Full | Lùi trang 11 | Tiếp trang 13
Chương 6
Lần đầu tiên A Hành nghe thấy Tiêu Dao rít lên thê thảm nhường ấy, tuy nàng bay về phía Đại ca, nhưng bên tai cứ văng vẳng tiếng kêu bi thiết của Tiêu Dao, một tiếng rít như một câu hỏi xoáy vào lòng nàng, Xi Vưu đang bị trọng thương, vì sao cô có y thuật cao siêu lại không ra tay cứu hắn? Vì sao cô nhẫn tâm nhìn Xi Vưu mất mạng? Vì sao? Vì sao hả?
A Hành dọn dẹp nhà cửa gọn gàng rồi lên đường quay về Cao Tân.
Cuộc đối đầu chính diện giữa hai vị đế vương đã làm chấn động cả đại hoang, điều này dọc đường đi nàng có thể cảm nhận rất rõ.
Phố phường phồn hoa giờ vắng hoe vắng hoắt, con đường lớn ngoài thành lúc nào cũng rầm rập xe ngựa lao như bay về phía Cao Tân, trên xe lúc nhúc những người xách nách mang đủ thứ, có lẽ bởi Cao Tân không tham gia vào cuộc chiến nên đã trở thành chốn bình yên cuối cùng tại đại hoang, dân chúng đều đổ xô về đó.
Mặt mày ai nấy đều đăm chiêu rầu rĩ, kẻ có người nhà ra trận lo lắng cho an nguy của thân nhân đã đành, người chẳng có cũng thấp thỏm không yên, bởi chồng con họ bất cứ lúc nào cũng có thể bị gọi nhập ngũ.
Trong khi Thần Nông quốc vần vũ mây đen thì Cao Tân quốc lại nhộn nhịp khác thường, trà lầu tửu quán càng lúc càng ăn nên làm ra, sau một ngày bận rộn, mọi người đều thích tụ về đây để nghe đám dân chạy nạn từ Thần Nông quốc đến kể chuyện về cuộc chiến cách họ xa lắc xa lơ.
Chiến tranh chỉ đớn đau nếu nó trực tiếp tác động đến bản thân, còn đối với kẻ vô can, đó là một cuộc vui bất tận.
Dân chúng Cao Tân chỉ mãi hả hê thưởng thức câu chuyện truyền miệng hấp dẫn của đám dân tị nạn chứ nào hiểu nỗi lo lắng ưu tư của Thiếu Hạo cùng mọi điều mà y đã, đang và sắp phải làm để bảo vệ bình yên cho họ.
Về đến Ngũ Thần sơn, A Hành lập tức tới tìm Thiếu Hạo, nàng nóng lòng muốn biết mọi thông tin về cuộc chiến.
Thiếu Hạo đang ngồi lặng nơi thềm điện, giữa ánh tà dương. Cả cung điện nguy nga lộng lẫy vắng tanh, giường như chỉ còn mình y đơn độc.
Chốc chốc lại thấy một cánh Huyền điểu chấp chới bay tới, sà xuống tay y, báo cáo tin tức.
Trông thấy A Hành, y bình thản cười: “Nàng về rồi.”
A Hành ngồi xuống thềm điện, bên cạnh y: “Chàng bảo, rồi sẽ ra sao?”
“Chỉ có hai khả năng, hoặc là Hiên Viên thắng, hoặc là Thần Nông thắng, thế thôi. Ta cũng chẳng biết rốt cuộc ai sẽ thắng nữa.”
“Chàng muốn bên nào thắng?”
“Nàng muốn ta nói thật ư?”
“Chàng nói đi.”
“Hai phe cùng bị diệt chắc rằng không thể, ta chỉ hy vọng đôi bên đều thương tổn thôi.”
A Hành gượng cười: “Thật chẳng hiểu sao Đại ca thiếp lại chịu nổi chàng?”
Thiếu Hạo cũng bật cười theo, nhưng ánh mắt vẫn đầy tư lự, Thanh Dương, rốt cuộc ngươi đang làm gì? Sao không gửi thư trả lời ta?
“Tình hình hiện giờ ra sao rồi?” A Hành hỏi.
“Tin tình báo mới nhất cho biết song phương đang dàn quân hai bên bờ Phản Tuyền[1], tình hình rất căng thẳng.”
[1] Theo truyền thuyết, đây là nơi Hoàng Đế giao chiến với Viêm Đế. (ND)
Một cánh Huyền điểu xuyên qua bóng chiều đậu xuống ngón tay Thiếu Hạo, y lặng lẽ đọc những dòng ghi trên thẻ ngọc rồi nhấc tay, Huyền điểu lại vỗ cánh bay đi.
“Ứng Long đã dẫn theo hai lộ quân Yêu tộc từ cánh Nam bắt đầu tấn công. Yêu tộc nhanh nhẹn hơn hẳn Thần tộc và Nhân tộc, ắt hẳn Hoàng Đế muốn tận dụng lợi thế này để vượt Tề thủy[2].”
[2] Tên con sông thời xưa, bắt nguồn từ Hà Nam, chạy qua tỉnh Sơn Đông vào Bột Hải, Trung Quốc. (ND)
“Đại ca từng khen Ứng Long là viên tướng tài hiếm có, trí dũng song toàn, xem ra phụ vương định ra tay trước đây mà, đối thủ bên kia là ai?”
“Hậu Thổ.”
Nếu là Hậu Thổ, e Ứng Long khó nắm chắc phần thắng. A Hành trầm tư nghĩ ngợi, Thiếu Hạo cũng đăm chiêu suy tính.
Chẳng bao lâu, Huyền điểu lại bay về.
“Di Bành lại dẫn hai đạo quân xuất phát từ cánh Tây, bọn họ sẽ đụng độ Chúc Dung.”
A Hành khẽ buột miệng: “Di Bành tính tình kiên nhẫn, hành xử thận trọng, nhưng Thần lực của Chúc Dung bây giờ đã hơn hẳn năm xưa, Di Bành không đấu lại hắn đâu.”
“Nàng chớ quên Hoàng Đế là người mưu lược tính toán giỏi nhất trên đời, Hiên Viên Huy, anh cùng cha khác mẹ của Di Bành từng bị Chúc Dung thiêu sống, Di Bành đợi cơ hội phục thù mấy trăm năm nay, ắt hẳn sẽ liều chết chiến đấu, hơn nữa Hoàng Đế ban cho y toàn quân tinh nhuệ, dù Chúc Dung có Thần lực cao tới đâu chăng nữa, cũng phải sợ chết, vậy ít ra Di Bành còn chắc thắng bốn phần.” Thiếu Hạo thở dài, có phần giễu cợt, “Hoàng Đế nắm rất rõ con cờ nào nên đặt xuống vị trí nào, đến cả mối hận của con mình, ông ta cũng sẵn sàng lợi dụng để đạt mục đích.”
A Hành chỉ biết làm thinh không nói, người người đều tôn sùng Hoàng Đế, nhưng nỗi lòng những kẻ làm con Hoàng Đế, có mấy ai hiểu được đâu.
Hoàng hôn lụi dần, sắc trời đã chuyển sang tối sầm.
Bình minh dần ló dạng, sắc trời cũng hửng lên.
Từng cánh từng cánh Huyền điểu cứ bay đi rồi lại bay về.
Trải qua một ngày một đêm, Ứng Long và Hậu Thổ vẫn đang quyết chiến, Di Bành và Chúc Dung cũng ở vào thế giằng co ác liệt.
Một cánh Huyền điểu lại bay tới, Thiếu Hạo lên tiếng: “Phụ vương nàng dẫn theo bốn lộ quân xuất phát, đụng độ với đại quân của Xi Vưu.”
A Hành mặt mày tái mét còn Thiếu Hạo lại cau mày trầm tư, Thanh Dương đâu rồi? Thanh Dương đang ở đâu? Chiến dịch này quan trọng nhường ấy, Hoàng Đế sao có thể không dùng y cơ chứ?
Y khoát tay, lập tức một bức địa đổ do thủy linh ngưng tụ hiện lên trước mặt, địa hình quanh Phản tuyền cũng theo đó mà bày ra rành rành, nào là Phản sơn cao chót vót, Phản tuyền gồm bảy nguồn suối thông nhau, Phản tuyền thành hiểm yếu, Tề thủy nước xiết…
Thiếu Hạo vừa quan sát vừa lẩm bẩm: “Tề thủy chỉ có khúc này là hẹp nhất, rất tiện qua sông, bởi thế Hoàng Đế mới lệnh cho Yêu tộc thông thạo thủy tính, linh hoạt nhanh nhẹn tiến công vào đây, quả là sách lược tấn công sáng suốt. Viêm Đế hẳn cũng đoán ra chuyện đó nên sai kẻ thận trọng chín chắn như Hậu Thổ trấn giữ ở đây, sách lược phòng thủ này không tồi.”
Y lại lấy tay chỉ quanh Phản sơn, “Di Bành xuất phát từ chỗ này, quân Chúc Dung đóng ở đây, tinh nhuệ đụng độ với tinh nhuệ, Hoàng Đế tiến quân từ đây, quân Xi Vưu đóng chỗ này, Hoàng Đế lấy uy thế của mình chóng chọi với sự hùng mạnh của Xi Vưu.” Thoạt nhìn, kế hoạch của Hoàng Đế hết sức kín kẽ, ông đang dốc toàn lực để đánh chiếm Phản thành, nhưng… rốt cuộc là không bình thường ở đâu? Không bình thường ở đâu nhỉ?
Thiếu Hạo cau mày ngẫm ngợi hồi lâu, dưới ánh trăng, bức địa đồ do thủy linh tụ thành cũng xanh ngời lóng lánh, hắt lên mặt y, khiến gương mặt đượm vẻ thâm sầu khó lường.
A Hành góp lời: “Từ nhỏ phụ vương đã dạy bọn thiếp phải biết bảo toàn thực lực, tính kỹ hẵng làm, một đòn tất trúng, thiếp thật chẳng ngờ lần này phụ vương lại huy động binh lực cả nước tấn công Thần Nông, ép Viêm Đế phải dốc toàn lực ứng phó, song phương quyết chiến nhanh như vậy.”
Thiếu Hạo vừa nghe nói liền đứng phắt dậy, biến sắc mặt.
Toàn lực đấu toàn lực! Tính tình Hoàng Đế vốn không phải như vậy! Đây chính là chỗ bất bình thường!
Mấy ngàn năm trước, Hiên Viên tộc chỉ là một Thần tộc nhược tiểu nên Hoàng Đế buộc phải quý binh lực như vàng, bởi ông ta không thể lãng phí được! Lấy cái nhỏ yếu nuốt dần cái hùng mạnh, tránh không giao đấu chính diện, ra sức bảo toàn lực lượng quân ta mới là phong cách xưa nay của Hoàng Đế. Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, Hoàng Đế sao có thể đột ngột như vậy được? Vả lại, ông ta thừa biết Cao Tân như hổ đói đang rình bên cạnh, chỉ mong sao hai bên đều bại vong, vậy điều này càng không thể nào!
A Hành vọt miệng hỏi: “Sao thế?”
Thiếu Hạo định thần lại, trân trân nhìn địa đồ nói: “Cả đại hoang đều bị Hoàng Đế gạt hết rồi, tuy ca dao xưa vẫn có câu ‘Mất Phản thành, mất Trung nguyên, được Phản thành, được Trung nguyên’, nhưng mục tiêu của Hoàng Đế không phải là thành trì quan trọng nhất Thần Nông quốc đó đâu.”
“Vậy phụ vương thiếp huy động binh lực toàn quốc làm gì?”
“Ông ta muốn lấy mạng Viêm Đế!”
A Hành đứng phắt dậy, vẻ mặt kinh hãi.
Thiếu Hạo giải thích: “Chiến tranh không chỉ cần vũ lực, mà còn cần cả quốc lực, hiện nay dưới sự trị vì của hai người Du Võng và Xi Vưu, một cương một nhu, Thần Nông ngày càng giàu mạnh, dân chúng no đủ, Hiên Viên nghèo đói sao có thể đối chọi Thần Nông trù phú đây? Hai trăm năm nay, phụ vương nàng đã dùng mọi cách để chia rẽ Du Võng và Xi Vưu, nhưng Xi Vưu giảo hoạt như hồ ly, trước sau chẳng hề mắc bẫy, còn Du Võng lại là kẻ bảo thủ, một khi nhận định điều gì là đúng thì chẳng buồn để ý người khác khuyên ngăn. Trước sự phồn thịnh của Thần Nông, nguyện vọng Đông tiến của Hoàng Đế cơ hồ bất khả, nhưng chỉ cần Du Võng chết đi, tình thế sẽ thay đổi lập tức. Xi Vưu hành xử quá cương liệt, cứng quá thì gãy, hơn hai trăm năm nay, mâu thuẫn giữa các phương với Xi Vưu đều phải dựa vào Du Võng mềm mỏng hóa giải, dù đám chư hầu kia có bất mãn đến mấy chăng nữa, hễ Du Võng còn sống, chúng cũng chỉ dám hy vọng làm suy yếu quyền lực của Xi Vưu chứ không nghĩ tới chuyện làm phản, nhưng một khi Du Võng nằm xuống, bọn chúng nhất định không quỳ gối trước kẻ bất đồng về xuất thân, xung đột về lợi ích với chúng như Xi Vưu đâu…”
A Hành tái mặt, lẩm bẩm: “Nếu Thần Nông quốc chia năm xẻ bảy, phụ vương có thể phân ra tấn công đánh chiếm từng phần rồi.”
Thiếu Hạo trầm ngâm quan sát địa đồ, rồi kính phục buông lời cảm thán: “Thần Nông Viêm Đế! Hiên Viên Hoàng Đế!” Nếu Viêm Đế đời trước đã khéo léo lợi dụng xuất thân và tính tình đặc biệt của Xi Vưu để đi một nước cờ tuyệt diệu chưa từng thấy, thì Hoàng Đế hiện giờ cũng lợi dụng chính những đặc điểm đó phá giải thành công cục thế mà Viêm Đế bày ra, hơn nữa còn ăn lại một quân cờ của Viêm Đế.
Hai bậc đế vương, kẻ còn người mất, cùng chơi một cuộc cờ suốt mấy trăm năm đến giờ, kẻ đứng ngoài quan sát cục diện là Thiếu Hạo mới sực tỉnh, thì ra mấy người bọn họ so với hai lão hồ ly kia còn khờ khạo lắm. Bất giác y cảm thấy vừa sợ hãi vừa nôn nóng, chỉ muốn biết nếu Viêm Đế còn tại thế, sẽ đối phó nước cờ này của Hoàng Đế ra sao. Tiếc rằng Viêm Đế đã qua đời, bởi thế, ông chẳng thể đánh cờ được nữa. Hoàng Đế coi như nắm chắc phần thắng!
Người như Hoàng Đế, Thiếu Hạo y sao có thể đối phó bằng mấy mẹo vặt như đối phó với phụ vương mình được? Nghĩ vậy, y chợt thấy sởn cả gai ốc, Thanh Dương chỉ cần nổi sát tâm, ắt khó giữ được mạng!
Thiếu Hạo lập tức huýt gọi Huyền điểu.
Bên tai A Hành cứ lùng bùng mấy câu: Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng, Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng, Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng… Có thể quyền lực, địa vị, danh dự, thậm chí sinh tử đối với Xi Vưu chỉ là cuộc ngao du giữa hồng trần, vốn chẳng có gì đáng trọng, nhưng Du Võng thì khác.
A Hành vội gọi A Tệ tức tốc bay về phía Tây Bắc, chẳng kịp cả chào Thiếu Hạo, nào ngờ, Thiếu Hạo cũng thúc Huyền điểu dốc toàn lực bay về phía Tây Bắc.
Hai người đều làm thinh không nói, thần sắc căng thẳng, chỉ chăm chăm vận linh lực thúc tọa kỵ bay thật mau, lòng thầm gào thét.
Nhanh lên, nhanh nữa lên!
Nếu chậm một bước, e rằng thứ mà mình muốn gìn giữ cả đời này sẽ vĩnh viễn tuột khỏi tay.
Nhưng dù linh lực bọn họ có cao đến chừng nào, A Tệ và Huyền điểu có bay nhanh tới đâu chăng nữa, cũng chẳng thể nháy mắt băng qua mấy vạn dặm trường, đến quan ải tức thì được.
Vùng hoang dã quanh Phản Tuyền đương độ hoàng hôn.
Tịch dương đỏ như máu nhuốm thắm núi sông, biển cả dải nước non thành một bức tranh thủy mặc họa bằng máu.
Phản sơn hùng vĩ sừng sững giữa đồng hoang tựa bậc anh hùng đã đến tuổi xế chiều, chỉ còn lại thê lương bàng bạc.
A Hành cùng Thiếu Hạo cưỡi tọa kỵ bay thẳng đến Phản sơn, quân lính xông ra cản đường chưa kịp nhìn rõ mặt hai người đã bị đánh bật khỏi tọa kỵ.
Giữa Phản sơn và Phản hà là một khe suối còn sót lại sau khi Phản hà đổi dòng, bây giờ Hoàng Đế và Xi Vưu đang suất lĩnh binh mã ác đấu ngay trên bờ khe, vì Thần tộc giao chiến với Thần tộc, lại không vận dụng trận pháp nên các chủng loại linh lực cứ đan chéo vào nhau, tỏa ra ánh sáng rực rỡ muôn màu, thật chẳng khác cầu vồng, nhìn mà hoa cả mắt.
Thiếu Hạo trông thấy “Hoàng Đế”, A Hành trông thấy Xi Vưu, đều nhất loạt thở phào nhẹ nhõm, may quá, người đó vẫn còn sống!
Đột nhiên, cả đất trời chợt vang lên một tiếng thét lồng lộng, “Du Võng chết rồi!”
Du Võng chết rồi!
Binh lính đôi bên đều ngẩng phắt lên theo phản xạ.
Giữa không trung bỗng hiện ra một vị Hoàng Đế khác, mình vận giáp vàng, uy phong lẫm liệt, đứng trên lưng Trùng Minh điểu, một tay cầm thương vàng, tay kia xách một chiếc đầu lâu.
Đầu lâu mới bị chặt xuống, vẫn còn ròng ròng máu tươi, linh lực cũng trút ra theo dòng máu, biến những vết máu thành từng vệt sáng xanh lét như vô số cánh đom đóm dập dờn bay lượn.
Dưới ánh sáng xanh lét, ai nấy đều trông rõ chiếc đầu lâu mang vương quan gỗ chạm, dung mạo vẫn sinh động như người sống, cặp mắt kinh ngạc mở trừng trừng, khóe môi còn hằn vẻ áy náy như đang tạ lỗi với muôn dân của mình, xin lỗi, ta không thể bảo vệ cho các người được nữa; lại tựa hồ đang thỉnh tội với phụ vương, cha, con xin lỗi, con chưa hoàn thành được lời hứa với cha; còn như thể xin lỗi Xi Vưu, xin lỗi, hảo huynh đệ, ta không thể sánh vai chiến đấu bên ngươi nữa rồi!
Trước cơn kịch biến bất ngờ, hết thảy binh lính Thần Nông đều lần lượt quỳ xuống, quân tướng Hiên Viên cũng ngớ người ra.
A Hành gục xuống trên lưng A Tệ, qua màn nước mắt, nàng trông thấy Xi Vưu và Tiêu Dao nhanh như chớp xông thẳng về phía Hoàng Đế đang cưỡi Trùng Minh điểu. Nàng vội thét lên thê thiết, “Đừng!” nhưng chẳng cản nổi tốc độ của Tiêu Dao.
Hoàng Đế đã tính toán kỹ, đứng xa như vậy dù có là tọa kỵ nào cũng chẳng thể thoắt chốc bay vọt tới được ngay, một khi có biến, thị vệ tùy thân của ông ta có thể lập tức ứng phó. Tiếc rằng Hoàng Đế chẳng ngờ tọa kỵ của Xi Vưu vốn không phải là đại bàng thường, mà là giống đại bàng do cá côn Bắc Minh hóa thành, mỗi lần đập cánh có thể bay xa chín vạn dặm, bởi thế hắn vọt tới trước mặt, Hoàng Đế hết sức ngỡ ngàng.
Xi Vưu vồ lấy thủ cấp trong tay Hoàng Đế rồi bi phẫn gào lên với Du Võng: “Du Võng, ngươi mở to mắt mà xem ta báo thù cho ngươi đây!”
Nói rồi hắn cắn vào búi tóc Du Võng, đầu Du Võng lủng lẳng dưới cằm Xi Vưu, hai mắt trừng trừng nhìn về phía trước, đối diện với Hoàng Đế. Xi Vưu buông thõng hai tay, lòng bàn tay chợt đỏ rực lên, linh lực khắp núi cao sông dài rừng thẳm đều tụ về hai bàn tay hắn.
Hoàng Đế kinh hoàng giương mắt nhìn Xi Vưu, mọi tin tức tình báo đều nói Xi Vưu tu luyện mộc linh, nhưng giờ đây ông mới bàng hoàng nhận ra, Xi Vưu kiêm hết thảy ngũ linh! Trong cơn cuồng nộ cùng bi ai, hắn đã bất chấp tính mạng, tập hợp toàn bộ ngũ linh quanh Phản Tuyền, tuy ngũ linh tương khắc nhưng đồng thời tương sinh, một khi Xi Vưu mở trận, ngũ linh kim mộc thủy hỏa thôt sẽ tác động lên nhau, đổ dồn về phía hắn như gió lốc.
Hoàng Đế chợt thấy tất cả linh lực quanh mình đều bị hút cạn, chỉ biết trơ mắt nhìn linh lực của Xi Vưu như thần long cuồn cuộn bổ về phía mình. Hàng ngày, ông thường vẫn nhắc nhở Thanh Dương, phạm sai lầm tức là chết! Vậy mà hôm nay, ông lại dùng mạng sống của mình để kiểm chứng đạo lý này.
Uỳnh!
Một tiếng nổ tung trời chuyển đất vang lên. Bụi đất bay mù mịt, bầu trời tối sầm lại, trăng sao đều biến mất.
Giữa bóng tối như bưng, cả đất trời dường như đã diệt vong.
Thoắt chốc, mọi người dụi mắt, trông thấy Xi Vưu đang sừng sững giữa không trung, chân đạp trên lưng đại bàng, hai mắt bừng bừng lửa giận, mái tóc xõa tung, tà áo đỏ như máu phần phật bay trước gió, sắc mặt tái rợn cả người, thất khiếu ứa máu, đầu lâu Du Võng vẫn lủng lẳng trên miệng, dáng vẻ vô cùng khủng khiếp, hệt như ma vương trỗi dậy từ ma vực.
Tất cả mọi người đều kinh hồn táng đởm, thậm chí binh lính Hiên Viên còn nhất loạt lui xuống, sợ bị Xi Vưu xé xác.
Đột nhiên Xi Vưu lảo đảo rồi ngất lịm, thân mình rớt khỏi lưng Tiêu Dao rơi xuống đất, Tiêu Dao rít lên một tiếng, vội lao xuống chụp hắn lại.
Ứng Long chớp thời cơ hạ lệnh: “Bắn!”, lập tức có vô số mũi tên bay rào rào lên không.
A Hành lòng như lửa đốt vừa tung tay gạt tên nhào xuống cứu Xi Vưu, chỉ sợ chậm một bước, linh thể hắn sẽ tan thành mây khói.
Bỗng Thiếu Hạo thất thanh gọi: “A Hành!”
A Hành ngoảnh lại, liền trông thấy một “Hoàng Đế” khác chắn trước mặt Hoàng Đế, thất khiếu ứa máu, đang gục xuống.
Thiếu Hạo vội đỡ lấy “Hoàng Đế”, dần dà linh lực tan đi, dung mạo y cũng từ từ biến đổi, lại hiện nguyên hình là Thanh Dương.
Vốn dĩ Hoàng Đế giao chiến với Xi Vưu khi nãy là hóa thân của Thanh Dương, y biến thành Hoàng Đế dẫn dụ kẻ địch để Hoàng Đế thực sự đem quân đi ám sát Du Võng. Khi Xi Vưu cưỡi đại bàng lao thẳng vào Hoàng Đế, Thanh Dương ứng biến mau lẹ, lập tức túm lấy chân Tiêu Dao, cùng lao đến theo Xi Vưu. Trong nháy mắt Xi Vưu đoạt lại đầu lâu Du Võng rồi dốc toàn lực tấn công Hoàng Đế, Thanh Dương đã xông ra nhận lấy đòn chí mạng thay cho ông.
A Hành trợn mắt kinh hoàng nhìn Thanh Dương, không sao tin được rằng Đại ca linh lực cao cường của nàng cũng có ngày gục ngã.
Một bên là Xi Vưu sống chết chưa rõ, một bên là đại ca chưa rõ tử sinh, A Hành bỗng thấy tim mình như bị xẻ làm hai nửa, mà nửa nào cũng đau đớn đến nghẹt thở, nàng bối rối không biết nên lao theo cứu ai mới phải.
Thiếu Hạo ngưng tụ toàn bộ linh lực, ra sức ngăn không để linh thể Thanh Dương tiêu tán, nhưng linh thể đã tan nát thành muôn vàn hạt bụi li ti, còn nhỏ hơn cả thủy linh, dù y có làm gì cũng vô dụng. Thiếu Hạo toát mồ hôi lạnh, cuống quýt réo gọi A Hành, chỉ mong y thuật Thần Nông Thị có thể cứu mạng Thanh Dương.
A Hành như bị bắt mất hồn, đờ đẫn bay về phía Đại ca theo tiếng gọi của Thiếu Hạo. Trong lúc hoảng loạn, nàng trông thấy Tiêu Dao quắp lấy Xi Vưu, rít lên từng hồi, tiếng rít sắc nhọn như dao, đâm vào tai nàng đau nhói. Thấy bọn Ứng Long định đuổi theo, Tiêu Dao vội dang cánh bay vút lên chín tầng mây rồi biến mất.
Lần đầu tiên A Hành nghe thấy Tiêu Dao rít lên thê thảm nhường ấy, tuy nàng bay về phía Đại ca, nhưng bên tai cứ văng vẳng tiếng kêu bi thiết của Tiêu Dao, một tiếng rít như một câu hỏi xoáy vào lòng nàng, Xi Vưu đang bị trọng thương, vì sao cô có y thuật cao siêu lại không ra tay cứu hắn? Vì sao cô nhẫn tâm nhìn Xi Vưu mất mạng? Vì sao? Vì sao hả?
Lòng nàng như băng ướp lửa thiêu, trái tim bị vô số lưỡi dao cào xé, cả người bỗng run lên bần bật.
Đằng kia, Thiếu Hạo đang cuống quýt gọi nàng, gần như van nài: “Nàng nhất định phải cứu Thanh Dương!”
A Hành đành nghiến răng, nén lòng chạy tới kiểm tra thương thế Đại ca. Thấy linh thể y sắp tiêu tan, tiếng rít thê thiết bên tai nàng chợt biến mất, tất cả âm thanh đều biến mất, đất trời vắng lặng, lòng chẳng thấy đau, thân mình cũng ngừng run rẩy, tựa như kẻ đang bị đẩy tới mép vực vậy, thoạt đầu rất đau khổ, nhưng một khi rơi xuống tan xương nát thịt, vạn kiếp bất phục thì chẳng còn đau đớn nữa, thay vào đó là tuyệt vọng vô bờ.
Thiếu Hạo cuống cuồng vặn hỏi nàng, “Không hề gì, phải không? Nhất định không sao chứ hả? Nàng nhất định cứu được y mà!”
A Hành sắc mặt xám như tro tàn, cắn môi đến ứa máu cũng chẳng thấy đau, chỉ thẩn thờ dùng kim châm vào huyệt vị Đại ca.
Trái lại, Thanh Dương mỉm cười nhìn cả hai: “Hay lắm, cả hai người đều ở đây, tiếc rằng không có Xương Ý. Vậy cũng tốt, đừng để nó thấy ta thê thảm thế này, ta là Đại ca toàn năng kia mà.”
Thiếu Hạo run bắn người lên, nhưng vẫn không cam tâm, tiếp tục thúc đẩy thủy linh trị thương cho Thanh Dương, “Đừng nói nhảm, chúng ta lập tức tới Quy khư ngay, nhất định sẽ có cách! Ta nhất định cứu được ngươi mà!”
Thanh Dương cười, “Ta có chuyện muốn nói với ngươi.”
Thiếu Hạo vẫn trút thủy linh cuồn cuộn vào người Thanh Dương, “Đợi ngươi khỏe lại rồi nói.”
“Hai ta đánh nhau bao nhiêu năm rồi?”
“Hơn hai ngàn năm rồi.”
“Hơn hai ngàn tám trăm năm rồi.” Thanh Dương nhoẻn miệng cười rạng rỡ, “Ta chợt thấy nhẹ cả người, sau này khỏi phải phân thắng bại với ngươi nữa.”
Sau hơn hai ngàn năm, cuối cùng Thiếu Hạo lại trông thấy gã thiếu niên lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm ngọn cỏ, nhoẻn cười tươi tắn bước vào lò rèn, khiến y không khỏi ghen thầm.
Cơn cuồng nộ bỗng trào lên trong lòng, y quát vào mặt Thanh Dương: “Chúng ta đã nói sẽ sánh vai chiến đấu rồi sau đó mới quyết một trận sống mái kia mà, sao ngươi dám thất hẹn hả?”
Thanh Dương không đáp, chỉ từ từ dời mắt nhìn sang Hoàng Đế, “Phụ vương, Người đã biết con muốn hại Người, phải không?”
Hoàng Đế lại gần, ngạo nghễ lạnh lùng nhìn xuống Thanh Dương nằm đó, giễu cợt: “Chúc mừng chúc mừng, ngươi đã cứu ta trước mặt bao nhiêu thiên quân vạn mã, sau này soán vị đăng cơ nhất định sẽ càng thuận lợi.”
Thanh Dương buồn bã nói nhỏ: “Phụ vương, con thừa nhận mình từng có ý hãm hại người. Vì không muốn Xương Ý và A Hành trở thành Vân Trạch thứ hai nên con đã bỏ độc vào vò nước của Người, nhưng cùng con lại không nỡ ra tay, giữa đêm con đột nhập vào cung, tráo vò nước khác, đổ chỗ nước có độc đi rồi.”
Hoàng Đế giật thót mình, liếc nhìn Di Bành đằng xa rồi lại nhìn Thanh Dương, ánh mắt đã dịu đi nhiều, vẻ lạnh lùng tan biến, thay vào đó là vô số ưu tư phức tạp rối ren, người ngoài không sao nhìn ra được. Ông hờ hững đáp: “Thật ra, vò nước mà con đánh tráo cũng không có độc từ lâu rồi.”
Thanh Dương mỉm cười, “Con hiểu rồi. Thì ra chính con đã uống phải chỗ nước độc đó, phụ vương để con nhận lấy quả báo, tự quyết định sống chết của mình.”
A Hành nghe hai người đối đáp chỉ hiểu lơ mơ nhưng Thiếu Hạo thì hiểu cả, Thanh Dương đã uống phải độc dược mà A Hành phối chế, đúng lúc độc phát nên y không sao chống nổi đòn chí mạng của Xi Vưu.
Chợt Di Bành cao giọng thỉnh thị Hoàng Đế: “Phụ vương, hiện giờ lòng quân Thần Nông đang rối loạn, chúng ta có nên chớp thời cơ tấn công không?”
Hoàng Đế đưa mắt nhìn giang sơn như họa dưới chân, đây là cơ hội mấy ngàn năm mới có, là mộng tưởng ông ta theo đuổi cả đời. Nhưng còn Thanh Dương…
Nhìn vẻ mặt Hoàng Đế, Thanh Dương liền lên tiếng: “Cha, con không sao đâu, chất độc này đâu có chí mạng.” Từ khi y hiểu chuyện, Hoàng Đế đã đặt y ngồi trên đầu gối, kể cho y nghe về thời niên thiếu gian truân cùng hùng tâm tráng chí của mình. Trên đời này, e rằng chẳng ai hiểu mộng tưởng của Hoàng Đế hơn y, đó là ước mơ mà người đàn ông vĩ đại này dốc cả đời theo đuổi.
Tiếng “cha” của Thanh Dương khiến Hoàng Đế nhói buốt cả lòng, bao hình ảnh mơ hồ xa xăm bỗng vụt qua trước mắt, trong đám con cái, chỉ có Thanh Dương và Vân Trạch gọi ông là “cha”, nhưng tiếng “cha” ngọng nghịu non nớt đó chứa chan tình phụ tử nguyên sơ nhất trong đời ông. Chợt thấy thái dương mình giật giật, Hoàng Đế trầm giọng dặn dò: “Con trai, con phải sống nhé!”
Thanh Dương cười mà nước mắt rưng rưng, một tiếng “con trai” đã xóa tan bao hiềm khích giữa hai cha con, dường như, y đang được quay về thuở ấu thơ.
Đoạn Hoàng Đế quay sang bảo A Hành: “Con chăm sóc Đại ca.” Dứt lời, ông hú lên lanh lảnh, thúc Trùng Minh điểu xông vào trận, phát lệnh: “Tấn công!”
“Tấn công!”
“Tấn công!”
“Phụ vương!” A Hành ròng ròng nước mắt gọi với theo hy vọng Hoàng Đế nán lại chốc lát nhưng chỉ thấy bóng lưng ông lao vụt đi. Di Bành ném lại cho nàng một nụ cười khinh khỉnh rồi bám theo Hoàng Đế, xông vào trận.
Trong tiếng kèn xung trận chói tai, đại quân Hiên Viên đổ xô về phía binh lính Thần Nông. Vì đất đai cằn cỗi, dân chúng khổ sở nên binh lính Hiên Viên vô cùng kiêu dũng thiện chiến, thêm vào đó, thấy Hoàng Đế hạ sát Viêm Đế, sĩ khí ba quân cũng được khích lệ rất nhiều, dưới sự chỉ huy của Hoàng Đế, quân đội Hiên Viên trở nên dũng mãnh như hổ sói, trong khi quân Thần Nông vừa mất đế vương, lòng quân rối loạn, không thể nào chống lại được Hiên Viên, chẳng mấy chốc, chiến trường đã biến thành lò sát sinh, binh lính Hiên Viên ai nấy đều hung hăng khát máu hệ như ma thú, đi tới đâu là giết chóc tới đó. Tiếng gào khóc bi thương chìm trong tiếng giáo vàng ngựa sắt rầm rập quét qua, khắp nơi chỉ nghe thấy những tiếng hô “giết”, “giết”, “giết”.
Thiếu Hạo vận linh lực bảo vệ tâm mạch Thanh Dương rồi bế xốc y lên, tức tốc trở về Quy khư.
Thanh Dương ngẩn ngơ cười, “Ta biết ngươi giận ta làm việc thiếu quyết đoán, nếu ta có thể nhẫn tâm như ngươi thì chẳng có ngày nay. Nhưng ta cứ lẩn thẩn nhớ mãi những chuyện ngày nhỏ, hồi đó mẹ không cho ta lại gần Trùng Minh điểu, sợ nó quá hung mãnh, cha liền ôm ta vào lòng, lén dạy ta điều khiển Trùng Minh điểu, hai cha con cùng cưỡi Trùng Minh điểu bay lên, vừa bay vừa cười khanh khách. Thanh kiếm đầu tiên của ta cũng là cha tự tay làm cho, lần đó cha ngồi ngoài hiên đẽo kiếm cho ta, đẽo xong còn sợ ta bị dằm đâm vào tay, bèn dùng vải gai mài nhẵn nhụi, ta ngồi bên cạnh chờ sốt ruột, bèn nhào lên giành lấy thanh kiếm, cha bèn giơ kiếm lên cao, vừa mài vừa cười, ‘Tới đây tới đây lấy đi, nhảy cao nữa lên, khi nào con cao bằng ta, hai cha con có thể cùng ra trận rồi’. Lần đầu ra trận ta căng thẳng đến nhũn cả chân, cha bèn lôi ta đi uống rượu, hễ gặp bá bá thúc thúc nào chào hỏi, cha đều hãnh diện giới thiệu, ‘Con trai ta đây, sau này nhất định nó sẽ dũng mãnh hơn cả ta’…” Nói tới đây, Thanh Dương đuối sức không kể tiếp được nữa, chỉ thều thào, “Ông ấy là cha ta, ta không thể giết cha mình được!”
Thiếu Hạo vội cắt ngang: “Đừng nói nữa! Đợi ngươi khỏe rồi, chúng ta sẽ lại tới quán rượu nát đó uống ba ngày ba đêm, nói chuyện ba ngày ba đêm.”
Thanh Dương cười, “Ngươi nói thứ đó không phải độc dược, cũng chẳng lấy mạng người ta, nhưng con đường đi tới quyền lực tột đỉnh chính là tuyệt lộ, một khi đặt chân lên, sẽ phải đi mãi về phía bóng tối, ta không muốn có một ngày mình trở thành kẻ không cha không mẹ không huynh muội.”
Đôi tay Thiếu Hạo run bắn lên, y cứ ngỡ gã thiếu niên nhiệt tình thiện lương, rạng rỡ hồ hởi khi xưa đã biến mấy từ lâu, nào ngờ, gã vẫn luôn luôn tồn tại!
Ánh mắt Thanh Dương ảm đạm dần, sinh mệnh cũng theo đó mà tàn lụi. Thấy vậy, A Hành cuống quýt lấy kim châm vào tất cả huyệt vị trên người y, khóc òa lên, “Đại ca, đừng bỏ muội mà, sau này muội nhất định sẽ nghe lời huynh, chăm chỉ tu luyện, không mải chơi nữa, huynh bảo gì muội cũng nghe theo hết!”
Thanh Dương đặt tay lên đầu A Hành, vò tóc nàng rối như quạ rồi phì cười ranh mãnh, “Ài, bao năm nay, mỗi lần muội ở sau lưng vung tay vung chân định đánh ta đá ta, ta chỉ muốn quay lại vò cho tóc muội rối tung lên như thế này…” Giọng y càng lúc càng nhỏ lại, cơ hồ chỉ như tiếng thầm thì, “A Hành, chuyển lời cho mẹ và Xương Ý, nói hai người đừng đau buồn.”
A Hành nước mắt lã chã, nghẹn ngào gật đầu.
Tròng mắt Thanh Dương đã đờ ra, y không nói nổi nên lời nữa, nhưng đôi mắt vẫn chằm chằm nhìn Thiếu Hạo, như còn có điều chưa yên lòng.
Thiếu Hạo nuốt lệ nói: “ Ngươi còn nhớ ngàn năm trước, lúc đại quân Thần Nông áp sát, ngươi nửa đêm lặn lội tới Cao Tân, nói với ta ‘Ta chính là Thiếu Hạo’ không? Từ nay trở đi, ta cũng chính là Thanh Dương, ta sẽ coi Luy Tổ như mẹ mình, coi Xương Ý và A Hành như đệ đệ muội muội của ta vậy!”
Được lời này của Thiếu Hạo, Thanh Dương mới yên lòng, y từ từ nhắm nghiền mắt lại, tay trượt khỏi mái tóc A Hành, trên môi vẫn còn vương nụ cười rạng rỡ hệt như ánh mặt trời mùa hạ.
“Đại ca!” A Hành thét lên xé ruột, “Đại ca, Đại ca, Đại ca…” Nàng gào khản cả cổ, tựa hồ cứ gọi như thế, Thanh Dương sẽ nghe thấy, sẽ tỉnh dậy, sẽ lại lạnh lùng lên giọng mắng mỏ nàng. Lần này nàng nhất định sẽ không cãi lại, không oán trách, nhất định sẽ ngoan ngoãn nghe lời Đại ca, nhất định sẽ thành tâm thành ý cảm ơn Đại ca.
Thiếu Hạo điên cuồng trút tất cả linh lực bản thân vào người Thanh Dương, không ngừng nài nỉ, “Thanh Dương, Thanh Dương, chúng ta còn chưa phân thắng bại, ngươi không được đánh bài chuồn. Đồ chết nhát nhà ngươi, chúng ta còn chưa phân thắng bại kia mà…” Linh lực của Thiếu Hạo thừa sức dời non lấp biển, nhưng chẳng làm sao níu được sinh mệnh cho Thanh Dương.
A Hành khóc đến lịm cả người đi, Thiếu Hạo cũng sức tàn lực kiệt, thân mình lảo đảo, nhưng vẫn liên tục đẩy linh lực vào người Thanh Dương, trước mắt chỉ toàn thấy bóng dáng Thanh Dương.
Y xỏ đôi giày rách, lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm cọng cỏ, đi lắc la lắc lư, tiếng cười giòn tan, hồ hởi rạng rỡ, ấm áp hơn cả ánh nắng mai.
Nhưng thi thể trong lòng Thiếu Hạo lại lạnh ngăn ngắt.
Cái lạnh từ đáy lòng Thiếu Hạo lan ra khắp người, khiến thân hình y run lên bần bật, chỉ biết đau thương nhắm nghiền mắt lại.
Hơn ai hết, Thiếu Hạo hiểu rõ tham vọng bản thân, thế nên y luôn tâm tâm niệm niệm sẽ có một ngày Cao Tân Thiếu Hạo đụng độ với Hiên Viên Thanh Dương trên chiến trường, cả hai sẽ phải dốc hết toàn lực, Cao Tân không vong thì Hiên Viên diệt. Nhưng y đâu có ngờ, trong lòng y, Thanh Dương vẫn mãi là Thanh Dương, chỉ là Thanh Dương mà thôi.
Từ nay trở đi, trên dải đất lạnh lẽo đầy gió tuyết miền cực Bắc, sẽ chẳng ai đốt lửa gọi y vào uống rượu nữa.
Từ nay trở đi, đối mặt với thiên quân vạn mã, sẽ chẳng còn ai lặn lội suốt đêm chạy tới, vì y mà máu đẫm bạch bào nữa.
Từ nay trở đi, lúc hân hoan mừng rỡ, sẽ chẳng còn ai nói cười chung vui cùng y nữa.
Từ nay trở đi, thiên hạ rộng lớn này sẽ chẳng còn ai khiến y mỗi khi nhớ đến lại thấy họng nồng vị rượu, lòng ấm tình người, dù vương tọa lạnh lẽo tới đâu, kẻ địch đông đúc nhường nào, đều có một người sánh vai cùng y đối diện…
Từ nay trở đi, thế gian này vĩnh viễn chẳng còn Thanh Dương nữa!
Chương 7: Đời đời xin nguyện làm huynh đệ[1]
Suốt mấy trăm năm nay, sao nàng chỉ chìm đắm mải mê với thế giới bên ngoài mà chẳng hề quan tâm đến Đại ca bên cạnh? Liệu có phải tình thân là điều hiển nhiên đối với nàng, nên chưa từng nghĩ đến lúc mất đi? Vì sao mãi tới lúc mất đi rồi, nàng mới nhận ra mình rất quyến luyến Đại ca cơ chứ?
[1] Trích trong bài Gửi cho Tử Do từ trong tù kỳ 1 của Tô Đông Pha (1036 – 1101). (ND)
Xương Ý nhận được tin do Huyền điểu đưa đến, lập tức chạy đến Quy khư, nhưng đã chậm mất hai ngày.
Lúc báo tin, Thiếu Hạo cũng chẳng nói cụ thể nguyên do, chỉ mời y đến ngay tức khắc. Xương Ý ngỡ A Hành xảy ra chuyện nên tức tốc chạy đến, tới nơi, thấy một lá thuyền con dập dềnh theo làn nước. Thiếu Hạo và A Hành người ngồi kẻ đứng trên thuyền, y mới thở phào nhẹ nhõm.
Xương Ý nhảy từ trên lưng Trùng Minh điểu xuống thuyền, cười hỏi A Hành: “Xảy ra chuyện gì mà giục ta đến ngay thế?”
A Hành vừa mở miệng, chưa kịp nói tiếng nào, nước mắt đã chứa chan.
Thiếu Hạo đưa hai tay lên, dưới sự điều khiển của y, mặt nước trước mũi thuyền từ từ dâng lên, nâng theo cả một cỗ quan tài băng xanh biếc. Bên trong quan tài là Thanh Dương đang nằm lặng lẽ, hai mắt nhắm nghiền, vẻ mặt an nhiên, chẳng có chút sinh khí.
Xương Ý gượng cười, “Đừng dùng rối gỗ lừa ta nữa, huynh biết linh lực của ta kém xa huynh mà.”
“Y chính là Thanh Dương đó.”
“Không thể nào! Đại ca là Hiên Viên Thanh Dương, trên đời này làm gì có ai đả thương nổi huynh ấy, cả huynh cũng không đánh bại được huynh ấy cơ mà!” Xương Ý tái mét mặt, nhưng vẫn khăng khăng cố chấp, “Không thể nào! Sao huynh có thể đem chuyện này ra đùa ta được?”
Nước mắt A Hành lã chã rơi, phải rồi, Đại ca là Hiên Viên Thanh Dương, là Hiên Viên Thanh Dương lạnh lùng nhất, hùng mạnh nhất trong thiên hạ, sao có thể chết được chứ?
Trông dáng điệu của A Hành, Xương Ý liền quỳ sụp xuống thuyền, trân trân giương mắt nhìn Đại ca, vẻ mặt đờ đẫn, không khóc lóc, cũng chẳng hề động đậy.
Nhìn biểu hiện của Xương Ý, Thiếu Hạo càng thêm lo lắng, lần trước nghe nói A Hành tử vong, chí ít Xương Ý còn biết nổi giận, nhưng lần này, y chẳng hề phản ứng.
“Xương Ý, Xương Ý, nếu đệ đau lòng thì cứ khóc lên đi.”
Xương Ý chẳng buồn để ý mấy lời của y, chỉ thẫn thờ vịn vào quan tài, hồi lâu sau mới sầm mặt hỏi: “Kẻ nào? Là kẻ nào?”
Thiếu Hạo chẳng cất nổi nên lời, rốt cuộc ai mới là kẻ giết hại Thanh Dương đây? Là Xi Vưu, là Hoàng Đế, Là Di Bành, hay chính là y?
Không thấy ai trả lời mình, Xương Ý quay sang gào lên với A Hành: “ Rốt cuộc là kẻ nào?”
A Hành tái mặt, khóc không ra tiếng, chẳng dám nhìn vào mặt Tứ ca. Nhìn dáng vẻ của nàng, Xương Ý cũng dần hiểu ra, “Là Xi Vưu ư?”
“Phụ vương giết chết Du Võng, Xi Vưu hắn, hắn không cố ý giết chết Đại ca đâu… Đại ca vì cứu phụ vương nên đã hứng một đòn chí mạng của Xi Vưu.” Lòng A Hành đã nguội lạnh như tro tàn, giải thích thế nào cũng có ích gì nữa đâu? Thanh Dương đích thực đã chết dưới tay Xi Vưu kia mà.
Xương Ý ngửa mặt nhìn trời, tròng mắt đầy những lệ, nhưng y chỉ mở to mắt trừng trừng nhìn lên, mãi tới khi nước mắt tan đi cả mới thôi. Y còn mẹ, còn muội muội, y không được phép yếu đuối! Giờ đây y mới hiểu được tâm tình của Đại ca, vì mẹ, vì y, vì A Hành, Đại ca đã trút bỏ sự yếu đuối cùng nụ cười rạng rỡ để chọn lấy vẻ lạnh lùng và cứng cỏi.
Xương Ý bình thản nói: “Dọc đường tới đây, ta chỉ toàn nhận được tin Hiên Viên đại thắng, chẳng ai nói Hiên Viên Thanh Dương đã xảy ra chuyện gì cả.”
Thiếu Hạo giải thích: “Lúc đó tình hình rất căng, quân Thần Nông đang rối loạn, nếu Hoàng Đế bỏ lỡ thời cơ ấy thì trận chiến lần này xem như công cốc, bởi thế ngài lập tức dẫn quân tấn công ngay, chỉ kịp biết Thanh Dương bị trọng thương chứ chưa hay y đã lìa trần.”
Xương Ý thê thảm nghĩ thầm, Đại ca vì cứu phụ vương mới bị trong thương, ấy vậy mà phụ vương chỉ chăm chăm dẫn quân công thành, chẳng buồn nán lại bên Đại ca chốc lát, lẽ nào đối với ông, thiên hạ quan trọng đến thế sao?
“Đại ca thần lực cao cường, nếu đã muốn cứu phụ vương, ắt phải có chuẩn bị sẵn, sao Xi Vưu có thể một đòn… một đòn giết chết Đại ca!”
Nghe Xương Ý hỏi, A Hành cũng sực nghĩ ra, bèn quay sang nhìn chằm chằm Thiếu Hạo, chất vấn: “Mấy năm nay, tuy thần lực của Xi Vưu tăng vọt nhưng nếu giao chiến trực diện cũng không thể nào một chiêu giết chết được chàng hay Đại ca!”
Thiếu Hạo chỉ biết đau đớn làm thinh.
Nỗi kinh hoàng chợt dâng lên ngập lòng A Hành, nàng lớn tiếng hỏi: “Đại ca và phụ vương nhắc tới chuyện thuốc độc gì đó, nhưng thiếp nghiệm thi thấy không có độc, rốt cuộc là sao?”
Thiếu Hạo không dám đối diện ánh mắt nàng, đành cúi gầm mặt, đăm đăm nhìn Thanh Dương, lí nhí: “Để bảo vệ bản thân, Thanh Dương định bức Hoàng Đế thoái vị, Hoàng Đế phát hiện được, liền đánh tráo thuốc độc, khiến Thanh Dương uống phải chính thứ nước mà y chuẩn bị cho Hoàng Đế. Nhưng thật ra đến phút cuối Thanh Dương lại hối hận, y đã lén đổi vò nước độc, thay vào đó là vò nước bình thường, nào ngờ Hoàng Đế đã phát hiện từ sớm, liền ra tay đánh tráo vò nước độc trước cả y, lấy gậy ông đập lưng ông. Khi y thay Hoàng Đế hứng chịu một chiêu chí mạng của Xi Vưu, chất độc đột ngột phát tác khiến linh lực đứt đoạn…” Thiếu Hạo nghẹn lời, phải hít một hơi thật sâu, lấy lại bình tĩnh mới kể tiếp được: “Từ khi nhận ra Thanh Dương có ý khác, Hoàng Đế đã phái Di Bành ngày đêm theo dõi Thanh Dương, hôm đó chính Di Bành phụ trách trấn giữ đại điện, hắn hẳn cũng biết hết mọi chuyện nhưng thay vì kịp thời bẩm báo với Hoàng Đế, hắn lại ém nhẹm đi, mượn tay Hoàng Đế hạ độc Thanh Dương, hung thủ thực sự hại chết Thanh Dương không phải là Xi Vưu, mà là Di Bành.”
Xương Ý và A Hành nghe đến ngẩn cả người, hồ vẫn chưa thủng cái vòng luẩn quẩn người hại ta ta hại người kia.
Hồi lâu, Xương Ý bỗng kinh hãi hỏi: “Huynh nói Đại ca định đánh độc giết phụ vương ư?”
Thiếu Hạo vội thanh minh: “Không phải, chất độc đó chỉ khiến Hoàng Đế bải hoải toàn thân, không thể xử lý triều chính, chứ không chết người. Thanh Dương chưa bao giờ có ý hại chết Hoàng Đế.”
Xương Ý vặn tiếp: “Đồ ăn thức uống của phụ vương đều có thầy thuốc kiểm tra, Đại ca lấy đâu ra thứ độc qua mặt được cả đám thầy thuốc thế?”
Bây giờ A Hành mới hiểu ra tất cả, nàng chợt thấy hai mắt tối sầm lại, đau đớn và phẫn uất ứ đầy lòng, thân hình đổ gục xuống, Xương Ý phải cuống quýt đỡ lấy nàng. A Hành trợn trừng hai mắt nhìn Thiếu Hạo, mấp máy môi mà không sao thốt nổi nên lời, sắc mặt xám ngoét, cả người cứ thế run lên bần bật.
Thiếu Hạo vuốt nhẹ lên quan tài của Thanh Dương, khẽ nói: “Là chất độc mà nàng phối chế cho ta đó, nhưng chuyện này không liên quan gì đến nàng, đây là quyết định của riêng ta và Thanh Dương thôi.”
Xương Ý kinh hoàng trợn mắt nhìn A Hành, “Là, là muội… là thuốc độc muội phối chế?”
“A… a… a…” A Hành chẳng còn nước mắt mà khóc, chỉ biết gào lên thảm thiết, hai tay liên tục đấm ngực mình, chỉ hận không lóc da xẻo thịt bản thân mình ngay được.
Thiếu Hạo quỳ khuỵu một gối xuống, ra sức giữ chặt lấy nàng: “A Hành, nghe này! Là do ta, đều tại ta cả! Tại ta tự mãn, đánh giá thấp Hoàng Đế! Tại ta nhìn nhầm Thanh Dương, ta cứ ngỡ y cũng giống như ta! A Hành, không liên quan gì đến nàng cả, không liên quan gì đến nàng mà! Nàng chẳng hay biết gì cả, là ta đã gạt nàng!”
Thiếu Hạo thuật lại vắn tắt mọi chuyện cho Xương Ý, nói rõ độc dược là mình nhờ A Hành phối chế để hạ độc Yến Long, nhưng rồi lại lén tuồn cho Thanh Dương.
Xương Ý trừng trừng nhìn Thiếu Hạo, mắt long sòng sọc, cánh tay bất giác giơ lên.
Thiếu Hạo quỳ sụp xuống trước quan tài Thanh Dương, “Đệ muốn đánh muốn giết thì cứ đáng cứ giết đi!” Mấy ngày nay, tuy vẫn ráng giữ vẻ bình thản nhưng thật lòng Thiếu Hạo cũng đau đớn chẳng kém gì Xương Ý và A Hành, thế nên lúc này y chỉ hy vọng Xương Ý xuống tay đánh mình.
Xương Ý một chưởng vung ra đập mạnh vào người Thiếu Hạo, Thiếu Hạo cũng chẳng hề vận linh lực để kháng, cứ quỳ thẳng tắp trước linh cửu Thanh Dương, mặc cho khóe miệng ứa máu. Đánh được một chưởng, Xương Ý lại vung tay lên toan bồi thêm chưởng nữa, nhưng nhìn Thanh Dương an lành nằm trong quan tài như ngủ, y không sao xuống tay được, keng một tiếng, rút soạt kiếm ra, “Ta phải đi giết Di Bành!”
A Hành vội kéo y lại, van nài: “Tứ ca, đừng kích động!” Xương Ý rảy mạnh A Hành ra, nhảy lên tọa kỵ toan đi.
Thiếu Hạo liền quay phắt lại, nhào tới nắm lấy lưỡi kiếm của Xương Ý, mặc bàn tay ròng ròng máu, một mực khẩn thiết thuyết phục, “Xương Ý, hiện giờ đệ là con trưởng trong nhà, phải gánh lấy trách nhiệm trông nom mẹ và muội muội thay Thanh Dương!”
Xương Ý bất giác đưa mắt nhìn về phía Đại ca, cả người dần dần xụi lơ, giờ đây y đã trở thành con lớn, không thể kích động như thế được.
Thấy Xương Ý có vẻ xuôi xuôi, Thiếu Hạo bèn buông mũi kiếm ra, khuyên nhủ: “Nếu Thanh Dương qua đời, Di Bành ắt hẳn trở thành kẻ duy nhất có thể kế thừa vương vị, hắn được các quan giúp đỡ, thế lực càng ngày càng bành trướng, đệ chẳng những phải tự lo lấy thân mà còn phải bảo vệ Luy Tổ, nhất định đừng để sơ sẩy.”
Hơn ai hết, Xương Ý hiểu Di Bành rất căm hận mẹ của mình, một khi hắn đăng cơ, chắc chắn sẽ không tha cho họ.
Thiếu Hạo lại nói: “Ta có kế này may ra áp chế được Di Bành, Thanh Dương cũng đã tán đồng rồi.”
A Hành và Xương Ý đều dồn mắt về phía y, Thiếu Hạo trình bày: “Chỉ có ta và A Hành biết được dược tính của thuốc độc mà thôi, Thanh Dương thần lực cao cường, chắc hẳn Hoàng Đế không tin một đòn của Xi Vưu mà giết được y đâu. Ta đã phong tỏa nghiêm ngặt tin này, trừ ba người chúng ta, không còn ai biết về cái chết của Thanh Dương cả.” Thiếu Hạo nhấn mạnh, “Cũng đừng để mọi người biết.”
A Hành và Xương Ý chợt hiểu ra ý định của Thiếu Hạo, chỉ cần Thanh Dương chưa chết, đám triều thần cũng chẳng dám về hùa với Di Bành, đây chính là biện pháp hiệu quả nhất để khắc chế hắn.
Xương Ý còn đang trù trừ, A Hành đã lên tiếng: “Thiếp đồng ý!” Thấy muội muội tán đồng, Xương Ý cũng gật đầu.
Thiếu Hạo nói tiếp: “Ta sẽ viết thư với Hoàng Đế rằng thầy thuốc thấy trong người Thanh Dương vẫn còn chất độc, thương thế rất nặng, phải ở lại Quy khư bế quan trị thương, ít ra cũng tranh thủ được một hai trăm năm.”
A Hành hỏi: “Lỡ phụ vương phái người tới dò xét thì sao? Chúng ta lấy đâu ra Đại ca để đối phó đây?”
Thiếu Hạo trỏ làn nước dưới Quy khư, “Người đời thường nói Cửu vĩ hồ là giống giỏi biến hóa nhất, thật ra còn thứ khác biến hình giỏi hơn Cửu vĩ hồ nhiều. Như nước kia, đựng bầu thì tròn, đựng ống thì dài, ở trên trời hóa thành mây mưa hơi nước, ở dưới đất hóa thành sương tuyết sông ngòi, ở trong người chúng ta lại trở thành máu huyết sinh mạng.”
Nói rồi, Thiếu Hạo lập tức biến Thanh Dương, giọng nói cử chỉ đều như khuôn đúc, “Ta quen biết Thanh Dương đã hai ngàn năm, lại tu luyện thủy linh, nắm rõ pháp thuật của đối phương. Hồi nhỏ chúng ta cũng từng tráo đổi thân phận náo loạn một phen, mọi người đều nói Thiếu Hạo một mình đẩy lui mười vạn đại quân Thần Nông, thật ra không đâu, đó là Thanh Dương và ta cùng làm.”
Xương Ý chăm chú nhìn Thiếu Hạo, thấy y chẳng khác Thanh Dương mảy may nào.
Thiếu Hạo lại tiếp: “Nếu ngày ngày ở bên, ắt sẽ phát hiện ra, nhưng hiện giờ Thanh Dương đang bị trọng thương, nói năng cử động đều khó khăn, người đến thăm cũng chỉ có thể nhìn qua mà thôi, bằng vào thần lực của mình, dẫu là Hoàng Đế đích thân tới đây, ta vẫn tự tin ứng phó được.”
Bây giờ, A Hành mới hiểu lời hứa của Thiếu Hạo với Đại ca trước lúc lâm chung, “Từ nay trở đi, ta chính là Thanh Dương”, chẳng phải một cách so sánh, mà y quả thật đã trở thành Thanh Dương. Đại ca hiểu ý Thiếu Hạo nên mới yên lòng ra đi.
Xét thấy kế sách của Thiếu Hạo rất ổn, A Hành quay sang hỏi Xương Ý: “Có nên nói thật cho mẹ biết không?”
Xương Ý đắn đo một hồi rồi đáp: “Chúng ta đau khổ đến mấy cũng chẳng bằng phân nửa nổi đau của mẹ đâu. Vân Trạch qua đời, mẹ đã chết nửa cõi lòng, tới lượt muội chìm dưới đáy Ngu uyên, nửa cõi lòng của mẹ cũng chết lặng, nếu giờ biết chuyện Đại ca lìa trần, e rằng mẹ…”
A Hành gật gật đầu rồi trừng mắt nhìn Thiếu Hạo, vẻ căm hận vẫn hằn lên trong mắt, hồi lâu, nàng mới buồn rầu nói: “Sau này mọi chuyện đều nhờ cả vào chàng.”
Thiếu Hạo thừ người, lẳng lặng khôi phục nguyên dạng, triệt tiêu linh lực, để quan tài băng mang theo Thanh Dương từ từ chìm xuống Quy khư. Xương Ý và A Hành đứng cạnh nhau, cùng lưu luyến nhìn Đại ca. Y chết đi rồi, nhưng bọn họ vẫn được uy thế của y bảo vệ.
Hoàng Đế nhận được thư Thiếu Hạo liền phái Ly Chu, Ứng Long và Xương Phó đưa Luy Tổ tới Cao Tân thăm Thanh Dương.
Luy Tổ đứng ngoài cửa động nhìn Thanh Dương đang bế quan trị thương dưới đáy Quy khư, lặng thinh không nói.
Biết Ly Chu là tâm phúc của Hoàng Đế, A Hành âm thầm dò xét nét mặt ông ta, nhưng Ly Chu chẳng hề tỏ vẻ nghi ngờ, chỉ mãi buồn rầu an ủi Luy Tổ.
Ứng Long chợt lo lắng hỏi: “Thần có thể làm gì cho điện hạ đây?”
Luy Tổ gượng cười đáp: “Thanh Dương tu luyện thủy linh, Quy khư này lại là cội nguồn vạn thủy, linh khí dồi dào, hiện giờ chỉ cần kiên trì trị thương thôi.”
Luy Tổ định nán lại ít ngày, còn Ly Chu và Ứng Long thấy mình chẳng giúp được gì nên muốn xin về Hiên Viên bẩm báo với Hoàng Đế về tình hình của Thanh Dương.
Trước khi giã biệt, Ứng Long còn tới gặp riêng Xương Ý để tạ tội, vừa nói được một câu đã quỳ xuống trước mặt Xương Ý, Xương Ý phải đỡ y dậy, Ứng Long nói: “Nhờ điện hạ chuyển lời cho Đại điện hạ, nếu không có Đại điện hạ, thần đã chết rũ xương từ lâu rồi, ngày sau nếu gặp việc gì thần có thể góp sức, xin lập tức báo cáo ngay với thần.”
Xương Ý vội vàng cảm tạ. Đợi Ứng Long đi khỏi, y liền kể lại chuyện này với A Hành, nàng nói: “Những bề tôi như thế trong triều chẳng phải chỉ có Ứng Long, có lẽ đây chính là lý do Thiếu Hạo muốn Đại ca sống, chỉ cần Đại ca còn đó, bọn họ nhất định sẽ không về phe Di Bành.”
Mười mấy ngày sau, A Hành, Xương Ý và Xương Phó cùng đưa Luy Tổ về Hiên Viên sơn. Vừa về đến Triêu Vân phong, họ chợt thấy Triêu Vân điện hằng ngày vắng vẻ hôm nay lại náo nhiệt bất ngờ.
Bước vào điện, cả bốn trông thấy Tam phi Đồng Ngư thị đang sai phái đám thị nữ tra xét khắp nơi, lúc thì chê chỗ này sơ sài, khi lại nói màu sắc chỗ nọ không hài hòa.
Chu Du luống cuống theo sau Đồng Ngư thị, tới một hốc tường, bà ta đột nhiên thò tay vào, cầm hộp ngọc vuông vắn trong hốc lên, “Cái giẻ rách gì thế này? Để đây vướng cả mắt!”
Chu Du nôn nóng, liền buột miệng la: “Đừng đụng vào!”
Đồng Ngư thị giận giữ quát: “Ngươi bảo ai đấy hả? Vả vào miệng cho ta!”
Hai ả cung nữ vạm vỡ nhanh như cắt túm lấy Chu Du, bắt đầu vả miệng. Chu Du chẳng dám phản kháng, chỉ biết vật nài: “Đại điện hạ đã căn dặn, không ai được đụng vào hộp ngọc đó.”
Đồng Ngư thị phá lên cười, “Thế hả?” Dứt lời, bà ta đập luôn chiếc hộp xuống đất vỡ tan, mấy mảnh xương người cháy xém vung vãi cả ra sàn.
Đồng Ngư thị cười nhạt, nghiến răng toan giẫm lên đó.
“Các ngươi làm gì ở đây vậy?”
Đồng Ngư thị nghe tiếng ngẩng lên, Luy Tổ bước vào cửa điện, trông thấy mấy mảnh xương dưới chân Đồng Ngư thị, sắc mặt chợt tái nhợt.
Xương Ý cố nén giận, hành lễ với Đồng Ngư thị, “Đó là xương cốt của gia huynh, xin nương nương cẩn thận giùm.”
Đồng Ngư thị làm bộ áy náy, “Ai da, ta không biết, thật là có lỗi.”
Nói rồi bà ta vội vã lùi lại, chẳng những tránh không được mà còn giẫm bừa lên đống xương cốt, khiến mấy mảnh xương vỡ vụn.
Bà ta liền hốt hoảng tạ lỗi: “Cái này, cái này… ai, thật thất lễ quá, ta đã bảo đừng ghé qua đây, nhưng Di Bành lập được công lớn, vừa được phong làm Đại tướng quân, Hoàng Đế thấy ta thích phong cảnh Triêu Vân phong nên mới gia ân cho ta đi dạo một vòng.” Bà ta nhặt mớ xương tàn dưới đất, hai tay dâng tới trước mặt Luy Tổ: “Tỷ tỷ, muội xin lỗi nhé.”
Luy Tổ xám mặt lại, loạng xoạng muốn ngất đi, Xương Phó phải vội vã chạy tới dìu đỡ.
Xương Ý tức giận đầy ruột nhưng miệng lưỡi vụng về, không sao đối đáp được với bà ta, chỉ biết giơ tay toan rút kiếm.
Thấy vậy, A Hành vội giữ tay y lại rồi bước chân trước mặt Luy Tổ, rút khăn lụa ra, thận trọng nhận lấy nắm xương tàn đã cháy sém.
Đồng Ngư thị liền cảm thán: “Ai! Tội nghiệp quá đi mất! Đường đường là một trang nam nhi cao lớn hiên ngang như rồng như hổ, thế mà giờ chỉ còn nắm xương tàn!”
A Hành mỉm cười đáp: “Phải rồi, nỗi khổ của chúng con chỉ có nương nương Người hiểu được thôi, nói gì thì nói, Tam ca cũng bị thiêu cháy thành tro bụi mà, ài.”
Đồng Ngư thị chợt biến sắc, tắt hẳn nụ cười, căm hận trừng mắt nhìn A Hành, nàng cũng cười cười nhìn bà ta, chẳng hề kém cạnh.
Ánh mắt Đồng Ngư thị trừng trừng nhìn Luy Tổ không rời, đoạn bà ra gằn giọng nói: “Trời cao đã nghe thấy lời nguyền của ta rồi, ngươi cứ chờ mà xem!”
Luy Tổ nghe nói tái mặt, ngất lịm đi. Đồng Ngư thị cũng dắt đám cung nhân lũ lượt rời Triêu Vân điện.
Sau khi tỉnh lại, Luy Tổ vật vã đau đớn như chết cả cõi lòng. A Hành mấy lần định hỏi han gì đó, nhưng cứ do dự không dám. Hộp ngọc đó đã đặt trong hốc tường cả mấy ngàn năm nay, vậy mà nàng chẳng hề lưu ý, đến giờ mới biết đó là xương cốt của anh trai mình.
Chu Du đầu bù tóc rối bưng một chiếc hộp thủy tinh lại, A Hành đặt nắm xương tàn gói trong mảnh khăn tay vào đó. Thấy mọi người đều làm thinh chẳng nói chẳng rằng, Chu Du liền an ủi: “Nương nương, điện hạ, vương cơ, các vị đừng giận làm gì, đợi Đại điện hạ khỏe lại, nhất định sẽ tính sổ với mụ đàn bà đó.”
Xương Ý và A Hành vừa nghe đã rơm rớm nước mắt, Đại ca hết lòng che chở cho họ, làm sao còn trở về được nữa đây? Đến giờ A Hành mới hiểu vì sao mỗi lần gặp mặt, Đại ca đều nghiêm khắc mắng nàng trễ nải tu hành, tiếc rằng, trước đây nàng chẳng hề nhận thấy nỗi khổ tâm của Đại ca.
Luy Tổ lệnh cho đám cung nữ vây quanh: “Các người lui cả ra đi, để cả nhà ta trò chuyện riêng một lát.” Chu Du nghe nói cũng định lui ra, lại nghe Luy Tổ bảo: “Ngươi ở lại đây. Về sau, ngươi… ngươi cũng coi như Xương Phó.”
“Dạ!” Chu Du vội ngồi xuống, cười lỏn lẻn cào cào lại mái tóc rối tung trên đầu. A Hành và Xương Ý đang xúc động nên chẳng để ý lời Luy Tổ, chỉ riêng Xương Phó đưa mắt chăm chú nhìn Chu Du.
Luy Tổ quay sang bảo A Hành: “Đưa cho ta chiếc hộp.”
A Hành liền đưa chiếc hộp cho bà. Luy Tổ mở ra, khẽ vuốt nắm xương tàn, đoạn lên tiếng, “Hẳn con đang thắc mắc người này là ai, tại sao y lại thành ra thế này, phải không? Chuyện này dài lắm, phải kể từ đầu kia.”
Xương Ý vội chen vào: “Mẹ mệt rồi, để hôm khác nói đi!”
“Con cũng yên lặng nghe đi, con chỉ biết đây là Vân Trạch, chứ không biết nguồn cơn sự việc phải không?”
Thấy thái độ Luy Tổ rất kiên quyết, Xương Ý đành vâng lời.
Luy Tổ trầm ngâm giây lát rồi kể: “Đó là chuyện rất lâu rất lâu rồi, lâu đến nỗi ta cũng gần như quên mất. Khí đó cha ta vẫn còn tại thế. Tây Lăng Thị là danh gia vọng tộc từ thời thượng cổ, cùng với ba nhà Xích Thủy, Đồ Sơn, Quỷ Phương, được người đại hoang tôn là ‘Tứ thế gia’, thực lực ngang ngửa Xích Thủy Thị. Xưa kia dòng họ nhà ta từng có một vị Viêm Hậu, Phục Hy đại đế cũng rất nể trọng chúng ta. Từ nhỏ, ta đã giỏi điều khiển côn trùng, biết quay xe kéo sợi dệt nên những tấm gấm đoạn rực rỡ tươi đẹp hơn mây trắng, có một dạo ta cũng nổi danh thiên hạ, được xưng tụng là Tây Lăng kỳ nữ, người tới cầu hôn nườm nượp. Hồi đó ta vừa kiêu ngạo vừa phóng khoáng, mắt đặt đỉnh đầu, nào xem ai vào đâu, bèn chuồn khỏi nhà, đi ngao du sơn thủy cùng hai người bạn. Chúng ta kết bái huynh muội, uống rượu, đánh lộn, gây sự phá phách, hành hiệp trượng nghĩa đủ cả.”
Nhìn ánh mắt mẹ rực lên, vẻ hào hứng phấn khởi chưa từng thấy, Xương Ý chợt nhận ra mẹ mình cũng từng có một thời tuổi trẻ sôi nổi nhiệt thành. A Hành sực nhớ lại mấy trăm năm trước, ông lão trên Tiêu Nguyệt đỉnh hồi tưởng chuyện xưa, cũng đã cười sảng khoái thế này.
“Một hôm, ba người chúng ta ngang qua Hiên Viên, bắt gặp một vị thiếu niên anh tuấn, y đứng giữa mọi người, tươi cười rạng rỡ, hệt vầng dương chói lóa trên bầu trời kia, khiến vạn vật xung quanh đều hóa ra ảm đạm.”
Xương Phó khẽ hỏi: “Là phụ vương ư?”
Luy Tổ gật đầu, ánh mắt đượm vẻ thê lương, “Từ nhỏ ta đã được cha mẹ nuông chiều, muốn gì được nấy, cứ ngỡ gã thiếu niên này cũng như muôn vàn kẻ khác, hễ trông thấy ta đều phải đắm đuối si mê. Nhân một đêm trăng, ta bèn lẻn đi tìm y bày tỏ tình cảm, nào ngờ y lại cự tuyệt ta, còn nói rằng đã có người trong mộng rồi. Nghe vậy ta chỉ biết hổ thẹn giận dữ bỏ đi, tiếp tục ngao du với chúng bạn, làm ra vẻ chưa có gì xảy ra. Nhưng lúc nào ta cũng canh cánh nhớ đến y, càng không có được thì lại càng sục sôi muốn giành lấy. Có lần ngắm nhìn hoàng hôn từ từ buông xuống, ta đột ngột hạ quyết tâm, nhất định phải giành được người đàn ông này! Tây Lăng Luy ta lý nào lại không giành được kẻ mà ta muốn chứ? Nghĩ thế, ta bèn rời bỏ chúng bạn, đi tìm gã thiếu niên kia.”
Luy Tổ đưa mắt nhìn khắp lượt các con, “Thuở ấy, Tây Lăng Luy ta nào đã nhận ra thứ quý giá nhất trong đời, càng chưa biết rằng điều đáng trân trọng nhất chính là điều mình vừa tiện tay vứt bỏ.”
Xương Ý, Xương Phó, A Hành đều lặng thinh không nói, chỉ mình Chu Du tâm tính chất phác, chẳng ngại háo hức vọt miệng hỏi: “Về sau thế nào? Làm sao vương hậu đánh bại được tình địch?”
Luy Tổ trầm ngâm một lúc lâu, đoạn kể tiếp: “Tìm thấy gã thiếu niên đó, ta bèn lấy tư cách là bạn y để nán lại Hiên Viên tộc. Ta hiểu y là một kẻ ôm hoài bão lớn, không cam lòng làm tộc trưởng một Thần tộc nhược tiểu suốt đời, bèn dốc hết sức lực giúp y hoàn thành khát vọng. Dù gì ta cũng xuất thân từ danh gia vọng tộc, lại được nuôi dạy như Viêm Hậu tương lai, nắm rõ quy cách phân bố ruộng nương, thiết lập thuế khóa, quản lý nô bộc, còn dạy cho đàn bà con gái Hiên Viên chăn tằm dệt vải, phân tích hình thế thiên hạ với y, nói Viêm Đế và Tuấn Đế càng đấu đá ác liệt thì cơ hội của y càng lớn… Chỉ cần y muốn thực hiện, ta sẽ một lòng một dạ giúp đỡ y, ta không tin rằng, cô gái mà y tơ tưởng có thể đem lại cho y những điều đó. Ngày tháng trôi qua, chúng ta mỗi lúc một thêm thân mật, cơ hồ chuyện gì cũng có thể thổ lộ cùng nhau, cho đến một hôm, y đột nhiên căn vặn thân thế của ta, một cô gái bình thường chẳng thể nào học sâu hiểu rộng nhường ấy được, khi biết ta là Tây Lăng Luy, y đã kinh ngạc không thốt nên lời.”
Luy Tổ nghiêng đầu hồi tưởng chuyện xưa, nét tươi cười hiếm hoi thoáng lướt qua dung nhan tàn tạ, “Thuở ấy, cái tên Tây Lăng Luy nổi tiếng hệt như Thiếu Hạo và Thanh Dương bây giờ vậy, người ta có thể không biết Viêm Đế, nhưng chẳng ai không nghe tiếng Tây Lăng Luy. Hiên Viên tộc khi đó đang cần một chỗ dựa, ta lập tức đáp ứng ngay. Trước ngày hai ta thành thân, cô gái đó đã tới cầu khẩn ta, còn nói với ta rằng, cô ta… cô ta đã mang thai.”
Vẻ mặt Luy Tổ đầy xót xa hoảng hốt, thoắt chốc, mọi người trong phòng đều nín lặng như tờ.
“Cô ta khóc lóc vật nài ta đừng giành mất phu quân của mình, đừng đoạt đi cha của đứa nhỏ, còn nói, ‘Tiểu thư thân là Tây Lăng Luy, có biết bao đàn ông trên đời si mê theo đuổi, nhưng tôi chỉ có một mình y mà thôi, xin tiểu thư trả lại y cho tôi đi.’ Nhưng dù trên đời có bao nhiêu đàn ông, ta cũng chỉ muốn gả cho một mình y, nên dứt khoát cự tuyệt cô ta. Cô ta khóc lóc van nài ta thương lấy đứa bé trong bụng mà thu nhận cô ta làm tiểu thiếp, bằng không người nhà cô ta sẽ giết cả cô ta lẫn đứa bé, nhưng ta vẫn cự tuyệt. Ta là Tây Lăng Luy kia mà! Nếu vừa thành hôn chưa bao lâu, phu quân đã có con với kẻ khác thì ta còn mặt mũi nào nữa? Cha ta và toàn thể gia tộc còn mặt mũi nào nữa đây! Cha ta miễn cưỡng lắm mới chịu chấp nhận cuộc hôn nhân này, nếu Người biết chuyện đó, ắt sẽ hủy hôn là cái chắc. Nghĩ vậy ta liền đuổi cô gái đó đi, coi tất cả như một cơn ác mộng, cố giữ vẻ bình thường để cử hành hôn lễ. Nhưng sau lễ thành hôn, cô ta lại tìm tới gặp ta, chặn xe ta giữa đường, loạng choạng nâng tấm vải đẫm máu bước đến trước mặt ta, trên đó còn dính mấy khối thịt đã khô quắt, căm hận nguyền rủa: ‘Ta lấy máu thịt con ta ra thề rằng các con ngươi sẽ chết sạch không còn một mống, còn ngươi sẽ phải đau đớn cực cùng vì mất con.’”
Nghe đến đây, Xương Ý và A Hành đã đoán ra người đàn bà đó là ai, không hẹn mà cùng ớn lạnh xương sống. Thấy sắc mặt Luy Tổ tái mét, Xương Phó vội dịu giọng khuyên giải, “Mẫu hậu mệt rồi, Người nghỉ một lát đi.”
Luy Tổ lắc đầu, tiếp tục kể, “Nói xong câu đó, cô ta liền bỏ đi.”
Mấy trăm năm sau, ta cũng dần quên khuấy cô ta. Phụ vương các con và ta ngọt bùi ân ái, rời tọa kỵ là vợ chồng, lên tọa kỵ là chiến hữu, hai người đồng tâm hiệp lực, sánh vai tác chiến, qua bao phen chinh chiến, Tây Lăng tộc ra sức chiến đấu vì ta, tử thương ngày càng nhiều rồi mai một dần đi, trong khi đó Hiên Viên tộc mỗi lúc một thêm lớn mạnh, từ một Thần tộc vô danh tiểu tốt đã trở thành Thần tộc lớn, vang danh đại hoang. Ta sinh được hai đứa con trai, đặt tên là Thanh Dương và Vân Trạch. Vân Trạch rất hiểu chuyện, nó thấy Thanh Dương tính tình hào phóng, không thích cầm quân đánh giặc bèn chủ động gánh lấy mọi trách nhiệm thay huynh trưởng, ngày ngày đều theo phụ vương học hỏi.”
Thấy Luy Tổ đã mệt lử, Chu Du liền bưng trà lại, bà đón lấy chung trà hớp mấy ngụm, nghĩ một lát rồi kể tiếp: “Hiên Viên tộc ngày càng lớn mạnh, cũng chuẩn bị lập quốc tôn vương, phụ vương các con muốn nạp con gái tộc trưởng Phương Lôi tộc làm phi tử, bèn ướm hỏi ta, ông ấy cần sự hỗ trợ từ Phương Lôi tộc để lập quốc nên mong ta thông cảm cho. Trước lý lẽ đó, ta chẳng có cách nào phản đối, cũng không làm sao phản đối được. Vì chuyện này, Thanh Dương đã làm ầm lên với ta, còn đòi đi tìm phụ vương các con tranh luận, Vân Trạch từ nhỏ đã học cách xử lý chính sự, hiểu chuyện hơn Thanh Dương rất nhiều, nó phải can ngăn mãi Thanh Dương mới chịu thôi.
May sao phụ vương các con cũng chỉ khách sáo qua quýt với Phương Lôi thị chứ chẳng hề sủng ái, ta mới thở phào nhẹ nhõm. Chẳng bao lâu sau, ta lại có mang rồi mải mê với hạnh phúc làm mẹ, cho tới một ngày, Hoàng Đế dắt một phụ nữ đang mang thai tới gặp ta, nói muốn nạp cô ta làm phi, cô gái đó nhìn ta cười bẽn lẽn, còn ta sởn cả gai ốc, cô ta, cô ta… chính là thiếu nữ hơn ngàn năm trước từng tìm tới cầu khẩn ta, nguyền rủa ta, cũng chính là Đồng Ngư thị vừa rời khỏi Triêu Vân phong khi nãy.”
Chu Du “A” lên kinh ngạc, Xương Ý và A Hành tuy đã đoán được nhưng vẫn thấy lạnh toát sống lưng.
Luy Tổ lại nói: “Hai năm sau, Tam vương tử Hiên Viên Huy của Hiên Viên tộc chào đời, tuy nó không phải con đầu lòng của Hoàng Đế, nhưng lại là vương tử đầu tiên ra đời từ ngày lập quốc của Hiên Viên, Hoàng Đế hết sức phấn khởi, lệnh cho toàn quốc ăn mừng. Hồi đó ta vẫn chưa nghĩ thông, chưa hiểu ra thứ gì là quan trọng nhất nên vì chuyện này mà động thai khí, khiến Xương Ý phải sinh non. Từ nhỏ Xương Ý đã yếu ớt lắm bệnh, linh lực kém cỏi, đều là do lỗi của ta!”
Hồi tưởng lại hình ảnh mẹ mình vò võ lẻ loi giữa Triêu Vân điện lạnh lẽo, trong khi cả nước đang hân hoan đón mừng Tam vương tử chào đời, Xương Ý chợt thấy lòng chua xót: “Mẹ, đó đâu phải lỗi của Người, Người đừng tự trách nữa mà.”
Luy Tổ tiếp lời: “Hồi đó ta vừa ghen ghét, vừa không cam lòng, lại vừa hoang mang sợ hãi, luôn xúi giục Vân Trạch gắng sức lấy lòng Hoàng Đế. Thật ra Vân Trạch hiểu chuyện hơn ta, nó thường khuyên ta trên đời này, thứ khó tranh đoạt nhất chính là lòng dạ đàn ông, dù tranh được chăng nữa, cũng sẽ phải trả giá đắt, nhưng ta một mực không chịu hiểu, càng chẳng làm sao quên được những ân ái vờ vịt hơn ngàn năm qua, về sau…” Luy Tổ ngửa mặt trông lên trần nhà, mọi người ngồi đó đều không nhìn thấy nét mặt bà, nhưng vẫn thấy hai hàng nước mắt từ cằm nhỏ xuống.
“Về sau Hiên Viên giao chiến với Điền tộc ở Tây Nam, phụ vương các con vốn định phái Thanh Dương xuất chinh, nhưng Vân Trạch biết Thanh Dương chán ghét chuyện đó, bèn chủ động xin đi, Hiên Viên Huy cũng được cho đi theo Vân Trạch để rèn luyện. Vân Trạch đại thắng, buộc Điền Vương đầu hàng. Đất Điền rất nhiều núi lửa, Hiên Viên Huy nói Vân Trạch trong lúc dẫn quân phá vây không may rơi vào miệng núi lửa. Thanh Dương không tin, nó tìm được xương cốt Vân Trạch, kết luận Hiên Viên Huy đã hại chết Vân Trạch, đòi Hoàng Đế tra xét. Hoàng Đế liền phái rất đông binh lính tới trấn giữ Chi Nguyệt điện, cấm Thanh Dương tiếp cận Hiên Viên Huy nhưng Thanh Dương vẫn liều mạng xông vào Chi Nguyệt điện, còn đả thương Hiên Viên Huy. Hoàng Đế tức giận bèn hạ lệnh giam Thanh Dương vào Lưu Sa trận không có lấy một giọt nước suốt nửa năm, tới khi nó chịu nhận tội mới thôi. Lúc rời khỏi trận, Thanh Dương chỉ còn da bọc xương, trông chẳng ra hình người nữa.”
Nói đến đây, Luy Tổ nghẹn giọng, khóc không ra tiếng.
Xương Ý đỡ lời: “Thôi mẹ ơi, chuyện về sau cứ để con thuật nốt cho A Hành. Sau khi được thả khỏi Lưu Sa trận, tính tình Đại ca thay đổi hoàn toàn, cũng chẳng ngao du đây đó nữa mà trở về Hiên Viên quốc, trở thành Hiên Viên Thanh Dương quy củ bây giờ. Từ đó về sau, Đại ca càng lúc càng nổi tiếng, sau cùng tề danh với Cao Tân Thiếu Hạo lừng lẫy đã lâu, được người trên đại hoang xưng tụng là “Thiên hạ song hùng, Bắc Thanh Dương, Nam Thiếu Hạo.”
Luy Tổ lại lên tiếng: “Vân Trạch chết đi, ta mới thật sự nhìn rõ con người mà mình quyến luyến bao năm không sao buông xuống được, ta cũng tháo sạch lược vàng trâm ngọc, bỏ hết gấm vóc lụa là, chỉ muốn làm một người mẹ, bảo vệ cho con cái mình bình yên hạnh phúc mà thôi. Nhưng dường như ông trời không chịu cho ta cơ hội, có lẽ, khi ta nhẫn tâm khước từ, để mặc đứa nhỏ kia chết mà chẳng được thấy ánh mặt trời, hết thảy báo ứng đã được định sẵn cả rồi. Nhưng đó là do ta gây ra kia mà! Trăm sai ngàn sai đều tại ta cả, sao báo ứng lại đổ lên đầu các con ta…”
Luy Tổ khóc nức lên, điên dại vì đau đớn.
Xương Ý vội nắm chặt lấy hai tay Luy Tổ, truyền linh lực vào người bà, khiến Luy Tổ thiếp đi.
Chu Du bất mãn buột miệng: “Đồng Ngư nương nương thật quá đáng, nếu nô tỳ là bà ấy, người đáng hận nhất phải là Hoàng Đế mới đúng, chính Hoàng Đế phụ bạc cả hai người đàn bà kia mà! Để tranh đoạt thiên hạ, Hoàng Đế đã ruồng rẫy thanh mai trúc mã, đến khi giành được giang sơn rồi lại đổ tội cho vương hậu khiến mình mất người yêu và con trai…”
Xương Phó giật giật áo Chu Du, tỏ ý ngăn ả đừng nói nữa, dù sao Xương Ý và A Hành cũng là con Hoàng Đế sinh ra, những thị phi phải trái, ân oán giăng mắc kia đều đã thành quá khứ rồi.
Xương Ý nhờ Xương Phó và Chu Du dìu Luy Tổ vào tẩm điện nghỉ ngơi.
Xương Ý lo lắng hỏi A Hành: “Bây giờ mẹ đã loạn cả tâm thần rồi, nếu Đồng Ngư thị còn sinh sự dăm lần nữa, e rằng mẹ sẽ sụp đổ hoàn toàn luôn. Chúng ta làm sao đây?”
A Hành bưng hộp lên, chăm chú nhìn nắm xương tàn bên trong, không sao tin nổi một con người đang sống sờ sờ nay chỉ còn vài mảnh xương cháy sém, buột miệng: “Nhị ca trông thế nào?”
Hai mắt Xương Ý chợt đỏ hoe, “Trong ký ức của ta, Nhị ca cũng bận rộn hệt như Đại ca mà muội từng biết vậy, chẳng mấy khi ta gặp được huynh ấy. Nhị ca theo Đại ca đi chọn đất phong cho ta, thấy Nhược Thủy hoang vu hẻo lánh, dân chúng còn man di, ai cũng chê là chó ăn đá gà ăn sỏi, chẳng kẻ nào thèm chọn, Nhị ca bèn bảo ta dâng thư, xin ban phong Nhược Thủy. Nếu không phải Nhị ca thu xếp cho ta một nơi hẻo lánh xa xôi như thế, e rằng ta cũng đã…”
A Hành đầy vẻ ân hận, xót xa hỏi: “Sao huynh chẳng kể cho muội nghe về Nhị ca? Thế mà có lúc muội đã trách cứ Đại ca về cái chết của Hiên Viên Huy…”
Xương Ý rưng rưng nước mắt: “Đại ca không để bụng chuyện đó đâu.” Đã có lúc y sôi sục căm hờn, chỉ lăm le giết chết Di Bành ngay tức khắc, nhưng giờ đây, thấy hệt mọi tiền nhân hậu quả, bao oán hận trong lòng y đều nhường chỗ cho bi ai khôn xiết, “Ta định dâng thư lên phụ vương, xin đưa mẹ về Nhược Thủy phụng dưỡng, Đồng Ngư thị thèm muốn Triêu Vân điện thì chứ cho bà ta đi!”
A Hành lắc đầu, “Nhược Thủy chẳng phải vẫn là lãnh thổ Hiên Viên ư? Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, có tác dụng gì đâu? Nếu Đồng Ngư thị dời vào ở Triêu Vân điện, dù chúng ta trốn đến chân trời góc bể cũng vô ích.”
“Nhất định phải có một bên chết mới kết thúc được sao? Tuy Đồng Ngư thị đáng hận, nhưng cũng rất đáng thương.”
“Muội cũng thấy bà ta đáng thương, nhưng dây dưa giằng co thế này mãi chẳng tháo gỡ được, còn liên lụy cả người thân thây chất thành núi. Bây giờ chẳng còn đúng sai phải trái gì nữa hết, chỉ có người chết ta sống mới kết thúc được thôi.”
Thấy Xương Ý nín lặng, A Hành lo y lòng dạ thiện lương, dễ bị hãm hại, liền đinh ninh dặn dò: “Tứ ca, sớm muộn Di Bành cũng sẽ động tới huynh, huynh nhất định phải cẩn thận đề phòng đó.”
Vú già từng chứng kiến hai người lớn lên bưng một đĩa dâu lạnh bước vào, cười nói: “Tiếc là Đại điện hạ vắng nhà nên chẳng có dâu tươi ướp lạnh, chắc không được ngon lắm, hai vị cố ăn chút đi.”
Xương Ý và A Hành nhón một chùm dâu lạnh đưa lên miệng, trái dâu chua chua ngòn ngọt mà sao giờ đây chỉ thấy đắng chát nghẹn lòng. Bây giờ hai người mới chợt nhận ra, bao năm nay, hễ Đại ca ở nhà, mỗi lần trở về Hiên Viên sơn, bất kể lúc nào, họ đều được nếm dâu lạnh tươi roi rói.
Để ướp lạnh mấy chùm dâu tươi, Thanh Dương không tiếc hao phí linh lực khiến cả Hiên Viên sơn đổ tuyết, tiếc rằng tình cảm ấm áp quan hoài ẩn sau vẻ bề ngoài lạnh lùng nghiêm khắc ấy, hại người bọn họ chẳng hề nhận ra.
Xương Ý chăm chú nhìn A Hành, rành rọt nói: “Tuy cái chết của Đại ca chẳng phải do một mình Xi Vưu gây ra, nhưng không thể phủ nhận chính tay hắn đã đánh chết Đại ca, mẹ nhất định không chấp thuận cho muội ở bên hắn đâu!”
A Hành rơm rớm nước mắt, “Thế còn huynh? Huynh từng nói sẽ chúc phúc bọn muội kia mà?”
Xương Ý nuốt cay đắng vào lòng, đứng phắt dậy, vừa sải bước ra ngoài vừa trầm giọng đáp: “Ta sẽ không đi tìm hắn báo thù, nhưng ta cũng không thể chúc phúc cho kẻ giết chết Đại ca được. Nếu Xi Vưu chết đi, chuyện này coi như xong, nhưng nếu hắn còn sống, đời này kiếp này, ta cũng không muốn nhìn thấy mặt hắn, muội muốn sống cùng hắn thì vĩnh viễn đừng tới gặp ta nữa!”
A Hành siết chặt chùm dâu lạnh trong tay, nước mắt ầng ậng chỉ chực rơi xuống, nhưng giờ đây mẹ nàng đang bệnh nặng, Tứ ca hiền lành lương thiện, nàng chẳng thể muốn khóc thì khóc, muốn cười thì cười như xưa nữa.
Nàng nghiến chặt răng, cố nén không rơi nước mắt, chùm dâu lạnh trong tay bị bóp nát bét, nước dâu đỏ lòm từ kẽ tay nhỏ xuống tong tong như máu.
Nuốt hết nước mắt vào lòng, A Hành đứng dậy, tới thăm mẫu hậu.
Trong tẩm điện, mẫu hậu nàng đang thiêm thiếp, Xương Phó và Chu Du ngồi cạnh trông nom, đầu tóc Chu Du vẫn bù xù chưa kịp chải gỡ lại, A Hành bước vào lên tiếng: “Hai người đi nghỉ đi, để muội trông mẹ.”
“Cũng được, có chuyện gì muội kêu bọn ta nhé.” Xương Phó kéo Chu Du ra khỏi điện, ngồi dưới gốc phượng hoàng, rút chiếc lược bằng gỗ nhược mộc vừa chải tóc cho Chu Du, vừa thủ thỉ:
“Ngươi theo Đại ca bao lâu rồi?”
“Nô tỳ không nhớ nữa, chỉ biết là lâu lắm rồi, lâu hơn cả ký ức của nô tỳ nữa.”
“Sao lại lâu hơn cả ký ức?”
“Có lần nô tỳ thấy một nữ tử Nhân tộc toan treo cổ tự tử để chết theo chồng, nô tỳ nghĩ mãi mà không sao hiểu được, Thiếu Hạo bèn trêu nô tỳ là gỗ đá, đương nhiên không hiểu nổi tình cảm thương tâm đau lòng, nô tỳ nhất mực bám theo căn vặn y, y mới tiết lộ nô tỳ vốn là một cây thù du mục nát, sắp chết khô đến nơi, nhân một lần Thiếu Hạo cùng Đại điện hạ nô đùa, điện hạ bèn nhét khúc cây khô vào ngực áo, giữ bên người hàng ngày, nhờ linh khí của Đại điện hạ, nô tỳ mới có được linh thức, về sau mới tu thành hình người, vậy chẳng phải trước khi nô tỳ có ý thức đã theo Đại điện hạ rồi sao?”
“Ngươi đã gặp Nhị ca Vân Trạch lần nào chưa?”
“Nô tỳ chưa, nhưng nô tỳ biết Nhị điện hạ. Hồi đó nô tỳ còn là một khúc gỗ, không biết nói năng, chỉ có thể lắng nghe âm thanh bên ngoài, nô tỳ đã lắng nghe Nhị điện hạ từ từ trưởng thành, lại lắng nghe… lắng nghe ngài ấy qua đời. Nô tỳ ở trong lòng Đại điện hạ, cảm nhận được hết thảy đau đớn của ngài, nô tỳ rất muốn an ủi ngài, nhưng không thể cử động, cũng chẳng biết nói năng. Sau đó, sau đó… nô tỳ quá nóng ruột, đột nhiên, một hôm nô tỳ biến thành hình người. Bấy giờ Đại điện hạ đang ngủ, thấy nô tỳ thình lình xuất hiện trên giường, điện hạ giật nảy cả mình, ngã lộn cổ xuống đất, mặt tái xanh tái xám, quả là nhát gan mà…” Chu Du cười phá lên.
Tổ tiên Nhược Thủy tộc chính là Thần tộc Nhược Mộc nên Xương Phó khá am hiểu chuyện mộc yêu hóa thành người, nàng ngập ngừng hỏi, “Lúc đó ngươi không mặc gì, phải không?”
“Ơ… sau đó điện hạ cho nô tỳ mượn y phục của mình mặc tạm.”
Nhìn Chu Du ngây thơ chất phác, Xương Phó đành nuốt câu, “Đại ca lộn cổ xuống đất đâu phải vì sợ” lại, hình dung cảnh Đại ca lạnh lùng nghiêm nghị “giật nảy cả mình”, nàng không khỏi tức cười, nhưng chưa kịp cười đã nghe chua xót ngập lòng, “Từ đó về sau ngươi đi theo Đại ca ư?”
Chu Du bĩu môi ủ rũ, “Ai da! Tuy nô tỳ có thể cười nói cử động nhưng lại ngốc nghếch khù khờ, làm điện hạ bực mình, mấy lần định tống nô tỳ đi rồi đấy.”
“Vậy sao ngươi vẫn ở lại được? Một khi Đại ca đã quyết, đâu dễ gì lay chuyển.”
“Nô tỳ cũng không biết nữa, hồi đó linh lực của nô tỳ rất bất ổn, hễ cuống lên là biến lại nguyên hình, mỗi lần bị điện hạ xua đuổi, nô tỳ đều biến thành khúc gỗ. Điện hạ nổi giận cảnh cáo nô tỳ, nếu còn tiếp tục biến thành gỗ nữa sẽ quăng nô tỳ vào lò lửa luôn. Để làm vừa lòng điện hạ, không chọc giận ngài, cũng không biến thành gỗ nữa, nô tỳ đành dốc hết sức cố gắng tu hành, chỉ nửa người biến thành gỗ thôi, nào ngờ điện hạ vẫn nổi giận đùng đùng, còn giận hơn cả lần trước, điện hạ nói, thà toàn thân ngươi biến quách thành gỗ cho rồi…”
A Hành mải nghe hai người trò chuyện đã bước tới bên song khi nào chẳng rõ, nàng chỉ mong Chu Du kể tiếp vài ba chuyện nữa để mình được hiểu thêm về Đại ca, vị Đại ca luôn đứng đằng sau che chở cho nàng mà nàng chưa bao giờ hiểu rõ.
Suốt mấy trăm năm nay, sao nàng chỉ chìm đắm mải mê với thế giới bên ngoài mà chẳng hề quan tâm đến Đại ca bên cạnh? Liệu có phải tình thân là điều hiển nhiên đối với nàng, nên chưa từng nghĩ đến lúc mất đi? Vì sao mãi tới lúc mất đi rồi, nàng mới nhận ra mình rất quyến luyến Đại ca cơ chứ?
Từ sau cái chết của Băng Nguyệt, Nặc Nại chỉ ôm lấy vò rượu, say sưa tối ngày.
Tin Viêm Đế Du Võng chết thảm truyền đến Cao Tân, khiến y đột nhiên sực tỉnh, vội vàng đi suốt ngày đêm tới Thần Nông, nhưng đến chân núi thì đụng phải lệnh giới nghiêm, lại không tiện bộc lộ thân phận tới gặp Vân Tang, đương lúc bối rối như kiến bò miệng chén, y sực nhớ năm xưa mình âm thầm hẹn gặp Xi Vưu, hắn đã dặn y chờ tại Thảo An lĩnh, về sau y mới biết Thảo An lĩnh là cấm địa của Thần Nông, không ai được lui tới, nên cũng chẳng có thị vệ trông giữ.
Nặc Nại đoán từ Thảo An lĩnh có thể tìm được đường lên Tiểu Nguyệt đỉnh, bèn lẻn vào Thảo An lĩnh.
Thấy căn nhà tranh trên đỉnh núi vẫn leo lét ánh đèn, Nặc Nại mừng rỡ tiến lại, ghé mắt qua nhìn song cửa, chỉ thấy Mộc Cận mình khoác áo tang, tay giơ một viên dạ minh châu Đông hải, vừa đi vừa soi khắp các ngóc ngách trong nhà, khẽ khàng vuốt ve hết bàn tới giường, đôi mắt ăp ắp tình nồng, lệ tràn giàn giụa.
Mộc Cận ngồi xuống giường, cầm manh áo cũ của Xi Vưu áp lên mặt rồi òa khóc, “Xi Vưu, rốt cuộc ngươi còn sống hay đã chết? Tại sao ta phái người tìm kiếm khắp đại hoang mà không thấy? Dù ngươi chết rồi, cũng để ta trông thấy nắm xương tàn của ngươi chứ.”
Nghe vậy Nặc Nại thấy lòng chùng hẳn xuống. Theo y được biết cả Thần Nông, Hiên Viên, thậm chí là Cao Tân đều đang tìm kiếm Xi Vưu, nhưng đến giờ vẫn bặt vô âm tín. E rằng hắn đã chết thật rồi, liệu nắm xương tàn lạnh lẽo của hắn có cảm nhận được những giọt lệ nóng hổi của Mộc Cận không nhỉ?
Nặc Nại đứng bên ngoài một lúc lâu mà Mộc Cận vẫn ôm lấy tấm áo Xi Vưu nức nở, y bèn gõ nhẹ vào song cửa, khẽ an ủi: “Người chết rồi là hết, chỉ còn người sống đau khổ mà thôi.”
Mộc Cận giật mình ngẩng phắt lên trông thấy Nặc Nại, mày liễu dựng ngược mắng, “Giống bội bạc kia còn dám bén mảng đến Thần Nông sơn ư? Để ta giết ngươi trút giận thay Vân Tang tỷ tỷ!” Dứt lời, một dải lụa rực rỡ như mây ráng bay vèo ra cửa sổ thít lấy cổ Nặc Nại, nhưng y vẫn đứng yên, sắc mặt dần sạm lại.
Thấy Nặc Nại sắp nghẹt thở ngất lịm, Mộc Cận liền vung tay thu lại dải lụa, hậm hực hỏi: “Sao ngươi không đánh trả? Lẽ nào ngươi đến chịu chết thật đấy à? Thế thì đi mà tìm Vân Tang tỷ tỷ, ngươi phụ bạc tỷ ấy, chứ đâu có phụ bạc ta!”
Nặc Nại vội hành lễ, “Xin vương cơ tìm cách giúp tôi gặp được Vân Tang, sống chết gì tùy Vân Tang xử trí.”
“Ngươi vội gì chứ, bây giờ Vân Tang tỷ tỷ không còn hơi sức màng tới ngươi đâu!”
Nặc Nại lặng thinh không nói, chỉ ngước mắt nhìn Mộc Cận đầy vẻ khẩn cầu, ánh mắt chan chứa bi thương dằng dặc, tha thiết hơn vạn lời nài nỉ.
Mộc Cận trừng mắt lườm Nặc Nại, “Ta đưa ngươi đi một chuyến vậy.” Trước mặt nàng, Vân Tang luôn kiên cường mạnh mẽ, chưa bao giờ lộ vẻ mềm yếu, nhưng nàng hiểu trong lòng Vân Tang rất đau khổ có lẽ gã bạc tình này sẽ an ủi được Vân Tang chút nào chăng.
Trên Tiểu Nguyệt đỉnh, chỉ có tiếng gió đêm lùa qua rừng cây xao xác, như nức nở oán than.
Trong căn nhà tranh, mấy khúc ảnh mộc[2] rộ hoa đu đưa trên xà, tỏa ra ánh sáng âm u lạnh lẽo, hệt như cả bầu trời sao đang tụ về, soi sáng cỗ quan tài đặt giữa nhà, trong quan tài là một thi thể vận y phục đế vương hóa quý, nhưng không có đầu.
[2] Ảnh mộc. Theo Thập Di ký, đây là một lại cây, ban ngày một phiến lá có tới trăm chiếc bông, tối đến, hoa lại có thể phát quang, sáng như sao trời.
Vân Tang cài thoa gai, vận tang phục, ngồi quỳ trên chiếu, đang mải mê đẽo gọt một bức tượng bằng kiến mộc[3], vừa phác xong dung mạo, trông đã rất giống Du Võng.
[3] Kiến mộc: được tôn xưng là cây thần trong truyền thuyết, có thể nối thông giữa trời và đất, người và thần. Tương truyền Phục Hy, Hoàng Đế v.v… đều đi đi lại lại giữa thiên đình và nhân gian bằng chiếc thang kỳ diệu này.
Nghe tiếng chân, nàng ngừng tay khắc, trông ra cửa.
Mộc Cận dắt theo một nam tử, lẳng lặng tiến lại, nam tử kia thân hình gầy gò, nét mặt bi ai, nhưng chẳng giấu được vẻ sáng sủa tuấn tú, chính là Nặc Nại, người từng có hôn ước với Vân Tang.
Mộc Cận quay sang Nặc Nại nói nhỏ: “Vân Tang tỷ tỷ ở trong đó, ta đợi ngoài này, nếu có người tới, ta sẽ cao giọng chào hỏi, ngươi nhớ trốn ngay đi đấy.”
“Đa tạ Tứ vương cơ.”
Nặc Nại vừa ngẩng đầu đối diện với ánh mắt Vân Tang, vừa bước vào phòng, bao lời muốn nói đã ra tới đầu lưỡi, nhưng không sao thốt nổi thành câu.
Trái lại, Vân Tang chẳng hề bất ngờ trước sự xuất hiện của y, chỉ mỉm cười gật đầu, “Mời ngồi.”
Nặc Nại gập gối quỳ xuống, Vân Tang chăm chú nhìn bức tượng đang khắc, cất tiếng, “Chàng tới đúng lúc lắm, thiếp loay hoay mãi chưa khắc được mắt và mũi, chàng khéo tay như vậy, khắc giùm thiếp được không?”
Nặc Nại cầm lấy dao toan khắc, chợt phát hiện ra trải qua bao ngày đắm chìm trong rượu, tay y đã bắt đầu run, chẳng còn trầm ổn vững vàng như xưa được nữa. Càng căng thẳng muốn làm cho tốt, cánh tay y càng run lên dữ dội.
Đương lúc Nặc Nại bẽ bàng hổ thẹn khôn xiết, Vân Tang bỗng đưa tay nắm chặt lấy tay y, chẳng rõ nhờ nguồn linh lực dồi dào nàng truyền cho, hay nhờ bàn tay dịu dàng kiên định của nàng mà cánh tay y dần thôi run rẩy, chiếc mũi và đôi mắt là phần khó khắc nhất, vậy mà hai người cùng làm lại điêu khắc rất sống động, như thể Du Võng tái sinh, chăm chú nhìn bọn họ vậy.
Nặc Nại đưa mắt nhìn Vân Tang, đầy day dứt, “Vân Tang…”
“Đừng say sưa nữa.” Vân Tang dịu dàng nhìn y, ánh mắt thấu hiểu và khoan dung, chẳng bợn một tia oán trách.
Nặc Nại chợt thấy mũi cay cay, “Ừ!”
Vân Tang khẽ cười, “Thiếp hiểu lòng chàng mà, tình hình Thần Nông hiện giờ không tiện giữ khách lại, chàng về đi thôi!”
“Thế còn nàng? Nàng định thế nào?”
“Thiếp ư? Thiếp là Trưởng vương cơ của Thần Nông, Thần Nông quốc ở đâu, thiếp ở đó.” Đôi vai Vân Tang gầy guộc mỏng manh, nhưng giọng điệu lại vô cùng kiên quyết.
Nặc Nại liền nắm chặt lấy tay nàng, “Theo ta đi! Nàng còn nhớ bóng nước dưới Ao Đột quán không? Ta không làm Nạc Nại, nàng cũng đừng làm Vân Tang nữa, hai ta không cần thân phận, địa vị, không cần gì hết, chỉ sống đúng với bản thân mình thôi được không? Thiên hạ rộng lớn, thế nào cũng có nơi dành cho hai chúng ta!”
Vân Tang đăm đăm nhìn Nặc Nại, lệ dâng lên trong mắt, hồi lâu mới đáp: “Nghe tin Băng Nguyệt treo cổ tự tử giữa cổng thành, thiếp đã biết Nặc Nại Đại tướng quân của Cao Tân Hy Hòa bộ chẳng thể nào kết hôn với một vương cơ dị tộc như thiếp được nữa! Nhưng thiếp nghĩ nam tử từng thiết kế Ao Đột quán nhất định sẽ nhìn thấu mọi chuyện, nhận định rõ tình cảm của mình, sớm muộn gì cũng tới tìm thiếp. Thiếp đã đợi y hết ngày này sang tháng khác, đợi suốt ngày dài đêm thâu, đợi y tới tìm thiếp, nói với thiếp rằng, ‘Nặc Nại không thể cưới Vân Tang, nhưng ta đã đến đây, nàng có bằng lòng từ bỏ mọi thứ, mặc kệ điều tiếng, bỏ đi cùng ta chăng?’, thiếp sẽ nắm chặt lấy tay y, trả lời, ‘Cứ để người đời phỉ nhổ Nặc Nại và Vân Tang đi!’, rồi theo y tới chân trời góc bể. Thiếp đợi ngày lại ngày, đêm lại đêm, đợi đến nỗi đáy mắt và cõi lòng đều hoang hoải cỏ, nhưng chàng mãi không thấy tới!”
Vẻ mặt Nặc Nại đầy thê lương, y sợ hễ mở mắt lại trông thấy thi thể Băng Nguyệt, sợ đối diện với nước mắt Vân Tang, nên suốt ngày đêm chỉ chìm trong rượu, còn lo rượu chẳng đủ say người, bèn kiếm cả Ngọc Hồng thảo[4] tửu chuốc cho mình túy lúy. Mãi tới khi nghe tin Du Võng từ trần, y mới sực tỉnh.
[4] Ngọc Hồng thảo (cỏ Ngọc Hồng), trong Thi từ viết “Côn Luân có loài cỏ gọi là Ngọc Hồng, hễ ai ăn vào sẽ say khướt, ngủ luôn ba trăm năm mới tỉnh lại.”
Y siết chặt tay Vân Tang, “Vân Tang, ta đã đến rồi đây!”
Vân Tang thảm đạm rút tay lại, chăm chú nhìn pho tượng Du Võng, nước mắt từ khóe mi tràn ra, lăn xuống gò má, “Muộn mất rồi!”
Gương mặt buồn bã của Nặc Nại ánh lên vẻ kiên quyết, “Ta sẽ dựng một Ao Đột quán khác cho nàng, chỉ cần núi chưa mòn, sông chưa cạn thì chưa bao giờ muộn cả!”
“Giờ đây thiếp là Trưởng vương cơ của Thần Nông, là chỗ dựa của muôn dân trăm họ, thiếp không thể theo một tướng quân Cao Tân bội tín bạc nghĩa được.”
Nặc Nại khẩn thiết, “Vân Tang, nàng quên mình từng thề độc nếu còn can dự triều chính sẽ chết không toàn thây ư?”
Vân Tang mỉm cười nhìn Nặc Nại, mắt lệ nhòa mi, long lanh như trân châu dưới ánh sáng ảnh mộc lạnh lẽo, xói vào mắt Nặc Nại đau nhói, “Thiếp còn nhiều việc phải xử lý, Tướng quân về đi!”
Nặc Nại đăm đăm nhìn Vân Tang – người con gái mà mình vừa yêu vừa trọng, ánh mắt quyến luyến không nỡ rời, nhưng trong lòng lại rõ hơn ai hết, y chẳng thể nào có lại nàng được nữa, y đã đến muộn mất rồi!
“Vân Tang, nàng đừng…”
“Chàng cứ yên tâm, thiếp biết tự bảo trọng mà, trên Thần Nông sơn có cha mẹ và các em thiếp, dưới Thần Nông sơn còn có muôn dân của thiếp, thiếp nhất định sẽ bảo trọng.” Dứt lời, Vân Tang quay ngoắt đi, không nhìn Nặc Nại, chỉ chăm chú ngắm pho tượng Du Võng, cao giọng gọi, “Mộc Cận, muội đưa Tướng quân xuống núi đi!”
Mộc Cận bước vào xốc Nặc Nại dậy, vừa kéo vừa đẩy y ra khỏi cửa, hậm hực, “Tính tình vương cơ ra sao, Tướng quân ắt phải hiểu hơn ai hết, chỉ cần ngươi đưa tay ra, tỷ ấy sẽ vứt bỏ tất cả, theo ngươi tới chân trời góc bể. Nhưng tỷ ấy đợi suốt ngày dài đêm thâu, ngươi lại hèn nhát mượn rượu giải sầu, say sưa túy lúy, khiến tỷ ấy tan nát cả cõi lòng. Ngươi thật không xứng với Vân Tang tỷ tỷ! Giờ đây…” Mộc Cận rơm rớm nước mắt, “Nếu ngươi thật lòng quan tâm tới Vân Tang thì đừng quấy rầy tỷ ấy nữa!”
Nặc Nại loạng choạng leo xuống Thần Nông sơn, giữa đêm đen thăm thẳm, y chợt nghe văng vẳng tiếng đàn thê lương ai oán, là Vân Tang tấu khúc đàn dẫn đường cho Du Võng, hy vọng em trai bị chặt đầu có thể theo tiếng đàn mà yên nghỉ: hồn về, hồn về đây đi!
Nặc Nại ngẩn ngơ bay về phía Cao Tân, lòng thầm tự hỏi, chẳng rõ còn ai vì y mà tấu một khúc đàn, dẫn đường cho y tìm được nơi yên nghỉ hay chăng?
Về đến nhà, Nặc Nại bước vào phòng, trông thấy cây ngô đồng cầm mà mình làm cho Vân Tang đã phủi đầy bụi bặm.
Sớm sớm chiều chiều Vân Tang từng đàn cho y nghe chẳng biết bao lần, trong phòng tựa hồ còn văng vẳng giọng nói tiếng cười của nàng, ngoài hiên vẫn như thấp thóang dáng kiều hương tóc.
Nặc Nại khẽ vuốt ve dây đàn, cây đàn ngân lên tinh tang mấy tiếng, lạc lõng rơi vào thinh không.
Mấy kẻ hầu bưng vò rượu tiến vào, ngửi thấy hơi rượu, Nặc Nại tiện tay cầm lấy, nhưng vừa đưa lên miệng, y sực nhớ tới lời Vân Tang, liền quăng luôn ra ngoài cửa sổ, rồi mặc cho đám người hầu sợ hãi quỳ sụp cả xuống, y loạng choạng ném tất cả các vò rượu trong tay họ ra ngoài vỡ tan, “Đập hết các vò rượu trong phủ đi, đập hết!”
Đám người hầu lập cập dạ vâng, cuống quýt luồn ra cửa chạy thẳng, đúng lúc Thiếu Hạo bước vào phòng, thấy vò rượu vỡ ngổn ngang đầy đất, “Cuối cùng ngươi cũng tỉnh.”
Nặc Nại ngồi xuống, đầu cúi gục, “Nhưng muộn mất rồi.”
Thiếu Hạo ngồi đối diện với Nặc Nại, thấy ngón tay y không ngừng mân mê hàng chữ nhỏ khắc trên cây đàn – mây soi hồ Ao Tinh, dâu biếc non Đột Bích – hàng chữ ấy chẳng những có tên Vân Tang lồng vào mà còn ám chỉ tình cảnh lần đầu tiên họ gặp nhau, hơn nữa là mượn hình ảnh mày soi hồ, dâu biếc núi bày tỏ tình cảm của y đối với nàng.
Thiếu Hạo thở dài tiếc nuối, “Nặc Nại từng khiến ta ngả mũ khâm phục trước tài hoa phẩm mạo đâu rồi?”
Nặc Nại bất động, chỉ thuận miệng đáp, “Nặc Nại đã phụ lòng kỳ vọng của điện hạ.”
“Ngươi thông minh mẫn tuệ, có từng nghĩ vì sao Hoàng Đế giết được Du Võng như bỡn vậy không?”
Câu hỏi này rốt cuộc cũng lôi kéo được sự chú ý của Nặc Nại, y ngẩng mặt nhìn Thiếu Hạo, vừa ngẫm ngợi vừa đáp: “Hoàng Đế tự tay giết chết Du Võng có thể khích lệ sĩ khí Hiên Viên tăng vọt, đập tan ý chí chiến đấu của Thần Nông, nhưng nếu không nắm rõ nơi ở của Du Võng cùng lực lượng thị vệ quanh y thì không đáng đích thân mạo hiểm hành thích.”
“Hoàng Đế là người rất thận trọng, một khi đã hành động là phải thành công, e rằng cả việc Du Võng ngự giá thân chinh cũng nằm trong kế hoạch của ông ta, mục đích là để ám sát Du Võng.”
Nặc Nại dần đanh mặt lại, “Trong Thần Nông quốc có một tên nội gián địa vị rất cao!”
Thấy Thiếu Hạo gật đầu tán đồng, ánh mắt Nặc Nại chợt hoang mang lo lắng, chẳng rõ Vân Tang đã biết chưa?
“Nặc Nại, ta có một chuyện muốn nhờ ngươi, việc này chẳng những lợi cho Thần Nông, mà còn lợi cả cho Cao Tân nữa.”
“Thần ngu độn, không nghĩ ra việc gì vừa có lợi cho Thần Nông, lại vừa có lợi cho Cao Tân cả.”
“Ta cứ nghĩ Thần Nông quốc lực hùng hậu, Hiên Viên và Thần Nông ắt phải giao chiến khá lâu mới phân thắng bại, ta sẽ có nhiều thời gian cải cách chấn chỉnh Cao Tân. Dù Hiên Viên đánh bại Thần Nông, hẳn cũng hao binh tổn tướng, suy kiệt nguyên khí, tới lúc đó ta có thể ung dung đối phó với Hoàng Đế. Ngờ đâu Hoàng Đế trong ứng ngoài hợp, đưa ra diệu kế này, vừa cất tay đã phá tan đại quân Thần Nông. Nếu ông ta tiêu diệt Thần Nông xuôi chèo mát mái thì Cao Tân sẽ trở thành miếng mồi ngon kế tiếp, chẳng mấy chốc mà máu đổ thành sông, tiếng than dậy đất, mấy chuyện tranh chấp giữa ta và Yến Long, Trung Dung cùng Cao Tân tứ bộ không bằng ngón tay so với cuộc chiến này đâu.”
Ánh mắt Nặc Nại lộ vẻ kiên quyết, y nghiêm trang đáp, “Bệ hạ đâu phải như Du Võng, chúng tướng sĩ nhất định không để lại đại quân Hiên Viên tiến vào Cao Tân một bước!”
Nhận thấy nam tử trung dũng một lòng khi xưa đã trở về trong Nặc Nại, Thiếu Hạo tươi cười gật đầu, “Ta cần thời gian để củng cố ngai vàng, cải cách Cao Tân, huấn luyện quân đội!”
“Phải làm sao mới tranh thủ được thời gian?”
“Hoàng đế chinh phục Thần Nông chậm ngày nào, Cao Tân sẽ được an toàn thêm ngày đó.”
Nặc Nại dần hiểu ra, “Cao Tân là đông minh của Hiên Viên, không tiện công khai hỗ trợ Thần Nông, nhưng cứ âm thầm giúp đỡ, đại quân Thần Nông càng mạnh thì Hoàng Đế càng bị uy hiếp, Cao Tân chúng ta cũng càng được lợi.”
“Đúng! Đây chính là việc có lợi cho cả Thần Nông lẫn Cao Tân mà ta nói đó.”
Nặc Nại biết Thiếu Hạo rất thâm trầm, nói câu này ắt hẳn có dụng ý, y trầm ngâm nghĩ ngợi giây lát rồi quỳ xuống trước mặt Thiếu Hạo, “Thần nguyện làm tất cả mọi việc bệ hạ giao phó!”
Thiếu Hạo nói: “Đáng ra, ngươi xuất thân cao quý, không nên đảm đương việc này, nhưng những kẻ có dũng khí thì lại kém cơ biến, được cơ biến thì lại chẳng trung thành, đủ trung thành thì kém cỏi bất tài, nghĩ đi nghĩ lại chỉ có mình ngươi là phù hợp, có điều, như vậy ngươi phải hy sinh nhiều quá.”
Nặc Nại đáp, “Bệ hạ hiểu lòng thần đối với Vân Tang mà, nếu chẳng phải là tướng lĩnh Cao Tân, lại chịu ân sâu của bệ hạ, thần chỉ muốn đầu quân Thần Nông, lập tức ra chiến trường đẩy lùi Hiên Viên, bảo vệ Vân Tang thôi. Giờ đây khó khăn lắm mới tìm được cơ hội, vừa vẹn toàn tình được tình cảm của thần dành cho Vân Tang, lại vừa đáp đền được ơn nước, dù phải hy sinh thứ gì, thần cũng cam tâm tình nguyện.”
“Chuyện này chỉ có thể âm thầm tiến hành, trừ ta và ngươi, không kẻ nào được biết cả, dù ngươi trợ giúp Vân Tang, nàng ta cũng chẳng biết ngươi là Nặc Nại đâu.”
Nặc Nại cười thê lương, “Thần hiểu, nếu thần tiết lộ thân phận, chẳng những hại đến Vân Tang, mà còn hại cả Cao Tân nữa.”
“Dù phải hy sinh bất cứ thứ gì, ngươi cũng bằng lòng ư?”
“Chết cũng không hối!”
“Được lắm, việc đầu tiên ta muốn ngươi làm là cứ tiếp tục say sưa túy lúy tối ngày. Việc thứ hai…” Thiếu Hạo cầm cây đàn lên. “Ta muốn ngươi nhân lúc say khướt, đập nát cây đàn này dưới cổng thành Băng Nguyệt treo cổ tự sát, trước mặt mọi người.”
Nặc Nại bàng hoàng nhìn cây đàn, hối lâu không đáp.
Thiếu Hạo lạnh lùng hỏi, “Ngươi say đập đàn, cũng có nghĩa là cắt đứt sợi tơ tình cuối cùng giữa ngươi và Vân Tang, khiến nàng ta triệt để lãng quên ngươi, ngươi có chấp nhận hy sinh không?”
Nặc Nại ra sức dập đầu, “Thần chấp nhận.”
Full | Lùi trang 11 | Tiếp trang 13
Chúc các bạn online vui vẻ !