì khác gì cho cậu ấy ăn kẹo trái cây.”

“Tôi không biết gì cả. Có ai nói cho đâu. Tôi đã mặc ấm cho anh ấy.”

“Nó ở ngay trong tập tài liệu chết tiệt đó thôi. Nghe này, Will không đổ mồ hôi giống chúng ta đâu. Thực tế từ khi bị tai nạn tới giờ cậu ấy không hề đổ mồ hôi nữa. Điều đó có nghĩa nếu hơi bị lạnh, đồng hồ nhiệt độ của cậu ấy hoạt động không chuẩn nữa. Đi lấy cái quạt lại đây. Chúng ta sẽ đưa nó vào đó cho tới khi cậu ấy mát xuống. Một cái khăn tắm nữa, để đặt dưới gáy cậu ấy. Chừng nào tuyết chưa ngừng rơi thì chúng ta không thể đưa cậu ấy đi khám được. Gã bác sĩ phải gió ấy. Sáng mai thì họ liệu liệu mà lo vụ này.”

Tôi chưa bao giờ thấy Nathan tức giận tới vậy. Ông thậm chí không còn nói chuyện trực tiếp với tôi nữa.

Tôi chạy đi lấy cái quạt.

Gần bốn mươi phút sau nhiệt độ của Will mới trở về mức chấp nhận được. Trong khi chúng tôi chờ đợi thuốc giảm sốt cực mạnh phát huy tác dụng, tôi đặt một chiếc khăn lên trán anh và một chiếc khác quanh cổ đúng như Nathan hướng dẫn. Chúng tôi cởi áo cho anh, đắp ngang ngực anh một tấm chăn cotton dễ chịu và để quạt thổi qua nó. Không bị che khuất bởi ống tay áo, những vết sẹo trên cánh tay anh lộ ra rõ rệt. Tất cả chúng tôi vờ như tôi chẳng nhìn thấy chúng.

Will hầu như im lặng khi chịu đựng tất cả sự chăm sóc, chỉ trả lời có hoặc không trước những câu hỏi của Nathan, nói yếu tới mức tôi không chắc anh có biết mình đang nói gì không. Giờ đây khi nhìn anh trong ánh sáng, tôi nhận ra anh quả là đang ốm nặng và cảm thấy thật tệ khi không phát hiện ra điều đó. Tôi cứ nói xin lỗi mãi cho tới khi Nathan bảo tôi rằng ông nghe đến bực mình rồi.

“Được rồi,” ông nói. “Cô cần quan sát những gì tôi đang làm đây. Biết đâu về sau có khi cô cần làm việc này một mình.”

Tôi cảm thấy mình không có quyền phản đối nhưng vẫn khó tránh khỏi cảm giác khó ở khi Nathan kéo lưng quần Will xuống, để lộ vùng bụng trần xanh xao, rồi cẩn trọng gỡ miếng băng dán quanh cái ống nhỏ ở bụng anh ra, lau chùi nhẹ nhàng rồi thay miếng băng. Ông chỉ cho tôi cách thay túi đựng nước tiểu trên giường, giải thích tại sao nó luôn phải để dưới thấp hơn người Will, và tôi bối rối khi quả thực sắp phải mang túi chất lỏng âm ấm đó ra khỏi phòng. Tôi mừng vì lúc này Will không nhìn tôi – không chỉ vì có thể anh sẽ buông một lời bình luận nhức tai, mà vì tôi cảm thấy về mặt nào đó việc tôi chứng kiến một phần sinh hoạt riêng tư này sẽ khiến anh xấu hổ.

“Mọi việc như thế đó,” Nathan nói. Cuối cùng, một tiếng sau, Will nằm lơ mơ, trải lưng trên tấm ga cotton mới, trông anh nếu không thực sự bình ổn thì cũng không còn ốm kịch liệt nữa.

“Để cậu ấy ngủ. Nhưng nhớ đánh thức cậu ấy hai tiếng một lần và phải đảm bảo là cô rót được vào bụng cậu ấy phần lớn cốc nước dinh dưỡng. Năm giờ thì cho thêm thuốc hạ sốt nhé? Có thể khoảng bốn giờ cậu ấy lại tăng nhiệt, nhưng không cho uống thêm gì trước năm giờ đâu.”

Tôi nguệch ngoạc mọi thứ xuống một tờ giấy nhớ. Tôi sợ làm sai bất cứ điều gì.

“Giờ cô sẽ phải làm lại những gì chúng ta vừa làm đấy, chiều tối nay. Cô làm được cả chứ?” Nathan lại chất quần áo lên mình như người Inuit rồi đi thẳng ra trời tuyết “Đọc tập tài liệu di. Đừng có hoảng hốt. Có vấn đề gì cứ gọi tôi. Tôi sẽ nói rõ cho cô tất cả. Tôi sẽ quay trở lại đây nếu thực sự cần phải thế.”

Tôi ở lại trong phòng Will sau khi Nathan đi. Quá sợ hãi không dám ở đâu khác. Trong góc phòng có một chiếc ghế bành da cũ với một ngọn đèn đọc sách, có lẽ đã có từ cuộc đời trước đây của Will, và tôi cuộn người trên đó với một tập truyện ngắn lôi xuống từ giá sách.

Căn phòng này cho cảm giác bình yên lạ thường. Qua khe hở của rèm cửa, tôi có thể nhìn thấy thế giới bên ngoài, phủ một màn trắng xóa, ngưng đọng mà tuyệt đẹp. Trong phòng rất ấm và tĩnh lặng, chỉ có tiếng rì rầm kỳ lạ của lò sưởi trung tâm ngắt quãng những ý nghĩ của tôi. Tôi đọc, thỉnh thoảng liếc lên kiểm tra thì thấy Will vẫn ngủ yên, khi đó tôi chợt nhận ra chưa có lúc nào trong đời mình, tôi chỉ ngồi trong lặng im, không làm gì cả như lúc này. Trong một ngôi nhà như nhà tôi thì con cái lớn lên không quen nổi với sự yên tĩnh, bởi liên tu bất tận là tiếng máy hút bụi ầm ĩ, tiếng ti-vi om sòm, tiếng hò hét. Trong những lúc hiếm hoi tắt ti-vi, bố tôi sẽ bật những bản thu âm cũ của Elvis và mở tiếng to hết cỡ. Ở quán cà-phê thì lúc nào cũng rì rầm tiếng chuyện trò.

Ở đây tôi có thể nghe được những suy tư của mình. Tôi hầu như còn nghe được cả tiếng tim đập. Tôi nhận ra, ngạc nhiên làm sao, tôi rất thích nơi này.

Tới năm giờ, điện thoại di động của tôi báo hiệu có tin nhắn. Will rục rịch, tôi bò ra khỏi ghế, lo sợ mình không kịp tới cái điện thoại trước khi nó quấy rầy anh.

Không có tàu. Có khả năng nào cô ngủ lại qua đêm được không? Nathan khôn thể ngủ lại. Camilla Traynor.

Tôi không nghĩ ngợi gì đã nhắn trả lời.

Không sao ạ.

Tôi gọi cho bố mẹ để nói với họ rằng tôi sẽ ngủ lại. Mẹ tôi nghe chừng nhẹ nhõm. Khi tôi bảo với mẹ là tôi sẽ được trả tiền để ngủ lại, giọng mẹ càng vui sướng.

“Anh nghe gì chưa Bernard?” mẹ nói, tay bà che hờ ống nghe. “Họ sẽ trả cho nó ngủ lại đấy.”

Tôi nghe bố cảm thán. “Tạ ơn Chúa. Nó đã tìm được công việc trong mơ của nó.”

Tôi gửi tin nhắn cho Patrick, bảo anh rằng người ta yêu cầu tôi ở lại chỗ làm và tôi sẽ gọi cho anh sau. Tin nhắn trả lời đến trong vài giây.

Tối nay chạy dọc cánh đồng tuyết. Tập luyện ra trò để tới Na Uy! XP.

Tôi tự hỏi sao người ta có thể phấn chấn tới vậy với ý nghĩ mặc quần tây áo chẽn chạy giữa nhiệt độ âm.

Will ngủ. Tôi nấu thức ăn cho mình, hâm lại ít súp phòng khi lát nữa anh muốn ăn rồi đỏ lò sưởi phòng khi anh cảm thấy đủ khỏe để ra phòng khách. Tôi đọc một cuốn truyện ngắn nữa và tự hỏi đã bao lâu rồi mình không mua sách cho mình. Hồi nhỏ tôi rất mê đọc sách, nhưng từ khi lớn lên tôi không nhớ mình có đọc gì ngoài tạp chí không. Treen thì nghiện sách. Khi cầm một cuốn sách lên, tôi gần như có cảm giác mình đang xâm lược địa bàn của nó. Tôi nghĩ về em gái và Thomas đi mất vào trường đại học, nhận ra mình vẫn chưa biết chuyện đó khiến tôi vui hay buồn – hay một cảm giác lẫn lộn khá phức tạp.

Tới bảy giờ Nathan gọi điện. Ông có vẻ thở phào khi biết tôi ngủ lại.

“Tôi không gọi được cho ông Traynor. Tôi đã gọi cả vào điện thoại cố định nhà họ, nhưng cuộc gọi chuyển thẳng vào máy trả lời tự động.”

“Ừ. À. ông ấy phải đi.” “Đi?”

Đột nhiên theo bản năng tôi cảm thấy hoảng sợ với ý nghĩ rằng chỉ có Will và tôi trong căn nhà đó suốt đêm. Tôi sợ lại làm điều gì đó sai cơ bản, gây nguy hiểm cho sức khỏe của Will. “Thế tôi có nên gọi cho bà Traynor không?”

Đầu dây bên kia im lặng một lát. “Không. Tốt nhất là không.” “Nhưng…”

“Nghe này, Lou, ông ấy thường… ông ấy thường đi tới một chỗ khác khi bà T ngủ lại trong thị trấn.”

Phải mất một hai phút tôi mới hiểu được ông đang nói gì. “Ồ.”

“Cô ở đó là tốt lắm rồi, thế là đủ. Nếu cô chắc Will đã khá hơn thì tôi sẽ trở lại ngay đầu sáng mai.”

Có những giờ bình thường, rồi lại có những giờ vô dụng, khi thời gian ngưng đọng rồi chảy trôi, ở đó cuộc đời – đời thực – dường như tồn tại ở một nơi xa cách. Tôi xem ti-vi một lát, ăn, lau chùi nhà bếp, lặng lẽ đi lại dật dờ quanh khu nhà phụ. Cuối cùng, tôi trở lại phòng Will.

Anh rục rịch khi tôi đóng cửa, hơi nhấc đầu lên. “Mấy giờ rồi Clark?” Giọng anh hơi nghèn nghẹn vì cái gối.

“Tám giờ mười lăm.”

Anh buông đầu xuống, suy nghĩ về điều này. “Cho tôi chút nước được không?”

Lúc này anh không còn chút nào vẻ ngang ngạnh, sắc bén. Như thể trận ốm cuối cùng đã khiến anh trở nên dễ tổn thương. Tôi mang đồ uống cho anh, rồi bật đèn ngủ lên. Tôi ngồi xuống bên mép giường, đặt tay lên trán anh, như mẹ tôi thường làm khi tôi còn nhỏ. Anh vẫn hơi ấm, nhưng không còn như hồi sáng nữa.

“Tay lạnh.”

“Lúc nãy anh càm ràm về nó rồi.”

“Thế ư?” Giọng anh nghe thật sự ngạc nhiên. “Anh muốn ít súp không?”

“Không.”

“Anh thấy dễ chịu không?”

Tôi chưa bao giờ biết anh cảm thấy thiếu thoải mái tới mức nào, nhưng tôi ngờ là nặng nề hơn anh tỏ ra.

“Nằm nghiêng thì tốt. Lăn tôi thôi. Tôi không cần ngồi dậy.”

Tôi trèo qua giường rồi lật anh sang bên, nhẹ nhàng hết sức. Anh không tỏa nhiệt như cái lò nung nữa, chỉ là cái ấm bình thường của một cơ thể nằm lâu dưới chăn.

“Tôi có thể làm gì khác không?” “Cô không về nhà đi à?”

“Không sao,” tôi nói. “Tôi ngủ lại.”

Ngoài kia, ánh sáng trời cuối cùng đã tắt từ lâu. Tuyết vẫn rơi. Qua cửa sổ, dưới ánh đèn thềm, tuyết tắm đẫm thứ ánh sáng vàng nhạt u sầu. Chúng tôi ngồi đó trong bình yên lặng lẽ, ngắm tuyết rơi như thôi miên.

“Tôi hỏi anh một chuyện được không?” cuối cùng tôi lên tiếng. Tôi có thể thấy đôi tay anh trên tấm chăn. Chừng như vô cùng kỳ lạ khi trông đôi tay ấy quá bình thường, quá khỏe mạnh, mà lại thật vô dụng.

“Tôi nghĩ được thôi.”

“Chuyện gì xảy ra vậy?” Tôi không thôi thắc mắc về những vết rạch trên cổ tay anh. Đó là một câu tôi không thể nào hỏi thẳng.

Khi tôi gật đầu, anh lại nhắm cả hai mắt lại. “Tai nạn xe máy. Không phải do tôi. Tôi là kẻ bộ hành vô tội.”

“Tôi cứ tưởng là do trượt tuyết hay nhay bungee hay đại loại thế.”

“Ai cũng nghĩ vậy. Trò đùa nho nhỏ của Chúa trời. Tôi đang băng qua con đường bên ngoài nhà tôi. Không phải chỗ này,” anh nói. “Nhà ở London cơ.”

Tôi nhìn chăm chú vào sách trên giá của anh. Giữa đống tiểu thuyết – sách bìa mềm của nhà xuất bản Penguin đã lật giở nhiều lần – là những cuốn sách kinh doanh có nhan đề: Luật Doanh nghiệp, Tiếp quản, hàng loạt những cái tên lạ hoắc với tôi.

“Chẳng có cách nào để anh tiếp tục công việc của mình à?”

“Không. Không thể tiếp tục với cả căn hộ, những kỳ nghỉ, cuộc đời… Tôi tin là cô đã gặp bạn gái cũ của tôi.” Khoảng lặng trong giọng anh không giấu nổi vẻ cay đắng. “Nhưng hẳn là tôi nên thấy biết ơn, vì nhiều khi họ còn không hề nghĩ tôi đang sống nữa.”

“Anh có ghét điều này không? Ý tôi là sống ở đây ấy.” “Có.”

“Có cách nào để anh có thể trở lại sống ở London không?”

“Không phải thế này, không đâu.”

“Nhưng biết đâu anh sẽ tiến triển. Ý tôi là, Nathan đã nói là có rất nhiều tiến bộ với loại chấn thương này.”

Will lại nhắm mắt.

Tôi chờ đợi, rồi tôi điều chỉnh gối dưới đầu anh, và tấm chăn quanh ngực anh. “Xin lỗi,” tôi nói, ngồi thẳng dậy. “Nếu tôi đã hỏi quá nhiều. Anh muốn tôi ra ngoài không?”

“Không. Ở lại một chút. Nói chuyện với tôi.” Anh nuốt khan. Anh lại mở mắt ra, và cái nhìn chăm chú của anh gặp ánh mắt tôi. Trông anh mệt mỏi tới không chịu nổi. “Kể tôi nghe chuyện gì vui vui.”

Tôi chần chừ một lát, rồi tôi dựa lên đống gối bên cạnh anh. Chúng tôi ngồi đó trong không gian tranh tối tranh sáng, nhìn những bông tuyết sáng lòa trong thoáng chốc biến mất vào màn đêm đen kịt.

“Anh biết không… Tôi thường nói câu đó với bố tôi,” cuối cùng tôi lên tiếng. “Nhưng nếu tôi bảo anh ông thường đáp lại thế nào, anh sẽ nghĩ tôi bị điên mất thôi.”

“Điên hơn tôi đang nghĩ bây giờ nữa à?”

“Khi tôi gặp ác mộng hoặc buồn hoặc sợ hãi điều gì, ông thường hát cho tôi nghe…” Tôi phì cười. “Ôi… Tôi không thể.”

“Tiếp đi.”

“Ông thường hát cho tôi bài ‘Bài hát Molahonkey’.” “Bài gì cơ?”

“Bài ‘Bài hát Molahonkey’. Hồi trước tôi cứ nghĩ ai cũng biết bài đó chứ.”

“Tin tôi nhé, Clark,” anh lẩm bẩm, “Với Bài hát Molahonkey, tôi còn trinh nguyên.”

Tôi hít một hơi thật sâu, nhắm mắt lại rồi bắt đầu hát. Tôi lư-lơ-ước tôi lố-lố-sống ở lê-lê-quê Malahonkey Miền lê-lê-quê nơi tôi-lôi-lôi li-lí-li-lì-li-li-sinh

Để tôi-lôi-lôi được lơi-lới-chơi cây banzô-lô-lô cũ-lu-lủ Cây banzô-lô-lô cũ-lu-lủ không kêu-lêu-lí-lêu

“Chúa ơi.”

Tôi hít một hơi nữa.

Tôi đưa-lưa-lưa nó ra-lí-la hiệu-lí-liêu sửa-lữa-chữa Nhìn-lìn-lìn xem-lem-lem họ-lọ-lọ làm gì-lí-lỉ-lì-li Họ nói-lói-lói dây-lây-lây đàn lí-lứt-đứt cả-lá-la

Nó-ló-lo không-lí-lông còn kêu-lêu-lí-lêu Tiếp theo là một khoảng im lặng ngắn. “Cô điên rồi. Cả nhà cô đều điên.” “Nhưng nó có tác dụng.”

“Và cô có giọng ca đến Thượng đế cũng phải khóc. Tôi hy vọng bố cô khá hơn.”

“Tôi nghĩ điều anh muốn nói là, ‘Cảm ơn cô Clark, vì đã cố giải khuây cho tôi.'”

“Tôi nghĩ nó có giá trị không thua gì phần lớn hỗ trợ vật lý trị liệu mà tôi từng nhận. Nào, Clark,” anh nói, “kể tôi nghe chuyện gì nữa đi. Chuyện gì đó không liên quan tới hát nhé.”

Tôi nghĩ một chút.

“À… được rồi, ừm… anh có thấy đôi giày của tôi hôm nọ không?” “Khó mà không thấy.”

“Ừm, mẹ tôi cho rằng thói quen đi giày kỳ cục của tôi có từ khi tôi lên ba. Hồi đó mẹ mua cho tôi một đôi ủng màu xanh ngọc sáng lấp lánh – khi ấy một đôi ủng như vậy là khá lạ lùng – trẻ con thường chỉ đi ủng màu xanh lá cây, hoặc màu đỏ nếu gặp may. Mẹ kể từ hôm bà mang đôi ủng đó về là tôi chẳng bao giờ chịu cởi ra. Tôi đi ủng khi đi ngủ, đi tắm, tới nhà trẻ trong suốt cả mùa hè ấy. Trang phục yêu thích của tôi là đôi ủng lóng lánh đó và chiếc quần bó ong nghệ.”

“Quần bó ong nghệ ư?” “Sọc vàng sọc đen ấy mà.” “Hay gớm.”

“Nó hơi nhám.”

“À, phải thôi. Nghe đã thấy sợ rồi.”

“Có thể với anh thì nghe sợ đấy, nhưng Will Traynor ạ, điều ngạc nhiên là không phải cô gái nào cũng ăn mặc chỉ để làm hài lòng đàn ông.”

“Vớ vẩn.”

“Không, không hề.”

“Phụ nữ làm gì cũng nghĩ tới đàn ông cả. Con người ta làm gì cũng nghĩ tới tình dục. Cô đọc The Red Queen (Nữ hoàng Đỏ) chưa?”

“Tôi chẳng biết anh đang nói về cái gì cả. Nhưng tôi có thể đảm bảo là tôi không ngồi trên giường anh hát bài ‘Bài hát Molahonkey’ để cố kiếm tình dục. Và năm lên ba, tôi vô cùng, vô cùng thích có đôi chân vằn.”

Tôi nhận ra rằng nỗi căng thẳng siết lấy tôi suốt ngày hôm đó đã từ từ giảm xuống cùng với từng lời bình luận của Will. Tôi không còn là kẻ một mình đảm trách một người bị liệt đáng thương nữa. Tôi lại là chính tôi, ngồi cạnh một gã ưa châm biếm, nói chuyện phiếm cùng nhau.

“Thôi tiếp nào, thế chuyện gì đã xảy ra với đôi ủng lấp lánh tuyệt trần đó?” “Mẹ tôi phải liệng nó đi. Chân tôi lở loét kinh lắm.”

“Thú vị thật.”

“Rồi mẹ cũng quẳng luôn chiếc quần bó.” “Tại sao?”

“Tôi chẳng bao giờ hiểu được. Nhưng chuyện đó khiến tôi sầu thảm. Tôi không khi nào tìm được một chiếc quần bó khiến mình yêu thích tới thế nữa. Họ không sản xuất quần bó ong nghệ nữa. Mà nếu có làm, họ cũng đâu làm cho phụ nữ trưởng thành.”

“Lạ ghê.”

“Ôi, anh cứ việc châm biếm. Anh đã bao giờ yêu thứ gì tới vậy chưa?”

Giờ đây tôi gần như không thấy mặt anh, căn phòng chìm trong bóng tối nhờ nhờ. Lẽ ra tôi phải bật ngọn đèn trên đầu lên, nhưng có điều gì đó ngăn tôi lại. Và ngay khi nhận ra mình vừa nói gì, tôi ước mình không nói thế.

“Có,” anh nói lặng lẽ. “Có chứ.”

Chúng tôi nói chuyện thêm một lát nữa, rồi Will lại thiếp đi. Tôi nằm đó, ngắm anh thở, thỉnh thoảng tự hỏi anh sẽ nói gì nếu tỉnh dậy mà thấy tôi đang nhìn anh chăm chú, nhìn mái tóc quá dài, đôi mắt mệt mỏi, và bộ râu quai nón nhú lên lởm chởm. Nhưng tôi không nhúc nhích. Những giờ vừa rồi đã trở nên không thực, một hòn đảo phi thời gian. Tôi là người duy nhất ở trong ngôi nhà này ngoài anh, tôi vẫn sợ bỏ anh lại một mình.

Sau mười một giờ một chút, tôi thấy anh lại bắt đầu đổ mồ hôi, hơi thở trở nên nặng nề hơn, thế nên tôi đánh thức anh rồi làm cho anh một liều thuốc giảm sốt. Anh chẳng nói gì, chỉ ậm ừ cảm ơn. Tôi thay mền đắp ngực và vỏ gối cho anh, rồi khi anh ngủ lại, tôi nằm xuống cách anh ba mươi phân, và một lúc lâu sau, tôi cũng ngủ.

Tôi tỉnh giấc khi có tiếng ai đó gọi mình. Tôi đang ở trong lớp, ngủ gật trên bàn học, và thầy giáo đang gõ vào bảng, nhắc đi nhắc lại tên tôi. Tôi biết đáng lẽ mình phải tập trung chú ý, biết rằng thầy giáo sẽ xem chuyện ngủ gật này là hành động phá hoại, nhưng tôi không nhấc đầu lên khỏi bàn được.

“Louisa.”

“Ưmmm.”

“Louisa.”

Cái bàn sao mà mềm thế. Tôi mở mắt. Tiếng nói văng vẳng ngay trên đầu tôi, khẽ thôi, nhưng nhấn nhá rất dữ. Louisa.

Tôi đang ở bên giường. Tôi chớp mắt, tập trung nhìn, rồi ngước lên thì thấy Camilla Traynor đang đứng bên cạnh. Bà mặc áo khoác len dày cộp, chiếc túi xách treo trên vai.

“Louisa.”

Tôi kéo người bật thẳng dậy. Bên cạnh tôi, Will vẫn say ngủ dưới chăn, miệng anh mở nhẹ, cùi chỏ anh tạo thành một góc vuông phía trước anh. Ánh sáng luồn qua cửa sổ, báo hiệu một buổi sáng lạnh lẽo nhưng sáng sủa.

“Ừm.”

“Cô đang làm gì vậy?”

Tôi cảm thấy như thể tôi vừa bị bắt gặp làm chuyện gì tồi tệ lắm. Tôi xoa mặt, cố trấn tĩnh đầu óc. Sao tôi lại ở đây nhỉ? Tôi có thể nói gì với bà đây?

“Cô đang làm gì trong phòng ngủ của Will thế?”

“Will…” tôi nói lặng lẽ. “Will đã không khỏe… Tôi chỉ nghĩ tôi nên để mắt…”

“Ý cô là sao, nó đã không khỏe ư? Nghe này, đi ra ngoài sảnh đi.” Bà sải bước ra khỏi phòng, rõ ràng là chờ tôi bắt kịp.

Tôi đi theo, cố vuốt phẳng quần áo. Tôi có cảm giác khủng khiếp là lớp trang điểm đã tèm lem khắp mặt tôi.

Bà đóng cửa phòng Will lại sau lưng tôi.

Tôi đứng trước mặt bà, cố vuốt thẳng tóc khi sắp xếp mọi ý nghĩ. “Will bị sốt. Khi Nathan tới thì ông ấy hạ sốt cho Will, nhưng tôi chưa biết việc điều chỉnh nhiệt này, nên tôi muốn để mắt tới anh ấy… Nathan bảo tôi nên để mắt tới anh ấy…” Giọng tôi nghe khàn khàn, không rõ ràng. Tôi không chắc mình có nói câu cú gãy gọn không.

“Sao cô không gọi tôi? Nếu Will ốm thì cô phải gọi tôi ngay chứ. Hoặc gọi ông Traynor.”

Não tôi bấy giờ như đột nhiên sáng ra. Ông Traynor. Ôi Chúa ơi. Tôi liếc nhìn đồng hồ. Tám giờ kém mười lăm.

“Tôi không… Hình như Nathan…”

“Nghe này, Louisa. Đây thực sự không phải khoa học nghiên cứu phản lực đâu. Nếu Will ốm đủ nặng để cô phải ngủ trong phòng nó thì đó là việc cô nên liên hệ cho tôi hay.”

“Vâng.”

Tôi chớp mắt, nhìn chằm chằm xuống đất.

“Tôi không hiểu tại sao cô không gọi. Cô có thử gọi cho ông Traynor không?”

Nathan bảo không được nói gì. “Tôi…”

Đúng lúc đó, cửa khu nhà phụ mở, và ông Traynor đứng đó, một tờ báo gập dưới cánh tay ông. “Em về rồi à!” ông nói với vợ, phủi tuyết khỏi vai. “Anh vừa ra đường mua tờ báo với ít sữa. Đường sá nguy hiểm kinh khủng. Anh phải đi mãi tới Hansford Corner để tránh những đoạn đường đóng băng.”

Bà nhìn ông, trong một thoáng tôi tự hỏi không biết bà có nhận ra ông vẫn mặc chiếc áo sơ-mi và áo khoác hôm trước.

“Anh có biết tối qua Will ốm không?”

Ông nhìn thẳng vào tôi. Tôi cúi nhìn xuống chân. Tôi không biết mình đã bao giờ cảm thấy lúng túng tới thế chưa.

“Cô có cố để gọi tôi không, Louisa? Xin lỗi nhé – tôi không nghe cuộc nào cả. Tôi e là điện thoại nội bộ hỏng rồi. Dạo gần đây thỉnh thoảng cũng có những lần tôi lỡ cuộc gọi. Với lại tối qua chính tôi cũng thấy không khỏe lắm. Ngủ say như chết.”

Tôi vẫn đang đi đôi tất của Will. Tôi nhìn nó chằm chằm, tự hỏi liệu bà Traynor có xử lý tôi cả chuyện đó không.

Nhưng dường như bà còn bận nghĩ chuyện khác. “Đường về nhà cũng khó đi lắm. Tôi nghĩ… tôi sẽ bỏ qua cho cô. Nhưng nếu có chuyện thế này xảy ra lần nữa, cô phải gọi tôi ngay. Cô hiểu chưa?”

Tôi không muốn nhìn thẳng ông Traynor. “Vâng,” tôi nói, rồi biến mất vào trong bếp.

Full | Lùi trang 2 | Tiếp trang 4

Loading...

Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!

Chúc các bạn online vui vẻ !

Laptop Tùng Anh

Tour Phú Quốc

Vinhomes Cầu Rào 2

Trang Chủ