Ông quơ nắm rơm khô chụm lại và châm lửa , rồi ông dùng cái mồi lửa dể bén lấy dí vào mái nhà. Thế là khoảnh khắc , ngọn lửa bùng lên phần phật. Khói bốc mù mịt vì mái nhà còn đọng hơi sương. Ông lùi xuống sân, Sử cũng ưu tư bước theo luôn , đứng xa xa nhìn ngọn lửa mỗi lúc một lớn hơn , lan xuống kèo cột và những vết liếp bằng phên tre.
Gió từ đâu kéo tới thổi lồng lộng đẩy ngọn lửa bốc lên cao và nổ lách tách như những tràn pháo liên thanh. Bổng Sử giật mình kinh hãi quay sang nhìn ông Chánh bằng ánh mắt lạc thần , anh vừa nghe có tiếng khóc trong nhà vừa nổ , tiếng khóc nỉ non ai oán như có người bị thiêu sống , anh run lập cập hỏi ông Chánh :
- Bẩm ông, ông có nghe thấy gì ko ? Có người trong nhà phải ko ạ ?
Ông Chánh nghiêm mặt đáp :
Tao có nghe thấy gì đâu ? Hay là đêm qua, hay là đêm qua có đứa nào chun vào đây ngủ nhờ ?
Sử lắc đầu buồn rầu nói :
- Ko đâu ông ạ , cô Khuê con đấy ! Con tin chắc như thế !
Sử muốn chạy vào nhưng lửa tràn ngập từ trên xuống dưới , anh đành đứng sang bên , ông Chánh bối rối bảo :
- Mày chỉ tin nhảm ! Thôi mày ở lại đây, khi nào cháy tàn rồi hẳn về
Sử chớp mắt nói :
- Ông nghe kỷ mà xem, tiếng khóc rõ mồn một. Tội cô con quá ông ơi.
Ông Chánh ko nói gì , Sử ưu tư nói :
- Bẩm ông, nhở nó cháy lan sang mấy đống rơm thì sao ạ ?
Ông Chánh khoát tay :
- Cho cháy hết đi, ko tiếc !
öng vừa dứt lời thì trong đám lửa cháy phần phật trước mắt ông nghe văng vẳng có tiếng gọi của Khuê :
- Bố ơi về với con, về với con...bố ơi...!
Vẫn cái giọng nói mơ hồ ấy , mỗi lần ông nghe là mỗi lần ông kinh hoảng lạnh xương sống , mặt tái xanh , ông cố nhắc lại với Sử :
- Mày ở lại đây , tao phải về trước có việc.
Dứt lời ông bước nhanh ra đường , bắt gặp ở cổng vài người đứng thập thò nhìn vào bàn tán. Họ khoanh tay cúi chào và tránh lối cho ông đi. Ông cúi đầu dạo bước về nhà, tin chắc từ nay ko còn bị quấy rầy nữa. Ông đi thẳng ra bể nước bên hông nhà bếp múc nước rửa mặt , rửa tay rồi vào buồng thay quần áo vì hôm nay có hẹn đánh tổ tôm bên nhà ông phó Lý.
Từ khi ông Chánh phóng hỏa đốt tàn kho rơm , ông hồi hộp chờ đợi. Và quả nhiên ko còn thấy hồn ma con ông hiện về nữa. Một tháng , rồi hai tháng trôi qua, gia đình ông hoàn toàn bình lặng. Ông đã dám mon men ra vườn sau đứng ở dưới gốc mít . Ông cũng thản nhiên vào buồng ngủ một mình mà ko sợ hãi gì cả , ông gật gù cho rằng quyết định đốt nhà của mình thật là sáng suốt , giải quyết cho xong câu chuyện âm hồn làm khổ ông mấy tháng nay.
Cuộc sống trở lại bình thường , ông cho người đi gọi thợ đi mua vật liệu và bắt tay vào việc xây căn nhà cho bà vợ thứ ba trên khu đất đã đổ nền thật cao và chắc chắn. Chỉ vì cái chết của Khuê, công trình bị gián đoạn. Bây giờ là lúc ông có thể an tâm tiến hành , ông rủ bà vợ trẻ cùng với ông ra hiện trường nhìn thợ mộc , thợ nề bắt tay vào việc tạo dựng giang sơn mới.
Những người thợ chất phát ấy ngày ngày gặp nhau ko ngớt bàn tán cái chết của cô Khuê mà họ hết lòng thương cảm. Họ lại càng bàn tán nhiều hơn về cái chết của Thủ. Với bà Lưu , mẹ Thủ , với đa số dân làng và ngay cả ông Lý Trưởng đương nhiệm , Thủ ko hề tự tử. Họ cho rằng Thủ bị ông Chánh cùng người nhà treo cổ ngay tại chổ cô Khuê để trừng phạt cái tội đã leo trèo của Thủ làm hại đời cô Khuê. Chỉ riêng gia đình ông Chánh thì biết chắc cái chết của Thủ là do sức mạnh huyền bí của hồn cô Khuê bên kia thế giới đưa đẩy. Nhưng mọi người đều nghĩ ngược lại , họ đoán chắc ông Chánh giết Thủ nhưng ko ai dám lên tiếng.
Mà có lên tiếng cũng vô ích bởi ông là người có rất nhiều thế lực và bởi phương thức điều tra thời ấy còn quá sơ sài. Dư luận nhầm lẩn cái chết của Thủ càng taọ thêm nhiều huyền thoại quyền lực cho ông Chánh nghĩa là ko còn ai trong làng dám nghĩ đến việc đụng chạm với ông nữa. Xưa kia ông đánh chết người phu xe, hôm nay ông gnang nhiên treo cổ Thủ. Cả hai lần đều chẳng có cơ quan nào thẩm vấn , coi như ông thuộc loại bất khả xâm phạm rồi.
Ba tháng sau, cái nhà mới của ông Chánh đã hình thành. Chỉ còn chờ tô điểm trong ngoài cho tăng phần mỹ thuật. Ông hân hoan lắm , chiều chiều chắp tay sau đít đi tới đi lui quan sát. Bà vợ thứ ba cố gắng nấu nướng thật ngon để đền đáp sự chu đáo của ông và vì thế hầu như ông ở luôn bên đó. Ông ở lì đến nổi chính bà vợ trẻ cũng cảm thấy áy náy và phải giục ông về , mà ông cũng đến lúc phải về vì Lý Trưởng cho người đến tìm mấy lần báo tin Quan Huyện sắp xuống địa phận thanh lý thuế má.
Buổi sáng hôm ấy , ông Chánh khệnh khạng xách ba ton ra thăm nhà mơi rồi tạt vào nhà bà vợ thứ hai ngồi một lúc. Trong ba bà thì bà vợ thứ hai là thiệt thòi nhất , ít khi ông Chánh ngó ngàng tới bởi tính bà hay ghen , mỗi lần ông đến chỉ nghe bà cằn nhằn trách móc. Tuổi bà mới ngoài bốn mươi , có với ông 4 cô con gái , chưa cô nào lấy chồng. Vừa thấy mặt ông, bà hờn dỗi bảo :
- Đi đâu mà biệt tăm cả mấy tháng ko về
Ông Chánh dựng ba ton vào cạnh bàn, tự rót cho mình cốc nước trong ấm ủ và thở dài ra :
- Chuyện cái Khuê đã xong đâu , rồi lại cả cái thằng Thủ nữa. Cả mấy tháng nay tôi xấu hổ chả muốn vác mặt ra đường
Bà vợ ngồi xuống ghế , xoè cái quạt giấy phe phẩy cho chồng và đề nghị :
- Thế nghe bảo là ông mới đốt cái nhà kho hay là ông cho tôi miếng đất ấy vậy.
Ông Chánh đáp cho qua chuyện :
- Ờ , để tôi xem đã.
Ông uống cạn cốc nước trà rồi cầm ba ton đứng dậy ra hè , bà vợ thiết tha hỏi :
- Thế ko ở ăn cơm ư ?
- Tôi phải đi ngay bây giờ
Bà nhìn ông khẩn khoản nhắc lại :
- Ông nhá , cho tôi với lại các con miếng đất ấy nhé. Chúng nó cứ than với tôi là bố chả có thương chúng nó.
Ông Chánh bước xuống sân và đáp :
- Để tôi tính lại đã xem
Bà vợ bước theo trì triết nói :
- Tính gì nữa mà tính. Bao nhiêu nhà cửa đất đai ông giao hết cho người ta , chả ngó ngàng gì đến mẹ con tôi. Con nào thì chẳng là con , lũ nhà này là thiệt thòi nhất đấy. Chả có đứa nào mà dám kêu ca , tôi chưa mở mồm xin ông gì cả. Thôi thì lần này xin ông cái miếng đất ấy cho chúng nó trồng trọt để có đồng ra đồng vào đỡ đần tôi lúc tuổi già.
Ông Chánh gật đầu đồng ý :
- Ừ , thế thì tôi cho bà đấy.
Bà hai mừng rỡ tiễn chồng ra cổng. Chẳng phải ông mủi lòng về những lời kèo nài của bà mà chỉ vì sực nhớ ra đó là mảnh đất của oan hồn của Khuê và của Thủ từng treo cổ tự tử nên ông ko muốn giữ lại làm gì huống chi ông vừa xây cho bà vợ thứ ba căn nhà đồ sộ. Cho bà hai miếng đất này cũng là hợp lý rồi , bà hai cám ơn rối rít , đưa ông ra tận lề đường , ông giã từ , ung dung quay về nhà vợ lớn. Ông đang nghĩ đến buổi lễ khánh thành ngôi nhà gạch mới , mở đại tiệc khoản đãi Quan nghiêm trong tổng trong làng để người ta biếu quà đáp lễ.
Về đến nhà, bước vào sân, ông đã nghe tiếng khóc nức nở của bà vợ lớn làm ông giật mình tự hỏi chuyện gì nữa đây ? Cả mấy tháng nay hồn con gái ông an nghỉ bên kia thế giới. Sao bây giờ mẹ cái Khuê lại khóc là thế nào ? Ông bước nhanh lên hiên và gọi lớn :
- Chúng mày đâu cả rồi ? Thằng Sử đâu ?
Từ trong dãy nhà ngang, Sử tất tả chạy ra cúi đầu chào :
- Bẩm ông mới về ạ ?
Rồi từ trong bếp , từ vườn sau, hai người đàn bà giúp việc cũng bước nhanh về và kính cẩn nói :
- Ông mới về ạ !
Tiếng khóc trong buồng vẩn vọng ra , ông Chánh hỏi :
- Bà mày làm sao thế ?
Hai người đàn bà đưa mắt nhìn Sử , anh nhìn laị chị bếp , chị bếp nói :
- Bẩm ông , cô Cúc đi mất từ chiều hôm qua đến giờ. Tối cũng ko về ngủ , chúng con bổ đi tìm khắp nơi mà ko thấy , hỏi thăm chả ai biết là cô ấy đi đâu ạ.
Ông đứng lặng người đứng nghe , ngày trước Khuê đã lầm lỡ chửa hoang đến nổi mang họa , chả lẽ bây giờ lại đến lượt Cúc bỏ nhà theo trai ? Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí , ko lẽ nhà ông đến nỗi mạt vận sao ? Ông thốt nhớ đến lời tiên đoán của thầy địa lý mà rùn mình. Ông hỏi lại người làm :
- Thế đã đi tìm kỹ chưa ? Hỏi thăm những chổ nào rồi ?
Chị bếp đáp :
- Bẩm ông tối hôm qua chúng con chia nhau đi tất cả mọi nhà quen, bây giờ lại sắp sửa đi nữa đấy ạ.
Ông Chánh chợt nhớ đến caíc hết của Thủ nên hỏi Sử :
- Mày có chạy ra ngoài kho rơm chưa ?
Chị bếp đáp thay Sử :
- Bẩm làm gì còn kho ơm ạ ? Cháy sạch còn nền đất , con có đi qua, chả thấy gì cả.
Bà Chánh từ trong buồng vừa bước ra vừa lau nước mắt , bà cắt ngang:
- Thôi, đứng đây mà bàn tán được cái gì ? Chia nhau đi tìm đi.
Ông Chánh ngẩm nghĩ rồi bảo :
- Thế tối hôm qua nó có ăn cơm nhà ko ?
Bà Chánh lắc đầu thảm nảo :
- Hôm qua tôi ở bên nhà phó Thông về , cứ ngỡ là nó nằm trong buồng. Đến khi dọn cơm , gọi nó ra ăn thì mới biết là nó ko có ở nhà. Chờ mõi mắt mà ko thấy nó về , nó đi biệt luôn tới bây giờ.
Sử và hai chị người làm đi nhanh ra cổng , vừa đi vừa cất tiếng gọi :
- Cô Cúc ơi.....
Còn lại mình bà Chánh với chồng , bà ngồi bệch xuống thềm nhà và khóc nấc lên :
- Đi cả đêm ko về , tôi e là nó cóc huyện chẳng lành rồi ông ơi...
Ông Chánh cũng thở dài ngồi xuống bên vợ và nói để trấn an :
- Bà gần gũi nó , tôi hỏi bà , bà có thấy nó phải lòng thằng nào ko ? Tôi sợ nó trốn theo giai, nó phải lòng thằng nào đó thì bà cứ nói. Tôi sẽ thu xếp cho nó.
Bà Chánh gắt :
- Nó thì có quen ai bao giờ ? Suốt ngày cứ ru rú ở trong nhà.
- Thì bà với tôi có bao giờ ngờ con Khuê mê thằng Thủ ? Cái gương tày trời còn sờ sờ ra đấy.
Bà Chánh chán nản bỏ vào buồng nằm khóc. Khóc một lúc bà ngồi dậy lau mặt , vấn khăn và lấy nón ra đường đi tìm Cúc vì thấy cứ nằm khóc cũng chả ích gì
Buổi tối ba người làm và bà Chánh lần lượt trở về mang theo bộ mặt thất vọng. Mọi người tập trung trong dãy nhà ngang. Ông Chánh bảo :
- Con Cúc nó đi đâu cũng phải đi ngang qua sân , thế chúng mày mù cả hay sao mà ko nom thấy ?
Chị bếp khúm núm đáp thay cả bọn :
- Dạ bẩm , chúng con đều lo công việc trong bếp nên ko có để ý ạ .
Ông Chánh càu nhàu chửi bâng quơ một lúc rồi vô buồng, ông ngồi vào bàn, kéo cái điếu thuốc lào lại trước mặt rồi mở hộp thuốc lào rê một điếu. Toan bật diêm thì ông nhận ra lọ thuốc độc ông bỏ quên trên cái kệ gỗ dựng sát với đống rượu. Đúng ra cái thứ ấy phải luôn luôn giấu trong tủ , nhưng có lẽ hôm ấy ông lấy ra để hăm dọa bà Chánh và Khuê rồi ông quên cất ở chỗ cũ.
Ông nhớ lời thầy địa lý bảo ông :
- Các thầy thuốc bên Tàu thì giỏi về thuốc bổ mà còn giỏi về thuốc độc , là tại vì thời xưa vua chúa lúc nào cũng cần thuốc độc để giết những người trái ý mình. Thành ra các thầy Tàu chế ra những loại thuốc cực mạnh , chỉ uống vào vài giọt là ko sống được nữa.
Lọ thuốc của ông thầy bánc ho ông Chánh ko có nhãn hiệu nhưng được dán mảnh giấy trắng và được đánh dấu bằng chứ X thật lớn để nhớ. Ông Chánh đứng dậy cầm chai thuốc độc bỏ vào tủ khóa lại cẩn thận rồi ông trở lại bàn châm lửa , rít hơi thuốc dài.
Bà Chánh bỏ cả bửa cơm tối hôm ấy , mấy lần bà đứng trước bàn thờ khấn vái rồi vào buồng con gái nằm trằn trọc suốt đêm , ông Chánh cũng ko ngủ được. Nằm một mình ông vừa nghỉ đến Cúc vừa rờn rợn nhớ lại cái lần Khuê hiện về ngay trong căn buồng ông đang nằm. Ông mon men sang nằm chung với vợ nhưng bà Chánh dứt khoát đuổi ông ra ngoài :
- Ông muốn nằm đây thì tôi sang buồng bên kia tôi nghỉ
Ông lủi thủi quay ra và tự nhiên giận ứ lên tới cổ vì cả hai đứa con gái đều ngu muội , làm bại hoại gia phong.
Sáng hôm sau chị bếp dậy sớm như thường lệ. Trời còn nhá nhem tối , chị ra giếng kéo nước nấu trà lá sen cho ông Chánh để lát nữa ông dậy thì có sẳn. Lúc thả cái gào xuống. Chị bếp giật mình thấy cái gào chạm phải vật gì trên mặt nước. Nghe cộp một tiếng khô khan. Chị cúi nhìn xuống nhưng trời còn tối ko trông rõ. Chị đứng sựng một lúc rồi chợt nghĩ ra , hốt hoảng buông rơi cái gào và thét lên , đồng thời bỏ chạy vào dãy nhà ngang. Chị run lập cập , nói ko ra hơi :
- Anh Sử ơi, ối giời ơi anh Sử ơi, anh Sử ơi...
Sử đang ngồi hút thuốc lào tái mặt ngồi lại :
- Cái gì thế ? Cái gì mà chị cuống lên thế ?
Chị bếp vừa thở , vừa kéo cánh tay Sử :
- Anh...làm ơn ra xem hộ tôi cái gì...dưới giếng..Trời tối quá tôi nom ko rõ.
Sử lấy lại bình tỉnh cười khẩy :
- Trời tối chị ko nom rõ thì làm sao tôi nom rõ được. Mắt chị còn tinh hơn tôi mà.
Nói xong câu ấy , Sử tưởng chị bếp sẽ cười theo câu khôi hài của anh, nhưng rõ ràng mặt chị vẩn tái mét và hai bàn tay run rẩy lập cập. Sử đặt cái điếu và sực nhớ ra vội đứng bật dậy , anh chạy lao vào bếp , đốt cây đuốc, tẩm dầu hôi rồi cầm ra giếng , anh giơ cây đuốc mở to mắt cúi xuống. Chỉ nhìn thoáng qua, anh đã biết ngay là anh đoán đúng , đó là xác người chết và cái xác ấy dĩ nhiên đã trương sình lên. Sử thừ người chết lặng mấy giây nhìn chị bếp. Chị bếp cũng đã đoán như anh cho nên đã oà lên khóc lớn.
Cúc ko ngã xuống giếng bởi cái giếng có thành gạch xây chung quanh cao cả bục. Người đứng kéo nước ko thể nào lộn cổ xuống được , huống chi cái gào kéo nước nhẹ tênh, chỉ lấy vừa đủ nước để đun một ấm trà. Cho nên ko có sức mạnh để nhào té xuống. Cả Sử và chị bếp đều biết là Cúc tự nhảy xuống tìm cái chết chứ ko phải là tai nạn.
Ông Chánh chợt nhớ đến caíc hết của Thủ nên hỏi Sử :
- Mày có chạy ra ngoài kho rơm chưa ?
Chị bếp đáp thay Sử :
- Bẩm làm gì còn kho ơm ạ ? Cháy sạch còn nền đất , con có đi qua, chả thấy gì cả.
Bà Chánh từ trong buồng vừa bước ra vừa lau nước mắt , bà cắt ngang:
- Thôi, đứng đây mà bàn tán được cái gì ? Chia nhau đi tìm đi.
Ông Chánh ngẩm nghĩ rồi bảo :
- Thế tối hôm qua nó có ăn cơm nhà ko ?
Bà Chánh lắc đầu thảm nảo :
- Hôm qua tôi ở bên nhà phó Thông về , cứ ngỡ là nó nằm trong buồng. Đến khi dọn cơm , gọi nó ra ăn thì mới biết là nó ko có ở nhà. Chờ mõi mắt mà ko thấy nó về , nó đi biệt luôn tới bây giờ.
Sử và hai chị người làm đi nhanh ra cổng , vừa đi vừa cất tiếng gọi :
- Cô Cúc ơi.....
Còn lại mình bà Chánh với chồng , bà ngồi bệch xuống thềm nhà và khóc nấc lên :
- Đi cả đêm ko về , tôi e là nó cóc huyện chẳng lành rồi ông ơi...
Ông Chánh cũng thở dài ngồi xuống bên vợ và nói để trấn an :
- Bà gần gũi nó , tôi hỏi bà , bà có thấy nó phải lòng thằng nào ko ? Tôi sợ nó trốn theo giai, nó phải lòng thằng nào đó thì bà cứ nói. Tôi sẽ thu xếp cho nó.
Bà Chánh gắt :
- Nó thì có quen ai bao giờ ? Suốt ngày cứ ru rú ở trong nhà.
- Thì bà với tôi có bao giờ ngờ con Khuê mê thằng Thủ ? Cái gương tày trời còn sờ sờ ra đấy.
Bà Chánh chán nản bỏ vào buồng nằm khóc. Khóc một lúc bà ngồi dậy lau mặt , vấn khăn và lấy nón ra đường đi tìm Cúc vì thấy cứ nằm khóc cũng chả ích gì
Buổi tối ba người làm và bà Chánh lần lượt trở về mang theo bộ mặt thất vọng. Mọi người tập trung trong dãy nhà ngang. Ông Chánh bảo :
- Con Cúc nó đi đâu cũng phải đi ngang qua sân , thế chúng mày mù cả hay sao mà ko nom thấy ?
Chị bếp khúm núm đáp thay cả bọn :
- Dạ bẩm , chúng con đều lo công việc trong bếp nên ko có để ý ạ .
Ông Chánh càu nhàu chửi bâng quơ một lúc rồi vô buồng, ông ngồi vào bàn, kéo cái điếu thuốc lào lại trước mặt rồi mở hộp thuốc lào rê một điếu. Toan bật diêm thì ông nhận ra lọ thuốc độc ông bỏ quên trên cái kệ gỗ dựng sát với đống rượu. Đúng ra cái thứ ấy phải luôn luôn giấu trong tủ , nhưng có lẽ hôm ấy ông lấy ra để hăm dọa bà Chánh và Khuê rồi ông quên cất ở chỗ cũ.
Ông nhớ lời thầy địa lý bảo ông :
- Các thầy thuốc bên Tàu thì giỏi về thuốc bổ mà còn giỏi về thuốc độc , là tại vì thời xưa vua chúa lúc nào cũng cần thuốc độc để giết những người trái ý mình. Thành ra các thầy Tàu chế ra những loại thuốc cực mạnh , chỉ uống vào vài giọt là ko sống được nữa.
Lọ thuốc của ông thầy bánc ho ông Chánh ko có nhãn hiệu nhưng được dán mảnh giấy trắng và được đánh dấu bằng chứ X thật lớn để nhớ. Ông Chánh đứng dậy cầm chai thuốc độc bỏ vào tủ khóa lại cẩn thận rồi ông trở lại bàn châm lửa , rít hơi thuốc dài.
Bà Chánh bỏ cả bửa cơm tối hôm ấy , mấy lần bà đứng trước bàn thờ khấn vái rồi vào buồng con gái nằm trằn trọc suốt đêm , ông Chánh cũng ko ngủ được. Nằm một mình ông vừa nghỉ đến Cúc vừa rờn rợn nhớ lại cái lần Khuê hiện về ngay trong căn buồng ông đang nằm. Ông mon men sang nằm chung với vợ nhưng bà Chánh dứt khoát đuổi ông ra ngoài :
- Ông muốn nằm đây thì tôi sang buồng bên kia tôi nghỉ
Ông lủi thủi quay ra và tự nhiên giận ứ lên tới cổ vì cả hai đứa con gái đều ngu muội , làm bại hoại gia phong.
Sáng hôm sau chị bếp dậy sớm như thường lệ. Trời còn nhá nhem tối , chị ra giếng kéo nước nấu trà lá sen cho ông Chánh để lát nữa ông dậy thì có sẳn. Lúc thả cái gào xuống. Chị bếp giật mình thấy cái gào chạm phải vật gì trên mặt nước. Nghe cộp một tiếng khô khan. Chị cúi nhìn xuống nhưng trời còn tối ko trông rõ. Chị đứng sựng một lúc rồi chợt nghĩ ra , hốt hoảng buông rơi cái gào và thét lên , đồng thời bỏ chạy vào dãy nhà ngang. Chị run lập cập , nói ko ra hơi :
- Anh Sử ơi, ối giời ơi anh Sử ơi, anh Sử ơi...
Sử đang ngồi hút thuốc lào tái mặt ngồi lại :
- Cái gì thế ? Cái gì mà chị cuống lên thế ?
Chị bếp vừa thở , vừa kéo cánh tay Sử :
- Anh...làm ơn ra xem hộ tôi cái gì...dưới giếng..Trời tối quá tôi nom ko rõ.
Sử lấy lại bình tỉnh cười khẩy :
- Trời tối chị ko nom rõ thì làm sao tôi nom rõ được. Mắt chị còn tinh hơn tôi mà.
Nói xong câu ấy , Sử tưởng chị bếp sẽ cười theo câu khôi hài của anh, nhưng rõ ràng mặt chị vẩn tái mét và hai bàn tay run rẩy lập cập. Sử đặt cái điếu và sực nhớ ra vội đứng bật dậy , anh chạy lao vào bếp , đốt cây đuốc, tẩm dầu hôi rồi cầm ra giếng , anh giơ cây đuốc mở to mắt cúi xuống. Chỉ nhìn thoáng qua, anh đã biết ngay là anh đoán đúng , đó là xác người chết và cái xác ấy dĩ nhiên đã trương sình lên. Sử thừ người chết lặng mấy giây nhìn chị bếp. Chị bếp cũng đã đoán như anh cho nên đã oà lên khóc lớn.
Cúc ko ngã xuống giếng bởi cái giếng có thành gạch xây chung quanh cao cả bục. Người đứng kéo nước ko thể nào lộn cổ xuống được , huống chi cái gào kéo nước nhẹ tênh, chỉ lấy vừa đủ nước để đun một ấm trà. Cho nên ko có sức mạnh để nhào té xuống. Cả Sử và chị bếp đều biết là Cúc tự nhảy xuống tìm cái chết chứ ko phải là tai nạn.
Sử nói với chị bếp :
- Đừng báo cho ông bà biết vội. Để tôi xuống vớt xác lên đã
Chị bếp lắc đầu, lững thửng đi vào nhà tức tưởi khóc lớn :
- Bà ơi...ông ơi...khổ thân cho ông bà quá...cô Cúc chết rồi...
Từ trong buồng , bà Chánh chạy lao ra , tóc chưa kịp vấn , bà kêu hãi hùng :
- Cái gì ? Mày nói cái gì ?
Chị bếp quay đầu chỉ tay ra bờ giếng và nức nở tiếp :
- Cô Cúc...cô Cúc...chết đuối...ở dưới giếng...bà ơi...chết lâu rồi...
Bà Chánh chỉ kịp nghe có bấy nhiêu đã ngã lăn ra nền gạch và ko biết gì nữa. Chị bếp ngồi xuống bên cạnh , tiếp tục kêu gào trong khi Sử quả quyết lấy dây thừng thòng xuống giếng để leo xuống vớt cô chủ lên. Ở buồng bên cạnh , ông Chánh nghe ồn ào cũng chạy nhanh ra, khi ông tới gần chị bếp ngẩng lên sục sùi kể :
- Ông ơi....cô Cúc tử tử rồi...chết dưới giếng từ hôm qua rồi...
Ông Chánh buộc miệng kêu lên:
- Ối Giời ơi , Giời hại nhà này rồi.
Ông nhìn vợ nằm bất động trên nền xi măng , nháo nhác chạy lao ra bờ giếng , mặt trắng bệch , hơi thở dồn dập. Sử vừa cột xong sợi dây thừng vào khúc cây khế bên cạnh và bắt đầu leo xuống. Ông Chánh quay sang nhìn phía cây mít , nơi hai đứa con ông thường ngồi chơi. Bây giờ cả hai đều đã về bên kia thế giới. Khá lâu, ông mới ngoái cổ lại chị bếp :
- Mày đỡ bà mày vào trong buồng , lấy lá trầu ong hơ lửa đánh gió cho bà mày tỉnh lại
Chúc các bạn online vui vẻ !