Insane
Tiểu thuyết tình yêu

Tiểu Thuyết Tình Yêu

Đọc truyện tại Tiểu Thuyết Tình Yêu

Loading...

Truyện ngôn tình cổ đại - Từng thề ước - Trang 14

Full | Lùi trang 13 | Tiếp trang 15

Chương 10: Đa tình chỉ chuốc lấy hận sầu[1]


Đáp lại hắn chỉ có căn nhà sàn vắng ngắt, mảnh trúc đứt đoạn cái ngắn cái dài, rèm sa đầy những phân chim, vườn rau um tùm cỏ dại, nếu chẳng thấy bờ đất đắp bằng đá xanh, e rằng không thể nhận ra đây là một mảnh vườn rau. Giậu trúc lưa thưa đã xiêu đổ quá nửa, mấy đóa tường vi đỏ thắm mọc tràn lan, lấp cả lối đi.

Chỉ còn chiếc chuông gió dưới mái hiên ngân lên từng tràng đinh đang thê thiết.


[1] Câu thơ trích trong tiểu thuyết Hoa nguyệt của Hoàng Tử An, thời nhà Thanh, (ND)

Đợi suốt đêm chẳng thấy A Hành, Xương Ý đang phát hoảng lên vì lo sợ thì bắt gặp nàng quay lại, y thở phào nhẹ nhõm, khẽ trách: “Muội chạy đi đâu thế? Làm ta đợi mãi.”

A Hành cúi đầu làm thinh, vừa lúc đó, Di Bành tươi cười bước vào: “Phải rồi, có tin này chẳng hay Tứ ca đã biết chưa, Xi Vưu vẫn còn sống sờ sờ.”

Xương Ý kinh ngạc quay sang A Hành: “Thật ư?”

Di Bành cướp lời đáp: “Hôm qua, rất nhiều người trông thấy Xi Vưu đứng trên Trạch Châu thành, chẳng phải hôm qua tiểu muội cũng tới Trạch Châu ư? Lẽ nào không thấy hắn?”

Xương Ý trừng mắt nhìn A Hành đầy đau xót rồi đột ngột quay lưng đi thẳng.

A Hành căm hận lườm Di Bành, đoạn vội vã đuổi theo Xương Ý.

“Tứ ca, Tứ ca…”

Xương Ý đanh mặt lại, bỏ ngoài tai tiếng gọi của nàng, đi thẳng vào phòng, quay mình toan đóng cửa nhưng A Hành đã nhanh tay đẩy cửa ra lách người vào. Xương Ý ngồi bịch xuống trước bàn, mắt nhìn mũi, mũi nhìn ngực, như đang nhập định. Mặc A Hành cười xí xóa, huyên thuyên hết chuyện này sang chuyện khác, y vẫn lặng yên.

“Tứ ca, huynh nói gì đi chứ.”

Xương Ý làm thinh, không trách cứ một lời khiến A Hành thấy lòng đau đớn như dao cắt. Từ nhỏ đến lớn, Tứ ca luôn chiều theo ý nàng, bất kể nàng bày trò gì, gây ra họa lớn đến đâu, y cũng chỉ lắc đầu cười khổ: “Ai bảo muội là muội muội của ta chứ.”

A Hành vội lắc lắc tay Xương Ý, rơm rớm nước mắt khẩn cầu: “Tứ ca, huynh cứ đánh cứ mắng muội đi, đừng bỏ mặc muội như thế này, muội chỉ còn một ca ca là huynh thôi mà.”

Xương Ý nghẹn ngào nói: “Ta chẳng còn vị ca ca nào nữa cả, muội quên Đại ca đã chết thế nào rồi ư?”

A Hành run lên bần bật, khẽ đáp: “Muội không quên đâu!”

“Vậy đêm qua muội đi đâu?”

Gương mặt A Hành lộ vẻ bi thương, nàng lặng thinh không nói.

Xương Ý gằn giọng: “A Hành, cả đời này, ta sẽ không tha thứ cho Xi Vưu đâu!”

A Hành gục đầu xuống, buồn thảm đáp: “Muội biết chứ, muội đã nói rõ với chàng rồi, từ nay về sau, muội sẽ không gặp lại chàng nữa.”

Nghe nàng nói vậy, cơn giận của Xương Ý nguôi dần, thay vào đó là bi ai khôn xiết. Y chẳng muốn bức bách em gái, nhưng cũng không thể chấp nhận để em gái mình ở bên kẻ thù giết Đại ca.

Đột nhiên, Bán Hạ ở ngoài gõ gõ vào song cửa gọi: “Vương cơ.”

A Hành gắng lấy lại bình tĩnh, hé cửa sổ ra, “Gì thế?”

Bán Hạ ghé tai nàng thì thầm mấy câu, A Hành gật đầu rồi quay lại bảo Xương Ý: “Tứ ca, huynh dắt Liệt Dương đi tìm Di Bành, cầm chân hắn dùm muội, muội ra ngoài có chút việc.”

Thấy A Hành lộ vẻ căng thẳng, hơn nữa Bán Hạ là thân tín do Đại ca đích thân huấn luyện, Xương Ý liền đứng dậy: “Muội đi đi, Di Bành cứ giao cho ta và Liệt Dương.”

Bán Hạ dẫn A Hành ra khỏi dịch quán, đi thẳng vào rừng, vừa đến nơi, một nữ tử áo trắng nấp trong bóng tối lập tức bước tới đón nàng, chính là Vân Tang mấy hôm nay không gặp.

A Hành tinh ý, thấy cổ tay Vân Tang hằn lên vết dây trói, vội kinh hoàng hỏi: “Xảy ra chuyện gì thế, kẻ nào to gan dám trói tỷ vậy?”

Vân Tang buồn bã: “Di Bành và Hậu Thổ đều muốn ngăn Thanh Dương kết hôn với ta. Di Bành bày kế cho Hậu Thổ, chỉ cần bắt giam ta mười ngày, hắn sẽ có cách khiến Hoàng Đế thay đổi chủ ý, Hậu Thổ nghe lời, bèn trói ta nhốt lại. Hôm qua, nhân lúc hắn tất tả ra ngoài, ta liền bỏ trốn, về sau mới nghe nói hắn đi giúp Xi Vưu ngăn lũ. Bao năm nay hắn tranh giành binh quyền với Xi Vưu, thế như nước lửa, vậy mà lần này lại ra tay tương trợ Xi Vưu, không so đo chuyện cũ, xem ra dù hắn hồ đồ chuyện nhỏ, nhưng việc lớn vẫn chu toàn.”

“Di Bành ngăn cản việc kết thông gia vì là căm hận bọn muội, sao Hậu Thổ lại giúp hắn?”

Vân Tang luôn canh cánh mối hận Hiên Viên suýt nữa nhấn chìm Trạch Châu, liền lạnh lùng châm chọc: “Muội sợ Hậu Thổ đầu quân cho Di Bành, đối địch với muội ư? Gã vẫn hàm ơn muội đã bảo vệ mình hồi nhỏ, lại ghét Di Bành nham hiểm tàn độc, nhất định không về phe Di Bành đâu, lần này chúng lợi dụng lẫn nhau đấy thôi.”

“Muội, muội… Hậu Thổ đệ ấy…”

“Đây là chuyện riêng của Thần Nông tộc chúng ta, muội thân là vương cơ Hiên Viên, chớ nên hỏi nhiều.”

Nghe Vân Tang nói, A Hành chợt thấy nghẹn ngào chua xót. Chiến tranh đã đập nát mọi thứ, bao gồm cả tình nghĩa giữa nàng và Vân Tang.

Nhìn nét mặt A Hành, lại hồi tưởng tình thân thuở trước, lòng Vân Tang cũng quặn thắt bi thương, nhưng chẳng biết nói gì, đành kiếm chủ để khác để xoa dịu: “Xi Vưu vẫn còn sống, chúc mừng muội muội.”

A Hành hiểu tâm ý Vân Tang, lòng cũng vơi bớt đôi phần, cười đáp: “Muội cũng chúc mừng tỷ tỷ.”

Vân Tang gật đầu cười, “Mộc Cận đúng là trẻ con, nghe nói Xi Vưu vẫn còn sống bèn tức tốc chạy đến Trạch Châu nhưng không gặp, bèn tức tối báo với ta rằng Xi Vưu trọng thương, bị một yêu nữ đưa đi, đòi ta phái thêm người giúp muội ấy truy tìm yêu nữ kia.” Vân Tang thở dài, “Chắc muội cũng nhận ra Mộc Cận trước giờ nhất mực rất si tình với Xi Vưu, nhưng Xi Vưu chỉ dửng dưng. Muội ấy không biết chuyện giữa Xi Vưu và muội, lỡ như có gì mạo phạm, muội cũng đừng đa nghi ngờ vực Xi Vưu, nên thông cảm cho hắn một chút.”

A Hành khẽ nói: “Muội và Xi Vưu không thể sống bên nhau được, từ nay về sau, muội là muội, hắn là hắn.”

Vân Tang lặng người đi, cuộc chiến này đã xoay chuyển vận mệnh thiên hạ, cũng thay đổi luôn số phận của họ. Lát sau, nàng lại hỏi: “Giờ Xi Vưu đang ở đâu? Thương thế của hắn bao lâu nữa mới lành?”

“Muội đã nhờ Tiêu Dao đưa hắn tới nơi an toàn để dưỡng thương rồi. Đường lối tu luyện của Xi Vưu rất quái dị, có lẽ dăm ba năm là khỏi thôi.”

Vân Tang trầm tư hồi lâu, đoạn nói: “Muội lập tức triệu tập chư hầu Thần Nông về đỉnh Tử Kim đi, ta sẽ tuyên bố nhận lời gả cho Thanh Dương.”

“Tỷ nghĩ kỹ rồi chứ?”

“Đại quân Hiên Viên vẫn đóng ngoài Trạch Châu thành, nếu đổi lại là muội, muội có thể cự tuyệt yêu cầu của Hoàng Đế chăng? Hai chúng ta đều hiểu Hoàng Đế muốn kết thông gia nhằm tạo cầu nối, tiến tới thu phục các bộ tộc Thần Nông dễ dàng hơn, ta cũng nhận lời gả cho Thanh Dương để đổi lấy hòa bình tạm thời, tranh thủ thời gian cho Xi Vưu thôi.”

A Hành trầm ngâm giây lát: “Muội sẽ đi thông báo với Tứ ca, lập tức triệu tập chư hầu Thần Nông.”

“Muội thưa lại với Hoàng Đế, tuy ta chấp nhận hôn sự, nhưng còn phải để tang mấy năm cho Du Võng, mong Hoàng Đế hãy tôn trọng lễ tiết Thần Nông.”

“Được!”

Khi A Hành và Vân Tang đến Tử Kim thành, Xương Ý và chư hầu các bên đã tề tựu đông đủ.

Vân Tang cười nhạt bảo A Hành: “Dạo trước mời mọc gãy lưỡi nào thấy mấy tên này đến, hôm nay Hiên Viên vừa hô một tiếng đã có mặt đông đủ. Thần Nông khó khăn lắm mới thắng được một trận, vậy mà chúng càng lúc càng chịu khó khom lưng uốn gối, chỉ nơm nớp sợ Hoàng Đế trút giận lên đầu thôi.”

A Hành cúi đầu nói nhỏ: “Đây là chuyện của Hiên Viên và Thần Nông, vương phi Cao Tân như muội không vào thì hơn.”

Vân Tang gật đầu với nàng, đoạn tiến thẳng vào đại điện.

Nghe tiếng, hết thảy mọi ánh mắt trong điện đều dồn về phía Vân Tang, chỉ thấy nàng mặc váy trắng, đứng ngay cửa điện, dáng như cây ngọc, anh khí bất phàm.

Bị phong thái của nàng chấn nhiếp, mọi người không hẹn mà lần lượt đứng cả dậy.

Đột nhiên, Vân Tang nhớ lại lần đầu tiên bước vào tòa đại điện này thuở nhỏ, nàng đã chỉ lên ngọc đài, nơi đặt vương tọa, hỏi phụ vương: “Sao thị vệ không cho con lên đó chơi?”

Phụ vương đáp: “Người đứng trên đó phải gánh vác mọi vui buồn hờn giận của muôn dân thiên hạ, con còn quá nhỏ, gánh không nổi đâu.”

“Vậy chừng nào con lớn, đủ sức gánh vác, có thể đứng trên đó ư?”

Phụ vương khẽ búng mũi nàng, cười xòa: “Tốt hơn hết là đừng bao giờ có ngày đó.”

Vân Tang nghiêm trang bước qua khung cửa cao cao, tiến vào đại điện, gót sen hương vướng, gió động màn là khiến khắp điện sực lên ngan ngát.

Nàng lướt qua bấy nhiêu chư hầu đang ngây ngẩn, bước tới trước ngọc đài, ngẩng đầu nhìn lên vương tọa bỏ không, như thể trông thấy phụ vương ngồi đó mỉm cười nhìn mình. Mãi đến hôm nay, nàng mới hiểu được nỗi bi ai lặn sâu trong mắt phụ vương.

Vân Tang nhắm nghiền mắt, hít một hơi thật sâu rồi bước lên ngọc đài, mỉm cười quay lại.

“Vương cơ!” Hậu Thổ từ trên không nhảy xuống, lao thẳng vào điện.

Vân Tang đưa mắt nhìn đám người bên dưới, phớt lờ tiếng gọi của Hậu Thổ, cao giọng tuyên bố: “Thần Nông Vân Tang ta bằng lòng kết hôn với Hiên Viên Thanh Dương.”

Tiếng hoan hô chúc mừng lập tức dậy lên khắp điện đài, át hẳn tiếng gọi tha thiết của Hậu Thổ.

Chỉ một câu, là dâu bể đổi dời, cỏ hoa tàn tạ.

Hậu Thổ đờ người giữa đại điện, mặt như tro tàn, hai mắt trừng trừng dán chặt vào Vân Tang.Vì sao? Vì sao nàng không tin ta có thể bảo vệ trăm họ Thần Nông? Vì sao nàng không để ta đem lại yên bình cho nàng?

Vân Tang một mực mỉm cười nhìn gã, vẻ kiên quyết lộ ra ánh mắt. Ta là Trưởng vương cơ Thần Nông, đây là trách nhiệm của ta! Ta có việc của ta, ngươi cũng có việc của ngươi!

Giữa tiếng cười nói chúc tụng, giữa trùng trùng nhân ảnh, giữa đại đại điện chói lọi vàng son, lung linh châu ngọc… Hậu Thổ khó nhọc quay mình, lết tấm thân đờ dại xuyên qua đám người huyên náo, ra khỏi đại điện.

Hóa xà đã đợi sẵn một bên nhưng gã nhìn mà như không thấy, chỉ men theo thềm điện, lê bước chân cứng ngắc xuống núi.

Bóng Hậu Thổ nhỏ dần nhỏ dần rồi từ từ khuất sau những bậc thềm quanh co ngoắt ngoéo.

Vân Tang đứng giữa thềm ngọc cao cao, đăm đăm trông ra ngoài điện, nụ cười tươi tắn vẫn nguyên vẹn trên môi, eo lưng thẳng tắp.

Vừa về đến Hiên Viên thành, Xương Ý và A Hành đã bị vây chặt giữa đám quần thần tới chúc tụng. Đám đông xúm quanh Xương Ý cười cười nói nói, hàn huyên trò chuyện xôn xao, chỉ có độc Di Bành lẻ loi lút cút đi sau.

Biết ý Hoàng Đế không vui về chuyện ở Trạch Châu, mọi người cũng lợt lạt hẳn đi với Di Bành. Khi trước, hắn chiến công hiển hách, được Hoàng Đế trọng thưởng liên tiếp nên đám triều thần nhất mực vây quanh bợ đỡ, có điều giờ đây gió đã đổi chiều, bao vinh quang xưa đều trở thành quá khứ.

A Hành lẳng lặng quan sát Di Bành nhưng chẳng bao lâu hắn đã phát hiện ra, bèn quay lại cười nhạt với nàng, ánh mắt đầy giễu cợt.

A Hành chợt thấy rùng mình, nàng và Di Bành đều biết, Hoàng Đế làm bộ khiển trách Di Bành như vậy, nhưng thực tế chẳng hề trừng phạt nặng nề gì, mọi thứ mới chỉ bắt đầu mà thôi!

Hoàng Đế ban thưởng cho Xương Ý thật hậu. Đợi hoàn tất mọi lễ tiết, quần thần đều đã cáo lui, chỉ còn lại mấy người bọn họ, Hoàng Đế bèn phán bảo A Hành: “Ta vốn muốn giữ con lại chăm lo cho mẫu hậu một thời gian nữa, nhưng Thiếu Hạo đã phái sứ thần tới đón con về, ta cũng không tiện níu kéo. Hơn nữa, Thanh Dương vẫn phải ở Quy khư bế quan trị thương, con về Cao Tân, nó cũng có người săn sóc.”

A Hành vội dập đầu từ biệt Hoàng Đế: “Con phải về thôi, lần này đi lâu như vậy, cũng là Thiếu Hạo phá lệ đặc cách rồi.”

Hoàng Đế bèn đỡ A Hành dậy, ôn tồn nói: “Con cùng Thiếu Hạo quả là trắc trở, thành hôn chưa lâu thì xảy ra chuyện ở Ngu uyên, con vừa khá lên lại tới lượt Thanh Dương trọng thương, đến giờ mới được sóng yên biển lặng. Con nên về bên Thiếu Hạo, sớm sinh cho nó một đứa con, bằng không dù ta muốn giúp con giành ngôi vương hậu cũng lực bất tòng tâm.”

A Hành dịu dàng đáp: “Phụ vương dạy rất phải.”

Hoàng Đế thở dài: “Con nha đầu này càng lớn càng hay nói dối, con tưởng ta không biết con nghĩ gì hả, con ngỡ ta thèm muốn vương vị Cao Tân chứ gì? Ta là vua một nước, quyền mưu đủ cả, nhưng Hành nhi à, ta cũng là cha con, ta làm vậy là nghĩ cho con thôi.” Nói rồi ông xoa đầu nàng, “Tuấn Đế đời trước vẫn sống sờ sờ trên Ngũ Thần sơn, vương vị của Thiếu Hạo còn chưa ổn định, nó ắt sẽ phải cầu đến sự hỗ trợ của các bộ tộc Cao Tân, mà nạp phi là phương pháp đơn giản hữu hiệu nhất, con không thể là người đàn bà duy nhất của nó được, nếu có sự gì, phụ vương nước xa chẳng cứu được lửa gần, chỉ có đứa nhỏ là chỗ dựa lâu dài của con thôi.”

A Hành làm thinh không nói, chỉ mím chặt môi, lộ vẻ quật cường. Hoàng Đế chăm chú nhìn nàng, đột nhiên thấy mệt mỏi vô chừng, bèn xua tay bảo: “Con mau về Triêu Vân phong với mẹ đi, để bà ấy…” Hoàng Đế trầm ngâm, lưỡng lự hoài không nói tiếp, như chẳng hề nhận thấy mình ngập ngừng đã quá lâu, mãi tới khi A Hành ngước lên dò hỏi, ông mới sực tỉnh: “Khuyên bà ấy nên bảo trọng lấy mình.”

“Vâng!”A Hành dập đầu lặng lẽ lui ra.

Sớm hôm sau, A Hành từ biệt mẹ và anh trai, trở về Cao Tân.

Về tới Thừa Ân cung, trời đã ngả chiều, đám cung nữ ra đón nàng thưa: “Bệ hạ đang bận nghị sự, dặn vương phi cứ dùng cơm trước, đừng đợi ngài.”

A Hành gật đầu, đi thẳng vào tẩm cung.

Dọc đường nàng đi san sát đình đài lầu gác, rường cột chạm trổ, tùng bách xanh um tươi tốt, kỳ hoa dị thảo ngan ngát hương đưa, lối trúc bờ sen lại thông thẳng tới một vòm trời khác. A Hành chưa thấy cung điện nào lộng lẫy hơn Thừa Ân cung, chắc hẳn người đời đều cho rằng chủ nhân nơi này rất xa hoa giàu có, nhưng A Hành nghĩ có lẽ Thiếu Hạo cũng chẳng biết bên trong Thừa Ân cung có những gì, bởi cuộc sống của y chỉ gói gọn giữa tẩm cung và chính điện.

A Hành dùng bữa xong, rửa mặt chải đầu tề chỉnh mà Thiếu Hạo vẫn chưa về. Nàng một mình ngồi đợi cũng chán, nhân lúc trăng sáng, bèn ra ngoài tản bộ.

A Hành chẳng mấy thông thạo đường sá, vô tình lại lạc bước tới một khu vườn quen thuộc – chính là Y Thanh viên mà Tuấn Đế yêu thích nhất.Có lẽ Thiếu Hạo chẳng bao giờ lai vãng tới đây, cũng chẳng có phi tần nào qua lại du ngoạn, nên đám cung nhân lười biếng cũng để mặc cho cỏ dại mọc đầy, che kín cả lối đi.

A Hành thả bộ men theo dòng nước quanh co, dưới ánh trăng, rặng trúc bên bờ xanh ngắt một màu, đu đưa trước gió, phất phơ xào xạc, khiến nàng không khỏi chạnh lòng tự hỏi, vị công tử phong lưu nằm dài bên bờ nước, gối đầu lên đá đọc sách giờ đang làm gì? Nếu ông còn ở đây, trước cảnh trăng thanh gió mát thế này, hẳn sẽ thả bước dưới trăng, tay cầm ống tiêu, vừa đi vừa ngâm vịnh dưới bóng trúc nghiêng nghiêng xanh mướt.

“Nàng nghĩ gì thế? Ta vừa đến đã thấy nàng đứng ngây ra đó rồi.” Thiếu Hạo vận bạch y, đạp lên ánh trăng mà đến, đứng ngay cạnh tảng đá xanh bên bờ nước.Y dáng dấp thanh nhã, lại thêm bóng trúc tầng tầng lớp lớp dập dờn xao động sau lưng, thoạt trông chẳng khác nào người đó.

A Hành lặng lẽ thở dài không đáp.

Giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng nước chảy róc rách hòa cùng tiếng lá trúc xào xạc, hệt như một khúc nhạc du dương bất tận.

Thiếu Hạo cúi đầu nhìn bóng trăng lấp loáng trên mặt nước, ánh mắt chợt mông lung, “Lâu lắm rồi, ta chẳng có lúc nào bình tâm lắng nghe tiếng nước chảy cả.”

A Hành nghiêng mình ngồi xuống tảng đá bên bờ, “Thiếp chưa kịp hỏi ý kiến chàng về việc kết thông gia giữa Hiên Viên và Thần Nông đã tự tiện đưa ra quyết định mất rồi.”

“Nàng làm đúng lắm, Hoàng Đế muốn thu phục Thần Nông, phải vận dụng cả cứng lẫn mềm, chuyện kết thông gia là đương nhiên thôi, nếu không phải Thanh Dương thì là Di Bành, không phải sống thì là chết, chỉ có một con đường, chúng ta không đi không được.”

“Phụ vương nói hiện giờ chàng đang lâm vào tình thế khó khăn, tốt nhất là dựa vào việc sách phong phi tần để chia rẽ và lôi kéo các gia tộc, chàng đã chọn được ai vừa ý chưa?”

Thiếu Hạo trân trân nhìn A Hành hồi lâu, đoạn cúi đầu hờ hững đáp: “Thân làm đế vương, còn mơ mộng tư tình viển vông sao được. Phụ vương ta một đời ôn nhu đa tình, khiến hai chị em Thường Hy thị thao túng hậu cung, ảnh hưởng cả tới triều chính. Hoàng Đế anh minh thần võ, nhưng cứ dùng dằng mãi không giải quyết được chuyện giữa mẫu hậu nàng và Đồng Ngư thị, đến nỗi tranh đấu hậu cung suýt biến thành mối họa thiên hạ. Thấy bao nhiêu vết xe đổ đó, ta nào dám có tình cảm với ai nữa chứ?”

A Hành chăm chú nhìn Thiếu Hạo. Tuy ngoài miệng y khăng khăng không mơ mộng viển vông, nhưng từ lúc đăng cơ tới giờ, mặc cho đế vị chông chênh, y vẫn nhất quyết chẳng nạp thêm phi tần, có lẽ không chỉ ôn nhu đa tình mới được gọi là nặng tình vương vấn, lạnh nhạt hờ hững có khi cũng là tình cảm đấy thôi.

“Chàng còn nhớ giao ước khi xưa của chúng ta không? Thiếp giúp chàng đăng cơ, chàng cho thiếp tự do, nhưng tình hình hiện giờ, thiếp không thể ra đi được nữa, có thể đổi điều kiện khác không?”

Thiếu Hạo giật thót mình, phải trấn tĩnh giây lát mới dè dặt hỏi: “Điều kiện gì?”

“Thiếp có mang rồi.”

Thiếu Hạo lặng người không đáp, chẳng rõ tâm tình biến chuyển ra sao.

A Hành nài nỉ: “Thiếp biết, bắt chàng nhận đứa nhỏ này làm con đúng là làm khó cho chàng, thiếp chỉ mong chàng cho nó mang họ Cao Tân, để nó bình yên trưởng thành mà thôi. Thiếp sẽ viết huyết thư nói rõ thân thế của nó, nhất định nó không dám tranh giành đế vị đâu…”

“Đứa trẻ này là máu mủ ruột rà của ta mà, chẳng phải ta đã nói từ rày trở đi, ta chính là Thanh Dương ư?”

A Hành giàn giụa nước mắt, liền phục xuống lạy tạ Thiếu Hạo, “Đa tạ chàng.” Nào ngờ cả người nàng chợt mềm nhũn, ngã dụi xuống đất. Thiếu Hạo vội vã đỡ lấy, đưa tay thăm mạch, không che giấu được vẻ kinh hoàng: “Sao mạch tượng của nàng loạn lên thế này? Để ta gọi thầy thuốc nhé?”

A Hành gượng cười, “Chàng đừng quên sư phụ thiếp là ai chứ, thân thể thiếp thiếp tự biết mà, vừa nãy thiếp có uống ít thuốc…” Nàng ghé tai Thiếu Hạo nói nhỏ mấy câu.

Thiếu Hạo hỏi ngay: “Liệu có nguy đến tính mạng không?”

A Hành cười, “Ai sinh con mà chẳng mạo hiểm? Không sao đâu, chàng đừng lo, chỉ cần phối hợp cùng thiếp diễn cho trót lọt là được.”

Thiếu Hạo bế nàng đưa về tẩm cung, chờ đám thị nữ sắp xếp cho nàng nghỉ ngơi rồi mới lui ra. Đột nhiên, A Hành nắm lấy tay áo Thiếu Hạo, đưa mắt nhìn y.

Thiếu Hạo hiểu ý, liền quay sang lệnh cho đám thị nữ đứng hầu phía sau: “Tối nay ta sẽ nghỉ lại đây.”

Mấy ả thị nữ nhìn nhau, hầu hạ Thiếu Hạo rửa mặt rồi đồng loạt lui ra.

Giữa đêm khuya, chỉ còn A Hành và Thiếu Hạo nằm song song trên giường, mỗi người ôm một bầu tâm sự.

Ban ngày A Hành đã uống thuốc nên bây giờ dược tính phát tác, tuy khắp người rời rã nhưng không sao ngủ được.

Thiếu Hạo trở mình quay sang, đặt tay lên trán nàng, từ từ truyền năng lượng thủy linh nhu nhuyễn dịu dàng vào người A Hành, giúp nàng bớt bứt rứt khó chịu, cơn buồn ngủ cũng theo đó mà kéo đến.

“Cảm ơn chàng.”

“Xi Vưu biết chuyện đứa nhỏ chưa?”

A Hành buồn ngủ đến ríu cả mắt, mơ mơ màng màng đáp: “Chưa biết.”

“Nàng có định cho hắn biết không?”

Không nghe tiếng đáp, A Hành đã mê mệt thiếp đi. Thiếu Hạo vẫn đặt tay trên đầu nàng hồi lâu mới thu tay về.

Y khẽ khàng trở mình, quay lưng lại phía A Hành.

Ánh trăng trong len qua khung cửa gỗ tùng xanh tràn vào phòng như thủy ngân, rọi xuống mặt đất thành từng vũng trăng biêng biếc lập lòe. Bóng cây ngoài song lay động, bóng trăng dưới đất cũng dập dờn theo, chẳng khác nào muôn ngàn đợt sóng. Nhớ lại, sau khi bọn họ thành hôn, lần đầu tiên thẳng thắn trao đổi, kết thành đồng minh, cũng vào một đêm trăng thanh gió mát thế này, đêm ấy, y cũng trằn trọc suốt đêm không ngủ.

Nếu thời gian có quay trở lại để y được lựa chọn lần nữa, liệu y sẽ chọn cái gì đây?

“Làm vương tử phi, hay làm vợ của chàng?”

“Vợ là người đời này kiếp này chỉ có một mà thôi.”

Giọng nói trong trẻo của A Hành vẫn còn văng vẳng bên tai, nhưng y chẳng còn cơ hội trả lời lại nữa.

Vì Vân Tang đã nhận lời cầu hôn của Thanh Dương, Hoàng Đế lập tức ngừng tiến đánh Thần Nông, hai bên tạm thời đình chiến. Lợi dụng cơ hội này, Thiếu Hạo bắt đầu cải cách mạnh mẽ.

Đằng sau vẻ ngoài bình yên là một cơn sóng gió lớn đang âm thầm dấy động, nhưng dù sao, trước mắt vẫn là hòa bình an ổn.

Sáu tháng sau, A Hành nhận được thư Xương Ý, báo tin Xương Phó đã có thai. Xương Ý hào hứng kể, từ khi biết Xương Phó có mang, tinh thần mẹ khá lên nhiều, sức khỏe cũng ổn hơn, lại bắt tay vào chăn tằm dệt vải, may quần áo cho đứa nhỏ.

A Hành cầm lá thư, mỉm cười.

Lại thêm sáu tháng nữa, Thiếu Hạo công bố việc A Hành có thai với bá quan văn võ. Tin này truyền đến Hiên Viên, Hoàng Đế lập tức phái sứ giả mang đủ thứ dược thảo quý hiếm tới hỏi thăm A Hành, đi cùng sứ giả còn có một danh y.

Danh y thỉnh cầu Thiếu Hạo cho phép mình thăm khám cho A Hành, Thiếu Hạo không nói gì nhưng đám danh y cung đình Cao Tân thì rất khó chịu, cảm thấy danh y này nghi ngờ năng lực của bọn họ, làm nhục cả nền y thuật Cao Tân.

Sứ giả vội cười xoa dịu: “Là Hoàng Đế và vương hậu nương nương cứ thấp thỏm nhớ mong vương cơ, nên sai danh y đến thăm mạch rồi về bẩm cáo với Hoàng Đế và nương nương để hai vị yên tâm đó thôi.”

Đám danh y Cao Tân đang định buông lời chế nhạo, Thiếu Hạo liền cười giảng hòa: “Chuyển lời chẩn đoán của các người tới Hiên Viên dù sao cũng cách một tầng, chi bằng để vị danh y này tự thăm khám rồi về bẩm cáo Hoàng Đế cho tiện, vương phi lấy chồng xa, chiều ý mẹ cha để hai vị yên tâm xem như là tận hiếu.”

Bấy giờ, đám danh y Cao Tân mới hậm hực làm thinh.

Danh y bắt mạch xong một lượt, thần tình hoang mang, vẻ lo âu ra mặt, thấy vậy, Thiếu Hạo ngồi bên vội hỏi: “Sao thế?”

Danh y lau mồ hôi trán, lắp bắp thưa: “Không, không sao cả, thần phải xem lại một lần nữa.”

Mấy vị danh y cung đình cười khinh khỉnh. Dưới ánh mắt chòng chọc của mọi người, gã danh y Hiên Viên lại chẩn đoán thật kỹ lần nữa, một lúc lâu sau, gã buộc phải thừa nhận mình nhất trí với kết quả chẩn đoán của các danh y Cao Tân, A Hành đã mang thai sáu tháng, cả hai mẹ con đều khỏe mạnh, có điều huyết khí hơi kém, song chẳng có gì đáng ngại, chỉ cần điều dưỡng tử tế là ổn.

Rõ ràng đây là tin tốt lành, nhưng tay danh y lại không giấu nỗi vẻ thất vọng, đành gượng tươi tỉnh trả lời Thiếu Hạo mấy câu rồi vội vã cáo lui.

Hơn hai năm sau, Xương Phó mẹ tròn con vuông sinh được một bé trai, Hoàng Đế ban tên là Chuyên Húc.

Hoàng Đế lại phái sứ giả tới Cao Tân thăm hỏi A Hành, lần này sứ giả đem theo hai bà mụ tinh thông y thuật, nói rằng phụng mệnh Hoàng Đế đến chăm sóc cho nàng. A Hành biết Di Bành lại giở trò quỷ, nhưng vẫn định tương kế tựu kế, nhân dịp này chứng minh mọi chuyện, nên để mặc cho hai mụ già đó theo bên mình.

Tháng Tư năm sau, dưới sự trợ giúp của các danh y, A Hành trở dạ sinh con.

Đứa bé sinh ra vô cùng khỏe mạnh, nhưng A Hành lại phải trải qua một phen thập tử nhất sinh. Nếu không nhờ Thiếu Hạo dùng linh lực kết thành trận pháp, lại thêm thủy ngọc Quy khư bảo hộ tâm thần, e rằng A Hành không sao chịu đựng nổi tới khi đứa nhỏ chào đời. Hai bà mụ còn chẳng dám đụng vào người A Hành, sợ gánh trách nhiệm, chỉ đứng đờ ra một bên, thấy đứa bé chào đời suôn sẻ lập tức chuồn khỏi tâm cung.

Nghe tiếng đứa nhỏ khóc oa oa, Thiếu Hạo vội chạy vào phòng.

Thấy cả người A Hành dầm dề mồ hôi, mê man bất tỉnh, y liền nắm lấy tay nàng, truyền thêm linh lực vào hỗ trợ.

Bấy giờ A Hành mới hơi tỉnh lại, thì thào gọi: “Con ơi, con!”

Thiếu Hạo lập tức gọi thị nữ, thị nữ liền bế đứa trẻ vừa tắm rửa sạch sẽ tới trước mặt Thiếu Hạo, mừng rỡ thưa: “Chúc mừng bệ hạ, là một vương cơ.”

Thiếu Hạo ẵm đứa bé vào lòng, lạ thay, đứa bé đang gào khóc oa oa đột ngột nín bặt, đôi mắt đen láy tròn xoe nhìn Thiếu Hạo, khóe miệng xinh xinh bỗng nhoẻn cười. Thiếu Hạo mỉm cười, ôm đứa bé cho A Hành ngắm: “Là con gái đó.”

A Hành khó nhọc mở mắt ngắm nhìn gương mặt con, đoạn nàng rút Trụ Nhan hoa, cắn ngón giữa bôi máu lên, biến Trụ Nhan hoa thành một đóa hoa đào nhỏ bằng móng tay. Được nhuộm bằng máu A Hành, đóa hoa càng thắm tươi kiều diễm, hệt như vừa trảy từ cành.

Thiếu Hạo lo lắng: “Nàng định làm gì? Nàng vừa hao tổn rất nhiều linh lực, không được…”

A Hành đặt đóa hoa đào bằng móng tay lên mi tâm đứa nhỏ, cả đóa hoa lập tức đỏ hồng lên, nóng rãy như sắt trong lò, khiến đứa nhỏ bị phỏng khóc ré lên.

A Hành lấy ngón giữa ấn đóa hoa đào lún sâu xuống, làm cho đứa bé đau đớn tím tái cả mặt mày, khóc đến hết hơi. Nước mắt hòa lẫn với mồ hôi đầm đìa trên mặt A Hành, thân hình như chực gục xuống nhưng nàng vẫn nghiến răng gắng gượng ấn đóa hoa lút từ từ vào trán đứa bé.

“Cho thiếp xin một giọt máu trong tim chàng, để phong ấn, phong ấn…” A Hành nhũn người ngã lăn ra, hôn mê bất tỉnh.

Thiếu Hạo vội nắm lấy tay A Hành, truyền linh lực vào người nàng, đồng thời cắn ngón giữa tay trái nhỏ máu lên vết thương hình cánh đào trên trán đứa nhỏ, lập tức vết thương liền lại ngay, vừa may đứa nhỏ đã khóc không ra tiếng, chỉ còn há miệng hớp hớp không khí.

Thiếu Hạo liền đút ngón tay rướm máu vào miệng đứa bé, nó ngậm lấy mút chùn chụt, mút được tinh huyết của y, sắc mặt nó cũng tươi dần lên, bàn tay bé xíu nắm chặt lấy ngón tay Thiếu Hạo, cười tít mắt. Vết thương trên trán nó đã khép miệng hoàn toàn, thoạt trông như một vết bớt nhàn nhạt hình hoa đào.

Thiếu Hạo vừa đùa với nó, vừa rủ rỉ: “Mong rằng suốt đời con sẽ luôn luôn tươi cười như hiện giờ, khỏi phụ tấm lòng mẹ con đã đem cả tính mạng ra bảo vệ cho con.”

Người trong Thần tộc sinh con sẽ hao phí rất nhiều linh lực, những kẻ tu vi thấp kém có khi còn phải lấy mạng đổi mạng, bởi thế tuy Thần tộc sống lâu ngàn tuổi nhưng số lượng hết sức ít ỏi. A Hành dùng thuốc làm chậm ngày sinh, giữ đứa nhỏ trong cơ thể mình, chính là đảo ngược tự nhiên, vô cùng hại sức khỏe, may sao nàng tinh thông y thuật, lại có Thiếu Hạo linh lực cao cường ở sát bên mình bảo hộ nên mới tai qua nạn khỏi.

Tuy giữ được tính mệnh, nhưng từ sau khi sinh con, thân thể A Hành bị tổn thương nghiêm trọng, mê man suốt ngày. Hằng đêm, Thiếu Hạo đều mang nàng tới Thang cốc, để nàng ngâm mình xuống nước. Dù bận rộn tới đâu y cũng phải tự tay chăm sóc A Hành, nhất định không cho người khác nhúng tay vào, chỉ để thị nữ Bán Hạ phụ mình lau rửa thân thể nàng hoặc thay đổi y phục mà thôi.

Thiếu Hạo đặt tên đứa nhỏ là Tiểu Yêu, Tiểu Yêu vừa chào đời thì mẹ đã hôn mê bất tỉnh, được Thiếu Hạo hết lòng chăm chút, luôn đem theo bên mình, khiến trong triều ngoài nội ai ai cũng biết y yêu thương Trưởng vương cơ. Hơn một năm sau, Tiểu Yêu bắt đầu bi bô tập nói, A Hành mới dần dần tỉnh lại.

Thiếu Hạo bước vào tẩm điện, liền trông thấy A Hành đang ngả mình trên sập đùa với Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu tay nắm một chiếc chuông bạc, vừa trông thấy Thiếu Hạo, cô bé liền nhoẻn cười vươn tay đòi bế, cánh tay trắng nõn như ngó sen vung vẩy chiếc chuông leng ca leng keng. Thiếu Hạo bế xốc Tiểu Yêu lên, cô bé níu lấy cổ y cười khanh khách, tiếng cười trong vắt, khiến người ta quên hết mọi buồn phiền.

Thiếu Hạo tươi cười bảo: “Hôm đó nàng mê man bất tỉnh, Tông Bá[2] đến hỏi tên con, ta sực nhớ hồi còn làm thợ rèn, từng nghe dân bản địa hát một khúc dân ca, giờ cũng quên gần hết rồi, chỉ còn nhớ câu đầu tiên là: “đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa[3], bèn thuận miệng đặt nhũ danh cho con là Tiểu Yêu. Tông Bá đã đến thôi thúc hỏi tên con mấy lần rồi, nếu nàng thấy trong mình khỏe khoắn thì nghĩ một cái tên đi.”

[2] Tông Bá: quan thời cổ của Trung Quốc, coi giữ chuyện lễ nghi, phụ giúp đế vương cai quản việc trong tông thất, nắm giữ việc tế lễ tổ tiên, đồng thời quản tất cả phép tắc lễ nghi trong tông miếu và tông tộc.

[3] Nghĩa là: Mơn mởn đào non, rực rỡ nở hoa, trích từ bài Đào yêu trong Kinh Thi. (ND)

A Hành vừa giỡn với Tiểu Yêu, vừa ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đề nghị: “Gọi là Cửu Dao đi!”

Thiếu Hạo hỏi lại: “Cửu Yêu ư? Cửu trong Cửu Lê, Yêu trong đào chi yêu yêu ấy hả?”

“Không phải, là hai chữ này.” A Hành viết lên giường hai chữ Cửu Dao cho Thiếu Hạo xem.

[4] Hai chữ “yêu” và “dao” trong tiếng Trung Quốc phát âm gần giống nhau, đều là “yao”, chỉ khác về thanh, nên Thiếu Hạo hiểu lầm. (ND)

Cửu Dao lên ba, Thiếu Hạo bèn chiếu cáo thiên hạ, sách phong làm Trưởng vương cơ, hưởng bốn trăm thực ấp. Tuy là con gái, nhưng dù sao cô bé cũng là con đầu lòng của Tuấn Đế Cao Tân nên tiệc mừng được tổ chức vô cùng long trọng, kéo dài suốt ba ngày.

Ngày đầu tiên cử hành nghi lễ bái tế trời đất, chúc phúc cho Cửu Dao.

Ngày thứ hai bày tiệc mời vương thất trong Thừa Ân cung, mọi người trong Cao Tân tộc đều tụ họp lại, ăn uống linh đình, nói cười vui vẻ ồn ào.

Trung Dung cắp hồ lô rượu loạng choạng đến trước mặt Thiếu Hạo, mượn rượu giả say nói nhăng nói cuội trước mặt mọi người: “Cửu Dao là cháu gái lớn, thế mà ba tuổi rồi vẫn chưa được gặp mặt phụ vương. Trong triều đồn rằng phụ vương bị ép dọn tới Kỳ viên, chứ không phải tự nguyện, mấy năm nay, chúng đệ chẳng ai được gặp Người, thậm chí đại lễ long trọng như hôm nay cũng chẳng thấy phụ vương tham dự, lẽ nào có chuyện gì đó không thể gặp mặt mọi người ư?”

Lời này vừa buông ra, cả đại điện tức thì im phăng phắc, những tên nhát gan nhất loạt cúi gầm mặt xuống, không dám ngẩng lên, trong khi đó hai mươi mấy người em trai của Thiếu Hạo đều trừng trừng đổ dồn mắt vào y, như hổ đói rình mồi.

A Hành thầm kinh hãi, nàng không sao ngờ được mâu thuẫn giữa Thiếu Hạo và các em lại gay gắt đến nỗi Trung Dung chẳng nề mất mặt, dám buông lời phạm thượng ngay trước mặt mọi người. Có điều chiêu này của y thật vô cùng nham hiểm, hôm nay vương thất Cao Tân đều tề tựu nơi đây, hễ Thiếu Hạo sơ sảy một câu, chứng tỏ tội danh bức cung thoái vị, giam cầm phụ vương là có thực thì dù có dựa vào binh hùng tướng mạnh để giữ vững ngai vị, y cũng mất hết lòng dân, bị người người phỉ báng.

Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Thiếu Hạo vẫn thản nhiên cười đáp: “Phụ vương bệnh nặng nên dời đến Kỳ viên thanh tâm tĩnh dưỡng, không gặp mọi người đó thôi, ai bảo đệ là hôm nay phụ vương không tới? Chẳng qua sức khỏe Người còn yếu nên tới muộn một chút, không tin đệ đợi một lát nữa có thể gặp trực tiếp hỏi phụ vương.”

Thiếu Hạo còn chưa dứt lời, mấy tên tùy tùng đã khiêng một cái sập mềm bước vào, Tuấn Đế đời trước đang nghiêng mình ngồi trong đó.

Mọi người trong đại điện xôn xao đứng cả dậy, đám Trung Dung càng xúc động hơn ai hết, rưng rưng nước mắt nhìn phụ vương.

Sập của Tuấn Đế vừa được đặt xuống cạnh Thiếu Hạo, mọi người trong điện đều nhất loạt quỳ xuống hành lễ, nhưng chẳng biết phải xưng hô thế nào, đành dập đầu ba cái mà thôi.

Tuấn Đế mỉm cười vẫy ta ra hiệu cho tất cả đứng lên. Lời nói cử chỉ của ông vẫn hệt như vị công tử tiêu sái thuở nào, chỉ có điều mái tóc đã bạc phơ, gương mặt nhăn nheo vì tuổi tác.

Trung Dung quỳ sụp xuống trước mặt Tuấn Đế, nghẹn ngào hỏi: “Phụ vương, Nhị ca và mẫu hậu đều bị giam dưới Ngũ Thần sơn, đây là ý chỉ của Người sao?”

“Là ý của ta, Yến Long phản bội ta, thay thế toàn bộ thị vệ trong cung, toan giám sát ta hằng ngày, tội không thể tha được.”

Trung Dung khóc òa lên: “Nhị ca quyết không có ý bội phản phụ vương đâu, chỉ là Nhị ca sợ…” Trung Dung liếc nhìn Thiếu Hạo, nuốt vội nửa câu sau xuống. Tuấn Đế liền kết thúc chủ đề: “Con lui xuống đi, hôm nay là ngày đại hỷ, đừng nhắc mấy chuyện không vui này nữa.”

Thấy Trung Dung vẫn chần chừ không chịu lui, hai tên thị vệ bèn tiến lại kéo hắn xuống, nào ngờ hắn níu chặt lấy áo Tuấn Đế hỏi dồn: “Phụ vương mắc bệnh phải nhường ngôi cho Thiếu Hạo thật ư? Hôm nay tất cả huynh đệ chúng con đều có mặt ở đây, Người hãy chính miệng nói rõ với mọi người đi!”

Câu hỏi thẳng thừng mà sắc bén này của Trung Dung vừa thốt ra, cả đại điện tức thời lặng ngắt như tờ, nghe được cả tiếng cây kim rơi xuống đất. A Hành ngồi bên sợ cứng cả người, chỉ cần một lời của Tuấn Đế thôi, Thiếu Hạo sẽ trở thành tội nhân thiên cổ, mọi công lao đều đổ sông đổ biển hết.

Tuấn Đế nghiêm giọng hỏi: “Rốt cuộc kẻ nào ở sau lưng đâm bị thóc chọc bị gạo, đơm đặt chia rẽ cha con ta thế? Năm xưa tất cả danh y cung đình cùng thầy thuốc dân gian mà các con tiến cử đều đã thăm bệnh cho ta rồi kia mà, quả thực ta thân mang trọng bệnh, không thể xử lý quốc sự nên mới thoái vị nhường ngôi cho Thiếu Hạo, chẳng lẽ các con thấy mình tài giỏi hơn Thiếu Hạo ư?”

Nói rồi Tuấn Đế đưa mắt nhìn khắp lượt hai mươi mấy người con trai, nhìn đến đâu, họ quỳ rạp xuống đến đó.

Trung Dung hét lên: “Con không tin! Phụ vương, trong chuyện này nhất định có gì mờ ám, Người đã chính miệng nói với mẫu hậu rằng muốn truyền vương vị lại cho…”

Thiếu Hạo trừng mắt nhìn đám thị vệ, lập tức bọn chúng xúm vào giằng tay Trung Dung khỏi vạt áo Tuấn Đế, lôi ra ngoài điện, không để hắn kịp nói hết câu.

Tất cả mọi người trong điện đều nín thin thít, không một ai dám ho he, cả đại điện chỉ nghe thấy tiếng gào khóc của Trung Dung vẳng lại.

Thấy không khí căng thẳng, A Hành bèn quay sang dặn nhỏ Bán Hạ: “Mau bế Cửu Dao ra đây.”

Thị nữ bồng Cửu Dao tới trước mặt Tuấn Đế. Tuấn Đế cúi đầu ngắm cô bé thiêm thiếp ngủ hồi lâu, khẽ đưa tay vuốt ve gương mặt non tơ, ánh mắt đầy trìu mến. Mọi người xung quanh được thể liền xúm lấy nịnh nọt tâng bốc: “Trông vương cơ giống ông nội quá chừng!”

Tuấn Đế ngẩng lên bảo Thiếu Hạo: “Nhớ năm xưa cung nữ bế con tới trước mặt ta, chúc mừng ta vừa có một đứa con trai, ai nấy đều khen con giống ta như tạc. Càng lớn, con càng giỏi giang xuất sắc khiến người ta không thể không thương, ta yêu con đến nỗi chẳng biết phải làm sao cho đúng, muốn ôm con cũng sợ làm thương tổn đến con, vậy mà… Mọi chuyện cứ như vừa mới hôm qua, nào ngờ thời gian thấm thoắt bấy nhiêu năm, hết thảy đều thay đổi cả rồi!”

Mọi người nghe nói đều cười rộ lên tán thưởng, chỉ riêng A Hành lặng thinh không cười nổi.

Nói đến đó, Tuấn Đế lộ vẻ mệt mỏi, liền xua tay ra hiệu cho thị nữ ẵm lấy Cửu Dao rồi quay sang bảo đám tùy tùng: “Ta mệt, về Kỳ viên thôi.”

Mọi người đều quỳ xuống cung tiễn.

Thiếu Hạo nắm lấy tay A Hành đi theo tiễn Tuấn Đế ra tới ngoài điện, A Hành chăm chú nhìn Thiếu Hạo, lần này y nhất định muốn tổ chức sinh nhật cho Tiểu Yêu thật linh đình, không tiếc phô trương lãng phí, chắc hẳn là vì lý do này.

Ngày thứ ba, tất cả muôn dân thiên hạ sẽ tự tay thắp hoa đăng do họ tự làm rồi thả xuống sông, chúc phúc cho Đại vương cơ Cao Tân lớn lên bình an khỏe mạnh, mong sao cô bé sẽ đem lại hạnh phúc và hòa bình cho đất nước.

A Hành cũng tự làm một chiếc đèn hoa sen, gửi gắm tất cả nguyện vọng cầu cho con gái được bình an như ý.

Trời vừa sập tối, Thiếu Hạo và A Hành bước lên thành lâu trông xuống, thấy dân chúng đã tụ tập động nghịt dưới thành, háo hức đợi chiêm ngưỡng ngọn đèn vương phi làm cho vương cơ.

Thiếu Hạo tươi cười cao giọng nói: “Hôm nay ta cũng như tất cả mọi người ở đây, chỉ là một người cha hết lòng mong mỏi cho con mình lớn lên bình an hạnh phúc mà thôi, cảm ơn các người đã tới chúc phúc con gái của ta.”

Dân chúng Cao Tân rộ lên hoan hô như sấm.

A Hành nâng tràn hoa đăng kết bằng tơ băng trên tay, Thiếu Hạo nhanh nhẹn châm lửa, ngọn đèn mỗi lúc một sáng rực lên hệt một đóa sen xanh biếc lung linh giữa lòng bàn tay A Hành, soi tỏ một đôi người ngọc, khiến người ngoài trông thấy cứ ngỡ như cảnh tượng cõi tiên.

Thiếu Hạo cúi xuống bế Tiểu Yêu lên, bước xuống thành lâu, A Hành cũng bưng ngọn hoa đăng, theo sát bên cạnh y.

Xi Vưu đứng giữa đám người, ngẩng đầu nhìn lên thành lâu.

Đêm tối như mực, từ dưới trông lên khó mà nhìn rõ được ba người bọn họ, chỉ thấy một đóa sen xanh biếc nở rộ giữa không trung, tỏa ra ánh xanh nhàn nhạt, bóng dáng ba người nổi lên giữa tầng tầng lớp lớp rường cột trạm trổ, nam tử khôi ngô phóng khoáng, nữ tử thùy mị dịu dàng, lại thêm một cô bé nhỏ xíu cứ cựa quậy nghịch ngợm hoài trong lòng cha, một nhà ba người tràn đầy yêu thương đầm ấm.

Dân chúng Cao Tân ai nấy đều ngưỡng mộ dán mắt vào bọn họ, mãi tới khi ánh đèn xanh biếc xa dần xa dần, bóng ba người họ cũng khuất sau lầu quỳnh điện ngọc, bấy giờ đámg người đông nghịt dưới thành mới lục tục giải tán.

Chỉ còn lại mình Xi Vưu thẫn thờ đứng nguyên chỗ cũ, như không tin nổi vào mắt mình. Nhưng vừa rồi khi Thiếu Hạo châm lửa thắp đèn, hắn đã kịp trông thấy gương mặt A Hành ánh lên bao dịu dàng âu yếm.

Mãi tới hôm qua, Xi Vưu mới tỉnh lại. Vừa tỉnh giấc, hắn thấy mình đang bồng bềnh giữa Bắc Minh, trước mặt là cả một vòm trời xanh ngăn ngắt, tinh thần sảng khoái, năng lượng tràn trề từng đường gân thớ thịt, trong cái rủi có cái may, nhờ bị thương, thần lực của hắn lạ tiến thêm một bậc. Hắn chẳng rõ mình đã ngủ mất bao lâu, chỉ biết rằng trước khi thiếp đi, A Hành vẫn còn nắm chặt tay hắn, dịu dàng nhìn hắn chìm sâu vào giấc ngủ.

Nghĩ vậy, Xi Vưu chợt bật cười hạnh phúc, liền nhảy vọt lên lưng Tiêu Dao đắc ý ra lệnh: “Ta phải về nhà đây! Nhà của mày lớn thật nhưng chỉ có mỗi mình mày, nhà của ta tuy nhỏ, nhưng lại có A Hành!”

Dọc đường về, hắn thấy nơi nơi đều là trời cao biển rộng, sông núi reo vui.

Vừa trông thấy rừng đào đỏ rực Cửu Lê sơn, Xi Vưu bỗng thấy mắt cay lòng nóng, chẳng đợi Tiêu Dao kịp đỗ đã nhảy luôn xuống, xông thẳng vào rừng đào.

“A Hành, A Hành! Ta về rồi! Ta về rồi đây!”

Đáp lại hắn chỉ có căn nhà sàn vắng ngắt, mảnh trúc đứt đoạn cái ngắn cái dài, rèm sa đầy những phân chim, vườn rau um tùm cỏ dại, nếu chẳng thấy bờ đất đắp bằng đá xanh, e rằng không thể nhận ra đây là một mảnh vườn rau. Giậu trúc lưa thưa đã xiêu đổ quá nửa, mấy đóa tường vi đỏ thắm mọc tràn lan, lấp cả lối đi.

Chỉ còn chiếc chuông gió dưới mái hiên ngân lên từng tràng đinh đang thê thiết.

Xi Vưu thẫn thờ nhìn “căn nhà” trước mắt, lòng thắt lại vì hoang mang, không biết mình đã ngủ mất bao lâu? A Hành xảy ra chuyện gì rồi ư?

Hắn điên cuồng xộc vào rừng, chạy đến dưới cội đào, hoa nở đầy cành, rung rinh khoe sắc nhưng chẳng còn người ấy, chỉ còn một hàng chữ đỏ như máu:

“Giữa Thừa Ân điện tình quyến luyến, dưới cội hoa đào hẹn thành không, ly biệt từ đây, xin đừng nhung nhớ.”

Thừa Ân điện chính là nơi ở của Thiếu Hạo, cũng là cung điện hoa lệ nhất trên đời.

“Ta không tin!” Xi Vưu tung chưởng nhổ bật cả cội đào lên rồi nhảy lên lưng Tiêu Dao, bay thẳng tới Cao Tân.

Dọc đường hắn thấy nhà nhà đều chăng hoa kết đèn, nói cười rộn rã, xôn xao bàn tán về đại lễ sinh nhật long trọng của con gái Thiếu Hạo.

Xi Vưu nghe nói liền thở phào nhẹ nhõm, cho rằng Thiếu Hạo đã nạp thêm phi tần mới, bèn níu một người lại hỏi: “Thiếu Hạo cưới nữ tử tộc nào thế?”

“Là Hiên Viên tộc đó!” Người kia tròn mắt nhìn Xi Vưu như nhìn kẻ ngốc.

“Lại cưới một cô gái Hiên Viên tộc nữa ư?” Xi Vưu thấy lòng chùng hẳn xuống, lẽ nào A Hành xảy ra chuyện rồi sao… hắn chẳng lòng dạ nào nghĩ tiếp nữa.

Kẻ kia phì cười: “Ai chẳng biết Thiếu Hạo chỉ có một vị vương phi, chính là vương cơ Hiên Viên tộc đó thôi! Trưởng vương cơ là con gái hai người bọn họ!”

Lời này như sét đánh giữa trời quang, khiến Xi Vưu ngẩn người ra, lỗ tai lùng bùng cả lên. Dù bao nhiêu sự thực phơi bày trước mắt, hắn cũng nhất quyết không tin, chẳng phải A Hành đã tự tay bài trí căn nhà sàn đó, còn nói rằng đó là nhà của hai người đó sao?

Nhưng dưới thành lâu, hắn tận mắt trông thấy Thiếu Hạo và A Hành ẵm con gái nhỏ, tươi cười đón nhận muôn ngàn lời chúc phúc của lê dân bách tính. Niềm hạnh phúc của ba người bọn họ rành rành trước mắt, khiến hắn lần đầu tiên hiểu ra rằng, có những thứ, hắn vĩnh viễn không thể đem lại hạnh phúc cho A Hành được.

Có lẽ, vì lý do này mà nàng rời bỏ hắn.

Cao Tân nhiều hồ ao sông ngòi, đô thành cũng dựa theo dòng nước mà xây nên, phía Bắc thành đô chính là một con sông rộng mênh mông, Thiếu Hạo và A Hành bế Tiểu Yêu men theo thềm đá, xuống gần mép nước.

Thiếu Hạo đặt Tiểu Yêu xuống đất nhưng hai tay vẫn đỡ lấy Tiểu Yêu, sợ cô bé bất cẩn trượt chân ngã xuống sông. A Hành ngội thụp xuống thềm, đặt ngọn đèn hoa sen xuống mặt nước.

Thiếu Hạo dịu dàng: “Nàng cầu nguyện đi.”

A Hành nhắm nghiền mắt, thành tâm cầu nguyện cho con gái bình an hạnh phúc cả đời rồi mở mắt ra, “Thiếp cầu xong rồi.”

Thiếu Hạo chỉ ngọn hoa đăng, nựng nịu Tiểu Yêu: “Cha con ta cùng đẩy cho đèn trôi xa, được không nào?”

Tiểu Yêu rất thích cây đèn xanh biếc này nên chẳng nỡ đẩy đi, ngược lại còn giơ tay níu lại.

Thiếu Hạo tươi cười nắm lấy tay Tiểu Yêu, nhưng không nắm thật chặt mà cứ vờn đùa với cô bé để bé khỏi chạm tay vào ngọn lửa. Tiểu Yêu thích chí ré lên cười khanh khách, khiến A Hành cũng bật cười theo.

Thấy Tiểu Yêu đùa giỡn đã mệt, Thiếu Hạo bèn nắm lấy bàn tay bé bỏng của cô bé đẩy đẩy ngọn đèn, dỗ dành: “Tiểu Yêu ngoan nào, đẩy đi, lát nữa cho sẽ cho con cái khác đẹp hơn.”

Theo tay Thiếu Hạo và Tiểu Yêu, ngọn đèn lặng lẽ trôi xuôi dòng nước, xa dần xa dần…

Thiếu Hạo ẵm Tiểu Yêu đứng dậy, một nhà ba người đưa mắt nhìn theo ánh đèn xanh biếc càng trôi càng xa rồi nhập vào biển đèn lung linh, chẳng nhận ra đâu là ngọn đèn bọn họ vừa thả nữa, bấy giờ, cả ba mới quay người bước lên, nào ngờ vừa quay lại, họ liền trông thấy một nam tử hồng y khí vũ hiên ngang đứng lặng trên thềm tự lúc nào, chẳng biết hắn tới đây bằng cách gì, cũng chẳng rõ hắn đã đứng đó bao lâu.

Cảm nhận được linh lực mạnh mẽ tỏa ra từ đối phương, Thiếu Hạo vội ngưng tụ linh lực theo phản xạ, toan vung chưởng đánh lui kẻ tự tiện xâm nhập, cả người chợt run lên, hiểu ra ngay người đến là ai.

Y liền trao Tiểu Yêu cho A Hành rồi bước xuống thềm, dõi mắt ngắm muôn vàn ngọn đèn lung linh trên sóng.

Xi Vưu tiến lại gần, sắc mặt tái nhợt, hai mắt tối sầm lại, ngùn ngụt bi ai và phẫn nộ.

“Tại sao hả?” Hắn gắng nén cơn giận, cất giọng khản đặc, hệt như một dã thú bị thương.

A Hành ôm chặt lấy Tiểu Yêu, rưng rưng nước mắt, chẳng thốt được tiếng nào.

Tiểu Yêu chẳng hề sợ sệt, cứ giương tròn mắt nhìn Xi Vưu, giơ tay sờ vào người hắn.

Bàn tay măng tơ mềm mại khẽ chạm vào mặt Xi Vưu khiến lòng hắn xao động lạ thường, bèn nắm lấy tay Tiểu Yêu hỏi: “Đây có phải là con ta không?” Tuy biết dựa vào ngày sinh, cô bé khó có thể là con mình, nhưng hắn vẫn ôm ấp chút hy vọng mong manh.

Đột nhiên, trên không trung chợt bay vọt lên mấy quả cầu lửa muôn màu muôn sắc do hỏa linh kết tụ, nở bùng ra thành ngàn vạn đốm pháo hoa rực rỡ, hoa cúc vàng tươi, mẫu đơn đỏ thắm, mai trắng tinh khôi… Bỗng chốc khắp bầu trời tràn ngập ánh sáng lung linh huyền ảo.

Tiểu Yêu mừng rỡ chỉ tay lên trời, rối rít gọi Thiếu Hạo: “Cha, cha.”

Thiếu Hạo ngoảnh lại theo phản xạ, mỉm cười với cô bé.

Ánh pháo hoa rực rỡ soi tỏ mặt gương mặt của Tiểu Yêu, trông cô bé giống Thiếu Hạo đến bảy tám phần, thoạt nhìn đã biết là con y.

Tiểu Yêu với tay về phía Thiếu Hạo, luôn miệng gọi cha đòi bế.

Xi Vưu chợt thấy toàn thân run bần bật như vừa rơi xuống hố băng lạnh ngắt, ngọn lửa ngùn ngụt trong mắt vụt tắt ngấm, xung quanh xán lạn rực rỡ là thế, vậy mà hắn chỉ thấy một mảnh tối đen mờ mịt.

Tây Lăng Hành đã phản bội hắn, lừa gạt hắn!

Ánh mắt Xi Vưu bỗng trở nên lạnh lùng tàn khốc, hắn bắt đầu nổi sát tâm.

A Hành ôm chặt lấy Tiểu Yêu hốt hoảng lùi lại, nhưng Xi Vưu đã giật phăng cô bé ném cho Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo thấy tình hình không ổn, toan xông lại ứng cứu, có điều linh lực của Xi Vưu đã tăng tiến vượt bậc, y đỡ được Tiểu Yêu thì chẳng kịp cứu A Hành nữa.

Xi Vưu và A Hành bị bao phủ trong màn đao gió, những lưỡi đao gió xoay vun vút quanh hai người, một con muỗi cũng không bay lọt, mấy ngọn đao đâm từ sau lưng A Hành nhằm thẳng vào tim nàng, đã cắm vào da thịt.

Cảm nhận được lưỡi đao đâm vào mình đau buốt, nét mặt A Hành chợt giãn ra đầy thanh thản như trút bỏ được mọi ràng buộc và gánh nặng, nàng chẳng hề kháng cự, chỉ đăm đăm nhìn Xi Vưu, nước mắt lăn dài trên mi.

Dường như những giọt lệ của nàng đã chạm đến cõi lòng mềm yếu nhất của Xi Vưu, trái tim hắn run lên vì kích động, linh khí không sao duy trì được nữa. Cuồng phong lặng tắt, chỉ còn tấm lưng A Hành đầm đìa máu tươi, nhỏ tong tong xuống đất.

Xi Vưu trân trân nhìn A Hành, lui lại từng bước từng bước một, cười thê thảm: “Cô biết rõ ta rất khó có thể tin tưởng ai đó kia mà! Ta coi Viêm Đế như cha đẻ, coi Du Võng như huynh đệ, vậy mà vẫn đề phòng họ, nhưng đối với cô…” Hắn điên cuồng đấm ngực như muốn đập vỡ trái tim mình, móc ra cho A Hành thấy, “Ta luôn đặt cô ở đây. Nếu cô đã định phản bội, sao không phản bội từ sớm đi? Sao phải đợi đến khi ta phá hủy mọi thứ phòng bị, để cô tiến thẳng vào nơi sâu thẳm nhất, mềm yếu nhất của ta thì lại giở mặt giày xéo ta? Dẫu kẻ khác chặt đầu lột da ta, ta cũng chẳng thấy gì đau đớn, nhưng cô… ta đau lắm, biết không?” Sắc mặt Xi Vưu tái ngắt, ánh mắt không rời A Hành như khẩn cầu, như van vỉ nàng khẳng định một lời, nói với hắn rằng nàng không phản bội hắn!

A Hành cắn môi không đáp, chỉ có thân mình khe khẽ run lên. Tiểu Yêu nào hay vừa rồi mẹ mình đã lượn một vòng qua cửa tử, cô bé thích thú ngắm trận cuồng phong của Xi Vưu, vỗ tay reo: “Cha, cha nhìn gió nhảy múa kìa, thúc thúc áo đỏ kia lợi hại quá nha!”

Giọng nói non nớt của Tiểu Yêu lọt vào tai Xi Vưu khiến hắn sững sờ như bị sét đánh, cả người run rẩy. Con gái của A Hành gọi hắn là thúc thúc!

Xi Vưu trừng trừng nhìn A Hành, nhưng cất tay lên mấy lần vẫn không sao ngưng tụ linh lực tấn công được, đành cười thảm lắc đầu, “Tây Lăng Hành, cô đã hẹn ước với ta, chưa được ta cho phép cô đừng mong rút lại lời thề!” Trong tiếng cười ha hả, hắn nhảy lên lưng Tiêu Dao bay thẳng.

Xi Vưu đi rồi, Thiếu Hạo thấy lòng bàn tay lạnh ngắt. Y đã nghe nói Xi Vưu tính khí thất thường, hung tàn xảo trá từ lâu nhưng lần này mới tận mắt chứng kiến bản tính cực đoan, quyết liệt của hắn. Hắn đối với A Hành chí tình chí nghĩa, bất cứ lúc nào cũng có thể bán mạng vì nàng, vậy mà chỉ trong nháy mắt, vì A Hành phản bội, hắn có thể xuống tay giết nàng bất cứ lúc nào.

Thấy A Hành đứng đờ người ra như mất hồn, Thiếu Hạo ngỡ nàng quá kinh hãi, bèn tiến lại vừa trị thương vừa an ủi nàng: “Tối nay ta sẽ bày trận pháp quanh nhà, chỉ cần Xi Vưu đến, chúng ta lập tức biết ngay thôi.”

A Hành chỉ một mực lắc đầu, thẫn thờ nhìn về phía Tiêu Dao khuất bóng, ánh mắt đầy lo âu. Bấy giờ Thiếu Hạo mới hiểu ra rằng không phải nàng sợ hãi, mà là đang lo lắng cho Xi Vưu.

Thiếu Hạo cùng A Hành lên đến thành lâu, y định đưa nàng về tận Thừa Ân cung, nhưng Tiểu Yêu thấy quang cảnh rực rỡ bên dưới cứ khóc ré lên không chịu về. Y đành sai thị nữ đưa A Hành về trước, để mình bế Tiểu Yêu đứng ngắm cảnh thêm lát nữa.

Từ thành lâu nhìn xuống, mặt sông bạt ngàn ánh đèn lung linh, mỗi lúc một thêm dày đặc, hệt như vô số ngôi sao lấp lánh.

Hai bên bờ sông đông nghịt người tới thả đèn và ngắm cảnh. Bầy con nít xách lồng đèn tung tăng đuổi bắt nhau, các cô gái cứ dăm ba cô tụ lại thành một nhóm, mượn ngọn đèn tự tay chế tác để khoe tài khoe giỏi, trong khi đám đàn ông thơ thẩn men theo bờ nước, vừa ngắm đèn vừa ngắm các thiếu nữ nhà bên, đông nhất là những gia đình đủ cả già trẻ trai gái, bưng đủ loại đủ kiểu hoa đăng, dắt díu nhau đến thả đèn.

Thiếu Hạo chăm chú ngắm cả dòng sông lung linh ánh đèn, đẹp như tranh vẽ dưới thành, ánh mắt mỗi lúc một lạnh dần, y từ từ đi đến chỗ hạ quyết tâm: Xi Vưu đã quay về, thời gian chẳng còn bao lâu nữa, y không thể cứ phân vân do dự mãi!

Về đến tẩm điện, A Hành cho tất cả thị nữ lui ra, chỉ để lại mình nàng thẫn thờ ngồi đó. Nàng sớm biết sẽ phải đối mặt với cơn thịnh nộ của Xi Vưu nên đã chuẩn bị hết mọi điều cần nói, nào ngờ vừa gặp hắn, nàng đã quên sạch.

Ngồi giữa căn phòng tối mịt nhưng cõi lòng A Hành còn tăm tối hơn, thậm chí vĩnh viễn chẳng thể sáng lên được nữa.

Chẳng biết đã ngồi như vậy bao lâu, đột nhiên, A Hành thoáng nghe thấy phía cuối trời vang lên tiếng đại bàng quang quác, giật thót mình, vội nhìn ra cửa sổ.

Bóng cây bên ngoài được ánh trăng trong như lọc hắt lên tấm rèm che màu tùng biếc ngoài song cửa, khẽ đu đưa theo gió. Chỉ lát sau đã thấy một bóng người từ xa bay đến, từ từ choán cả khung cửa, dáng dấp cao lớn khôi ngô, đầy mạnh mẽ tưởng như sắp phá cửa bay thẳng vào phòng, vậy mà hắn chỉ bi ai đứngbên ngoài, im lìm hệt một bức tranh.

A Hành đờ người vì căng thẳng, nàng không sao nhúc nhích nổi một ngón tay, nhưng hơi thở mỗi lúc một thêm gấp gáp. Hiển nhiên, người ngoài song cửa cũng đã nhận ra: “Cô tỉnh rồi à?” Là giọng Xi Vưu.

Thấy A Hành im lặng, hắn chậm rãi nói: “Không phải ta tới giết cô đâu.”

“Ngươi… vậy ngươi quay lại định làm gì?” A Hành cố lấy giọng lạnh lùng hỏi.

“Lúc ở dưới thành, trông thấy cô và Thiếu Hạo, cả… con gái hai người nữa, ta giận quá, không kiềm chế được. Vừa rồi bay đi, gió lạnh tấp vào mặt, ta mới bình tĩnh lại. A Hành, ta biết cô nhất định không phụ lời thề giữa hai chúng ta, chắc chắn cô có nỗi khổ bất đắc dĩ gì đó.”

“Chẳng lẽ sự thật rành rành trước mắt ngươi còn không thấy sao? Ta đã có con với Thiếu Hạo rồi.”

“Ta thấy cả rồi, dù cô có con với Thiếu Hạo cũng chẳng sao, ta biết cô làm vậy nhất định là vì nỗi khổ trong lòng. Mấy năm nay ta không ở bên cô, chắc hẳn đã xảy ra chuyện gì đó, muốn trách thì phải trách ta chẳng thể bầu bạn bên cô, không bảo vệ được cho cô. Có điều, giờ ta đã về rồi, có gì khó khăn, cô cứ để ta giải quyết.”

A Hành run bắn lên, nước mắt nhòa mi. Kẻ kiêu ngạo, đa nghi, hung tàn như Xi Vưu, lại có thể một lòng một dạ tin tưởng nàng, yêu thương nàng, trân trọng nàng đến thế này.

Đợi hồi lâu không thấy trong phòng có động tĩnh gì, Xi Vưu dịu giọng nói tiếp: “A Hành, có nỗi khổ gì nàng cứ nói ra đi, chúng ta nhất định sẽ tìm được cách giải quyết mà, lẽ nào nàng không tin tưởng năng lực của ta ư?”

A Hành trân trân dán mắt vào bóng dáng Xi Vưu in lên rèm cửa, ầng ậng nước mắt. Cách giải quyết duy nhất là cứu Đại ca nàng sống lại, nhưng trên đời làm gì có thuốc cải tử hoàn sinh kia chứ. Đâu phải gian nan nào cũng có thể đạp bằng như Xi Vưu tưởng, dù thần lực cao cường tới đâu chăng nữa, cũng chẳng cách nào hồi sinh người chết.

“A Hành?” Đợi mãi không thấy nàng trả lời, Xi Vưu giơ tay toan đẩy cửa sổ ra.

A Hành lập tức nhào đến chặn cửa sổ lại. Nàng không dám gặp hắn, bởi nàng sợ đối diện với đôi mắt hắn, tất cả dũng khí của nàng sẽ tan biến mất.

“Ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa!”

“Nói dối! Nếu không muốn gặp ta, tại sao lúc nhìn thấy ta dưới thành lâu, nàng lại rưng rưng chực khóc? Nàng rơi nước mắt vì ai hả?”

A Hành xoay người lại, lấy lưng chèn cửa, ánh mắt trống rỗng nhìn vào bóng đêm thăm thẳm, rành rọt thốt lên từng câu từng chữ đã được chuẩn bị kỹ càng, “Lúc đó ta vừa hổ thẹn, vừa sợ hãi!”

“Hổ thẹn gì chứ?”

“Dù ta lấy Thiếu Hạo vì lý do gì, hiện giờ chúng ta đã có con, nước chảy đá mòn, ta dần dần cũng nảy sinh tình cảm với chàng, khó tránh hổ thẹn với ngươi, mọi chuyện đã hết cách cứu vãn được rồi.”

“Vậy nàng sợ cái gì?”

“Ta sợ làm tổn thương đến con bé. Giờ đây, con bé là người quan trọng nhất trong lòng ta, nếu ngươi muốn giúp đỡ ta, bảo vệ ta, xin ngươi hãy quên ta đi, đừng tới tìm ta nữa. Lỡ như người ngoài trông thấy, ta sẽ mất hết danh tiết, vạ lây cả đến con bé.”

Xi Vưu lặng thinh không nói, chỉ nghe thấy tiếng thở lúc dập dồn, khi từ tốn của hắn. Toàn thân A Hành như biến thành một tảng đá, ra sức chèn chặt cánh cửa, không dám nhúc nhích, tựa hồ không phải đang đóng cửa, mà là đang khép chặt trái tim mình.

Đột nhiên nghe vang lên một tiếng đại bàng kêu quang quác, tiếng thở ngoài song biến mất.

A Hành vẫn chèn chặt cánh cửa sổ, hồi lâu mới như sực tỉnh, vội quay phắt lại, ngơ ngẩn ngóng ra ngoài song, nhưng chỉ thấy bóng cây thấp thoáng, ánh trăng nhạt nhòa, đâu còn bóng người kia nữa. Nước mắt nàng giàn giụa tràn ra hai má.

Chương 11: Đập đàn hủy rượu, luống lẻ loi


“Ta xin lỗi!” Thiếu Hạo vòng tay ôm lấy nàng, vùi mặt vào mái tóc thướt tha, người không ngừng run bắn lên, y chẳng rõ mình đang an ủi nàng, hay đang tự tìm lấy chút an ủi cho chính bản thân mình nữa.


Mùa hạ ở Cao Tân oi bức vô cùng, Tiểu Yêu lại hiếu động sợ nóng nên A Hành hay dắt bé tới Y Thanh viên hóng mát.

Trong Y Thanh viên nuôi khá nhiều thủy cầm, mấy năm nay lơ là chăm sóc nên một vài con trở nên rất hung hăng dữ tợn. Tiểu Yêu tính tình liều lĩnh, cao không bằng hạc tiên vậy mà dám giơ tay bắt hạc tiên, bị nó mổ, Tiểu Yêu vừa khóc vừa túm chặt lấy cổ nó không buông.

A Hành thường cầm theo cuốn sách, ngồi một góc chăm chú đọc, mặc cho Tiểu Yêu nô đùa, dù bé vấp ngã hay bị chim chóc rượt đuổi, nàng cũng mặc kệ. Bởi thế Tiểu Yêu nói còn chưa sõi nhưng đã rất hiểu chuyện: vấp ngã thì tự đứng dậy, có gan trêu chọc chim chóc thì phải chấp nhận bị rượt, gặp chuyện gì cũng biết tự mình đối mặt.

Hai tay Tiểu Yêu chi chít sẹo do chim chóc mổ, bù lại, bé tự động học được cách đối phó, dần dà đã trở thành Tiểu Bá Vương trong Y Thanh viên, đám hạc tiên, uyên ương, cò vạc nhác thấy bé liền bỏ chạy, trong khi những giống ưng biển, diều hâu, đại bàng lại kết bạn với bé, cùng nhau nô giỡn.

Một hôm, A Hàng đang ngồi trên tảng đá bên bờ suối, ngắm nhìn Tiểu Yêu chơi đùa.

Đột nhiên nghe sau lưng vang lên tiếng bước chân, nàng giật mình ngoảnh đầu, thấy một bà lão đang rảo bước tiến lại, chẳng rõ là cung nhân ở điện nào.

Lão bà đến trước mặt nàng quỳ xuống dập đầu thưa: “Tuấn Đế muốn gặp vương phi.”

A Hành thoáng ngớ người rồi sực hiểu ra Tuấn Đế này không phải Thiếu Hạo, mà là Tuấn Đế tiền nhiệm sống trên đỉnh núi thứ năm. Biết Thiếu Hạo rất kỵ điều này, nàng trầm ngâm không nói, thấy vậy, bà lão càng dập đầu lia lịa, vật nài: “Bệ hạ chẳng được bao lâu nữa đâu.” Vừa dứt lời, nghe có tiếng chân người tiến lại, bà ta vội vã đứng dậy, thoắt cái đã lẩn vào cánh rừng rậm rạp.

Hai ả thị nữ hớt hải chạy đến, “Vừa nãy chúng nô tỳ hơi sơ ý, hình như đã để ai đó lẻn vào.”

A Hành cười: “Các ngươi hoa mắt đấy thôi, trong vườn thường có chim chóc lẩn khuất dưới bóng cây, mọi khi ta cũng hay trông nhầm là người lắm.”

Đuổi hai ả thị nữ đi rồi, A Hành bế xốc Tiểu Yêu đang bắt cá cùng chim ưng biển dậy, hỏi: “Mẹ con ta đi chơi với ông nhé, chịu không?”

Tiểu Yêu chẳng hiểu ông là thế nào, nhưng vẫn vui vẻ vỗ tay, “Ông, ông! Thích ông cơ!”

A Hành liền gọi Liệt Dương và A Tệ lại, cùng đến Kỳ viên trên đỉnh núi thứ năm.

Đỉnh núi thứ năm canh gác nghiêm ngặt, rất khó xâm nhập. A Hành đành giả truyền ý chỉ của Thiếu Hạo, lấy cớ “Tiểu Yêu cứ đòi gặp ông nội, bệ hạ bèn bảo ta ẵm nó đến đây thăm Người.” May sao người ngoài đều tưởng rằng vợ chồng bọn họ ân ái mặn nồng nên chẳng hề hoài nghi nàng, hơn nữa, họ cũng biết Thiếu Hạo hết lòng chiều chuộng con gái, bé đòi sao nhất định y không ban trăng.

Đám thị vệ có phần do dự: “Bệ hạ có chỉ, trừ Ngài ra không cho phép bất kỳ ai vào cả.”

A Hành gỡ mảnh ngọc giác đeo trên cổ Tiểu Yêu xuống, ném vào mặt tên thị vệ, thứ này hôm qua Tiểu Yêu giật được trên người Thiếu Hạo, thấy cô bé thích thú, y cũng mặc cho cô bé lấy đem đi chơi.

“Các ngươi nghi ngờ ta giả truyền thánh chỉ ư?”

Đám thị vệ hốt hoảng quỳ rạp cả xuống, Tiểu Yêu thấy A Hành vẫn chưa đi, liền sốt ruột ngúng nguẩy, hét lên đòi: “Ông, ông! Thích ông cơ!”

Các thị vệ đưa mắt nhìn nhau, lập tức tránh đường.

A Hành ẵm Tiểu Yêu bước vào Kỳ viên.

Trên đỉnh núi này có một dòng suối băng thiên nhiên gọi là Kỳ trì, Tuấn Đế đời nào đó đã cất một khu vườn dựa theo mạch suối ấy, cho người đào thêm mấy hồ nhỏ rồi dẫn nước từ suối băng chảy vào, đem bùn đất đào dưới hồ lên đắp thành một hòn đảo nhỏ, tạo nên một cảnh tượng lạ lùng: trên đảo có hồ, giữa hồ có đảo, bởi thế mà thành tên Kỳ viên.

Suốt dọc đường cây cao rợp bóng, bên hồ tha thướt tử đằng, thả bộ giữa những đình đài lầu gác, dị thảo phồn hoa, sóng nước dập dờn, cầu nhỏ hành lang thông nhau, quanh co ngoắt ngoéo cũng có một ý vị riêng. Đình đài lầu gác nơi đây đều có tên riêng, lấy cảnh làm tên, dùng tên tả cảnh. A Hành không khỏi cảm thán, muốn trở nên hùng mạnh có lẽ chỉ một đời là đủ, nhưng muốn phong thái thì phải tích lũy hết đời này sang đời khác mới thành, cứ so cung điện của Hiên Viên với Cao Tân thật chẳng khác nào so tay giàu xổi với môn đệ thư hương, hèn chi đám con nhà quyền quý chẳng rẻ rúng kẻ nghèo khổ bần hàn.

Tuấn Đế ở Hồng Liễu Lô, hai cung nữ già đang hầu hạ ông, thấy A Hành tiến lại vội lau nước mắt quỳ xuống. A Hành giao Tiểu Yêu cho hai người bọn họ, bảo họ dắt cô bé ra ngoài chơi.

Tuấn Đế đang thiêm thiếp trên sạp, hai má hóp lại, đầu tóc bạc phơ, già hơn hẳn lần gặp trước. Nghe A Hành khe khẽ gọi “Phụ vương”, ông mở mắt, gượng cười, “Con đến rồi ư? Xem ra vẫn còn người biết viết hai chữ ‘nghĩa tình’.”

Nhìn Tuấn Đế, A Hành hết sức băn khoăn. Theo lý mà nói, “thuốc độc” nàng chế ra đã tự hóa giải từ lâu rồi mới phải, sao thân thể ông lại càng ngày càng yếu thế này? Nàng vội quỳ xuống bên giường, cầm tay ông lên thăm bệnh, thúc đẩy linh lực vận hành hết một vòng trong người Tuấn Đế, nàng vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, thấy lòng trầm hẳn xuống, thì ra ông đã trúng thêm một loại độc khác, độc vào đến cao hoang, không thuốc nào trị nổi.

Trông sắc mặt nàng, Tuấn Đế chỉ cười bảo: “Ta biết mệnh mình chỉ còn trong sớm tối, nhưng cũng chẳng sao, dù gì lâu nay ta sống cũng không bằng chết.”

A Hành rưng rưng hai hàng nước mắt. Từ khi gả đến Cao Tân, Tuấn Đế vẫn luôn đối tốt với nàng, coi nàng là tri kỷ, nhưng nàng lại khiến ông từ một công tử hào hoa phong lưu nho nhã biến thành một lão già hấp hối gầy mòn tiều tụy thế này.

Tuấn Đế nói: “Gọi con tới vì có một chuyện ta vẫn canh cánh trong lòng, thực ra nhờ vả con chuyện này cũng không tiện lắm, nhưng Thiếu Hạo canh giữ quá nghiêm ngặt, nghĩ đi nghĩ lại chỉ mình con mới tới được đây thôi.”

“Phụ vương, chỉ cần con làm được, con nhất định sẽ gắng hết sức.”

“Chuyện đến nước này thì chẳng ai xoay chuyển nổi càn khôn nữa, tiếc rằng bọn Yến Long, Trung Long vẫn không chịu nhận ra. Lần trước Thiếu Hạo nhận lời với ta, chỉ cần ta tham dự sinh nhật của Dao Dao, nó sẽ tha mạng cho Yến Long, nhưng ta không tin nó được. Hiện giờ Thiếu Hạo còn giữ mạng bọn họ lại là để uy hiếp ta, sợ rằng một mai ta chết đi, nó sẽ xuống tay hại họ, con giúp ta cứu lấy hai mẹ con Yến Long được không?” Tuấn Đế run rẩy lần tay xuống gối mò mẫm. A Hành vội giúp ông rút một vuông vải trắng xé từ áo cánh ra, bên trên chi chít chữ viết bằng máu.

“Con giao thư này cho Yến Long.”

Tuấn Đế lại loay hoay tháo chiếc nhẫn ngọc tên tay ra, đặt vào tay A Hành. Nhẫn ngọc liền biến thành một chiếc hộp thủy ngọc, bên trong đặt một bàn tay đứt, nhờ có Quy khư thủy ngọc bảo hộ, lại được sinh khí của Tuấn Đế bù trì nên vẫn còn tươi nguyên như vừa mới rời thân thể.

Tuấn Đế giải thích: “Đây là tay của Yến Long, từ nhỏ nó coi đàn như tính mệnh, nghề đàn quán tuyệt thiên hạ, vậy mà bị đứt mất bàn tay, không thể gảy đàn được nữa. Ta vẫn luôn ăn năn vì chuyện đó, bèn tìm danh y khắp nơi giúp nó nối lại bàn tay.”

“Phụ vương, con biết y thuật, có thể nối bàn tay lại cho Yến Long mà.”

“Khỏi cần, con chỉ cần đưa mấy thứ này cho Yến Long là được, trong thư ta đã dặn Yến Long đích thân dâng bàn tay ấy lên Thiếu Hạo rồi.”

Hiểu ra nguyên do bên trong, A Hành không ngăn nổi lệ rơi lã chã.

Tuấn Đế lại nói: “Con nhắn lại với Thiếu Hạo rằng, nó không phải một đứa con ngoan, cũng không phải một huynh trưởng tử tế, chỉ mong nó có thể làm một vị vua tốt.”

Hơi thở của Tuấn Đế chợt dồn dập hẳn lên, nhận ra ông đang tự tán linh lực, A Hành vội kêu to: “Phụ vương, Người đừng như thế mà!”

Tuấn Đế dùng sức siết chặt lấy tay nàng: “Thiếu Hạo có gan hạ độc nhưng lại không có gan tới gặp ta lần cuối, con đã là vợ nó, tội của nó, con cũng phải gánh một nửa, đành phiền con tiễn ta một chặng cuối cùng.”

Linh thể của ông bắt đầu tiêu tán, thân mình không ngừng run bắn lên vì đau đớn, thân thể A Hành cũng run lên theo, nàng phải chịu lấy tất cả đau đớn từ Tuấn Đế, muốn rút tay ra mà không sao rút được, “Phụ vương, con xin Người, Người đừng như vậy mà!”

Hai mắt Tuấn Đế càng lúc càng trợn ngược, gương mặt méo mó đáng sợ, bàn tay càng lúc càng siết chặt A Hành, như muốn cấu vào thịt nàng, để nàng mãi mãi ghi khắc nỗi đau đớn mà ông phải chịu đựng khi hấp hối.

A Hành phải trơ mắt nhìn ông vật vã lìa trần mà chẳng thể làm gì được, chỉ biết gào khóc gọi “phụ vương”.

Sự sống dần dần rời khỏi ông, những đau đớn cũng từ từ giảm xuống, bàn tay Tuấn Đế trượt xuống khỏi cổ tay nàng, bấy giờ nàng lại cuống quýt nắm chặt lấy tay ông, như muốn níu giữ chút hơi tàn sau cuối.

Cặp mắt Tuấn Đế dần ảm đạm, đầu ngật ra gối, vừa khéo đối diện với song cửa.

Tuấn Đế đờ đẫn nhìn ra bên ngoài, khóe miệng hơi hé nụ cười, bờ môi tái ngắt khẽ mấp máy, tựa hồ muốn nói gì đó.

A Hành vội ghé tai lại lắng nghe.

“Mỹ nhân đào, mỹ nhân…”

A Hành ngơ ngác, “Phụ vương, người muốn gặp mỹ nhân nào cơ?”

Tuần Đế mỉm cười, vẻ mặt thanh thản, thở hắt ra một hơi cuối cùng, đáy mắt vẫn in bóng cây đào rợp hoa ngoài song cửa.

“Phụ vương, phụ vương…”

Vị quân vương phong lưu nho nhã nhất đại hoang, một trong Tam đại đế vương, đàn sáo sênh ca dưới bóng hoa giữa buổi hoàng hôn, mặc tình phóng túng trên hồ biếc khói mờ, người đẹp quây quần, con cái hàng đàn, vậy mà cuối cùng lại bị giam lỏng trong một khu vườn, cô độc chết đi giữa giường lạnh chăn đơn.

A Hành phủ phục bên giường, khóc lóc thảm thiết. Tuy chẳng phải nàng giết hại Tuấn Đế, nhưng thảm kịch ngày nay lẽ nào nàng không góp phần?

Thiếu Hạo phát hiện A Hành giả truyền ý chỉ, tự tiện lẻn vào Kỳ viên, lập tức bỏ hết mọi việc, phăng phăng đi thẳng đến đó, lòng đầy tức giận. Vừa bước lên cầu, nghe thấy tiếng khóc nức nở của nàng, y bỗng ngừng phắt lại, sững sờ nhìn về phía Hồng Liễu Lô thấp thoáng sau giàn tử đằng tím ngắt.

Trước Hồng Liễu Lô lăn tăn sóng biếc, bạt ngàn hoa liễu[1] đỏ rực như lửa, một cơn gió nổi thổi tung muôn vàn cánh hoa đỏ bay cả vào màn, chim quyên đầu cành vẫn da diết từng tràng “không khổ, không khổ” như đang kêu ra máu tiễn biệt bậc quân vương.

[1] Liễu ở đây không phải cây dương liễu, mà là một loại cây lá kim, hoa nhỏ li ti, có màu trắng hoặc đỏ, sinh trưởng bên bờ nước hoặc ngay dưới nước. (ND)

Thiếu Hạo nắm chặt lấy trụ cầu chạm trổ, gân xanh nổi đầy tay, mắt loáng ánh lệ.

Dưới cầu nước chảy lững lờ, mặt nước lăn tăn phản chiếu bóng người áo trắng, ngũ quan đoan chính, mày mắt vì bi thương đã chẳng còn uy thế trang nghiêm của núi non, lại thêm vài phần ôn hòa như nước, thoạt trông giống hệt người đó, tựa hồ ông đang đứng ngay trước mặt, Thiếu Hạo giật thót mình, luống cuống che mắt, chẳng dám nhìn nữa.

Không kiềm chế nổi, nước mắt đã thấm qua kẽ tay.

Tiếng quyên vẫn diết da, da diết: “Không khổ, không khổ.”

A Hành thẫn thờ như một u hồn bước ra khỏi phòng, bắt gặp Thiếu Hạo đang đứng lặng trước cửa.

“Chàng đã ưng thuận với thiếp những gì? Người là cha ruột của chàng kia mà! Yến Long năm lần bảy lượt hãm hại chàng, lần nào cũng là tội chết, nhưng Người chưa bao giờ có ý xuống tay giết chàng!” A Hành phẫn nộ vung tay lên, Thiếu Hạo cũng chẳng hề né tránh, bốp một tiếng, nhận ngay cái tát.

A Hành nước mắt như mưa, giơ hai tay lên hỏi dồn Thiếu Hạo, “Sao chàng lại khiến thiếp trở thành hung thủ? Chàng có biết phụ vương đã bóp chặt tay thiếp, để thiếp cảm nhận cái chết của ông không? Ông muốn trừng phạt thiếp…” Trên cổ tay nàng hằn rõ hai dấu tay tím bầm, ăn sâu vào da thịt.

“Ta xin lỗi!” Thiếu Hạo vòng tay ôm lấy nàng, vùi mặt vào mái tóc thướt tha, người không ngừng run bắn lên, y chẳng rõ mình đang an ủi nàng, hay đang tự tìm lấy chút an ủi cho chính bản thân mình nữa.

A Hành vùng vẫy đẩy y ra, khóc không thành tiếng, “Rốt cuộc là vì sao hả? Chàng đã giam lỏng phụ vương, cướp đoạt tất cả của Người, sao còn phải hạ độc giết ông?”

Thiếu Hạo làm thinh không đáp.

Y từng ngây thơ nghĩ rằng chỉ cần giam lỏng phụ vương là sẽ kết thúc được mọi chuyện, tiếc rằng không phải. Cải cách mà y đang tiến hành sẽ đập tan vô số lợi ích của đám vương công quý tộc, hễ phụ vương còn sống ngày nào, bọn quý tộc đó còn lăm le bàn mưu tính kế ủng hộ phụ vương quay về khôi phục lại vương vị ngày đó. Bất luận thế nào, bọn Trung Dung cũng sẽ không nhượng bộ, trước giờ chúng vẫn luôn từng bước bức bách, mưu mô lật đổ y. Nếu chúng khôi phục lại được vương vị của phụ vương, y sẽ trở thành loạn thần tặc tử, cướp đoạt ngai vàng, bị loạn đao phân thây. Một nước không thể có hai vua, không sống thì là chết, y còn đường nào khác nữa đâu?

Thanh Dương nói đúng, con đường này đã bước lên thì chẳng thể quay lui, chỉ còn cách bước thẳng đến cuối đường. Thanh Dương đã nhận ra từ sớm nên không chịu bước lên, còn y…

Nhưng, dù có biện hộ bằng bao nhiêu lý do bất đắc dĩ thì y cũng đã đầu độc phụ vương! Hành động của y rất đáng bị người thân oán hận, miệng đời phỉ nhổ.

Thiếu Hạo càng lúc càng ưỡn thẳng mình, vẻ mặt cũng mỗi lúc một lạnh băng.

A Hành nhìn Thiếu Hạo, sợ sệt lui dần từng bước, như nhìn thấy một kẻ hoàn toàn xa lạ.

Thấy vẻ mặt và hành động của nàng, lòng y thắt lại, đau đớn tưởng chừng nghẹt thở. Vậy mà nét mặt y lại càng lúc càng bình thản, khóe môi mím chặt, không nói một lời.

Hai cung nữ già đã dắt Tiểu Yêu quay lại tự bao giờ, bọn họ quỳ mọp dưới đất, đầu dán sát xuống nền, âm thầm rơi nước mắt.

Tiểu Yêu đứng bên, tay cầm một cành đào đỏ thắm, ngơ ngác nhìn cha mẹ: “Cha, mẹ?”

Bên cầu có trồng một gốc đào, có lẽ vì khí hậu nơi này khá đặc biệt nên gốc đào vẫn còn trổ hoa, những đóa đào cánh kép đỏ rực trĩu cành.

A Hành chợt thẫn thờ tiến lại phía cội đào, mặc Tiểu Yêu réo gọi, nàng cũng chẳng hề phản ứng.

Đứng dưới gốc cây, nàng ngước lên ngắm hoa đào nở rực cành, lại ngoảnh trông về phía phòng Tuấn Đế, vừa khéo nhìn xuyên được qua cửa sổ, thấy gương mặt ông vẫn giữ nguyên nụ cười an lành, ánh mắt nhắm nghiền như thể đang ngắm hoa thì mơ màng thiếp ngủ. Nàng cười mà nước mắt rưng rưng, “Thì ra gốc đào này gọi là mỹ nhân đào.”

Thấy Thiếu Hạo ngỡ ngàng không hiểu, nàng liền giải thích: “Chàng còn nhớ không? Lần đó phụ vương triệu thiếp vào Thừa Ân cung ngắm hoa, đang định giảng giải cho thiếp nghe về gốc đào hiếm có này thì chàng đột ngột xông vào cắt ngang câu chuyện, người cười gọi chàng lại cùng thưởng hoa, còn kể rằng hồi chàng nhỏ xíu, ông đã nói cho chàng biết tên loại đào này, nhưng chàng bỏ ngoài tai tất cả, chỉ một mực đòi ông hạ chỉ giam cầm Yến Long… Từ khi bị giam lỏng ở đây, phụ vương chỉ sợ không thể thật sự thưởng ngoạn cội đào này nữa, vừa rồi ngài mới tiết lộ cho thiếp biết, giống đào này tên gọi mỹ nhân đào.”

Thiếu Hạo ngước mắt ngắm gốc mỹ nhân đào, chỉ thấy hoa nở đầy cành, cười ngạo trong gió. Y làm sao quên được cái tên mỹ nhân đào, năm y lên năm tuổi, phụ vương họa một bức tranh đào hoa mỹ nhân, mỹ nhân là mẹ ruột y, hoa đào chính là mỹ nhân đào, phụ vương còn cầm tay y viết một bài thơ tưởng nhớ mẫu thân lên bức họa.

A Hành thì thầm yếu ớt: “Phụ vương đã tha thứ cho chàng rồi.”

Tuấn Đế vốn rất căm hận Thiếu Hạo hạ độc giết mình, đến nỗi còn bắt vương phi của y phải nếm trải nỗi đau đớn lúc lâm chung cùng mình để trừng phạt, nhưng trong khoảnh khắc trước khi lìa trần, qua cửa sổ, ông chợt trông thấy cả cây đào nở đầy hoa rực rỡ. Phút giây ấy, ông đã buông bỏ hết thảy, mỉm cười tiết lộ với A Hành: “Đó là mỹ nhân đào.” Trong khoảnh khắc cuối cùng, điều duy nhất mà ông đinh ninh mãi chẳng quên không phải là vương vị, cũng không phải hận thù, mà là tất cả những gì tốt đẹp ông từng có trong đời. Hẳn Tuấn Đế đã quên hết những mâu thuẫn giữa cha con, chỉ còn nhớ cái ngày ông bồng Thiếu Hạo, hai cha con vừa cười đùa vừa ngắm hoa đào.

Thiếu Hạo trân trân nhìn những đóa hoa đào nở đầy cành, sắc mặt tái ngắt, toàn thân run bắn, đột nhiên y quay phắt người lao vào phòng, khuỵu xuống trước giường Tuấn Đế, gục đầu lên cánh tay ông, mãi một lúc lâu mới loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc tấm tức khẽ đến không thể nghe nổi.

A Hành cúi xuống bế xốc Tiểu Yêu lên, vừa khóc vừa chạy đi. Tiểu Yêu giơ tay lau nước mắt cho mẹ, bắt chước mẹ nói giọng dỗ dành, “Mẹ, mẹ ngoan nào, đừng khóc!”

Chim quyên trên cành đào nghiêng đầu nhìn Thiếu Hạo quỳ sụp trước giường, da diết kêu thương: “Không khổ, không khổ…”

Nếu đời không có khổ đau, có lẽ sẽ chẳng phải rơi nước mắt, nhưng phàm là người ai cũng có thất tình lục dục, thất tình lục dục đều là khổ, mà nỗi khổ đau nhất trong những khổ đau chính là yêu không được, hận cũng không đành.

Ngay đêm đó, A Hành lẻn và địa lao dưới Ngũ Thần sơn.

Địa lao này xây bằng long cốt, lại được thêm linh khí của Ngũ Thần sơn, chuyên dùng giam nhốt những kẻ có linh lực trong Thần tộc và Yêu tộc. Toàn bộ địa lao có ba tầng, phạm nhân càng ở tầng dưới thì linh lực càng cao, thế nên cũng chẳng mấy ai đủ tư cách để bị giam ở tầng thứ ba.

A Hành nhìn quanh, thấy bốn bề rờn rợn âm khí, chẳng biết Yến Long bị giam ở đâu.

Chợt loáng thoáng nghe thấy tiếng nhạc đứt quãng, nàng vội đi theo âm thanh đó, càng đi tiếng nhạc càng rõ dần lên. Chẳng biết là khúc nhạc gì, mà nghe êm tai khôn xiết.

A Hành khẽ khàng tiến lại, trông thấy Yến Long đầu bù tóc rối ngồi bệt dưới đất, trước mặt bày một hàng những chén bể bát vỡ, cái to cái nhỏ, bàn tay còn lại đang cầm một miếng ngọc bội gõ lên đám bát vỡ. Những chén bát này cái to cái nhỏ, âm thanh phát ra cũng khi bổng khi trầm, hợp lại thành một khúc nhạc.

Nàng dừng chân lặng lắng tai nghe, nhớ lại mấy trăm năm trước, dưới gốc đa, cạnh bụi dâm bụt, Yến Long áo gấm đai vàng, thần thái phiêu dật, đi đứng thong dong, để cầu một lời hứa của Tây Lăng công tử, hắn chẳng nề hạ mình, bỏ cả tôn nghiêm vương tử, mặc ý cho nàng sai khiến.

Yến Long xuất thân cao quý, dung mạo hơn người, từ nhỏ lại cần cù học tập, thông minh xuất chúng, còn trẻ mà đã sáng chế ra Âm Tập chi thuật vang danh thiên hạ, trong lúc cười nói chuyện trò, chỉ một khúc đàn mà tiêu diệt được thiên quân vạn mã. Chắc hẳn hắn cũng từng mong được tung cánh bay cao nơi bệ vàng thềm ngọc, ấp lục ôm hồng thúc ngựa phi nhanh, lông trĩ áo cừu chỉ điểm giang sơn. Chỉ tiếc rằng, đã sinh ra Yến Long, sao còn sinh ra Thiếu Hạo? Ngai vàng chỉ có chỗ cho một người duy nhất, thắng làm vua thua thì làm giặc mà thôi.

Yến Long tấu xong khúc nhạc mới ngẩng lên nhìn người đến, chẳng nói năng gì, chỉ ngồi tựa vào tường, mỉm cười nhìn A Hành.

A Hành bước đến trước cửa ngục, chợt thấy miệng khô khốc, nói không nên lời.

Yến Long châm chọc: “Nửa đêm vương phi lặn lội đến tận đây chỉ để chiêm ngưỡng bộ dạng thảm hại của ta thôi ư?”

A Hành trao cho hắn chiếc nhẫn ngọc có chứa bàn tay đứt cùng bức thư ghi trên lụa trắng của Tuấn Đế. Yến Long ghé sát vào ánh lân tinh lập lòe trong nhà lao, đọc lướt qua bức thư rồi thẫn thờ lần tay lên những nét chữ viết bằng máu trên mặt lụa, âm thầm rơi nước mắt.

“Phụ vương đi lúc nào?”

“Chiều nay.”

Hai tay Yến Long nắm chặt vuông lụa, gục đầu vào đó, chẳng trông rõ được vẻ mặt, chỉ thấy toàn thân hắn run lên bần bật.

Một lúc lâu sau, hắn ngẩng lên hỏi: “Người đi có bình yên chăng?”

A Hành thoáng nghĩ ngợi rồi đáp: “Ngoài cửa sổ phòng phụ vương có một cây đào đang trổ hoa, câu nói cuối cùng của người trước lúc ra đi là: ‘Đó là mỹ nhân đào.’”

Yến Long cười khẽ: “Phụ vương vẫn vậy, hồi nhỏ, các sư phụ ra sức đốc thúc ta chăm chỉ học hành, chỉ hận không thể bắt ta học thâu đêm suốt sáng, vậy mà phụ vương lại lén dắt ta ra vườn đi dạo, dạy ta phân biệt các loại cá vàng khác nhau. Có hoa nở đầy cành đưa tiễn, hẳn Người ra đi cũng không đến nỗi quá đau đớn.”

A Hành thấy khóe mắt cay cay, “Ta phải đi đây, ngươi có cần gì không?”

Yến Long mấp máy môi, nhưng rồi chỉ lắc đầu, không nói một lời. Bàn tay hắn vô thức máy động, nhìn kỹ đều là những động tác gảy đàn. Kẻ nghiện rượu không thể thiếu rượu một ngày, Yến Long là kẻ mê nhạc, hàng ngày không thể rời đám nhạc cụ, nhưng nhạc khí trong tay Yến Long lại là thần binh lợi khí, đương lúc một bàn tay Yến Long còn chưa biết ở đâu, Thiếu Hạo sao có thể để hắn chạm vào nhạc cụ được.

A Hành vừa ra khỏi địa lao chưa được mấy bước đã thấy Thiếu Hạo đứng dưới trời sao, gió thổi vạt áo trắng bay phần phật.

Thấy sự việc đã bại lộ, A Hành liền gỡ luôn khăn che mặt ra: “Chàng cũng phải có lúc đoán sai chứ hả?”

Thiếu Hạo bình thản đáp: “Không phải ta tính toán chu toàn, mà là nàng đã quá sơ suất. Địa lao dưới Ngũ Thần sơn được xây dựng từ thời Bàn Cổ Đại Đế, trải qua bảy đời Tuấn Đế không ngừng gia cố, nơi này còn nghiêm mật hơn cả hoàng cung, nếu không phải ta cố ý để nàng vào, nàng làm sao vào được?”

A Hành cảnh giác hỏi: “Chàng muốn thế nào đây?”

Nhìn thái độ A Hành, Thiếu Hạo chợt thấy lòng đau nhói, nhưng y vẫn giữ vẻ thản nhiên, ra lệnh cho đám người phía sau A Hành: “Đưa những nhạc cụ tốt nhất trong cung vào phòng giam để Yến Long lựa chọn.”

“Vâng!” Mấy kẻ nấp trong bóng tối vội hành lễ với Thiếu Hạo.

A Hành liếc Thiếu Hạo, chẳng nói chẳng rằng, lướt qua người y đi thẳng lên núi, bỏ lại Thiếu Hạo một mình đứng lặng, hồi lâu không động đậy.

Thị vệ bưng đến một chiếc hộp thủy ngọc: “Tội thần Yến Long tâu rằng mình cam lòng nhận tội, nhờ dâng chiếc hộp này lên bệ hạ.”

Thiếu Hạo tiện tay cầm ngay lấy, chẳng buồn nhìn, gọi Huyền điểu lại rồi bay thẳng đến Quy khư.

Thanh Dương vẫn lặng lẽ nằm trong quan tài băng. Thiếu Hạo ngồi xuống bên áo quan, mở hộp ra, trông thấy bên trong là bàn tay đứt của Yến Long, y không nén được phá lên cười. Phụ vương của y vốn không tin y, còn nghĩ ra cách này để chứng minh Yến Long không có ý kình chống lại y nữa, xin y tha mạng cho Yến Long.

Thiếu Hạo vừa cười thảm thiết, vừa quăng cả bàn tay đứt lẫn hộp ngọc đi rồi bưng vò rượu bảo Thanh Dương: “Uống với ta nhé, hôm nay hai ta không say không về!” Mọi điều Thanh Dương nói đều đúng cả, từ khi hạ quyết tâm bức cha thoái vị, y đã định sẵn sẽ bị người người xa lánh, từ nay về sau, cũng chỉ có Thanh Dương dám uống rượu cùng y, nghe y trò chuyện mà thôi.

Uống rượu một mình rất dễ say, chẳng bao lâu Thiếu Hạo đã ngà ngà say, mơ màng hỏi Thanh Dương: “Ngươi muốn nghe ta đàn không?”

Thanh Dương lặng thinh không đáp.

Thiếu Hạo so dây gảy một khúc dân ca Cao Tân, người ở Cao Tân ai cũng biết hát. Gảy mãi gảy mãi, toàn thân y chợt co rúm lại, gập người nôn ọe, như muốn nôn cả lục phủ ngũ tạng ra ngoài. Thiếu Hạo cười phá lên, vỗ vào áo quan: “Thanh Dương, đây là khúc nhạc đầu tiên phụ vương dạy ta đàn, hồi đó ta vừa mới bi bô học nói, ông đã cầm tay dạy ta đánh đàn, còn nói rằng người quân tử có cây đàn làm bạn thì vĩnh viễn chẳng bao giờ phải tịch mịch… Ha ha… Ta đã giết chết cha ruột, người dạy ta đánh đàn, mà còn mong mượn tiếng đàn bầu bạn để xua tan cô độc ư… Ha ha ha… Trên đời còn kẻ nào vô liêm sỉ hơn ta không chứ?”

Thiếu Hạo vung tay đập xuống, tuyệt đại danh cầm lập tức gãy đôi, y thả cả cây đàn chìm xuống Quy khư, người dạy y đánh đàn đã bị y chính tay hại chết, y còn mặt mũi nào đánh đàn nữa đây?

Thiếu Hạo say khướt nằm vật cạnh quan tài, bưng vò rượu nốc ừng ực, chỉ trong nháy mắt, cả vò rượu đã cạn sạch. Y cười: “Thanh Dương, ngươi cũng uống đi!” Thấy Thanh Dương say giấc, chẳng hề động đậy, Thiếu Hạo liền nổi giận, “Ngay cả ngươi cũng sợ ta, không dám uống rượu ta cất sao? Ta đâu có hạ độc vào rượu!” Nói rồi y mở nắp quan tài, bưng vò rượu cố dốc vào miệng Thanh Dương, rượu đổ ra ướt đẫm hai má Thanh Dương, làm mờ cả gương mặt y.

Đột nhiên, Thiếu Hạo giật nảy mình, vò rượu đang giơ lên nửa chừng khựng lại. Nhìn những vò rượu la liệt dưới đất, y chợt lạnh cả người. Tất cả ở đây đều là rượu do y cất, có những vò đã niêm phong đem cất từ hơn ngàn năm trước, Thanh Dương nài nỉ mấy lần mới được y tặng cho một vò. Y có thể gạt người khác rằng Thanh Dương còn sống, nhưng không thể gạt chính bản thân mình được, trên đời này, đã chẳng còn kẻ biết phẩm bình rượu y cất, cùng y chuốc chén say mèm nữa rồi.

Rượu không người uống, y còn cất để cho ai?

Thiếu Hạo vừa loạng choạng bước đi vừa vung tay lên, lần lượt đập vỡ từng vò từng vò rượu, chẳng bao lâu, trên mặt đất đã chẳng còn một vò rượu nào nữa.

Đã không còn ai uống rượu y cất, từ nay trở đi, y sẽ không bao giờ cất rượu nữa.

Mấy ngày sau, Thiếu Hạo thông báo toàn dân thiên hạ rằng Tuấn Đế đời thứ bảy đã qua đời vì bệnh, cả Cao Tân quốc để tang.

Tin truyền đến địa lao dưới Ngũ Thần sơn, Tuấn Hậu đã bị phế truất nhân một đêm mưa gió bão bùng bèn dẫn lửa trời xuống, tự thiêu rụi linh thể mà chết.

Thiếu Hạo xuống chiếu khôi phục lại phong hiệu cho Tuấn Hậu, cho phép đưa vào vương lăng, táng bên mộ Tuấn Đế cùng vị Tuấn Hậu đầu tiên đã qua đời từ lâu, kẻ bên trái người bên phải bầu bạn với Tuấn Đế.

Hôm phát tang, Thiếu Hạo cũng thả Yến Long bị giam dưới Ngũ Thần sơn ra. Yến Long khóc ngất trước quan tài Tuấn Đế và Tuấn Hậu, năm người bọn Trung Dung cũng khóc gào thảm thiết, tưởng chừng không đi nổi.

Từ đầu đến cuối, Thiếu Hạo vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên, chẳng hề lộ vẻ buồn bã, như thể kẻ được chôn cất đây không phải cha y vậy.

Trung Dung cao giọng chỉ trích y bất hiếu trước mặt mọi người, Thiếu Hạo cũng làm thinh không đáp, chỉ lạnh lùng trừng mắt nhìn hắn rồi quay người đi.

Tuy không để lộ vẻ buồn thương nhưng thân thể Thiếu Hạo lại phản ánh rõ rệt nội tâm, người y chẳng mấy chốc mà xọp hẳn đi, vương bào mới đây còn vừa vặn, giờ khoác lên đã thấy rộng thùnh thình.

Trong mắt quần thần và dân chúng, Thiếu Hạo luôn là bậc quân tử khiêm tốn ôn hòa như ngọc, nhưng dần dà, bọn họ nhận ra y đã thay đổi, tựa hồ cùng với sự gầy mòn của thân thể, bản tính ôn hòa ấm áp của y cũng biến mất luôn.

Y càng lúc càng kiệm lời, hành động cũng mỗi lúc một thêm tàn khốc. Sau một trăm ngày Tuấn Đế, Thiếu Hạo liền lột bỏ tước vị của Trung Dung, biếm y ra một hòn đảo chơ vơ ngoài biển, tuy phong cảnh đẹp như tranh nhưng bốn bề đều là đại dương mênh mông, cách xa đất liền, cũng xem như một hình thức giam lỏng vậy. Yến Long bị phế làm dân thường, lột bỏ Thần tịch, mấy vị vương tử khác cũng kẻ bị biếm người bị đày. Đám võ tướng tích cực xúi giục Trung Dung làm phản đều đem ra lăng trì xử tử. Các triều thần dám mở miệng cầu xin cho họ cũng bị phạt nặng.

Chẳnh một ai dám kề vai sát cánh cùng Thiếu Hạo, chẳng một ai dám nhìn thẳng vào mắt y khi nói chuyện, chẳng một ai dám chất vấn mệnh lệnh y ban, cũng chẳng một ai dám lén lút hội họp bàn mưu lật đổ y nữa.

Thiếu Hạo không còn rèn sắt, cất rượu, cũng thôi hẳn gảy đàn, y không ham nữ sắc, chẳng mê ca múa, càng chẳng thích rong chơi, tựa hồ không có bất cứ thú tiêu khiển nào, suốt ngày chỉ vùi đầu vào công việc. Cách thư giãn duy nhất của y là mỗ khi mệt nhoài lại một mình cưỡi Huyền điểu bay đi ngắm đèn lửa vạn nhà trên khắp Cao Tân, chẳng ai hiểu y lấy đâu ra sở thích quái lạ này.

Dần dà mọi người cũng quên mất Thiếu Hạo ngày cũ ra sao, chỉ nhớ được một Thiếu Hạo kiệm lời ít nói, ánh mắt lạnh băng, vẻ mặt âm trầm, thân thể gầy đét mà ngạo nghễ khắc nghiệt như núi cao vạn trượng, khiến ai nấy đều khiếp sợ từ tận đáy lòng.

Full | Lùi trang 13 | Tiếp trang 15

Loading...

Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!

Chúc các bạn online vui vẻ !

Laptop Tùng Anh

Tour Phú Quốc

Vinhomes Cầu Rào 2

Trang Chủ