Tiểu thuyết tình yêu

Tiểu Thuyết Tình Yêu

Đọc truyện tại Tiểu Thuyết Tình Yêu

Loading...

Truyện ma - Cẩm Tú Kỳ Bào Phần 2: Thế Thân

- Trang 10 -

Full | Lùi trang 9 | Tiếp trang 11

Chương 40: Quay lại Bình Uyển bắc thôn

Lúc ngồi trên tàu Lâm Hàn luôn nghĩ: Vì sao mình không thể không đi về Bình Uyển bắc thôn một chuyến? Đúng như Quý Giác mới nói, đi về đó để điều tra à? Dường như không cần thiết lắm, chỉ có điều trong lòng cô luôn có một ý nghĩ thôi thúc cực kỳ mạnh mẽ. Đi về đó xem xem, xem xét bằng chính đôi mắt của mình

Không phụ thuộc vào sự giải thích của Hữu Đức, có lẽ mình sẽ tìm ra được một kết quả gì khác biệt. Cô sợ Hữu Đức sẽ đi theo mình, thế nên mới dùng kế kim thiền thoát xác đó.

Lâm Hàn nằm xuống giường, nhưng lại không dám ngủ, cô sợ hễ nhắm mắt lại thì sẽ lập tức mơ thấy ác mộng. Gần đây cô thường xuyên mơ thấy mình bị móc mắt, có lúc thì đến cả hai mí mắt cũng bị cắt mất, có lúc thì hai con ngươi bị móc dở treo lủng lẳng trên mặt, còn Hữu Đức thì bỏ cô đấy mà đi, để cô đứng một mình trên sân thượng rộng mênh mông, gió lạnh tới mức gần như xô cô ngã; cô quỳ trên sân thượng mò mẫm tìm đường đi xuống dưới, vì đã mất đi đôi mắt nên cô đành dùng hai tay chống xuống đất, hai mắt đã không còn cảm giác đau đớn nữa, mà trong lòng chỉ cầu khẩn sao cho mình thoát được kiếp nạn này. Cô cứ lần mò sờ soạng như vậy đi không biết bao lâu giữa cơn mưa gió điên cuồng, cho đến lúc chợt hẫng tay, rơi thẳng từ nóc nhà xuống đất…

Lâm Hàn sợ hãi ngồi bật dậy. Giường cô nằm là tầng hai, khoảng cách từ đó lên giường tầng trên cùng cơ bản không cho phép ngồi được thẳng lưng, vậy nên cú ngồi bật dậy đó đã khiến trán đập cốp vào khung sắt. Một cơn choáng váng lập tức dội đến khiến Lâm Hàn quay mòng mòng, tiếp đó là đau tới mức cô phải nghiến chặt răng, còn vị khách nằm giường trên thì vỗ hai cái xuống thành giường rồi gào lên với vẻ thiếu kiên nhẫn: “Có cho người ta ngủ hay không hả, định lên đồng chắc?”.

Lâm Hàn vội vàng xin lỗi, vừa nghĩ: Anh đúng là cái chày ấy, có tưởng tượng được không hả? Cái chày dùng đánh trống là vừa vặn đấy, “lên đồng chắc”? Vớ vẩn. Tuy nhiên tiếng gào của gã đó cũng khiến cho Lâm Hàn vơi bớt không ít sợ hãi, đến khi đầu bớt đau hơn, cô thôi không dám ngủ tiếp nữa.

Trong to axe mở tối dường như có một đôi mắt đang chăm chú nhìn cô. Lâm Hàn lấy chăn quấn chặt quanh mình, cảm giác sợ hãi trong lòng mỗi lúc một lớn hơn, tâm trạng bất an căng như dây đàn sắp sửa đứt đến nơi, cảm tưởng như chỉ ai chạm nhẹ vào cũng sẽ đứt rồi ra vậy.

Cũng may mà bóng tối cuối cùng cũng qua đi, chờ đến khi trời sáng cô mới dám ngủ bù.

Lần trước cả nhóm mười người đi đã cảm thấy đường xa lắc xa lơ, lần này đi một mình lại càng cảm thấy mãi mà không đến. Vì lần trước Lâm Hàn không hề nghĩ đến chuyện sẽ có ngày trở lại đây nên không để tâm ghi nhớ đường đi, dựa vào một chút ấn tượng còn lại trong trí nhớ, mấy lần cô suýt nữa đi nhầm tuyến xe.

Khó khăn lắm mới lần mò đến được thị trấn, tuy nhiên làm thế nào để đến được Bình Uyển bắc thôn thì Lâm Hàn hoàn toàn không có chút ấn tượng nào. May mà gặp đúng ngày có chợ phiên, thị trấn nhỏ đông vui náo nhiệt. Vì Lâm Hàn ăn mặc khác biệt nên nhìn một cái cũng có thể nhận ra cô không phải người ở địa phương, trên đường đi rất nhiều người tò mò nhìn theo, nhìn tới nỗi Lâm Hàn dựng hết tóc gáy lên.

“Úi, cô gái”, đang đi chợt có một người đàn ông chừng ba mươi tuổi va phải Lâm Hàn.

“Hả?” Lâm Hàn giật thót người, giật lùi về sau mấy bước, hỏi với vẻ cảnh giác: “Anh muốn gì?”.

Người đàn ông đó bật cười ha ha, để lộ hàm răng nâu xỉn: “Làm gì được chứ? Hỏi có phải cô ở nơi khác đến đây không? Có cần tìm người dẫn đường không?”.

Lâm Hàn đột nhiên nhớ đến những vụ án buôn bán phụ nữ trẻ em mà báo chí với truyền hình vẫn đưa tin, sau đó nhìn lại người đàn ông xộc xệch bẩn thỉu trước mặt mình. Hai bàn tay thô ráp như vỏ cây của anh ta đang đan chéo vào nhau, trông dáng vẻ cực kỳ hảo hức. Lâm Hàn vội vàng ra sức lắc đầu: “Không, tôi có người bạn ở đồn cảnh sát, không biết đồn ở chỗ nào ấy nhỉ?”.

Người kia nghe cô nói vậy liền ngậm miệng lại luôn, sau đó nhổ toẹt nước bọt xuống đất rồi bỏ đi.

Lâm Hàn thấy anh ta bỏ đi liền thở phào một tiếng, nghĩ bụng: Chiêu này quả không tồi.

Khi đến đồn công an thị trấn, không ngờ người ra tiếp cô lại vẫn là viên cảnh sát mập mạp lần trước. Viên cảnh sát đỏ rõ ràng là vẫn nhớ Lâm Hàn, vừa thấy cô đã ngẩn ra, sau đó hỏi bằng thứ tiếng phổ thông cứng ngắc: “Ơ, sao cô quay lại đây?”.

Lâm Hàn cười nói: “À, đồng chí cảnh sát, là thế này. Lần trước khi mấy người chúng tôi được các anh đưa đến đây, anh còn nhớ bà lão ở Bình Uyển bắc thôn đó không?”.

Viên cảnh sát mập gật đầu: “Còn nhớ, nhưng làm sao?”.

“Là thế này, bạn tôi su khi quay về Thượng Hải luôn bận rộn tới mức không có thời gian quay về thăm bà cụ, sợ bà cụ sẽ lo lắng. Đúng dịp này tôi có thời gian rỗi, nên nhờ tôi đi về đó một chuyến thăm bà”.

“Vậy thì cô đi về đó thăm bà cụ đi, đến đây làm gì”.

Lâm Hàn gãi gãi đầu: “Vùng này của các anh núi mênh mông bát ngát, cây nhiều, đường rẽ cũng nhiều, hễ đi sai đường muốn quay lại cũng phải mất tới nửa ngày, ngay cả đến thị trấn này thôi mà tôi cũng đã lên nhầm mấy chuyến xe. Nếu đi đến Bình Uyển bắc thôn, chắc chắn là không tìm đường nổi. Anh xem có thể bố trí cho một người…”.

Viên cảnh sát mập hiểu ra ngay: ”À, cô muốn tìm một người dẫn đuòng đi có phải không?”.

Thấy Lâm Hàn gật đầu, anh ta cười giả lả: “Cô cho rằng ở đồn cảnh sát chúng tôi ăn không ngồi rồi không có việc gì làm nên có người dẫn cô đi chắc? Ở đây người dân rất thật thà chất phác, cô ra đường hỏi xem, thế nào cũng sẽ có người nhận lời dẫn đi”.

Lâm Hàn méo xẹo miệng lẩm bẩm: “Nếu đúng là người dân ở đây thật thà chất phác, thì sạo lại xảy ra nhiều vụ án bắt cóc phụ nữ, trẻ em như vậy”. Cô nghĩ bụng: Mình đi đường phải cẩn thận một chút, giống như anh ta nói, vừa đi vừa hỏi chắc kiểu gì cũng đến nơi thôi. Nghĩ vậy Lâm Hàn bèn đi ra cổng.

Có lẽ điều Lâm Hàn nói đã có tác dụng, chưa ra đến cổng liền nghe thấy viên cảnh sát mập mạp đó gọi với theo sau.

“Này, chờ chút đã”, anh ta thấy vẻ mặt hơi đắc ý của Lâm Hàn, bèn nói không khách sáo: “Để tôi đi báo cáo lãnh đạo đã”.

Lâm Hàn nghe nói vậy liền mừng hết cỡ: Có hy vọng rồi.

Cuối cùng đồn cảnh sát cũng điều một nhân viên nội cần dẫn Lâm Hàn đi. Viên cảnh sát đó người gầy nhom, cao tầm Lâm Hàn, trông mặt thì có vẻ mới chừng hai mươi tuổi, vẫn còn non nớt. Trên đuòng Lâm Hàn trêu cậu ta mấy câu, không ngờ ít tuổi như vậy nhưng lại không hề nhút nhát, vừa mới mở miệng ra đã nói liên chi hồ điệp.

Không biết nói những chuyện trên trời dưới biển gì, cuối cùng cũng nhắc đến vụ án của nhóm Lâm Hàn, tuy nhiên anh chàng cảnh sát trẻ tuổi không biết Lâm Hàn có liên quan đến đó.

“Ở Bình Uyển bắc thôn, chỗ mà chị đang đi đến ấy, cách đây không lâu đã xảy ra tai nạn chết người, nạn nhân là hai người nơi khác đến, tuổi tác cũng chừng tuổi chị. Còn có hai người nữa chết ngay trong đồn cảnh sát, một người nhảy lầu tự tử, còn ngươi kia đúng là chết oan, đứng bên dưới nên bị người nhảy lầu đè chết. Đáng lẽ có người đỡ bên dưới thì không đến nỗi, nhưng cái người nhảy lầu kia chắc là vì cẩn thận nên quay đầu sang phía thềm gạch, còn làm lún hẳn một chỗ to như miệng bát. Zậc zậc, nhìn khiếp thật đấy. Chị nói xem có đáng sợ không? Nghe nói khi bốn người đó chết, ở bên người nào cũng có một cuốn truyện, là do một người trong nhóm đó viết ra”, anh chàng nói hang hái tới mức văng cả nước bọt, “Chị nói xem, cuốn truyện đó đặt tên là gì không đặt, lại chính là “Thư tuyệt mệnh”, đúng là đen đủi”.

Lâm Hàn không thể không cắt ngang lời: “Cậu là cảnh sát mà cũng mê tín như vậy à?”.

“Đối với bên ngoài thì đương nhiên không thể nói là mình mê tín được, nhưng trong lòng thì cũng thấy hơi chợn rợn. Tuy nhiên những người đi cùng nhanh chóng được cho về”, viên cảnh sát nói năng hoàn toàn không tránh né gì.

Lâm Hàn ra vẻ ngạc nhiên: “Thì không thấy nghi phạm chẳng tha cho họ về còn giữ làm gì?”.

Viên cảnh sát tỏ vẻ ta đây: “Xì, chị tưởng đó là quay phim chắc, sao nhanh như vậy được? Riêng việc báo cáo giám định pháp y nhanh nhất cũng mất đến một tuần rồi, là có người bảo lãnh cho họ, nếu không thì giữ lại đồn tám đến mười ngày còn ít đấy”.

“À”, Lâm Hàn thầm kêu lên kinh ngạc, từ trước đến nay cô chưa từng nghĩ đến tình tiết này, nên không thể không hỏi tiếp: “Có chuyện đó ấy hả? Vậy là ai bảo lãnh cho họ nhỉ? Người thân à?”.

Viên cảnh sát lấy bình nước ra uống một ngụm rồi nói tiếp: “Hình như trong nhóm của họ có một nhân vật mạnh lắm, tiền nhiều tới mức có thể đè chết người được ấy. Có vẻ không phải là thân nhân, người đàn ông đó nói anh ta là thuộc cấp của một người có rất nhiều tiền”.

“Người đàn ông đó chừng bao nhiêu tuổi?”, Lâm Hàn đã ngầm đoán ra đó là ai, tám chin mươi phần trăm là Trịnh Khắc.

“Điều tra hộ khẩu chắc? Ai biết được là bao nhiêu tuổi, nhưng trông thì khá trẻ. Lạ một chỗ là rõ ràng anh ta đến để bảo lãnh cho mấy người kia, nhưng lại không muốn để chúng tôi nói với những người kia là họ được bảo lãnh. Tuy nhiên các quy trình cũng đã được thực hiện xong xuôi, người đó cũng nói là chỉ bảo lãnh trong quá trình điều tra, nếu như sau này mấy người đó có vấn đề gì thì vẫn có thể bắt lại bình thường”.

“Như vậy à”, hóa ra Trịnh Khắc vẫn lặng lẽ bám theo nhóm cô, thế nhưng khi đó Lâm Hàn lại không hề gặp anh ta, cứ cho là nghe được thông tin từ chỗ bà ngoại cô đi, thì cũng không thể lên kế hoạch cho tất cả mọi chuyện nhanh như vậy được.

Lâm Hàn càng suy đoán càng thấy khó hiểu, không sao đoán ra nổi ngọn ngành.

Đi một ngày đuòng đến chiều thì tới Bình Uyển bắc thôn.Viên cảnh sát đó để Lâm Hàn lại rồi quay về thị trấn.

Vẫn là chốn cũ, nhưng tâm trạng thì đã khác rồi.

“Cốc cốc cốc”, cô đứng hồi lâu bên ngoài rồi mới dám gõ cửa.

“Ai vậy?”, bà Hữu Đức cất giọng hỏi từ bên trong.

Lâm Hàn không biết phải giới thiệu thế nào, đành đáp bừa: “Là cháu”.

“Hả?”, giọng nói đó mỗi lúc một gần hơn, vừa dứt lời Lâm Hàn đã nghe thấy tiếng bước chân loạng choạng tiến đến gần.

Cánh cửa kêu két lên một tiếng, bà lão còng gập người xuất hiện. Dù trời còn sáng nhưng bà vẫn cầm trong tay một chiếc đèn dầu được lau đến sáng choáng. Vì tuổi cao nên đôi tay khô héo như cành củi của bà run lên khe khẽ. Bà ngước lên, nheo mắt nhìn Lâm Hàn, sau đó hỏi bằng giọng Quý Châu: “Là người nào vậy?”.

Bà cụ đã rất già song đôi mắt lại rất có thần, không hề mang vẻ chậm chạp thường thấy ở những người cùng lứa tuổi.

Giọng Qúy Châu với giọng Tứ Xuyên không khác nhau là mấy, may mà hồi đại học Lâm Hàn có mấy đứa bạn người Tứ Xuyên nên cũng không gặp trở ngại gì về ngôn ngữ. Cô đỡ lấy bà cụ: “Bà ơi, cháu là Lâm Hàn, là người lần trước đến đây chơi cùng Hữu Đức ấy”.

Vì Hữu Đức có lần nói là bà cụ chưa từng đi đâu ra khỏi Bình Uyển bắc thôn, thế nên Lâm Hàn sợ bà nghe không hiểu tiếng phổ thông, phải cố ý nói thật chậm rãi, đồng thời chuẩn bị tư tưởng để nghe bà hỏi đi hỏi lại mấy lần. Không ngờ bà cụ nghe xong đã hiểu ngay, hỏi lại cô: “Thế lần này Hữu Đức nhà chúng tôi có về không? Thằng bé không sao chứ?”.

“Không sao đâu bà ạ, anh ấy bận quá nên lần này nhờ cháu về đây thăm bà”, Lâm Hàn vội đáp lời.

Bà lão nghe thấy vậy liền dừng bước lại, quay đầu nhìn thật kỹ Lâm Hàn, sau đó nở nụ cười rạng rỡ: “Cô là vợ Hữu Đức nhà chúng tôi à?”.

Lâm Hàn đỏ bừng mặt, không nói được gì.

Bà lão thấy vậy lại càng cười vui sướng hơn.

Ánh sáng trong nhà dù không tốt lắm nhưng vẫn chưa đến mức phải thắp đèn. Lâm Hàn đón lấy chiếc đèn bà lão cầm trong tay, hỏi: “Bà ơi, bây giờ đang là ban ngày, không cần phải dùng đèn, mắt bà nhìn không rõ à?”.

Bà lão chép chép đôi môi già cỗi: ”Trời sắp mưa rồi, hễ mà mưa là trời tối sầm lại ngay, đến lúc đó nhỡ lại không tìm được đèn nên bà phải chuẩn bị từ trước”.

Lâm Hàn nhìn ra bên ngoài cửa sổ, trời vẫn cao vời vợi, ánh nắng chiều chói chang, làm gì có dấu hiệu cho thấy sắp mưa?

Bà lão cười cười: “Cháu có thấy mây bay nhanh không? Mây bay vừa nhanh vừa tản rộng thì chứng tỏ trời sắp mưa rồi”.

Lâm Hàn nhìn kỹ lại, quả nhiên đúng như bà lão nói, mây bay vừa nhanh vừa tản rộng, còn ở chân trời đã xuất hiện một vệt màu sẫm đen.

Chỉ một lát sau sấm đã rền vang, mưa nhanh chóng trút xuống như that đổ. Lâm Hàn thầm phục lăn bà lão, đúng là một đài dự báo khí tượng thủy văn sống.

“Hỏng rồi”, bà lão chợt kêulên, sau đó đi nhanh ra phía cửa, lấy chiếc áo tơi bằng lá mặc lên người. Chiếc áo tơi dày cộp, khoác lên trên cơ thế gầy guộc của bà tưởng như lúc nào cũng có thể bị đè sấp xuống đến nơi. Lâm Hàn thấy bà đi ra ngoài vội hỏi: “Bà ơi, trời đang mưa to như vậy, bà đi đâu thế?”.

“Mấy hôm trước mương sau nhà bị tắc vẫn chưa thông được, cứ để vậy lát nữa nước trên núi đổ xuống ngập nhà mất”, giọng nói của bà lão mất hút trong màn mưa, Lâm Hàn còn không kịp nghĩ ngợi gì, cũng vớ vội chiếc áo tơi rồi đuổi theo bà.

Phía sau nhà có một lạch nước rộng chừng nửa mét, sâu cũng chừng đó, Lâm Hàn nhớ hình như có lần Hữu Đức đã nói người dân quê anh quen gọi là mương sau nhà, chủ yếu dùng để thoát nước mưa. Khi đó trong lạch nước đã chất đầy cành lá cây khô với đất đá, còn bà lão thì đang dùng xẻng hất những thứ rác đó ra ngoài. Vì lưng bà còng gập nên cứ mỗi xẻng lại phải dừng lại nghỉ. Lâm Hàn không thể đứng yên nhìn, liền cầm lấy chiếc xẻng trong tay bà lão: “Bà ơi bà nghỉ đi, để cháu làm cho”.

Bà lão đứng sang một bên nhìn Lâm Hàn xúc đất đá dưới mương lên, nói lặp đi lặp lại: “Như vậy sao được? Cháu được nâng niu từ bé, chắc chưa từng làm những công việc vất vả này rồi, chúng ta quay vào nhà thôi, cứ mặc kệ nó, có ngập cũng không ngập sâu lắm đâu, làm quá sức sẽ mệt đấy”.

“Có ai được nuông chiều từ bé đâu bà”, Lâm Hàn ngoài miệng vẫn nói vậy, nhưng thực ra đã mệt tới nổi mồ hôi toát ra đầm đìa, hai tay đau rát như phải bỏng. Khó khăn lắm mới xúc hết được đất đá bên dưới mương lên, người cô đã ướt như tắm, không biết là vì nước mưa hay mồ hôi, nhìn xuống hai bàn tay thì thấy đã phồng rộp, đau rát như bị kim châm.

Bà lão đun xong nước tắm cho Lâm Hàn, lại đi nấu cho cô thêm một bát canh gừng. Hai tay vừa chạm vào nước nóng, Lâm Hàn đã thấy đau tới mức phải phồng mồm lên thổi. Tắm xong đi ra đã thấy bà lão cầm đến hai mảnh vải xô: “Cháu gái, quấn vào đi”.

Lâm Hàn cầm lấy một mảnh, thấy mùi thảo dược thơm dịu xộc ngay vào mũi, bèn hỏi: “Đây là gì thế hả bà?”.

Bà lão cầm mảnh vải kia giúp Lâm Hàn quấn bàn tay bị rộp, vừa quấn vừa giải thích: “Đây là bài thuốc dân gian bà học được của người Miêu, linh nghiệm lắm”. Quả nhiên sau khi quấn vào, bàn tay vốn đang bỏng rát lập tức không đau nữa, còn thấy mát dịu ở vết thương, cực kỳ dễ chịu.

“Bà là người dân tộc Miêu à?”

Bà lão lập tức sa sầm nét mặt, sau đó thở dài một tiếng: “Không phải”.

Lâm Hàn cảm thấy hình như bà có điều gì đó muốn nói, song lại cũng không tiện hỏi thẳng, thế nên tìm một góc tiếp cận khác để lấy lòng: “Thế thì bà tài thật đấy, việc gì cũng biết”.

“Tài hả?”, bà lão hỏi lại, cũng không đợi Lâm Hàn trả lời mà cười cay đắng: “Nếu như thực sự có tài thì đã không phải sống cô độc lúc tuổi già như thế này”. Cách nói năng của bà lão không giống với những bà cụ ít học vùng quê, mà đằng sau câu nói dường như còn ẩn chứa rất nhiều điều.

Lâm Hàn không hỏi thêm gì nữa, dù sao thì cô cũng sẽ ở lại đây vài ngày, cứ để từ từ rồi sẽ có câu trả lời.

Chương 41: Tuệ châu

Tối hôm đó bà lão thu xếp cho Lâm Hàn ở một gian phòng, nhìn qua đã biết không phải là gian phòng cô ở hồi trước. Bà lão rất tế nhị, sợ nếu cho cô ở phòng cũ sẽ gợi lại những ký ức không vui.

Bên ngoài có thứ gì cũng không nhìn thấy. Lâm Hàn nghĩ vậy, chợt cảm thấy một nỗi sợ hãi trào lên trong lòng. Cô vội kéo màn ra. Mưa đã nhỏ dần, rơi tí tách trên những phiến lá ngoài sân. Giọt gianh trên mái nhà cũng đang nhỏ xuống tí ta tí tách, nghe rõ mồn một trong đêm khuya thanh vắng. Nhìn qua cửa sổ chỉ thấy một màn đêm đặc quánh, thấp thoáng đường viền của dãy núi nhấp nhô, vừa thần bí vừa… u ám.

Lâm Hàn rùng mình một cái, tự trấn an mình: Đừng có nghĩ ngợi lung tung, đừng nghĩ ngợi lung tung. Chỉ là ở một vùng quê mà mình không mấy quen thôi.

Bà lão đi ngủ sớm, mới tám giờ đã lên giường nằm. Lâm Hàn là khách, hơn nữa trong nhà không có đèn điện, không ngủ thì còn có thể làm gì được? Cô buồn chán nằm trên giường, trằn trọc xoay đi xoay lại mà không ngủ được, đếm cừu đến tận số ba nghìn rồi nhưng vẫn không hề buồn ngủ chút nào.

Không biết cứ lăn lộn như vậy bao lâu, cuối cùng cô cũng chìm dần vào giấc ngủ.

Tờ mờ sáng hôm sau đã nghe thấy tiếng bà lão đi lại bên ngoài. Lâm Hàn vốn ngủ không sâu nên nghe thấy tiếng động cũng lập tức dậy theo.

Bà lão nhìn thấy Lâm Hàn, cười nói: “Cháu gái, không quen nhà à?”.

Lâm Hàn cười cười: “Cũng bình thường bà ạ”.

Bà lão bưng một chiếc chậu gỗ, vừa rót nước cho cô rửa mặt, vừa nói: “Cũng bình thường tức là hơi miễn cưỡng rồi, chắc ngủ không quen. Thực ra cũng phải, cái vùng thôn quê héo lánh này, đừng nói là cháu, bây giờ mà Hữu Đức với Ngọc Ngọc có quay về thì cũng không quen được đâu”.

Lâm Hàn đón lấy chiếc chậu, cười nói: “Bà ơi, bà chẳng giống với những gì Hữu Đức nói cả”.

Bà lão quay đầu lại hỏi: “Không giống ở chỗ nào?”.

“Cách nói chuyện này, hoàn toàn không giống với một người chưa từng đi đâu khỏi nơi đây cả. Cũng không giống một người không được học hành gì”.

Bà lão im lặng, dường như đang chìm vào một vùng ký ức xa xôi, mãi lâu sau mới thì thầm đáp lại: “Hữu Đức nói về bà như thế hả? Vậy còn Ngọc Ngọc thì nói thế nào?”.

“Ngọc Ngọc?”, Lâm Hàn sững lại, ấp a ấp úng nói: “À, cháu chưa từng gặp Ngọc Ngọc bao giờ”. Cô không muốn nói dối người già, song cũng không nhẫn tâm nói ra điều gì để làm bà lão đau lòng.

“Có phải là cháu không hợp với Ngọc Ngọc không? Không sao cả, đợi khi con bé đó quay về đây, bà sẽ nói với nó, chị em dâu phải quan hệ với nhau cho tốt, nếu không sao này nó về nhà người ta bị bắt nạt thì ai sẽ ủng hộ nó đây?”, bà lão cứ càm ràm nói không ngừng, vừa nói tay chân vừa làm không nghỉ. Bà đặt một abLâm Hànt cháo trắng lên bàn, một bát khác còn để hai quả trứng gà, sau đó chỉ vào đó nói với Lâm Hàn: “Người ở thành phố các cháu quen ăn sáng, ở quê chẳng có thứ gì ngon, ăn tạm một chút cháu này đi”.

“Ăn sáng ạ?”, lần này thì Lâm Hàn có thể hoàn toàn khẳng định là bà lão không hề giống một bà cụ quê mùa mù chữ như những gì Hữu Đức từng nói chút nào.

Cô ngấm ngầm đánh giá: Ngoài dấu vết tuổi tác hằn rõ trên người thì thời gian dường như không tác động đuoc đến bà lão một chút nào.

Ăn sáng xong, Lâm Hàn một mình đi lên hang dơi trên núi. So với lần trước, hang dơi không có gì thay đổi, phía trước cửa hang vẫn phủ một lớp rêu xanh mượt, sau trận mưa lớn đêm qua trông càng có vẻ sáng bóng lên hơn. Cô nhặt một cành cây rồi chầm chậm đi vào hang, ba bước, mười bước, mười lăm bước, vẫn không thấy một con dơi nào.

Khi đi được chừng hai mươi bước, cô thấy đằng trước có một ngã rẽ, bèn theo lối đó đi tiếp. Vì ngược sáng nên Lâm Hàn không nhìn thấy thứ gì trong đó, cô lặng lẽ đặt chiếc đèn pin mang theo người, lập tức thấy trên trần hang dơi đậu dày đặc, số lượng nhiều tới mức phát sợ. Dù đã chuẩn bị trước nhưng Lâm Hàn vẫn hoảng hồn đánh rơi chiếc gậy trong tay, một tiếng cạch nặng nề vang lên. Cô thầm kêu: Hỏng rồi, sau đó co giò chạy. Còn chưa ra tới cửa hang, đã thấy gió thổi phần phầt trên đầu, cả đàn dơi nghe thấy âm thanh cùng ào đến…

Dù đã dự liệu trước tình huống này, mặc áo mưa có mũ trùm đầu, nhưng Lâm Hàn vẫn bị dơi cắn mấy vết trên người.

Thấy Lâm Hàn chạy về trong tình trạng hoảng hốt, bà lão vội vàng lấy nước cho cô rửa sạch vết thương, một lúc sau lại lấy ra một chiếc lọ màu nâu, dùng bông thấm nước bên trong đó rồi xoa lên vết thương cho Lâm Hàn. Vừa xoa xong đã thấy không còn đau nữa.

Lâm Hàn nhìn vết dơi cắn nói: “Lọ thuốc này hiệu quả hệt như lọ ở nhà cháu có, vừa bôi vào hết đau ngay”.

Tay bà lão run bắn lên: “Nhà cháu sao?”. Thấy Lâm Hàn gật đầu, bà lại hỏi: “Cháu là hậu duệ của nhà họ Hà ư?”.

Lâm Hàn nghiêng đầu nhìn bà lão: “Làm sao mà bà biết? Bà quen ai ở nhà cháu à?”.

“Ha ha”, bà lão chợt bật cười, tiếng cười đó hệt như tiếng cái bễ vỡ, cười mãi, cười mãi dần dần trở thành tiếng khóc: “Ta có biết không ấy hả? Hu hu.. Làm sao có thể không biết chứ”.

Bà lão cứ vậy, hết cười rồi khóc, khiến cho Lâm Hàn sợ tới mức không dám thở mạnh nữa, nghĩ thầm trong bụng: “Chẳng phải Hữu Đức nói bà lão là một người độc thân hay sao? Nghĩa là không có quan hệ gì với nhà họ Tống mới phải, nhưng nếu như nghe lời bà ấy vừa nói, thì hình như không phải như vậy.

Bà lão gạt nước mắt đi, nhìn lại Lâm Hàn, sau đó dùng tay dò dẫm trên khuôn mặt cô, từ mũi, đến miệng, vừa nhìn vừa nói: “Đôi mắt này, cái mũi này, miệng này, giống, rất giống”.

“Bà ơi, bà nói giống ai cơ?”, Lâm Hàn càng cảm thấy không hiểu nổi.

“Hà Tịnh Nghi”, bà lão nghiến răng nghiến lợi hỏi: “Lẽ nào chưa có ai nói là cô trông giống Hà Tịnh Nghi hay sao?”.

Từ trước đến nay Lâm Hàn chưa từng nhìn thấy hình ảnh của bà ngoại mình lúc còn trẻ, nên đương nhiên là không thấy giống hay không rồi.

“Đó là bà ngoại cháu, bà là…?”, thấy bà lão gọi tên bà ngoại mình ra, Lâm Hàn đoán chắc bà ấy có quan hệ gì đó rất gần với nhà họ Hà.

Bà lão vẫn rờ rẫm trên khuôn mặt Lâm Hàn, vì nỗi buồn đau nên trông đôi môi khô héo của bà càng già cỗi: “Ta cứ tưởng đời này kiếp này sẽ không còn gặp lại người nhà họ Hà nữa, song giờ đây lại gặp. (Type bởi Diễn đàn Lê Quý Đôn). Là tự bản thân cô muốn đến đây thăm bà già cô độc này sao? Ta tưởng mình đã quên đi tất cả những chuyện của mấy chục năm trước đó rồi, nhưng khi cô xuất hiện, ta mới nhận ra tất cả vẫn còn nguyên trong trí nhớ của ta. Còn bà ngoại cô thì sao? Bà ấy cũng đã già như ta rồi có phải không?”.

Lâm Hàn thấy bà lão nhắc đến bà ngoại mình, bỗng cay cay sống mũi, nước mắt trào ra: “Bà ngoại cháu đã mất cách đây mấy hôm rồi”.

Bà lão buông tay xuống, lập cập đi đến cạnh giường, ngồi tựa lưng vào đó rồi thì thầm nói một mình: “Cũng chết rồi, hóa ra chỉ còn lại có mình ta vẫn chưa chịu chết đi cho”.

“Bà ơi, bà là?”.

“Ta là ai ư? Bọn Hữu Đức, Ngọc Ngọc đều không hề biết, bọn chúng vẫn cứ gọi ta là bà. Thực ra ta cũng quên mất mình là ai rồi”.

Lâm Hàn ngồi lặng lẽ lắng nghe.

Bà lão nhìn Lâm Hàn, con ngươi sáng lên khác thường trong hai hõm mắt hằn sâu, hỏi: “Chắc ba ngoại cô chưa từng nhắc đến ta bao giờ có phải không? Chắc là tất cả những người biết ta đều nghĩ rằng ta đã biết, nhưng không ngờ được là trong bốn kẻ oan gia đó, lại chỉ còn có mình ta đang sống”.

Lâm Hàn nghe bà lão nói như vậy thì cũng đã đoán được ra bà ấy là ai, để chứng thực cho suy đoán đó của mình, cô hỏi một cách thận trọng: “Bà là Tuệ Châu phải không?”.

“Tuệ Châu?”, bà lão nghe thấy cái tên ấy lại bắt đầu rơi nước mắt, nở nụ cười đẫm lệ: “Tuệ Châu, cái tên đó đã bị chôn vùi mấy chục năm nay rồi, không ngờ có ngày lại được gọi lên”.

Lâm Hàn nghe thấy vậy, tỏ ra kinh ngạc: “Bà thực sự là bà Tuệ Châu sao? Bà, bà, bà…”.

“Chẳng phải ta đã chết rồi hay sao, đúng vậy không?”, thấy Lâm Hàn gật đầu, bà Tuệ Châu nói tiếp: “Lẽ ra ta đã chết rồi, nhưng chết đi sống lại”.

“Hả?”.

“Chuyện ân oán của mấy chục năm về trước rồi. Ta từ chỗ sống đi tới chỗ chết, từ chỗ chết quay về với cuộc sống vốn tưởng rằng tất cả đã thành tro tàn rồi chứ”.

“Vậy vì sao bà lại chấp nhận nói cho cháu biết, còn Hữu Đức và Ngọc Ngọc thì không? Bà là bà nội của bọn họ kia mà?”, Lâm Hàn hỏi.

Bà Tuệ Châu đưa tay lập cập vuốt vuốt khuôn mặt mình, hỏi: “Cô xem ta có xấu xí không?”.

Lâm Hàn nhìn khuôn mặt bà lão – chỉ thấy khắp mặt đầy những nếp nhăn, năm tháng dãi dầu nắng gió nên làn da đen đúa, thêm vào đó là những vết đồi mồi của tuổi già. Song nhìn thật kỹ, mới thấy giữa các nếp nhăn và đồi mồi có cả những vết sẹo, nếu là hồi còn trẻ với khuôn mặt trắng trẻo căng mịn hơn thì những vết sẹo dọc ngang đó hẳn là trông phải rất đáng sợ. Nếu căn cứ vào những gì ông Tống Tử Minh viết trong nhật ký, thì rõ ràng bà Tuệ Châu hồi còn trẻ là một cô gái xinh đẹp, lẽ nào…

Bà Tuệ Châu thấy Lâm Hàn không nói gì, lẩm bẩm như nói với chính mình: “Trông xấu xí lắm đúng không? Hồi đó ta cũng sợ phát khiếp vì khuôn mặt kinh khủng đó của mìh, đây mà là ta ư?”.

Nghe giọng điệu đó không khó để nhận ra rằng hồi trẻ bà đã quan tâm đến dung nhan của mình như thế nào: “Vậy vì sao bà lại trở nên như thế này?”.

Bà Tuệ Châu đột ngột thay đổi chủ đề: “Phải rồi, cháu gái, vì sao cháu lại đoán được ta là Tuệ Châu? Lẽ nào cháu cũng biết những chuyện ân oán giữa hai anh em nhà Tống Tử Minh?”.

Lâm Hàn gật gật đầu: “Vâng, cháu đã đọc cuốn nhật ký của ông Tống Tử Minh”.

“Nhật ký của Tống Tử Minh?”, bà Tuệ Châu ngồi bật dậy, mở ngăn tủ đầu giường ra lục tìm, “Làm sao có thể như thế được? Cuốn nhật ký đó ta đã cất rất kỹ càng cơ mà. Ơ, sao lại không thấy nữa?”. Bà Tuệ Châu lộn tun cả ngăn tủ lên nhưng rồi cuối cùng vẫn không tìm thấy, bèn quay đầu sang hỏi Lâm Hàn: “Cháu lấy phải không?”.

Lâm Hàn lắc lắc đầu: “Không phải, là Hữu Đức đã lấy đi”.

Bà lão nhìn Lâm Hàn với vẻ mặt lạnh lùng, hỏi một cách thăm dò: “Cháu với Hữu Đức cãi nhau phải không?”.

Thấy Lâm Hàn lắc đầu, bà Tuệ Châu lại nói: “Không phải cháu đến thăm ta thay Hữu Đức, mà là có chuyện”.

Lâm Hàn gật đầu thừa nhận: “Lần này cháu đến đây là muốn tìm hiểu một số việc, có thể liên quan đến Hữu Đức”.

Bà Tuệ Châu nghe nói vậy song không hề cảm thấy lo lắng, cũng không truy hỏi Lâm Hàn xem định tìm hiểu chuyện gì, chỉ lẩm bẩm một mình: “Bọn chúng đi cả rồi, chắc là không lâu nữa sẽ về đón bà già này tới sống cùng thôi”.

“Bà Tuệ Châu, vì sao bà lại sống sót được?”.

Nét mặt đầy những thăng trầm của cuộc sống, bà Tuệ Châu thở dài, nói: “Chỉ có thể nói là do chưa tận số thôi”.

Chương 42: Chết đi sống lại

Đáng lẽ ra ta nên biết được rằng Tống Tử Kiệt đã không còn là người đàn ông mà ta từng yêu tha thiết đó nữa. Ta cứ tưởng rằng mình nắm được bí mật trong tay, thêm nữa vì niệm tình nghĩa vợ chồng trước đây, anh ta sẽ theo ta về. Không cần tiền, không cần quyền lực, chẳng phải hai đứa đã sống với nhau ở quê mấy năm hết sức vui vẻ hay sao?

Trong lòng ta cũng hơi hận Tống Tử Minh, anh ta lấy vợ, lập nghiệp ở Thượng Hải, tận hưởng cuộc sống an nhàn một mình chẳng phải đã đủ rồi sao, không dung vượt đường xa về quê anh an hem em làm gì, ai muốn thấy anh ta kia chứ? Thực ra suy nghĩ đó cũng hơi vô lý, anh ấy sống có tình có nghĩa như vậy đâu có sai. Song khi tất cả trở thành việc đã rồi, có hối hận cũng đã muộn. Khi đó không ai nhìn thấu được lòng người, không hiểu được những lẽ thường tình ở đời, những ý đồ xấu xa trong lòng Tử Kiệt vốn đã định hình từ trước nên chẳng ai ngăn cản nổi.

Không hiểu thế nào là từ bỏ, khi yêu một người thì bị che mắt như vậy đấy, ta chỉ cảm thấy nếu phải rời xa anh ta, trái đất sẽ không còn quay nữa. Ta chỉ hy vọng con người lỡ bước chân đi đó sẽ hồi tâm chuyển ý, cùng ta quay về nơi đây, cũng giống như ta ngày trước dám rời bỏ vinh hoa phú quý, không sợ khổ, cùng người mình yêu bỏ trốn khỏi quê hương đến nơi thâm sơn cùng cốc này vậy.

Trong suy nghĩ của ta, tình huống xấu nhất cũng chỉ là bị anh ta khước từ, sau đó sẽ một mình đưa Tiểu Phong về đây sống thôi. Đàn bà là vậy, miệng thì nói rắn nhưng dễ mềm lòng, ta tung hết các con bài của mình ra, mà không biết đe dọa là chiêu ngu dốt nhất. Đe dọa một người đã bị tẩu hỏa nhập ma vì cuộc sống giàu sang phú quý chẳng khác nào tự mình cho mình đường chết, thế nên khi anh ta nhẫn tâm đập cây gậy đó vào đầu ta, ý nghĩ cuối cùng của ta trước khi chìm vào bóng đêm là hối hận: Thực sự không nên nói với anh ta những điều đó, sau này Tiểu Phong sẽ phải làm thế nào đây?

Anh ta khôn ngoan một đời, lú lẫn một giây. Nếu như ta muốn nói những chuyện đó với Tống Tử Minh và Hà Tịnh Nghi thật, thì đã nói ngay hôm biết chuyện rồi, việc gì phải giày vò chính mình lâu đến vậy? Nói cho cùng, khi đã làm chuyện xấu xa thì con người ta luôn cảm thấy tội lỗi trong lòng. Chỉ một giây không làm chủ được chính mình, nên bộ óc vốn khôn ngoan cũng không suy xét được gì.

Lâm Hàn hỏi chen vào: “Trong lòng bà vẫn còn một tia hy vọng đúng không?”

Bà có thể gật đầu: “Phải, trong lòng dù biết rõ ràng rằng niềm hy vọng đó còn nhỏ hơn trôn kim, nhưng vẫn mong là lòng tham của anh ta sẽ trở thành sợi chỉ, có thể chui vừa trôn kim đó”.

Khi yêu đến hết lòng, có thể hạ mình xuống thấp đến như vậy hay sao?

Hôm đó, khi ta tỉnh lại đã là nửa đêm. Mưa gió sấm chớp liên hồi, ta bị đặt nằm bên dưới một cái hố sâu chừng nửa mét, trên người đã bị lấp mấy xẻng đất, đầu bị che kín bởi một vầng cỏ, mặt đau như bị dao cửa. Ta đưa tay lên sờ, thấy mặt sưng to như cái bánh bao, còn có cả mấy vết cắt sâu nữa. Ta ngồi dậy nhìn kỹ xung quanh, đó là vườn sau của nhà họ Hà, rất ít khi có người qua lại. Chắc anh ta tưởng ta đã chết rồi nên đã đào cái hố này để chôn ta. Đến giờ ta vẫn nghĩ là chính trận mưa lớn đó đã cứu ta, hoặc là có chuyện gì đó giữ tay anh ta lại.

Khi anh ta xuống tay hạ sát, trái tim ta đã chết hẳn. Ta đắp cái huyệt đó lại như cũ, sau đó lấp các vầng cỏ lên trên. Khi làm những việc này, cháu không biết đâu, tim ta đập thình thịch, chỉ sợ anh ta sẽ đột nhiên xuất hiện, khi đó thì ta chắc chắn không còn đường sống nữa.

Ta vốn định tìm đường trốn đi, nhưng không nỡ bỏ lại Tiểu Phong, thêm vào đó toàn thân lại đầy thương tích, kiểu gì cũng phải đợi lành lại mới có thể đi xa được.

Ta đương nhiên không dám đàng hoàng quay lại nhà họ Hà, anh ta có thể ra tay một lần, thì cũng có thể làm như vậy lần thứ hai. Một người chết đi sống lại như vậy, bao giờ khát khao được sống cũng cực kỳ mãnh liệt. Khi đó tình yêu gì đó cũng chẳng đáng kể gì so với sinh mệnh cả.

Ta trốn trong nhà kính trồng hoa dưỡng thương.

Ngày hôm sau khi trời vừa sáng, anh ta đã lén lén lút lút chạy ra nơi chôn ta ngày hôm trước, nhìn thấy mặt đất được lấp phẳng, anh ta tỏ ra cực kỳ ngạc nhiên, song không dám kêu lên thành tiếng, cứ đứng ở đó hồi lâu rồi mới bỏ đi. Mấy ngày tiếp sau đó, ngày nào anh ta cũng đến đấy đứng nhìn, rồi sau này không đến nữa. Khi đó vết thương của ta cũng đã gần khỏi hẳn, song trên mặt thì đầy sẹo lồi lõm chằng chịt, chắc là vì vết thương không được xử lý kịp thời nên để lại hậu quả như vậy. Đến giờ ta vẫn không hiểu được rốt cuộc vì sao anh ta lại phải làm như vậy đối với khuôn mặt của ta.

Sau khi ra khỏi nhà họ Hà, ta luôn nghĩ: Bây giờ phải đi đâu đây? Đến đón Tiểu Phong rồi quay về Tây An ư? Khi đó ta đã ma không ra ma, người không ra người như vậy, làm gì còn mặt mũi nào mà quay về gặp cha mẹ nữa? Quay về Bình Uyển bắc thôn ư? Ngộ nhỡ anh ta tìm về đó thì biết làm sao? Ta đột nhiên nghĩ ra, Tống Tử Kiệt tưởng rằng ta đã chết, vậy thì ta chỉ cần làm một người đã chết là được. Thực ra ta vẫn muốn đón Tiểu Phong đi, mẹ con liền khúc ruột với nhau, ta không sao từ bỏ được đứa con đẻ của mình.

Đến cổng trường thằng bé, ta đứng bên ngoài đợi nó tan học. Hôm đó là thứ bảy, có vị phụ huynh đến đón con, đứa trẻ đó vừa trông thấy mặt ta đã khóc toáng lên, vừa khóc vừa kêu: “Mẹ ơi, mẹ ơi, quỷ, quỷ”.

Khi đó ta mới ý thức được là mình cực kỳ xấu xí, nếu như Tiểu Phong nhìn thấy chắc cũng không thể nhận ra, nếu như nó cũng khóc ầm lên như đứa bé kia thì ta biết phải làm thế nào? Không được, ta không thể như vậy được. Thế là ta bỏ chạy khỏi trường học của Tiểu Phong.

Hồi mới đến nhà họ Hà, Hữu Đức có tặng ta mấy món đồ trang sức làm quà nhận chị em, còn nhớ hồi đó bà ấy nói với ta: Là phụ nữ thì áo quần có thể ăn mặc đơn giản, ăn có thể kém một chút cũng được, nhưng phải có mấy món đồ trang sức mới được, không chỉ để giữ thể diện, mà còn là thứ dùng trong lúc nguy cấp, có vậy khi đi đâu xa nhà nếu có gặp chuyện gì bất trắc còn lấy ra dùng, như vậy chẳng hề lãng phí đâu. Không ngờ đúng là có ngày phải dùng đến thật. Ta bán mấy món đồ đó đi, mua vé xe quay về Quý Châu. Ha ha, cuối cùng thì ta cũng chỉ có thể quay về nơi đây, ngoài Tây An ra, thì nơi thân thuộc nhất với ta lại chính là nơi này.

Sau khi về đến Quý Châu, ta luôn nghĩ xem nên sống ở nơi nào thì tốt nhất.

Sau này ta chợt nhớ đến người đã truyền bí thuật mà Tử Kiệt từng nhắc đến, bèn dùng tiền nhờ người đi dò hỏi khắp nơi để tìm đại chỉ của anh ấy. Trải qua một ngày đường mệt rũ, cuối cùng trái tim đã chết của ta lại sống lại: Nếu như ta cũng học được từ người đó một số bí thuật, cũng làm cho Tử Kiệt quên đi ký ức, như vậy liệu chúng ta có thể làm lại từ đầu hay không?

Khi gặp người đó, ta đã nói cho anh ta tất cả mọi chuyện. Anh ta vô cùng hối hận, nói rằng không nên nhất thời khoe khoang mà truyền thứ tà thuật đó cho Tống Tử Kiệt.

Anh ta vừa thương xót cho ta, vừa tự trách mình, cảm thấy một phần nguyên nhân khiến ta trở nên như vậy chính là do anh ấy, thế nên đã giữ ta ở lại nhà. Nghe nói ta muốn học bí thuật đó, anh ấy không từ chối mà lập tức truyền ngay cho ta. Khi ta đã học được xong, anh ấy hỏi: Cô có chắc là làm như vậy vẫn còn ý nghĩa không? Một lời nói làm bừng tỉnh người đang chìm trong giấc mộng, ta nhìn vào khuôn mặt khủng khiếp của mình trong gương. Dù rằng ta có làm cho Tống Tử Kiệt quên đi tất cả, quay về bên cạnh mình đi chăng nữa thử hỏi còn có ý nghĩa gì? Những thứ mà chúng ta đã mất đi dù thế nào cũng không sao lấy lại được nữa. Trái tim ta tới lúc đó mới hoàn toàn chết hẳn.

Thế là ta ở lại trong nhà người đó, giúp anh ấy làm những việc vặt trong nhà.

Tiền bối của anh ấy là hậu duệ của các phù thủy người Miêu, suốt cuộc đời anh ấy cũng chỉ say mê nghiên cứu các thuật phù thủy của người Miêu, thế nên nhất quyết không lấy vợ. Anh ấy nói với ta, sở dĩ anh ấy vào đại học cũng chỉ là vì muốn xem xem khoa học có thể giải thích được những thứ mà tổ tiên mình truyền lại hay không. Trong thời gian ở đại học anh ấy rất chăm chỉ, thậm chí còn học được cả thuật thôi miên. Sau khi tốt nghiệp, nhà trường muốn giữ lại làm giảng viên nhưng anh ấy từ chối, quay về quê làm ruộng, vừa nghiên cứu các thuật phù thủy, vừa tự sáng tạo ra thuật thôi miên của riêng mình.

Ta ở lại đó đến mười năm, hàng năm đều lặng lẽ quay về Bình Uyển bắc thôn một lần để thăm Tiểu Phong. Trong mười năm đó, hai anh em họ Tống lần lượt qua đời. Khi những người đó không còn, ta chợt thấy lòng mình trống rỗng, bất luận là yêu hay hận thì cũng không còn chỗ nào ký thác.

Vị tiền bối đó vì quá say mê với các thuật phù thủy nên cũng mắc bệnh trọng, kéo dài được vài năm sau rồi chết.

Vì hàng ngày tai nghe mắt thấy nên ta cũng học được một vài chiêu thức bí truyền. Thực ra những món đó chẳng có chỗ nào mà áp dụng, nhưng thừa thãi thời gian thì học lấy thôi.

Sau khi vị tiền bối đó qua đời, ta quay về Bình Uyển bắc thôn, lấy danh nghĩa một góa phụ đi chạy nạn. Những người trong thôn đương nhiên không còn nhận ra ta vì ngoại hình đã thay đổi hoàn toàn. Thôn trưởng thậm chí còn vận động mọi người làm giúp ta một gian nhà để có thể ở qua ngày.

Sau đó, chứng kiến Tiểu Phong lấy vợ, sinh con đẻ cái, rồi cũng… ra đi. Khi vợ chồng nó ra đi, ta nghĩ: Phải chăng ta mệnh sao chổi? Vì sao bọn họ đều đi cả, còn ta vẫn sống trên đời này trong bộ dạng một phế nhân? So với những người cùng lứa tuổi, trông ta già hơn hẳn. Không ngờ đến khi già, các nếp nhăn khiến những vết sẹo đó bị che khuất bớt, khiến mặt ta không còn đáng sợ như trước nữa.

Khi Tiểu Phong để lại ba đứa trẻ mồ côi đáng thương, ta thường đến làm cơm cho chúng ăn, cho chúng quần áo để mặc, giúp chúng vá víu đồ rách, dần dần bọn trẻ ngày càng gắn bó với ta, thế nên ta lại dọn về sống trong căn nhà cũ. Cô có biết cảm giác lúc đó như thế nào không? Từng viên gạch ngói trong phân nửa ngôi nhà ấy đều ghi lại quá khứ của ta và Tống Tử Kiệt, mấy chục năm đã trôi qua, yêu và hận đều đã bị năm tháng chôn vùi.

“Bà Tuệ Châu, chẳng lẽ bà chưa từng về thăm cha mẹ mình một lần nào ư? Thực ra bất kể hình dáng bà đã trở thành thế nào đi chăng nữa, thì cha mẹ cũng sẽ không bao giờ vứt bỏ bà”, Lâm Hàn hỏi. Từ đầu câu chuyện tới giờ, bà lão chưa từng nhắc nửa lời đến song thân, lẽ nào đối với bà ấy tình yêu là tất cả?

Bà Tuệ Châu cười nói: “Có về thăm, sao có thể không về được. Ta đi cùng với vị tiền bối đó, lấy danh nghĩa bạn học của Tuệ Châu, nói với họ là Tuệ Châu đang sống rất tốt, không cần phải nhớ thương. Hôm đó ta đã phải kìm nén rất nhiều để không bật khóc, khi bước chân ra bậu cửa còn đứng lại mãi không đi nổi, chỉ nghe thấy mẹ ta khóc ròng, vừa khóc vừa nói với cha ta: Sao tôi cứ cảm thấy hình như người đó chính là Tuệ Châu nhà chúng ta? Cha ta đáp: Vì bà thương nhớ con qua, bà xem ảnh Tuệ Châu gửi đi, trông nó trẻ hơn cô đó rất nhiều, còn cái cô đó trông chỉ kém bà có mấy tuổi thôi. Sao có thể là con gái chúng ta được? Hơn nữa không mặt cô ta…”.

“Nghe cha nói vậy ta không sao chịu đựng thêm được nữa, kéo vị tiền bối đó rảo bước thật nhanh. Từ lần ấy ta không bao giờ quay về nhà nữa. Quả thực ta là một đứa con bất hiếu không hơn không kém”.

“Thực ra nỗi đau và thương nhớ trong lòng bà cũng không hề ít hơn họ đâu”.

Bà Tuệ Châu xoa đầu Lâm Hàn nói: “Đúng là hiểu biết, lại lương thiện nữa, giống hệt Ngọc Ngọc nhà chúng ta”. Thấy chốc chốc bà lão lại nhắc đến Tống Ngọc Ngọc, còn Hữu Đức thì không thể quên được mối tình với người con gái dó, Lâm Hàn đột nhiên thấy tò mò: Rốt cuộc cô ấy là một cô gái như thế nào? Chắc chắn là phải rất tuyệt vời, thế nên mới khiến người ta không thể quên được.

“Bà Tuệ Châu, bà rất nhớ Ngọc Ngọc phải không?”.

“Nhớ, người trong thôn đồn nhau rằng Ngọc Ngọc nhà ta cũng đã chết giống như Tiểu Hoan rồi, thế nên đã lâu như vậy mới không về thăm ta”, nói xong bà lão bĩu môi như đứa trẻ con, “Mấy người đó chỉ nói bậy, Ngọc Ngọc nhà ta chắc chắn còn sống, chắc chắn là chưa chết. Khi Tiểu Hoan mất, tim ta đau nhói suốt ba ngày, Ngọc Ngọc cũng là cốt nhục của ta, nếu như nó không còn trên đời này nữa, thì làm sao ta lại không biết được”, bà lão nói cực kỳ chắc chắn.

Lâm Hàn nghe thấy vậy thì sống mũi chợt cay cay, vì sợ mình sẽ nói lộ ra điều gì làm bà lão đau lòng nên vội chuyển sang chủ đề khác.

Chuyện trò một hồi nữa, khi Lâm Hàn hỏi bà Tuệ Châu về chuyện những con dơi trong thư phòng nhà họ Hà, bà Tuệ Châu cũng lắc đầu: “Chuyện đó nói ra thì thật lạ lùng. Chắc là vì nhà họ Tống có mối hận thù gì đó chưa giải được với bọn dơi đó, cũng giống như cái hang đằng sau núi ấy, dù có lấp, đốt, hun khói, làm đủ mọi cách rồi nhưng vẫn không đuổi được hết bọn dơi đi. Ha ha, thực ra chỉ cần đừng có chủ động quấy nhiễu chúng, thì chúng cũng sẽ không hại người”.

Lâm Hàn cũng tỏ vẻ đồng tình.

“Hữu Đức về đấy à?”, bà lão đột nhiên kêu lên, sau đó lập tức đứng dậy, đẩy cửa sổ thò đầu nhìn ra bên ngoài. Lâm Hàn giật thót người, cũng vội vàng ngó ra xem. Bên ngoài cây hoa hồng đang nở rực rỡ, một cơn gió thổi qua hất những giọt nước mưa đọng trên lá cây xuống đất giống hệt một trận mưa rào nhẹ: “Bên ngoài vắng tanh, làm gì có bất cứ người nào? Lâm Hàn cười nói: “Bà Tuệ Châu, bà có nghe nhầm không?”.

“Nhầm làm sao được, ta nuôi nó từ bé, không cần phải nói, nghe tiếng bước chân cũng đã biết là có phải hay không rồi, sao mà nhầm được?”, bà Tuệ Châu tỏ rõ sự phấn khích lạ thường, cầm lấy chiếc gậy rồi đi ra ngoài cửa, vừa đi vừa gọi: “Hữu Đức, Hữu Đức?”.

Trận mưa khiến cho nền đất xung quanh nhà trơn trượt, bà lão bước thấp bước cao tìm kiếm một lượt sân trước vườn sau, Lâm Hàn sợ bà trượt ngã nên phải bám sát theo sau. Khi đi qua một gờ đất, bà lão quả thực trượt chân, ngã ngay xuống dưới. Lâm Hàn muốn giữ lại mà không kịp, chỉ thấy đầu bà lão đập mạnh vào viên đá nhọn, máu phun ra từ trán, Lâm Hàn sợ tới mức khóc toáng lên.

Những người hàng xóm đang ở gần đó vội vàng chạy đến, không nói gì nhiều, lập tức cõng bà lão chạy ra trạm y tế.

Vừa tới trạm y tế, bà lão đã thở hắt ra. Khi chết, ta bà vẫn còn nắm chặt tay Lâm Hàn, đôi mắt vốn tinh anh dần tối lại.

Lâm Hàn cảm thấy đau lòng khôn xiết, khi ấy cô không còn nghĩ đến bất cứ chuyện gì khác, chỉ muốn liên lạc ngay với Hữu Đức. Gọi điện vào số máy anh, nhưng không ngờ luôn trong tình trạng tắt máy. Lâm Hàn tiếp tục gọi điện cho Quý Giác định nhờ cô bạn đến nhà Hữu Đức báo tin cho anh, Quý Giác hỏi: “Chẳng phải là cậu đang trốn anh ta à? Tìm anh ta làm cái gì mà gấp gáp như vậy”.

“Nhà anh ấy xảy ra chuyện lớn rồi”.

“Hả? Cái gì? Xảy ra chuyện lớn gì?”, giọng Quý Giác ở máy bên kia chợt cao hẳn lên.

“Bà nội anh ấy mất rồi”, trong lòng Lâm Hàn vừa sợ hãi, vừa đau buồn, vừa hối hận lại vừa tự trách mình, nếu như không phải vì cô đến đây thì có lẽ bà Tuệ Châu đã không xảy ra chuyện như vậy.

Máy bên kia bỗng dưng không còn âm thanh gì nữa, Lâm Hàn a lô mấy tiếng mới thấy giọng Quý Giác yếu ớt hỏi: “Tiểu Hàn, việc này không liên quan gì đến cậu chứ?”.

“Không đâu. Không đâu”, Lâm Hàn vội vàng giải thích., “Trời vừa mưa nên đường trơn trượt, khi đó mình đang ngồi trong nhà nói chuyện với bà Hữu Đức, bà đột nhiên gọi tên anh ấy lên, còn khẳng định chắc chắn là anh ấy đã về nhà, sau đó chống gậy đi tìm khắp xung quanh, cuối cùng khi đi qua ruộng thì trượt chân ngã, không may đập đầu trúng một hòn đá, sau đó thì…”.

“Bà ấy già như vậy, sao cậu không ngăn lại?”, trong giọng nói của Quý Giác đã đầy nước, “Cậu không thể khuyên can bà ấy được hay sao?”.

“Mình đã khuyên rồi”, Lâm Hàn vừa đau lòng vừa ấm ức, cũng bật khóc, “Khi bà bị ngã xuống, mình muốn giữ lại nhưng không giữ được… Hu hu, mình đành phải trơ mắt nhìn bà ngã xuống, ngã xuống ngay trước mắt mình”.

Giọng Quý Giác trở nên suy sụp: “Được rồi, cậu cũng đừng đau lòng quá, mình sẽ giúp cậu đi tìm Hữu Đức ngay”, nói xong, không chờ Lâm Hàn nói gì thêm, Quý Giác đã tắt máy.

Vì bà lão không có con cháu nên tang lễ được làm hết sức giản đơn. Lâm Hàn vốn định nói cho mọi người biết về thân phận thực sự của bà, nhưng nghĩ đến việc nếu nói ra sẽ khó tránh được nhiều điều rắc rối khác, với lại cô cũng không giỏi nói dối, thế nên kiểu gì cũng sẽ dẫn đến chuyện không mấy hay ho giữa hai an hem họ Tống. Nghĩ đến việc bà Tuệ Châu đã phải giấu giếm suốt mấy chục năm, có lẽ đến khi chết bà cũng sẽ không muốn thân phận thực sự của mình bị lộ, thế nên lại thôi.

Chi bằng cứ để cho bí mật này chôn vùi mãi mãi, trở thành một bí mật vĩnh viễn đi.

Sau khi chôn cất bà Tuệ Châu xong, Lâm Hàn cũng chẳng còn lý do gì để ở lại Bình Uyển bắc thôn. Trước khi đi, cô còn ghế qua gian phòng mà Ngô Thục Hoa đã tự sát, muốn tìm được thêm manh mối nào đó, nhưng gian phòng đã được dọn dẹp sạch sẽ, không còn lưu lại bất cứ dấu tích nào.

Trưởng thôn tiễn cô ra đến đầu làng, trên đường đi còn trò chuyện mấy câu: “Cô quay về với Hữu Đức, bảo cậu ta nếu có thời gian rảnh rỗi thì về thắp một nén hương lên mộ cho bà ấy. Bà ấy chỉ có một thân một mình, trông nom ba an hem chúng nó từ bé tới lớn, chưa nói tới việc đáp đền công ơn dưỡng dục, ngay cả khi chết cũng chỉ có một mình lạnh lẽo thế này, đúng là khiến cho người ta thấy đắng lòng”.

Lâm Hàn ra sức gật đầu, trong lòng cũng cảm thấy thê lương.

Mối ân oán tình thù của hai thế hệ trước cũng theo bà Tuệ Châu đi, coi như là đã kết thúc.

Chương 43: Cái chết của Lê Hữu Đức

Lâm Hàn quay về Thượng Hải, Quý Giác nói không làm thế nào liên lạc với Hữu Đức được.

Lâm Hàn tìm đến nhà anh, thấy cửa khóa chặt. Tìm đến bộ phận quản lý tòa nhà hỏi, mới biết gần mười ngày qua anh không về nhà, còn chiếc Buick thì vẫn đỗ nguyên trong hầm xe. Lâm Hàn đột nhiên nhớ tới lời bà Tuệ Châu nói hôm đó: Nhầm làm sao được, ta nuôi nó từ bé, không cần phải nói, nghe tiếng bước chân cũng đã biết là có phải hay không rồi, sao mà nhầm được. Lẽ nào hôm đó Hữu Đức đứng bên ngoài cửa thật? Nếu như anh ấy ở đó, thấy bà mình gặp nạn vì sao lại không xuất hiện?

Lâm Hàn ngồi trước cửa nhà Hữu Đức trọn một buổi chiều, vẫn không thấy anh quay về. Vì đã hẹn Đường Triêu và Lý Ảnh đi ăn cơm tối nên không đợi thêm nữa mà về nhà chuẩn bị.

Buổi tối trước khi ra khỏi nhà cô còn gọi điện hẹn gặp Quý Giác. Mới có mấy ngày không gặp mà Quý Giác đã gầy đi khá nhiều, tâm trạng hình như cũng không được tốt. Lâm Hàn hỏi đến, Quý Giác lập tức bật khóc, không sao nói được điều gì. Việc này quá khác thường so với tính cách hàng ngày của Quý Giác, thế nên Lâm Hàn cũng không dám hỏi thêm gì nữa, lúc đi ăn cố gắng kéo cô ấy đi, có nhiều người để thay đổi sự chú ý chắc sẽ dễ quên chuyện buồn nào đó.

Khi đồ ăn đã được mang lên gần hết, Quý Giác mới lững thững đến.

Váy đầm màu hồng xám, mái tóc quăn bồng bềnh, trang điểm nhẹ nhàng, trông tổng thể cực kỳ nhã nhặn nhưng cũng không mất đi vẻ quyến rũ. Khi đó tinh thần Quý Giác đã khá hơn nhiều, so với lúc ban ngày thì đã hoàn toàn thay đổi. Lâm Hàn ngấm ngầm thán phục mình, cũng cảm thấy vui, quả tim vốn cứ treo lơ lửng cuối cùng cũng quay về chỗ cũ: Vẫn còn biết trang điểm, chứng tỏ cũng không có vấn đề gì lớn lắm.

Lý Ảnh vẫn lặng lẽ giống như mọi khi, Quý Giác vì đang có tâm sự nên cũng trầm trầm không nói nhiều, trong bữa ăn chỉ thấy tiếng Lâm Hàn và Đường Triêu nói chuyện.

Bữa tối đó cũng tạm gọi là vui vẻ.

Sau khi ăn xong, Lâm Hàn nhờ chú Vương đưa Quý Giác về nhà, còn cô gọi taxi đến nhà Hữu Đức, cửa vẫn đóng kín như lúc chiều. Để tránh giáp mặt với anh, cô nhấn chuông xong liền né sang bên lối thoát an toàn, lặp đi lặp lại mấy lần như vậy mà cũng không thấy ai ra mở cửa. Xem chừng Hữu Đức vẫn chưa về thật.

Lâm Hàn càng nghĩ càng cảm thấy trong lòng bất an: Hữu Đức là một người rất thích ở nhà, không thể lâu như vậy mà không về được. Nhưng mà anh đi đâu mới được chứ? Một người to đùng như vậy sao có thể đột nhiên biến mất không tăm tích?

Quăng quật suốt một ngày, toàn thân mệt mỏi tới mức có cảm giác như các khớp xương đều rời cả ra. Vừa tắm xong định nằm nghỉ, Lâm Hàn chợt nghe tiếng bà Tố Lan gọi: “Tiểu Hàn, ngày mai con đến công ty một lát xem thế nào nhé”.

Lâm Hàn cau mày, bĩu môi: “Mẹ, chẳng phải là không cần con đến đó nữa hay sao? Nói cách khác, không phải ở công ty đã có một gã tên là Trịnh Khắc một ty che khuất bầu trời rồi sao? Con đến đó làm gì cho rắc rối?”.

Bà Tố Lan cũng tỏ ra không hiểu: “Cũng không biết thằng Trịnh Khắc đó lại định giở trò gì, hai ngày trước Nhiếp Đồng gọi điện đến bảo mẹ là thằng đó đột nhiên biến mất, trước khi đi có nói với thư ký là chỉ đi một lát thôi, nhưng ai ngờ mãi vẫn chưa quay về, điện thoại di động cũng tắt. Hai ngày nay công ty đã loạn lên thành một nồi cháo rồi”.

Lâm Hàn vừa nghĩ đến bộ dạng buông thả của Trịnh Khắc, cười mỉa: “Nói không chừng lại bám theo một nữa diễn viên hạng bét nào đó rồi. Cái tên này, cố sống cố chết để ngồi bằng được vào chiếc ghế số một ở công ty, mới ngồi được mấy ngày đã thấy nóng đít rồi chắc?”.

“Nói tóm lại là ngày mai con đến đó một chuyến xem sao, nói gì thì nói đó cũng vẫn là sản nghiệp của nhà ta”.

Lâm Hàn ôm lấy vai bà Tố Lan, đẩy ra ngoài cửa: “Tuân lệnh đại nhân, nhi thần xin gánh vác trách nhiệm cao cả giành lại phần lãnh thổ đã bị chiếm mất của chúng ta”.

“Chỉ nghịch ngợm”, bà Tố Lan đóng cửa vào giúp Lâm Hàn.

Vừa đặt mình xuống Lâm Hàn đã ngủ say, nhưng vì mấy ngày liền lòng đầy tâm sự nên ác mộng nối đuôi nhau tìm đến.

Cô mơ thấy mình đi một mình trong con ngõ nhỏ, trời mưa như trút nước, chiếc ô màu xanh da trời của cô dường như không chống đỡ nổi trước cơn gió rít điên cuồng, bị quật sang hai bên tơi tả. Ở cuối con ngõ được lát đá xanh đó là một quán trà, bên ngoài lối vào được gắn một tấm biển: Minh Hương cư.

Cô thở phào một tiếng: Cuối cùng cũng tìm thấy rồi.

Nhân viên phục vụ quán trà mặc chiếc áo dài xường xám tối màu dẫn Lâm Hàn vào một phòng bao có tên gọi “Vân Khê các”. Cô đẩy cửa bước vào, thấy Hữu Đức mặc bộ áo dài màu xanh lam ngồi trong đó, tay giữ ống tay áo để rót trà. Thấy Lâm Hàn, anh mỉm cười rồi nhẹ nhàng hỏi: “Em đến rồi à?”. Dường như anh đã đợi cô ở đó rất lâu, đây là lần đầu tiên Lâm Hàn trông thấy anh mặc một màu khác ngoài màu trắng, thế nên cảm giác con người chân thực hơn rất nhiều.

Lâm Hàn lặng lẽ ngồi xuống, nghĩ không biết có nên nói với Hữu Đức việc bà Tuệ Châu đã mất hay không. Mấy lần cô hé miệng định nói ra thì lại bị sự dịu dàng của anh chặn lại: “Suỵt, đừng nói gì cả, chúng ta thưởng trà đã”.

Màu trà trong chén trông có vẻ đặc, song khi uống vào thì lại không khác là bao so với nước lọc. Hữu Đức ngồi uống trông có vẻ rất thú vị, vừa uống vừa tặc lưỡi khen: “Không tệ, không tệ, đúng là hàng thượng hạng”. Thấy Lâm Hàn không nói gì, anh hỏi với vẻ quan tâm: “Tiểu Hàn, trà không ngon à?”.

Ánh mắt nhìn chăm chú của anh khiến cho người ta không thể, cũng không dám nói ra điều gì trái ngược, thế nên Lâm Hàn lắc đầu một cách máy móc: “Không phải, trà ngon lắm”.

“Thật ư?”, giọng nói của Hữu Đức đột nhiên như được phủ một lớp sương mờ bí ẩn, cảm tưởng như ở rất xa cô, nhưng rõ ràng là anh vẫn đang ngồi trước mặt. Trên khóe môi anh ẩn hiện một nụ cười quái đản rất khó nhận ra: “Em nhìn trong chén của mình xem”.

Giọng nói của anh mang một ngữ điệu đầy ma lực khiến người khác không thể không làm theo – trà bên trong chén của Lâm Hàn đã biến thành màu máu, trong cái màu đỏ chói mắt đó là một hạt ngọc màu đen. Mùi máu tanh ngòm xộc ngay lên mũi khiến cho Lâm Hàn thấy buồn nôn.

“Tiểu Hàn, Tiểu Hàn”, giọng Hữu Đức mỗi lúc một xa, Lâm Hàn ngẩng đầu lên nhìn, đã thấy anh ở bên ngoài cửa sổ phòng uống trà. Anh đứng trước một bụi hoa hồng, mắt bên trái đã không còn con ngươi, một dòng máu chảy ra từ bên trong hốc mắt trống rỗng, cắt đôi nửa bên trái khuôn mặt đẹp đẽ của anh.

Lâm Hàn ra sức lắc đầu, gào lên đau đớn: “Đây không phải là sự thật, đây không phải là sự thật”.

“Tiểu Hàn, Tiểu Hàn, anh đi đây, anh – đi – đây”, cơ thể Hữu Đức cũng xa dần như tiếng nói của anh, cuối cùng mất hút khỏi tầm mắt cô.

Lâm Hàn lao đến bên cửa sổ, cố gắng với tay về hướng mà anh biến mất: “Đừng đi, Hoan Dạ, đừng đi”.

“Đừng đi, đừng đi, á…”, Lâm Hàn đột nhiên ngồi bật dậy, tim vẫn đập thình thịch trong lồng ngực. Cô thở dốc từng hồi, tất cả những hình ảnh khủng khiếp trong giấc mộng vẫn không ngừng lặp đi lặp lại trong đầu, hễ nhắm mắt lại là con ngươi trong chén trà lại bắt đầu xoay tròn, xoay nhanh đến mức đầu cô cũng quay lòng vòng, mãi lâu sau mà tâm trạng vẫn không bình thường lại được.

Có lẽ vì nằm mơ thấy Hữu Đức nên cô cảm thấy trái tim mình nghẹn đắng, nghẹn tới mức phát sợ. Miệng cô không ngừng gọi cái tên dùng trên mạng của anh, một lúc sau không sao chịu nổi, cô vùng dậy bật máy tính, đăng nhập vào trang Bóng ma Linh Dạ.

Vì lâu lắm rồi Lâm Hàn không vào đó nên Bóng ma Linh Dạ đã trở thành một mảng trống hoang vu. Cô tìm ID của Hữu Đức, cuối cùng phát hiện lần cuối cùng anh đăng nhập vào đây đã là nửa tháng trước, chứng tỏ thời gian qua anh cũng không hề vào mạng.

Lâm Hàn nhớ tới lần mình xin giải mộng ở Quý Dương, thế nên mở trang Chu Dịch, nhập nội dung của giấc mơ ban nãy vào, vài giây sao nhận được kết quả: Hai người đều có ý đồ riêng, không trung thành với nhau, chẳng bao lâu nữa sẽ mỗi kẻ một nơi.

Đều có ý đồ riêng! Ha ha, Lâm Hàn cười thầm trong lòng, hai người bọn họ quả đúng là như vậy. Những điều khó chịu mà cô cảm thấy sau giấc mộng mới rồi lập tức bị lời giải đó làm cho tiêu tán hết.

Giải được mộng cũng như hất được hòn đá vẫn chặn ở tim đi, có thể ngủ yên giấc.

Sau lúc đó, Lâm Hàn ngủ yên đến sáng hôm sau.

Sáng hôm sau còn chưa ra khỏi nhà, Nhiếp Đồng đã gọi điện đến thông báo một tin: Trịnh Khắc đã chết.

“Trịnh Khắc chết rồi sao?”, Lâm Hàn siết chặt ống nghe, cảm thấy vô cùng kinh ngạc: “Sao anh ta lại chết?”.

“Trong biệt thự của anh ta. Cùng chết với Trịnh Khắc còn có một nam thanh niên chừng ba mươi tuổi. Sự tình cụ thể ra sao hiện vẫn chưa rõ, cảnh sát đang đến công ty để điều tra.

“Vậy , chú Trịnh Phi đã biết chuyện này chưa?”.

“Không dám cho ông ấy biết, ông ấy vừa xuất viện, chỉ sợ bị kích động mạnh sẽ không tốt”.

Lâm Hàn gác máy, cảm thấy tâm trạng cực kỳ tồi tệ. Dù rằng cô vẫn ghét Trịnh Khắc, nhưng cũng không nghĩ là anh ta sẽ chết. Chờ chút, còn một nam thanh niên chừng ba mươi tuổi chết cùng Trịnh Khắc ư? Lâm Hàn đột nhiên có một dự cảm không lành, đến bữa sáng cũng không kịp ăn, cầm vội chiếc túi rồi lao thẳng ra ngoài.

Đầu rối tinh rối mù, Lâm Hàn gọi điện cho Đường Triêu trong nỗi hoảng loạn vô biên: “Đường Triêu, anh đang ở đâu vậy? Bây giờ cùng tôi đến công ty có được không?”

Đường Triêu vẫn còn đang ngái ngủ, lúng búng trong miệng: “Đại tiểu thư à, cô có để cho người khác ngủ không vậy hả? Lại xảy ra chuyện gì cháy nhà chết người thế?”.

“Trịnh Khắc chết rồi! Cùng chết với anh ta còn có một nam thanh niên chừng ba mươi tuổi nữa, tôi, tôi có một dự cảm rất xấu. Tôi, tôi…”, Lâm Hàn không dám nói ra cái tên đó, sợ lời nói của mình sẽ trở thành một lời nguyền.

Đường Triêu hiểu ngay ý tứ trong lời nói của cô, lập tức nhảy xuống khỏi giường: “Cô đừng lo, bảo chú Vương đưa đến đó đi, tôi sẽ lập tức tới ngay”.

Sự sắp xếp đâu vào đó của Đường Triêu khiến Lâm Hàn thấy trấn tĩnh hơn một chút. Lúc đó chú Vương lái xe đến nơi, vừa trông thấy Lâm Hàn đã không nhịn nổi cười. Lâm Hàn không hiểu vì sao, cúi đầu xuống nhìn, chính bản thân cô cũng không nhịn nổi – áo cài lệch hết cả khuy, chân trái đi một chiếc giày đế bằng, còn chân phải thì đi giày thể thao.

Xem ra Lâm Hàn đang bấn loạn đến đỉnh điểm rồi.

Đường Triêu đến gần như cùng lúc với Lâm Hàn, khi đó cảnh sát đang hỏi trợ lý của Trịnh Khắc trong phòng làm việc. Một viên cảnh sát thấy Lâm Hàn và Đường Triêu nháo nhào bổ đến, bèn quay sang hỏi Nhiếp Đồng: “Hai người này là ai?”.

Không chờ Nhiếp Đồng trả lời, Lâm Hàn đã cướp lời hỏi dồn dập ngay: “Người chết cùng với Trịnh Khắc là ai vậy? Có phải anh ấy mặc áo sơ mi trắng bằng vải thô, quần cũng màu trắng, tóc rẽ ngôi lệch, mái che một bên mặt đúng không? Có phải người đó tên là, có phải tên là…”.

Viên cảnh sát đang ngồi ghi bút lục ngẩng đầu lên, chen vào một câu: “Chúng tôi còn chưa xác định được tên họ của anh ta, tuy nhiên, cách ăn mặc của anh ta thì giống hệt như những gì cô miêu tả”.

Nghe câu xác nhận đó, Lâm Hàn chỉ cảm thấy như quả bom hẹn giờ vốn được đặt sẵn trong đầu mình nổ đùng một tiếng, hai tai cũng cảm thấy lùng bùng. Đường Triêu, Nhiếp Đồng đứng bên cạnh, vẫn liên tục nói điều gì đó nhưng cô không nghe thấy bất cứ một câu nào nữa. Khuôn mặt hai người đó mỗi lúc một gần hơn, mỗi lúc một gần hơn, phóng đại tới mức không thể to hơn được nữa, còn mi mắt Lâm Hàn thì mỗi lúc một cay, cay tới mức cô không thể nào chống cự nổi. Một giọng nói cất lên trong đầu cô: Nhắm lại một chút có lẽ sẽ tốt hơn.

Thế là Lâm Hàn nhắm mắt lại, bóng đen lập tức bao vây bốn bề…

Full | Lùi trang 9 | Tiếp trang 11

Loading...

Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!

Chúc các bạn online vui vẻ !

Laptop Tùng Anh

Tour Phú Quốc

Vinhomes Cầu Rào 2

Trang Chủ

XtGem Forum catalog