XtGem Forum catalog
Tiểu thuyết tình yêu

Tiểu Thuyết Tình Yêu

Đọc truyện tại Tiểu Thuyết Tình Yêu

Loading...

Truyện ngôn tình cổ đại - Từng thề ước - Trang 16

Full | Lùi trang 15 | Tiếp trang 17

Chương 14: Hẹn thề sinh tử mãi bên nhau[1]


[1] Trích trong bài Kích cổ (Gióng trống) trong Kinh Thi (ND)


Tòa cung điện này dựng nên vì Đồng Ngư, nhưng cả ngàn năm nay, ông chưa hề cùng Đồng Ngư sánh vai ngắm nhìn trăng sáng, ông đã không còn là ông năm ấy, nàng cũng không còn là nàng khi xưa, sánh vai cùng ngồi còn ý nghĩa gì nữa chứ. Có điều, chẳng rõ tại sao, sau một ngày mệt mỏi, ông luôn thích nằm dài ở đây, ngắm nhìn trăng sáng, dưới ánh trăng mờ ảo ấy, có ông một thời trẻ trung sôi nổi, còn có cả một thiếu nữ có thể làm chứng cho thời niên thiếu sôi nổi của ông. Có điều thời gian đằng đẵng xóa nhòa tất cả, ông đã chẳng còn phân rõ được người con gái mình nhung nhớ là ai, là cô gái yểu điệu run lên trong lòng ông, hay nàng thiếu nữ ngạo nghễ băng qua ánh trăng vằng vặc bước đến trước mặt ông, hay đều không phải?


A Tệ kêu lên một tiếng, nhắc A Hành rằng đã đến Triêu Vân phong.

A Hành lòng như dao cắt, chẳng còn dũng khí nào bước vào Triêu Vân điện, nhưng tin Chúc Dung và Xương Ý cùng chết chẳng bao lâu sẽ truyền khắp đại hoang, nàng không muốn để kẻ khác thông báo tin này cho mẹ. Nếu phải báo, chi bằng để nàng chính miệng báo với bà.

Nàng ôm Xương Phó bước vào Triêu Vân điện đúng lúc Luy Tổ đang dạy Chuyên Húc đọc sách. Nghe tiếng bước chân, bà mỉm cười ngẩng lên, trông thấy bộ dạng A Hành, bà liền biến sắc.

Chuyên Húc chạy nhao đến, “Mẹ, mẹ con làm sao thế? Cha đâu? Sao cha không về?”

Luy Tổ dịu giọng dỗ Chuyên Húc: “Con ra ngoài chơi đi, để người lớn nói chuyện.”

A Hành quỳ xuống trước mặt mẹ, môi run lên bần bật mà không thốt nổi nên lời. Giờ đây, cuối cùng nàng cũng hiểu được càm giác tuyệt vọng và tự trách của Đại ca khi quỳ trước mặt mẹ năm ấy.

Luy Tổ tái mét mặt, ngồi lặng giây lát, đột nhiên bà đứng phắt dậy, ôn tồn nói: “Con đi rửa mặt thay áo trước đi, để ta chăm sóc Xương Phó.”

“Mẹ…”

Luy Tổ xua tay: “Rửa mặt thay áo sạch sẽ rồi từ từ nói.”

A Hành vội vã rửa mặt rồi tới gặp mẹ. Xương Phó đã được thay y phục, đang nằm trên giường thiêm thiếp ngủ. Luy Tổ ngồi bên giường hai tay cầm chiếc áo của Xương Ý, dịu dàng vuốt đi vuốt lại.

A Hành khẽ khàng bước vào, quỳ xuống bên gối bà.

Luy Tổ khẽ hỏi: “Xương Ý anh dũng lắm phải không? Nó không bỏ lại thuộc hạ mà chạy thoát một mình chứ?”

A Hành nghẹn ngào, nói chẳng nên lời, chỉ có thể gật đầu. Luy Tổ mỉm cười, “Giỏi lắm, giống như ông ngoại nó vậy!”

“Mẹ!” A Hành nắm lấy tay bà, “Nếu mẹ đau lòng thì cứ khóc đi!”

Luy Tổ xoa đầu A Hành, dung nhan khô héo, thân tình tiều tụy, chỉ có đôi mắt là sáng rỡ, dường như tất cả sức lực còn lại đều kết tinh trong mắt, “Con ở đây trông chừng Xương Phó, tính nó cương cường, cứng quá thì dễ gãy, để ta đi thăm Chuyên Húc. Ta không muốn nó nghe ngóng tin cha nó từ miệng người khác, cha nó đã hy sinh anh dũng, phải đường đường chính chính nói cho nó biết.”

Luy Tổ cẩn thận gấp manh áo của Xương Ý lại, đặt bên gối Xương Phó rồi loạng choạng bước ra ngoài, ra đến rừng dâu, bà kéo tay Chuyên Húc, “Bà nội có chuyện muốn nói với cháu.”

Một già một trẻ lững thững thả bộ trong rừng dâu. Bước chân Luy Tổ loạng choạng, lưng còng gập xuống, nhưng bà vẫn là chỗ dựa tinh thần của tất cả đám trẻ.

“Xương Ý!”

Xương Phó vừa tỉnh giấc liền kêu thét lên, giơ tay ra chụp, nhưng chỉ chụp vào khoảng không.

A Hành đang đứng bên cửa sổ nhìn về phía Luy Tổ và Chuyên Húc, lập tức ngoảnh lại: “Tẩu tẩu.”

Xương Phó nhìn quanh, nhận ra bọn họ đang ở trong Triêu Vân điện: “Còn Xương Ý? Xương Ý đâu rồi?”

A Hành chẳng biết đáp sao cho phải. Xương Phó chằm chằm nhìn A Hành, tựa hồ đang cầu khẩn nàng ban cho mình chút hy vọng, ánh mắt ấy như một lưỡi dao nhọn, chốc chốc lại đâm vào tim A Hành khiến nàng đau đến không thở nổi, cũng không cách nào né tránh, bởi càng né tránh lại càng đau.

“Tứ ca, Tứ ca…” A Hành lúng túng, nói không nên lời.

Trông thấy chiếc áo đặt bên gối, ánh sáng trong mắt Xương Phó vụt tắt lịm, nàng nắm lấy vai A Hành lắc như điên dại, gào lên: “ Sao muội lại bỏ chạy một mình? Sao muội không cứu y? Y là Tứ ca của muội, sao muội không cứu y…” A Hành như một phiến lá vàng quay cuồng trong gió lớn, hoàn toàn không thể tự chủ, chỉ cần mạnh thêm chút nữa, có lẽ sẽ bị cuồng phong nghiền nát.

Xương Phó lắc lắc A Hành, thân thể chợt nhũn ra, đột nhiên nàng gục đầu vào vai A Hành, khóc ngất, “Vì sao? Vì sao…” Vì sao? Rõ ràng họ đã thề phu thê một lòng, cùng sống cùng chết, vì sao y không giữ lời thề, bỏ lại nàng một mình?

Nháy mắt trước đây thôi, y còn ôm nàng, hôn nàng, khiến nàng chìm trong hạnh phúc ngọt ngào, vậy mà giờ y đã tan xương nát thịt, tất cả đều thành mây thành khói. Nàng không tin! Xương Ý chưa chết, nhất định chưa chết!

Tiếng khóc của Xương Phó dần biến thành tiếng gào nát gan xé ruột, như một con thú đang rên rĩ khóc than. A Hành cũng không nén nổi nữa, nước mắt tràn ra như vỡ đê, nhưng nàng không dám khóc thành tiếng, đành mím chặt môi, gắng hết sức ưỡn lưng thật thẳng, không cho phép mình gục xuống.

Xương Phó khóc đến tan lòng nát ruột, bi nộ công tâm, ngất lịm đi.

A Hành không dám thả lỏng bản thân mà thương tâm khóc lóc, vội lau khô nước mắt, chăm non cho Xương Phó.

Luy Tổ dắt tay Chuyên Húc bước vào, chỉ một chốc lát ngắn ngủi, vậy mà Chuyên Húc dường như đã đột ngột lớn bổng, gương mặt bé bỏng đanh lại, nước mắt thập thò trên mi nhưng nó vẫn quật cường nín nhịn, nhất quyết không khóc, kìm nén đến nỗi đỏ bừng cả mặt.

Chuyên Húc đứng bên giường chạm tay vào mặt Xương Phó, vẻ mặt rất nghiêm trọng.

Luy Tổ bảo A Hành: “Con kể lại đầu đuôi mọi chuyện đi.”

Thấy A Hành chần chừ nhìn Chuyên Húc, Luy Tổ nói: “Hiện giờ nó là nam đinh duy nhất trong nhà ta, bất kể nó hiểu được đến chừng nào, cũng phải để nó nghe!”

Nhận ra ý tứ của Luy Tổ, A Hành chợt táo mặt: “Đại ca, còn Đại ca nữa mà!”

Luy Tổ bình thản nói: “Các con tưởng ta không biết ư? Thanh Dương là do ta sinh ra, một tay ta nuôi nấng từ nhỏ đến lớn. Hành nhi, con có thể không nhận ra con gái con không? Đó là núm ruột của con, nó cau mày hay nhoẻn miệng con đều rõ như lòng bàn tay. Vậy mà con và Xương Ý lại dám lớn gan giấu trời qua biển, nghĩ ra kế sách này.”

A Hành vội giải thích: “Mẹ, con, con… không phải tại Tứ ca, là tại con.”

“Ta hiểu nỗi khổ của các con, các con sợ ta đau lòng, sợ ta không chịu nổi, có điều các con xem thường mẹ mình quá. Hiên Viên quốc có ngày nay cũng là do ta một tay tạo dựng, tuy hiện giờ ta chẳng thể ra trận nữa, nhưng không có nghĩa là ta đã hồ đồ.”

A Hành quỳ xuống bên gối Luy Tổ, Luy Tổ quay sang bảo Chuyên Húc: “Cháu nghe cho kỹ, chỗ nào không hiểu cũng đừng hỏi, chỉ cần nhớ kỹ là được.”

A Hành bắt đầu thuật lại đầu đuôi câu chuyện, từ khi nàng phát hiện ra sự việc có điểm dị thường, phái Liệt Dương đưa thư về Hiên Viên cầu cứu, mượn binh Cao Tân, bị Thiếu Hạo cự tuyệt, cho đến khi Chúc Dung đem thân làm trận nhãn, dẫn cho núi lửa bùng nổ.

Luy Tổ từ đầu đến cuối không nói một lời, còn Xương Phó chẳng biết đã tỉnh lại tự lúc nào, cứ trừng trừng nhìn lên đỉnh màn, nghe A Hành kể chuyện.

Đột nhiên, Xương Phó lên tiếng hỏi: “Sao phụ vương không hề phát binh? Nếu chiến binh Thần tộc của chúng ta nhiều hơn nữa, chỉ cần có một vị Thần tộc đại tướng tinh thông trận pháp bày trận, dù Chúc Dung đem thân làm trận nhãn, chúng ta cũng không tới nỗi toàn quân bị diệt.”

A Hành nói: “Muội có thể lấy tính mạng ra bảo đảm, Liệt Dương tuyệt đối đáng tin, chiến dịch này hết sức quan trọng với Hiên Viên, nhất định phụ vương không muốn thua, chỉ cần ông nhận được tin, chắc chắn sẽ dốc toàn lực ngăn cản Chúc Dung, cách giải thích duy nhất chính là phụ vương không nhận được bức thư Liệt Dương đưa về.”

Kẻ nào dám chen ngang đoạt lấy thư tín gửi cho Hoàng Đế? Kẻ nào có thể lớn gan chừng ấy, lại có thể có năng lực ấy?

A Hành sực nghĩ ra, tức thì đau đớn trào lên cùng giận dữ, lạc giọng hỏi: “Đêm qua phụ vương nghỉ lại Chỉ Nguyệt điện ư?”

Luy Tổ đột ngột lảo đảo, ngã ngửa ra sau, A Hành vội đỡ lấy bà: “Mẹ, mẹ!”

Luy Tổ hơi tỉnh lại, liền quay sang nhìn Xương Phó khóc: “Xin lỗi con, là tại ta nuôi ong tay áo!”

Xương Phó nuốt lệ nói: “Mẹ, mẹ nói gì thế?”

Luy Tổ nước mắt vòng quanh: “Vì lỗi lầm thơi trẻ nên ta vẫn lấy làm áy náy với Đồng Ngư thị, thật không ngờ đã sai lại càng sai! Đáng lẽ ta phải nhận ra từ sớm, nếu đã phạm sai lầm, thà rằng bản thân bị trời phạt, cũng phải làm cho đến cùng, nếu năm xưa ta xuống tay tàn độc, giết phăng mẹ con Đồng Ngư thị đi, thì chẳng bao giờ có ngày này!”

Xương Phó gắng gượng bước xuống giường, quỳ xuống trước mặt Luy Tổ, khóc nức lên: “Mẹ, nếu mẹ còn tự trách bản thân nữa thì Xương Ý có chết cũng chẳng được yên lòng đâu.”

Luy Tổ ôm lấy Xương Phó và A Hành, khóc đến khàn giọng, A Hành và Xương Phó cũng lã chã nước mắt.

Chuyên Húc ngồi im một góc, nhìn mẹ, cô cô, và bà nội khóc nức nở, như hiểu mà lại không hiểu, chỉ đinh ninh nhớ lời dặn của bà, gắng nhớ lấy tất cả. Bà nội đã nói, hiện giờ cậu là nam tử hán duy nhất trong nhà, nhất định phải kiên cường.

Một cung nữ liêu xiêu chạy vào, “Vương hậu, cả đoàn người đang đến ngoài kia, họ đều mặc áo tang, chít khăn tang…”

Xem ra phụ vương đã nhận được tin nên phái người tới bẩm với mẫu hậu. A Hành nói: “Cứ nói chúng ta biết cả rồi, bảo bọn họ về đi.”

Cung nữ nọ luống cuống nuốt khan, lắp bắp thưa: “Không, không được đâu, cả Hoàng Đế cũng tới.”

Nhất thời, mọi người trong phòng đều lặng đi.

Luy Tổ căm giận quát: “Bảo ông ta cút về đi! Nói rằng ta không muốn gặp ông ta, đời này kiếp này không muốn trông thấy ông ta nữa!”

Thấy ả cung nữ kinh hãi há hốc miệng. A Hành liền đứng dậy kéo kéo tay áo ả, ý bảo ả theo mình ra ngoài, nào ngờ Xương Phó cũng đuổi theo: “Ta có lời muốn nói cùng phụ vương.”

A Hành và Xương Phó ra đến tiền điện, thấy Hoàng Đế toàn thân vận áo tang, vẻ mặt đau xót, vừa thấy A Hành liền hỏi ngay: “Mẫu hậu con thế nào rồi?”

A Hành đáp: “Mẫu hậu không khỏe lắm, đang nằm nghỉ.”

Hoàng Đế dợm bước: “Để ta vào xem.”

A Hành vội giơ tay cản ông lại, “Phụ vương, mẫu hậu không chịu được kích động.”

Hoàng Đế khựng lại, “Vậy… vậy để hôm khác.”

Đoạn ông quay ra bảo Xương Phó: “Hai trăm binh sĩ Thần tộc đều hy sinh, còn bốn ngàn chiến sĩ Nhược Thủy rút lui theo lệnh Hành nhi còn sống cả, ta đã phái người tiếp tục tìm kiếm, có lẽ còn có thể cứu thêm vài ba chiến sĩ Nhược Thủy nữa, nếu con có yêu cầu gì, cứ nói ra đi.”

Xương Phó vẻ mặt lạnh lùng, đang định lên tiếng thì bị A Hành cướp lời: “Phụ vương, ba ngày trước con đã sai Liệt Dương đem thư về bảo Chúc Dung định dẫn phát cho núi lửa mổ tung, xin người lập tức phái binh chi viện, hiện giờ Liệt Dương ở đâu không rõ, còn thư chẳng hay phụ vương có nhận được không?”

Hoàng Đế tâm niệm xoay chuyển như chớp, lập tức hiểu ngay mọi chuyện, giận đến tím mặt, nét mặt méo mó đi vì phẫn nộ, nhưng dần dà, ông lại khôi phục vẻ thản nhiên, “Chuyện này ta sẽ phái người tra xét.”

A Hành hoàn toàn mất hết hy vọng vào Hoàng Đế, nhất định ông sẽ dùng một phương pháp để trừng trị Di Bành đích đáng, nhưng đó không phải hình phạt mà nàng muốn.

Xương Phó quỳ xuống nói: “Phụ vương, tuy Xương Ý đã tan xương nát thịt, nhưng con muốn xin Người cử hành tang lễ long trọng cho chàng.”

Hoàng Đế đáp: “Ta đã định sắp xếp như thế rồi, con còn yêu cầu gì khác không?”

Xương Phó lắc đầu.

Hoàng Đế nói: “Vậy ta đi đây, nếu cần gì các con cứ phái người tới trực tiếp bẩm với ta.”

Vân Tang nấp ngoài điện thấy Hoàng Đế đã đi khỏi, mới dần theo Chu Du bước vào tiền điện. Tuy nàng đã được gả cho Thanh Dương nhưng tại Triêu Vân điện, nàng vẫn là người ngoài, bởi thế nàng chỉ một mực ru rú trong nhà, phàm việc gì cũng ra sức tránh né.

A Hành vấn an nàng, còn Xương Phó cứ ngồi ngây ra như phỗng, tựa hồ chẳng còn biết gì tới mọi chuyện xung quanh nữa.

Trước tình cảnh ấy, Vân Tang cũng xót xa vô hạn, nàng còn nhớ buổi hôn lễ mấy trăm năm trước, dưới bóng Nhược Mộc hoa đỏ thắm, Xương Phó cứng cỏi ranh mãnh, thông minh tinh quái nhường nào. Trong lòng nàng, Xương Ý và Xương Phó là đôi phu thê duy nhất khiến nàng ngưỡng mộ, khiến nàng tin rằng trên đời này vẫn tồn tại tình cảm vợ chồng son sắt, chỉ tiếc rằng trời cao quá đỗi nhỏ nhen, ghen ghét cảnh viên mãn, lại bắt bọn họ cách trở âm dương.

Vân Tang nói với A Hành: “Mấy ngày trước, ta nửa đêm mất ngủ bèn ra ngoài cho khuây khỏa, trông thấy dưới Hiên Viên sơn có ánh lửa bèn chạy đến xem, vừa khéo bắt gặp Di Bành dẫn theo mấy tên Yêu tộc vậy đánh một con Lang điểu, một tên trong số đó hình như thuộc Hồ tộc, nói cái gì muốn đoạt Phượng Hoàng nội đan của Lang điểu dâng lên cho Hồ vương trị thương. Ta nghĩ là Liệt Dương, bèn ra tay cứu nó, vốn định hôm nay muội về sẽ nói lại với muội, nhưng lúc đến đây tìm lại loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc, ta thấy không tiện lắm bèn tránh đi, nào ngờ lại xảy ra chuyện lớn như vậy.”

A Hành vội hành lễ với nàng, cảm kích nói: “Đa tạ tỷ, hiện giờ Liệt Dương đâu rồi?”

Vân Tang đáp: “Ở đằng Hậu Thổ. Thương thế của Liệt Dương rất nặng, ta không giúp được nó, đành đưa đến chỗ Hậu Thổ, để Hậu Thổ trị thương cho nó.”

Vừa rồi chỉ mãi lo đến an nguy của Liệt Dương, không suy nghĩ được kỹ càng, mãi đến giờ A Hành mới phát hiện những lời Vân Tang nói có rất nhiều nghi vấn. Công lực của Liệt Dương cao hơn Vân Tang, kẻ mà Liệt Dương không đối phó nổi, nhất định Vân Tang cũng chẳng thể địch lại, cách giải thích duy nhất chính là lúc đó Hậu Thổ cũng ở đây, và kẻ cứu Liệt Dương là Hậu Thổ.

Vân Tang băng tuyết thông minh, thoạt nhìn vẻ mặt A Hành liền nhận ra ngay nàng đã đoán được sự tình, bèn thản nhiên thừa nhận, “Ta cũng biết là không giấu được muội, thực ra tối hôm đó ta ra ngoài gặp Hậu Thổ. Nghe nói Chúc Dung định đầu hàng, ta có phần nghi ngờ, bèn đi tìm Hậu Thổ gạn hỏi tình hình chiến trận, tiếc rằng khi bọn ta đến Liệt Dương đã hôn mê nên không hỏi được nó đến vì việc gì.”

Dù đến sớm thì sao chứ? Tuy Vân Tang đã gả cho Thanh Dương, nhưng đôi bên chỉ là lợi dụng lẫn nhau, dù nhận được tin từ sớm, chắc gì Vân Tang đã báo với Hoàng Đế. Thậm chí A Hành còn mừng thầm vì họ không biết, bằng không có lẽ Vân Tang sẽ nghĩ cách báo với Chúc Dung, đến chừng đó e rằng ngay cả bốn ngàn binh sĩ và Xương Phó cũng không sao thoát được.

Nghĩ đến đó, A Hành bỗng toát mồ hôi lạnh, sao bây giờ nàng lại thành ra thế này? Vân Tang và Hậu Thổ luôn thân thiết với nàng, thân là dị tộc bại trận, vậy mà họ vẫn mạo hiểm, bất chấp đắc tội Di Bành để cứu Liệt Dương, sao nàng có thể đa nghi như vậy? Nhưng nàng có thể không đa nghi ư? Nhưng dù có tốt đến mấy cũng chỉ là tư tình, đứng trước đại nghĩa, những kẻ sinh ra trong vương thất, lớn lên trong vương thất như bọn họ đều phải vứt bỏ tư tình để giữ trọn đại nghĩa.

Xương Phó đang ngồi ngây ra như phỗng đột nhiên đứng bật dậy, chạy vụt ra ngoài, A Hành vội kéo nàng lại: “Tứ tẩu, tẩu đi đâu đấy?”

“Muội không nghe thấy tiếng tiêu của Xương Ý à? Muội nghe mà xem.” Xương Phó ngưng thần lắng tai nghe, chợt cuống quýt: “Sao lại không nghe nữa rồi? Rõ ràng vừa nãy ta nghe thấy mà. Đại tẩu, A Hành, hai người có nghe thấy không?”

Vân Tang nước mắt lã chã, A Hành lòng đau như cắt, nhưng chẳng có cách nào khả dĩ khuyên giải Xương Phó, chỉ biết đặt hết hy vọng vào thời gian.

Đối với một số người, thời gian sẽ xóa nhòa tất cả, nhưng đối với Xương Phó, có lẽ thời gian chỉ đay đi đay lại nhắc nàng: Xương Ý đã không còn nữa!

Cũng như Viêm Đế từng nói với A Hành khi đứng trước mộ thê tử vậy, sinh mệnh đằng đẵng chỉ càng khiến nỗi đau dài ra đến vô chừng!

Hoàng Đế hạ lệnh toàn quốc để tang cho Xương Ý.

Hiên Viên quốc giờ đây đang hưng thịnh, các tộc các nước trên dại hoang đều phái sứ giả tới điếu tang, Thiếu Hạo là người thân, tuy không thể đích thân đến, nhưng cũng phái sứ giả đưa vương cơ Cửu Dao tới để tang cho bác.

Hoàng Đế cử hành tang lễ trọng thể cho Xương Ý trong Hiên Viên thành, A Hành không muốn Luy Tổ người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh nên ra sức khuyên bà đừng đi, cứ ở lại Triêu Vân điện.

Sau khi nghi thức hoàn tất, tới lúc an tang, Xương Phó đột ngột yêu cầu tất cả lui ra, chỉ có người Hiên Viên tộc ở lại.

Đợi quan tài đựng đầy những vật dụng Xương Ý từng sử dụng hạ xuống huyệt, Tông Bá đang định hạ lệnh lấp đất, bỗng Xương Phó từ đầu đến cuối vẫn làm thinh đột ngột lên tiếng: “Đợi đã!”

Mọi người đều ngạc nhiên đổ dồn ánh mắt về phía nàng. Xương Phó chăm chú nhìn quan tài Xương Ý một thoáng, rồi ngoảnh lại nghẹn giọng tuyên bố: “Hôm nay, ta ở đây đau đớn tiễn đưa Xương Ý, phu quân của ta. Ở Nhược Thủy, còn hơn sáu ngàn phụ nữ cũng đang khóc lóc tiễn đưa phu quân của họ như ta. Đối với Nhược Thủy tộc chúng ta, oanh liệt hy sinh trên sa trường là hành vi hết sức vinh quang! Nhưng chúng ta không thể chấp nhận được nếu người thân của mình bị người hãm hại mà chết, đó chính là xúc phạm vong linh! Là bất kính đối với người chết! Cái chết của người thân giống như móc mất trái tim chúng ta vậy, nhưng nếu họ chết vì bị người hãm hại, thì cũng giống như trái tim sau khi bị móc ra, lại bị đâm vào thuốc độc! Ngày nào chưa thể trả hận, ngày đó trái tim chúng ta còn bị ngâm trong thuốc độc!”

Nói rồi, Xương Phó trừng mắt nhìn Di Bành: “Hiên Viên Di Bành, ngươi có nghe thấy tiếng rít gào phẫn nộ của đám vong linh dưới đất, tiếng khóc than đau đớn của những phụ nữ Nhược Thủy tộc chăng?”

Di Bành hờ hững đáp: “Ta chẳng hiểu Tứ tẩu nói gì cả, xin Tứ tẩu nén đau thương, chấp nhận sự thật, đừng nói quàng nói xiên nữa.”

Hoàng Đế vội ra lệnh cho thị nữ: “Vương tử phi đau lòng quá độ, thần trí không tỉnh táo, các người còn không mau đỡ vương tử phi lui xuống.”

Đám thị nữ định kéo Xương Phó đi, nhưng các đại hán Nhược Thủy “soạt” một tiếng nhất tề rút đao ra, chắn trước mặt Xương Phó, sát khí đằng đằng.

Xương Phó cao giọng nói: “Vương cơ phát hiện ra Chúc Dung đang bày trận dẫn phát cho núi lửa nổ tung, bèn phái người đưa thư cho Hoàng Đế, thỉnh cầu ngài phái thần tướng tới phá trận, trong lúc đó, ta và Xương Ý đã phải trăm phương ngàn kế lần lữa với Chúc Dung kéo dài đến chập tối. Nếu viện binh đến kịp thì đâu có tang lễ hôm nay. Nhưng thư của vương cơ giữa đường đã bị kẻ khác đoạt mất, kẻ đó chính là hắn, Cửu vương tử của Hiên Viên!” Xương Phó chỉ thẳng vào Di Bành, tất cả mọi người đều kinh hoàng nhìn theo tay nàng.

Xương Phó chầm chậm quét mắt qua tất cả người Hiên Viên tộc, ánh mắt lạnh lùng, vẻ mặt đanh lại, khiến Hoàng Đế nhất thời cũng cứng họng, nói không nên lời.

Xương Phó lại nói: “Ta sau khi cha ta quỳ xuống dưới chân Hoàng Đế, hai tay dâng Nhược Mộc hoa cổ xưa nhất lên ngài, chấp nhận quy thuận Hiên Viên quốc, chúng ta đã trở thành con dân Hiên Viên, cũng chính là con dân của Hiên Viên Cửu vương tử, nhưng hắn lại vì thù hận cá nhân mà phản bội con dân của mình. Thân là tộc trưởng Nhược Thủy, vì vong linh của sáu ngàn tộc dân, vì nỗi đau của sáu ngàn nữ tử, ta không thể tha thứ cho hắn được, nếu tha thứ cho hắn, ta còn mặt mũi nào trở về Nhược Thủy nữa! Thân là thê tử của Xương Ý, hắn giết phu quân ta, ta càng không thể tha thứ cho hắn!” Vừa nói, Xương Phó vừa rút phắt chủy thủ giấu sẵn trong tay áo, phi thân vọt lên, dốc toàn lực, đâm thẳng về phía Di Bành. Thần khí do Thiếu Hạo rèn ra lập tức phát huy uy lực đáng sợ của mình, nhân khí hợp nhất, khí thế như cầu vồng, không gì ngăn cản được.

Di Bành đã quen nấp trong bóng tối ném đá giấu tay, đâu có ngờ Xương Phó lại dám ra tay giết mình ngay trước mặt mọi người, vội cuống quýt lùi lại, hấp tấp bày kết giới, nhưng Xương Phó đã có dự định sẵn, hắn làm sao cản nổi một đòn dốc hết toàn lực bất chấp sinh tử của nàng. Xương Phó thế như chẻ tre lao tới, tất cả chướng ngại đều bị nàng phá tan tành.

Di Bành chỉ trông thấy một vầng sáng lao tới như tên bắn, càng lúc càng gần, càng gần càng chói lọi, có tránh cũng không sao tránh nổi, hồng quang bùng nổ ngay trước mắt hắn, nhắm thẳng vào tim hắn, con ngươi hắn chợt co rút, chẳng cách nào tránh thoát, hắn đành tuyệt vọng nhắm nghiền mắt lại.

Cả thế giới tựa hồ đều tan biến, bên tai chỉ còn sự im lặng chết chóc.

Di Bành cứ ngỡ rằng tử vong sẽ rất đau đớn, nhưng lạ thay, hắn chẳng hề thấy cảm giác đau đớn khi trái tim bị đam thủng. Hắn bất giác đưa tay sờ lên ngực, tiếc rằng chẳng sờ thấy gì cả.

Thực ra Di Bành cảm thấy lâu thật lâu, nhưng Xương Phó ra tay thần tốc, một đòn sấm sét chỉ diễn ra trong một chớp mắt ngắn ngủi. Bấy giờ mới nghe tiếng Hoàng Đế quát thị vệ, Di Bành chợt mở bừng mắt ra, còn chưa kịp nhìn rõ tình hình đã thấy một thân hình mềm nhũn ngả vào lòng, theo phản xạ, hắn vội đón lấy, ra là mẹ hắn, máu phun ra từ ngực bà ướt đẫm cả hai tay hắn.

Xương Phó không ngờ Đồng Ngư thị lại nhào tới, lấy thân mình đón một đòn chí mạng của nàng, bây giờ dù muốn giết Di Bành cũng đã muộn, đám thị vệ đang xúm quanh hắn bảo vệ rồi.

Từng đóa hoa máu trả giá bằng sinh mệnh đỏ đến chói chang, thắm tươi rực rỡ, nhưng trong mắt Di Bành, thế giới giờ đây chỉ còn hai màu đen trắng, thê lương tuyệt vọng.

“Mẹ, mẹ!” Di Bành gào lên thê thiết.

Hắn ôm chầm lấy mẹ, ra sức ấn lên vết thương toan cầm máu, nhưng chỉ cảm thấy thân thể mẹ lạnh dần đi.

Mẹ đã tắt thở, nhưng bà vẫn mỉm cười, chủy thủ cắm vào tim nhất định rất đau đớn, nhưng biết được con mình không bị tổn thương, dù có phải chịu đau đớn gấp nghìn lần, bà cũng cam lòng.

“Mẹ!” Di Bành gào lên thê thảm như sói hú.

Rất đông thị vệ xúm lại, dường như định giúp hắn, nhưng hắn phẫn nộ đẩy bọn chúng ra.

Cút, cút ra đi!

Hoàng Đế chạy lại, run run định bế Đồng Ngư thị lên, nhưng bị Di Bành một chưởng đẩy bật ra: “Không được chạm vào mẹ ta! Ông cũng cút ra! Ông là đồ bạc bẽo, quân vong ân phụ nghĩa, ông không xứng với mẹ ta!”

Mấy ngàn năm trước, vì hắn, mẹ đã quỳ xuống chân Hoàng Đế khóc lóc van xin, vậy mà ông ta còn quát mắng bà, nói cái gì chút tình xưa còn sót lại đã bị sự điên cuồng và ác độc của bà làm tiêu tan hết, rồi mặc cho mẹ nắm lấy vạt áo ông ta khóc lóc, Hoàng Đế lạnh lùng đá văng mẹ ra, xông xông bỏ đi.

Di Bành ôm lấy Đồng Ngư thị, vừa khóc vừa gọi như điên cuồng, “Mẹ ơi, mẹ tỉnh lại đi, mẹ còn chưa chứng kiến mụ đàn bà trong Triêu vân điện kia chết kia mà, chẳng phải mẹ nói sẽ không tha cho bà ta ư? Mẹ mở mắt ra đi, con nhất định sẽ giúp mẹ giết bọn chúng, giết sạch bọn chúng, không chừa một mống, con nhất định sẽ báo thù cho hai huynh…”

Nói rồi, hắn bế thi thể Đồng Ngư thị, loạng choạng chạy vào rừng.

Không ai ngờ ngay trong tang lễ lại xảy ra biến cố thế này, còn liên quan cả tới bí mật của vương thất, mọi người nhất loạt quỳ xuống, lòng nơm nớp lo âu, đến thở cũng không dám thở mạnh.

Hoàng Đế sầm mặt ra lệnh: “Giam tất cả người Nhược Thủy tộc lại, nhốt Xương Phó vào thiên lao, giao cho Thu quan ti khấu đích thân thẩm vấn, xử trí theo luật.”

Xương Phó ngoảnh lại bảo đám tùy tùng: “Bỏ binh khí xuống, không được phản kháng.”

Nói đoạn, nàng quay sang bế Chuyên Húc lên, thì thầm nói: “Con ngoan, mẹ rất muốn chứng kiến con trưởng thành, nhưng không được nữa rồi, mẹ nhớ cha lắm. Có lẽ con sẽ giận mẹ, nhưng đến một ngày nào đó, khi con gặp được cô gái con yêu thương, hẹn thề sống chết cùng cô ấy, con sẽ hiểu cho mẹ.” Nàng rút Nhược Mộc hoa gài bên mai tóc, đặt vào tay Chuyên Húc: “Khi nào con gặp cô gái ấy, nhớ tặng bông hoa này cho cô ấy, dắt cô ấy tới trước mộ cha mẹ nhé.”

Chuyên Húc cũng có dự cảm không lành, liền khóc ré lên:, “Mẹ, mẹ ơi!”

Xương Phó ôm chặt lấy con trai, vừa hôn vừa dặn dò: “Về sau con phải nghe lời cô cô, cô cô sẽ chăm lo cho con, mẹ đi tìm cha con đây. Dù con có hận mẹ, cũng nhất định phải trưởng thành, lấy vợ sinh con, sinh một bầy cháu nhỏ nhé, cha con chắc chắn sẽ vui lắm đấy…”

A Hành biết Hoàng Đế nhất định không nhân nhượng cho hành vi hành thích ngay trước mặt mọi người của Xương Phó, không chỉ vì Xương Phó đã giết vương phi của Hiên Viên quốc, mà còn bởi nếu bỏ qua cho Xương Phó một lần, thì những người khác cũng được đà, chẳng coi vương pháp ra gì, tùy ý hành thích, quốc gia sẽ loạn.

Hiện giờ trước hết phải tuân lệnh, ngoan ngoãn vào ngục trước đã, sau đó sẽ tính kế hóa giải, xem ra Xương Phó cũng hiểu điều này, nên mới ra lệnh cho tất cả thị vệ của mình lập tức bỏ binh khí xuống.

A Hành vừa thở phào nhẹ nhõm, chợt thấy Xương Phó bế Chuyên Húc lên, thì thầm dặn dò, không hiểu dặn điều gì nhưng nhìn có vẻ vô cùng lưu luyến Chuyên Húc, ánh mắt lại không rời huyệt mộ của Xương Ý, vừa cười vừa khóc, khi cười thì rạng ngời hạnh phúc, khi khóc lại bi ai thảm thiết. A Hành bất giác lạnh toát người, lập tức chạy đến, “Tứ tẩu, nhất định không được làm chuyện dại dột!” Nói rồi nàng với tay ra, toan kéo Xương Phó lại.

Xương Phó đặt Chuyên Húc vào tay A Hành đang đưa tới, “Tiểu muội, xin lỗi, phải nhờ muội lo liệu mọi chuyện rồi, nhớ chăm sóc Chuyên Húc giùm ta nhé.”

Thấy Chuyên Húc được đưa đến tay, A Hành vội ẵm lấy nó theo phản xạ, những ngón tay lạnh buốt của Xương Phó liền lướt qua kẽ tay nàng, “Tứ ca muội nhờ ta nhắn lại rằng, chàng không trách Xi Vưu nữa đâu.”

A Hành thoáng ngẩn người, chỉ trong chớp mắt, Xương Phó đã xoay tay lại cắm phập thanh chủy thủ vào ngực mình.

Đám thị vệ đang chạy tới bắt giữ Xương Phó thất thanh la lên, ngây người ra không hiểu mô tê gì cả.

A Hành há hốc miệng, cổ họng nghẹn ngào, ra sức ấn đầu Chuyên Húc vào lòng mình, không để cậu trông thấy, thân hình nàng run lên bần bật, khiến Chuyên Húc cũng run bắn lên theo.

Chuyên Húc khóc ré lên gọi mẹ, đột nhiên cắn mạnh vào tay A Hành, thừa dịp quay phắt lại, trông thấy trên ngực mẹ cậu cắm một thanh chủy thủ, thân mình loạng choạng tiến về phía huyệt mộ của cha. Y phục mẹ cậu nhuộm đầy máu tươi, đỏ đến chói mắt, hệt như tấm áo cưới đỏ rực mà cậu trông thấy trong hôn lễ của Đại bá vậy.

Xương Phó giẫm lên vùng máu lênh láng, từng bước, từng bước, cuối cùng cũng bước đến bên huyệt mộ của Xương Ý. Nàng chăm chú nhìn A Hành rồi từ từ rút chủy thủ ra, tựa hồ định trao lại cho A Hành, nhưng đã sức tàn lực kiệt, cánh tay rũ xuống, chủy thủ cũng theo tay rơi xuống đất, keng một tiếng rất khẽ, lại chấn động tất cả mọi người ở đó.

A Hành nước mắt như mưa, gật gật đầu, “Muội hiểu mà, Tứ tẩu, tẩu yên tâm đi đi! Nhắn lại với Tứ ca, muội nhất định không để bất cứ kẻ nào làm tổn hại đến Chuyên Húc đâu!”

Xương Phó nhoẻn cười rạng rỡ, buông mình rơi xuống mộ huyệt tối đen sâu hút.

Chuyên Húc rào lên thảm thiết: “Mẹ, mẹ ơi, đừng bỏ con!” Đột nhiên, chẳng hiểu cậu lấy đâu ra sức mạnh, đẩy phắt A Hành ra, lảo đảo chạy về phía mộ huyệt, “Mẹ, cha, đừng bỏ con mà!”

Thật lạ lùng, có lẽ vì linh lực của Xương Phó tản mác, làm biến đổi cả cảnh vật xung quanh, huyệt mộ đột nhiên tự động khép lại.

Mặt đất bốn bề lập tức gồ lên rồi từ từ hợp lại, tạo thành một nấm đất như bát úp, cản Chuyên Húc lại bên ngoài.

Phía trên huyệt mộ, từ những vết máu loang lồ Xương Phó để lại, chợt mọc ra vô vàn đóa hoa nhỏ không tên. Cứ hai đóa chung một cánh, cùng một cuống, nương tựa vào nhau, rỡ ràng đón gió, chẳng mấy chốc, cả nấm mồ đã phủ kiến những đóa hoa đỏ thắm. Gió thổi qua, trăm ngàn đóa hoa đung đưa trước gió, dường như loáng thoáng nghe thấy tiếng cười rộn rã đâu đây.

Tất cả mọi người đều trố mắt nhìn cảnh tượng trước mặt, không thốt nổi một lời, chỉ mình Chuyên Húc vẫn ra sức đấm vào nấm mộ, khóc lóc gọi: “Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ ơi…”

A Hành nhặt thanh chủy thủ đẫm máu Xương Phó lên, quỳ xuống trước mộ Tứ ca, Tứ tẩu, gương mặt tái nhợt chết lặng, như một pho tượng vô hồn.

Hoàng Đế ngồi lặng trong Chỉ Nguyệt điện, nét mặt tiều tụy mệt mỏi, liên tiếp cử hành ba tang lễ, con trai, con dâu, rồi đến vợ, dẫu là người kiên cường như ông cũng không sao chịu nổi.

Dường như vì mọi sự xảy ra quá nhanh, mãi đến giờ ông vẫn còn ngỡ ngàng, chưa hề tin đó là sự thật. Đồng Ngư đi thật rồi sao?

Từ lần đầu gặp gỡ khi còn nhỏ tuổi vô tư, đến sau này nghi kỵ lẫn nhau, tuy ngày ngày Đồng Ngư đều kề cận bên giường, nhưng ông lại thấy nàng mỗi lúc một xa lạ, không còn là cô bé nấp trong ruộng cao lương ném quả lê vào ông ngày nào nữa. Mấy ngàn năm yêu hận dây dưa, mỗi lần ông nhẫn nhịn, chỉ là vì nhớ đến cái đêm trăng sáng sao thưa ấy, trên đỉnh núi mọc đầy cỏ dại, ông từ một chàng trai biến thành một người đàn ông, Đồng Ngư cũng từ một cô bé biến thành một người phụ nữ, nàng đã rúc vào lòng ông run lên, chẳng rõ là lạnh vì gió núi, hay là vì căng thẳng sợ hãi. Ông đã hứa với Đồng Ngư: “Ta sẽ cất căn nhà thật lớn để cưới nàng về.” Đồng Ngư phì một tiếng: “Ai thèm? Mông Đàm mấy ngày trước đến cầu hôn với cha ta cũng có căn nhà lớn lắm rồi.” Ông cười trỏ vầng trăng trên trời: “Căn nhà ta cất có thể trông thấy ánh trăng đẹp nhất trần đời, giống như đêm nay vậy, hai ta có thể ngày ngày ngắm trăng cùng nhau.” Đồng Ngư vùi mặt vào ngực ông cười thầm, thân mình không run lên nữa, chỉ nghe tiếng thì thào khe khẽ: “Ta không muốn ngắm trăng, chỉ muốn ngắm tên ngốc trỏ vầng trăng kia thôi!”

Năm ấy, hai người bọn họ bất kể thế nào cũng không ngờ được, mấy ngàn năm sau, ngay giữa Chỉ Nguyệt điện mà ông xây dựng cho Đồng Ngư, ông lại giận dữ tuyên bố cắt đứt tình xưa, còn nói nếu Đồng Ngư dám động vào người trên Triêu Vân điện nữa, ông sẽ khiến nàng tan thành tro bụi. Rồi mặc cho nàng khóc lóc thảm thiết, ông đá văng nàng ra, quyết định dứt khoát rời bỏ, mà đâu có ngờ, nàng còn dứt khoát rời bỏ hơn ông.

Hoàng Đế đẩy cửa ra, liền trông thấy vầng trăng khuyết cong cong như móc câu ngoài cửa sổ. Ông tựa người vào sập, lặng lẽ ngắm trăng.

Tòa cung điện này dựng nên vì Đồng Ngư, nhưng cả ngàn năm nay, ông chưa hề cùng Đồng Ngư sánh vai ngắm nhìn trăng sáng, ông đã không còn là ông năm ấy, nàng cũng không còn là nàng khi xưa, sánh vai cùng ngồi còn ý nghĩa gì nữa chứ. Có điều, chẳng rõ tại sao, sau một ngày mệt mỏi, ông luôn thích nằm dài ở đây, ngắm nhìn trăng sáng, dưới ánh trăng mờ ảo ấy, có ông một thời trẻ trung sôi nổi, còn có cả một thiếu nữ có thể làm chứng cho thời niên thiếu sôi nổi của ông. Có điều thời gian đằng đẵng xóa nhòa tất cả, ông đã chẳng còn phân rõ được người con gái mình nhung nhớ là ai, là cô gái yểu điệu run lên trong lòng ông, hay nàng thiếu nữ ngạo nghễ băng qua ánh trăng vằng vặc bước đến trước mặt ông, hay đều không phải?

Hoàng Đế tựa mình vào gối ngọc, tựa ngủ mà không phải ngủ, chẳng biết bao lâu sau, có thầy thuốc tới cầu kiến.

“Muộn thế này, thần vốn không nên tới quấy rầy bệ hạ nghỉ ngơi, nhưng bệ hạ đã căn dặn phải lập tức bẩm báo bệnh tình của vương hậu nương nương, bất kể lúc nào.”

Hoàng Đế ôn hòa mà uy nghiêm nói: “Ngươi làm đúng lắm.”

“Nghe các cung nữ hầu hạ vương hậu kể, vừa nghe tin Tứ vương tử phi tự vẫn, vương hậu nương nương tức thì ngất lịm, bọn họ vội tuyên triệu thần, khi thần đến nơi thì vương hậu đã tỉnh lại, mặc cho thần khuyên can đủ mọi cách, nương nương vẫn bắt đám cung nữ kể lại tường tận sự tình. Nghe nói Đồng Ngư nương nương vì cứu Cửu điện hạ mà đem thân đỡ đao, chết ngay tại chỗ, nương nương lại kích động cười rộ lên, cười mãi cười mãi rồi bắt đầu òa lên khóc, vừa khóc vừa ho rũ rượi, ho ra toàn là máu. Các cung nữ quỳ đầy dưới đất, kẻ van vỉ người khuyên nhủ, nhưng vương hậu vẫn kích động, không sao bình tĩnh lại được, cũng không chịu cho thần xem bệnh, may sao bấy giờ vương cơ về kịp, dẫn theo Chuyên Húc vương tử và Cửu Dao vương cơ quỳ trước giường vương hậu, dập đầu lia lịa, bấy giờ vương hậu mới chịu để cho thần chẩn mạch.”

“Bệnh tình bà ấy thế nào?”

“Uất khí tích tụ trong ngực, nhiều năm không tan, tâm mạch đã thương tổn, từ sau khi Chuyên Húc tiểu vương tử ra đời, bệnh tình vương hậu đã có biến chuyển, có điều mấy ngày nay liên tiếp bị kích động, cơn bệnh không còn khống chết được nữa, linh khí rối loạn hoàn toàn, hiện giờ thần cũng không dám dùng thuốc, chỉ dám kê vài vị an thần thôi.”

“Rốt cuộc là sao?”

Thầy thuốc thoáng do dự, đoạn dập đầu binh binh, khẽ đáp: “Trầm kha khó chữa, không cách nào cứu vãn, sớm muộn ắt sẽ… Thần không dám thưa thật với vương hậu, chỉ nói là nhất thời đau buồn quá độ, yên lòng tĩnh dưỡng sẽ khỏe.”

Hoàng Đế kinh ngạc sững sờ, bất giác lại đưa mắt nhìn ra cửa sổ.

Thầy thuốc căng thẳng đợi hồi lâu, chẳng thấy Hoàng Đế ừ hữ gì. Y len lén nghiêng đầu nhìn trộm Hoàng Đế, từ góc độ của y, chẳng thể thấy được nét mặt Hoàng Đế, chỉ thấy rõ mồn một khung cảnh ngoài song. Vành trăng cong vút như một chiếc móc câu ngọc ngà nghiêng nghiêng treo dưới song cửa.

Hoàng Đế vẫn không lên tiếng, thầy thuốc cũng chẳng dám ho he.

Mãi đến khi đầu gối gã thầy thuốc đã tê dại cả đi, Hoàng Đế mới đột ngột định thần lại, trông thấy y, Hoàng Đế ngạc nhiên hỏi: “Sao ngươi còn ở đây?”

Thầy thuốc vội dập đầu: “Thần cáo lui.” Đoạn tức tốc lùi ra khỏi đại điện.

Trăng lên quá đỉnh đầu, mọi âm thanh đều bặt tiếng.

Chu Du ngồi trông Luy Tổ, cứ tựa người bên sập gật gà gật gù. Vân Tang đã dắt Chuyên Húc và Cửu Dao đi nghỉ. A Hành còn đang tất bật giã thuốc, nhưng giã xong lại bỏ đi, đổ xong lại giã, ánh mắt đầy đau khổ và lo lắng.

Thiếu Hạo nhân đêm tối đã chạy đến Triêu Vân phong, thoạt tiên y lặng lẽ tới thăm Luy Tổ, rồi sau đó, được Chu Du chỉ dẫn, lại ta sau đình viện tìm A Hành. Y khe khẽ gọi nàng nhưng A Hành một mực làm ngơ, đi lướt qua y, như không nghe thấy.

Thiếu Hạo đành ngồi xuống thềm đá, lặng lẽ nhìn A Hành đi qua đi lại.

Chu Du nói thầy thuốc bảo không có gì đáng ngại, nhưng y vốn rõ hơn ai hết, thầy thuốc trong cung đình hễ gặp bệnh nặng thường sẽ không dám nói thật. Nhìn tình trạng Luy Tổ, lại nhìn dáng vẻ A Hành, y hiểu Luy Tổ e rằng chỉ còn sớm tối.

Như ý nguyện của y, cả Hiên Viên và Thần Nông đều tổn thất không nhỏ, nhưng y chẳng hề thấy vui vẻ chút nào.

Mỗi lần A Hành chìa tay ra cầm nắm gì đó, y lại trông thấy bàn tay mất đi ngón út của nàng, trái tim bất giác nhói lên, như thể ngón tay bị cắt đứt là của y vậy.

Vô vàn đom đóm múa lượn trên bãi cỏ, tỏa sáng lập lòe, tựa như vô vàn vì sao nho nhỏ lung linh, y tiện tay bắt lấy một con, nắm trong lòng bàn tay như một ngọn đèn nhỏ xíu, dưới ánh trăng mờ mờ, rất nhiều chuyện xưa chợt hiện ra.

Y nhớ lần đầu tiên gặp Xương Ý, Xương Ý còn ngượng ngập nấp sau lưng Thanh Dương, ngọng nghịu gọi “Thiếu Hạo ca ca”; nhớ lúc y, Thanh Dương và Vân Trạch uống rượu, Xương Ý đều ngoan ngoãn ngồi một bên, cặp mắt sáng rực chăm chú nhìn bọn họ; nhớ hồi nhỏ Xương Ý cầm thanh kiếm, y lại cầm tay Xương Ý, dạy Xương Ý chiêu kiếm đầu tiên, trong khi Thanh Dương đứng bên cạnh vỗ tay cổ vũ, Xương Ý cũng cười nói “Cám ơn Thiếu Hạo ca ca”; nhớ sau khi Vân Trạch qua đời, Thanh Dương bị giam ở Lưu Sa, Xương Ý cuống quýt chạy tới tìm y, khóc lóc, “Thiếu Hạo ca ca, huynh mau tới thăm Đại ca đi, Đại ca sắp chết rồi.”

Y cũng nhớ lần đầu tiên gặp A Hành, khắp người nàng toàn là máu, nằm lịm trên tế đài. Lúc bế nàng lên, lòng y chợt rung lên một cảm giác vi diệu, thiếu nữ này là tân nương của y đấy ư? Đột nhiên, y bỗng lạnh người vì sợ, suýt nữa y đã đến muộn một bước rồi.

Từ Ngọc sơn về đến Triêu Vân phong, A Hành cùng y trò chuyện thâu đêm dưới bầu trời đầy sao sáng, tuy nàng cố làm bộ tự nhiên, nhưng cứ nhấp một ngụm rượu, nàng lại đỏ bừng mặt. Có lẽ biết được vẻ thẹn thùng kia là do mình, nên y chẳng dám nhìn lâu.

Trong Thừa Hoa điện, y cùng nàng nắm tay du ngoạn, gảy đàn thưởng nhạc, trồng cây ngắm hoa, ủ rượu chuốc chén, vốn chỉ để che mắt người đời. Nhưng tiếng đàn ấy vì có nàng thưởng thức, nên mới du dương thánh thót, hoa trong vườn vì có nàng nắm tay cùng ngắm nên mới diễm lệ vô song, rượu ngon y ủ vì có nàng cùng uống cùng say nên mới đượm nồng thơm ngát. Nàng cười, nàng cau mày, nhất cử nhất động của nàng đều tươi tắn sinh động, biến cả tòa cung điện vắng lạnh mênh mông thành một ngôi nhà, y vì nàng mà vui vẻ, vì nàng mà tươi cười, tất cả đều là chân thành, quãng thời gian sớm tối bên nhau đó, tuyệt không giả dối.

Dưới Ngu uyên, trong bóng đêm tăm tối tưởng chừng nuốt trọn được tất cả, y nhắm mắt chờ chết, vậy mà A Hành đã đi rồi còn quay lại vì y, xưa nay nàng chẳng thề hẹn gì với y, vậy mà nàng vẫn không lìa bỏ. Lần ấy, tuy y ở trong bóng tối nhưng lại cảm nhận được ánh sáng, còn lần này, y đang nắm lấy ánh sáng, vậy mà chỉ cảm thấy đêm tối mịt mùng.

“A Hành!”

Y nắm lấy gấu quần xanh biếc lướt qua bên mình, định giải thích, định cứu vãn, nhưng chính y cũng chẳng biết phải nói gì. Giải thích rằng y không hề muốn Xương Ý chết ư, hay phân bua rằng y không ngờ Xương Ý lại cố chấp đến vậy, rõ ràng đã nhận được tin, có thể đi trước nhưng lại không chịu sống nhục, càng không ngờ Xương Phó lại cương liệt đến thế, quyết không sống một mình.

“Buông ra!”

A Hành ra sức giật gấu quần ra, Thiếu Hạo không nói một lời, nhưng bất kể thế nào cũng không chịu buông.

A Hành rút phắt chủy thủ ra, đó chính là thanh chủy thủ y và nàng cùng rèn làm quà kết hôn cho Xương Ý và Xương Phó, cũng là thanh chủy thủ hôm nay Xương Phó dùng để tự vẫn, trên chủy thủ vẫn còn vệt máu. Thiếu Hạo run bắn lên, vật còn đây mà người đã mất, lời chúc phúc năm ấy y đích thân rèn lên, giờ đây, chỉ còn như một lời châm chọc.

A Hành nắm chủy thủ bằng bàn tay chỉ còn bốn ngón, chủy thủ lướt qua chiếc quần, nửa ống quần lập tức bị cắt lìa. Trong nháy mắt, bóng nàng đã xa tít.

Thiếu Hạo nắm lấy nửa ống quần, bất lực thõng tay xuống.

Từ nay về sau, ân đoạn nghĩa tuyệt!

Tất cả chẳng còn cách nào cứu vãn nữa!

Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý, Xương Phó, từng người lần lượt ra đi mãi mãi, A Hành cũng kiên quyết rời bỏ y!

Trong rừng dâu, Xi Vưu đang đứng tực vào một thân cây, lặng lẽ nhìn Thiếu Hạo và A Hành.

Biết được hôm nay là ngày đưa tang Xương Ý, hắn không yên tâm về A Hành nên định tới xem thử, nào ngờ lại nghe nói Xương Phó tự vẫn. Hắn vốn không định lên Triêu Vân phong, không phải vì sợ, mà e sự xuất hiện của mình sẽ làm A Hành đau khổ, giờ đây những đau khổ mà nàng phải gánh chịu đã quá nhiều, hắn chỉ muốn xác nhận rằng nàng bình an, rồi sẽ âm thầm quay về.

Nhưng nàng chẳng hề bình an, Xi Vưu cũng chẳng đành lòng bỏ đi, đành ẩn mình giữa rừng dâu, nấp trong bóng tối bầu bạn với nàng. Nhìn đám thầy thuốc lũ lượt ra vào Triêu Vân điện, tuy không nghe được thầy thuốc nói gì, nhưng nhìn dáng vẻ A Hành, hắn cũng có thể đoán được, bệnh tình Luy Tổ nhất định không nhẹ.

Cỏ dại mọc đầy dưới nền đất rải đá xanh, không ai cắt xén, lại thêm sương đêm ướt đẫm, A Hành giẫm lên đám cỏ ướt sũng, liền trượt chân ngã nhào.

Nàng định đứng dậy nhưng vừa gượng dậy, cổ chân đã đau buốt, lại ngồi phịch xuống. Đột nhiên, nước mắt A Hành trào ra như mưa, nàng không dám khóc ra tiếng, đành gắng sức kìm lại, kìm nén đến nỗi cả người run lên lẩy bẩy, chỉ thấy từ trong ra ngoài đều buốt giá đến tận xương tủy, tựa hồ rơi xuống hố băng vậy.

Thiếu Hạo vội vàng đứng dậy, định chạy đến đỡ nàng, chợt phát hiện có người nấp trong rừng dâu, “Ai đó?” Xi Vưu rất giỏi ẩn nấp, Thiếu Hạo lại đang hoảng hốt tâm thần, vốn không hề phát hiện ra, nhưng trông thấy A Hành trượt ngã, Xi Vưu đương lúc khẩn trương, quên cả thu liễm khí tức.

Thấy Thiếu Hạo đã phát hiện ra mình, Xi Vưu chẳng buồn né tránh, cứ thế hiên ngang hiện thân. Hắn chỉ hờ hững liếc qua Thiếu Hạo rồi đi thẳng về phía A Hành, coi Thiếu Hạo như không khí, kéo nàng đứng dậy.

A Hành cứ ngỡ là Thiếu Hạo, dụng lực định đẩy ra, nào ngờ lại là Xi Vưu, hai tay nàng bất giác biến đẩy thành nắm, nắm chặt lấy cánh tay hắn, chứa chan nước mắt nhìn Xi Vưu, vẻ mặt đau đớn bơ vơ như muốn tìm một nơi nương tựa, để trút bỏ đau thương không cách nào chịu đựng.

Xi Vưu ôm lấy A Hành, không nói một lời, chỉ siết chặt lấy nàng, siết thật mạnh, như muốn dùng hơi ấm của mình sưởi ấm cõi lòng nàng, giấu nàng vào máu thịt mình, không để nàng phải chịu bất kỳ đau khổ nào nữa.

A Hành gục đầu vào cổ Xi Vưu, cắn mạnh vào vai hắn, khóc lặng đi. Nước mắt nàng trào ra như suối, không có vòng tay ấm áp của hắn, trái tim nàng đã chẳng còn đơn độc lạnh lẽo nữa.

Thiếu Hạo ngẩn ra nhìn Xi Vưu và A Hành, nhưng trong mắt hai người bọn họ chỉ có nhau. Y đành lặng lẽ quay người, ưỡn thẳng lưng, ngẩng cao đầu, từng bước từng bước đi khỏi, duy có ánh mắt vẫn tan tác hư vô.

Huyền điểu chở y bay vút lên không, đêm nay trăng nhạt sao sáng, muôn ngàn ngôi sao lấp lánh hệt như muôn ngàn ngọn đèn lung linh, y ngửa mặt nhìn lên cả trời sao sáng, chợt bật cười như điên dại, cười đến gập cả người, suýt nữa thì ngã xuống. Ngàn vạn ngọn đèn trên sông nước Cao Tân đều an toàn, nhưng ngọn đèn cuối cùng của y đã hoàn toàn tắt lịm!

Bảy ngày sau, theo lệ tục, phải làm lễ tế Xương Phó.

Xương Phó giết Đồng Ngư thị tội không thể tha, nhưng nàng đã lấy mạng đền mạng. Nhờ A Hành thuyết phục, cuối cùng Hoàng Đế cũng hạ lệnh phóng thích tất cả chiến sĩ Nhược Thủy tộc bị giam giữ, còn cho phép bọn họ dự lễ tế Xương Phó, có điều không được trở về Nhược Thủy nữa, mà trở thành thị vệ bên cạnh Chuyên Húc, mãi mãi ở lại Hiên Viên sơn.

Hoàng Đế đích thân tới dự lễ tế Xương Phó, nghi thức do Chuyên Húc thực hiện dưới sự chỉ dẫn của Tiểu Tông Bá, nhưng Chuyên Húc lần lữa mãi vẫn không chịu bắt đầu, nói phải đợi cô cô.

Tiểu Tông Bá giục giã mấy lần, Chuyên Húc chỉ mím môi không nói. Trước khi cậu đi, cô cô đã dặn: “Con đi trước đi, cô cô phải đi lấy mấy thứ cho mẹ con, để mẹ con an tâm đi cùng cha con.”

Hoàng Đế hờ hững đứng ngoài quan sát.

Chuyên Húc toàn thân vận đồ tang, đứng ngay đầu tiên, gương mặt nhỏ đanh lại. Có lẽ vừa phải trải qua hai cái tang lớn, cặp mắt cậu đượm vẻ chín chắn trước tuổi, ánh mắt nhìn người khác luôn luôn lạnh lùng, đầy cảnh giác và thăm dò, bởi tuổi còn quá nhỏ, chưa biết che đậy nên vẻ sắc bén bức người đó của cậu lại càng khiến người ta kinh hãi.

Tiểu Tông Bá nhìn giờ, không dám lần lữa thêm nữa, bèn hạ lệnh cử hành nghi thức, nào ngờ Chuyên Húc đã bước lên trước, cương quyết tuyên bố trước tất cả mọi người: “Ta nói khi nào bắt đầu thì khi nấy mới được bắt đầu!”

“Nhưng còn giờ giấc…”

Chuyên Húc trừng mắt nhìn Tiểu Tông Bá, “Người nằm đây là cha mẹ ta, ta phải làm chủ!”

Tiểu Tông Bá không nói được nửa lời, lúng túng đưa mắt nhìn Hoàng Đế, nào ngờ Hoàng Đế chẳng nói gì, chỉ chăm chú nhìn Chuyên Húc.

Hoàng Đế còn nhớ lần đầu tiên nhìn thấy Chuyên Húc là lúc cậu còn quấn tã, ông ôm Chuyên Húc vào lòng, phát hiện thấy cậu rất mẫn cảm với tiếng đàn, khi nhạc sư cung đình đàn sai một nốt, Chuyên Húc thuở ấy còn chưa biết nói đã cau mày. Hoàng Đế ngỡ rằng tính tình Chuyên Húc cũng giống như Xương Ý, chỉ mê mải với những thứ vô dụng cầm kỳ thi họa, từ đó chẳng ngó ngàng gì đến cậu nữa. Nhưng lần này, Hoàng Đế đã bắt đầu nhìn Chuyên Húc bằng con mắt khác.

Hôm nay cũng là ngày tế lễ Đồng Ngư thị, nhưng Luy Tổ là vương hậu, Thanh Dương là Hoàng Đế tương lai trong lòng mọi người, Hoàng Đế lại loan tin ra ngoài là Xương Phó bị thương trên chiến trường, thương thế quá nặng mà qua đời, nên lễ tế đương nhiên cũng phải long trọng hơn Đồng Ngư thị “bệnh nặng mà chết” nhiều.

Trước mộ Đồng Ngư thị vắng tanh, chỉ có một mình Di Bành đang quỳ.

Thấy A Hành tiến lại, Di Bành quát: “Cút xa ra!”

A Hành chẳng buồn để ý tới hắn, vẫn đến bên mộ. Di Bành nổi giận, liền vung quyền đánh A Hành, chiêu nào chiêu ấy đều chí mạng, “Ngươi tới đây diễu võ dương oai chứ gì?”

A Hành vừa tránh vừa đáp: “Ta diễu võ dương oai cái gì đây? Diễu võ dương oai rằng ba người anh ruột của ta đều bị các ngươi hại chết ư? Diễu võ dương oai rằng mẹ ta đã bị mẹ ngươi ép đến nỗi mạng sống chỉ còn sớm tối ư?”

Di Bành nghi hoặc hỏi: “Ngươi nói bậy gì thế? Chẳng phải Thanh Dương vẫn sống sờ sờ ra đó ư?”

“Đại ca chết rồi, khi ngươi bày kế khiến phụ vương hiểu lầm rằng Đại ca định đầu độc phụ vương, huynh ấy đã uống phải thuốc độc, đúng lúc giao đấu với Xi Vưu thì độc dược phát tác, Đại ca chết dưới tay Xi Vưu.”

“Vậy Thanh Dương bế quan trị thương dưới đáy Quy khư là giả à?” Di Bành phá lên cười ha hả, cười đến đứt cả hơi, “Mẹ, mẹ nghe thấy chưa? Hung thủ hại chết ca ca con đã chết! Mụ già ác độc ấy cũng sắp chết rồi!”

A Hành lạnh lùng quan sát, Di Bành cười chán, mới đưa mắt nhìn A Hành, hỏi: “Cứ theo tính tình của ngươi, đây hẳn là tế lễ ngươi tặng cho ta. Tiểu muội à, ngươi định giết ta thế nào đây?”

A Hành đáp: “Ta đã ra tay rồi.”

Di Bành cười: “Ta tin, nhưng ta không hiểu.”

“Mấy ngàn năm trước, mẹ ta đã kết bái huynh muội với Viêm Đế, khi ông ấy lâm bệnh nặng, bèn đem Thần Nông Bản Thảo Kinh kết tinh tâm huyết cả đời tặng lại cho ta.”

Di Bành sực hiểu ra, “Hèn chi ngươi có thể trì hoãn ngày sinh của đồ con hoang kia, nhưng dù có Thần Nông Bản Thảo Kinh, cũng không thể dễ dàng hạ độc ta được.”

“Ta biết, nhưng ngươi quên rồi sao? Chúng ta từng học cùng một thầy, ta nắm rõ cách vận hành linh khí của ngươi. Chất độc dược chia làm hai phần, phần thứ nhất, chính là ở đây.” A Hành nhìn về phía mộ Đồng Ngư thị, “Mấy ngày nay ngươi luôn quỳ ở đây suốt đêm, trong lúc thương tâm, linh lực hộ thể cũng yếu đi nhiều, tà khí rất dễ xâm nhập.”

“Đây là mộ huyệt có linh lực gia trì, nếu có độc nhất định sẽ xảy ra biến hóa.”

“Phải, nên thứ ta dùng không thể gọi là độc dược, ngược lại còn là thuốc bổ, rất có ích trong việc nâng cao linh lực, có thể giúp linh lực của ngươi tăng vọt chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Vừa rồi ta vừa tiết lộ với ngươi rằng Thanh Dương đã chết, khiến ngươi kích động, trong lúc cười sằng sặc đã hít phải rất nhiều thứ không nên hít phải, những thứ đó cũng không phải là độc dược, nhưng khi gặp phải dược chất trong cơ thể ngươi, lại kết hợp với phương thức vận hành linh lực đặc thù của ngươi nữa, sẽ dẫn tất cả linh lực của ngươi tụ về tim, sau cùng, tim ngươi sẽ không chịu đựng nổi linh lực mạnh mẽ của bản thân mà nổ tung.”

Thấy Di Bành sững người, A Hành lại nói: “Ta là đồ đệ của Viêm Đế Thần Nông Thị, chứ không phải đồ đệ của Cửu Lê Độc vương, không nhất thiết phải hạ độc mới có thể lấy mạng người.”

Sống đã chẳng có gì vui, thì chết có gì đáng sợ? Di Bành cười, ngưng tụ linh lực toàn thân, toan một chưởng đánh chết A Hành, “Vậy cũng hay, chúng ta cùng lên đường thôi!”

A Hành đứng yên không nhúc nhích. Chưởng lực của Di Bành mới đánh xuống nửa chừng, hắn đã ngã gục trước mộ.

Tất cả linh lực vừa rồi hắn ngưng tụ đều cuộn lên đổ về tim, huyết quản trong ngực cơ hồ muốn vỡ tung, đau đến nỗi hắn co rúm người lại.

Di Bành ra sức khắc chế linh khí chạy loạn trong mình, sắc mặt từ trắng đổi sang xanh, lại từ xanh đổi sang đỏ, vô số linh khí tựa như vô số con rắn độc cắn xé trái tim hắn, khiến cơ mặt hắn giật giật vì đau đớn.

A Hành ngồi xuống bên cạnh Di Bành, ánh mắt vô cùng phức tạp, nàng hận hắn, nên mới bày ra cách chết đầy đau đớn này dành cho hắn, nhưng hiện giờ nhìn hắn đau đớn vật vã, lòng nàng cũng đau khổ chẳng kém.

“Di Bành, nếu ta không giết ngươi, ngươi có hạ sát thủ với Chuyên Húc chăng?”

Di Bành đau đến méo mặt, nhưng vẫn cười sằng sặc, hung hăng đáp: “Có! Mẹ nó đã giết mẹ ta, sao ta có thể tha cho nó được? Các ngươi đều phải chết… Á á!” Di Bành đau đến nói không nên lời, hai tay bắt đầu cào cấu lên ngực. Y phục đều bị hắn xé rách, để lộ vết thương trên vai trái, là năm vết thâm tròn tròn, nhìn giống hệt một dấu thần chú.

A Hành chợt biến sắc mặt, hai mắt ầng ậng nước.

“A… A…” Di Bành đau đớn thét lên, ngã xuống dưới chân A Hành, cả ngươi co rúm ró, vết thương trên vai càng hiện rõ hơn.

A Hành run rẩy đưa tay ra, đặt lên vai Di Bành, truyền linh lực vào cơ thể hắn, toan làm giảm đau đớn. Di Bành vung tay hất nàng ra, “Ngươi cút ra!” Nàng vẫn chẳng hề tránh né, mặc cho Di Bành đánh đã, tay áo bị hắn xé toạc, lộ ra cả cánh tay. Trên cánh tay nàng cũng có một vết thương, giống hệt vết thương trên vai Di Bành, trông như nửa dấu chân thú vậy.

Cánh tay Di Bành đang định đánh vào tay nàng, chợt khựng lại.

Linh lực của A Hành bắt đầu phát huy tác dụng, cơn đau dần dần dịu hẳn. Cơn đau lui đi, dường như cũng cuốn theo tất cả bi thương oán hận trong lòng, trái tim hắn tựa hồ biến thành một đầm nước trong veo, ánh mặt trời rọi xuống, xuyên qua thời gian dằng dặc, nhìn thấu tận đáy đầm, nơi đó, có một cậu thiếu niên vô tư vô lự, còn chưa biết ưu sầu.

Phụ vương quy định cho hắn và A Hành cùng nhau đọc sách, còn chọn cho cả hai một vị sư phụ, nhưng mẹ lại cấm hắn nói chuyện với A Hành. Mỗi sáng A Hành đều nấp bên góc tường đợi hắn, cùng hắm nắm tay nhau tới lớp.

Chiều hè, cả hai lại cùng nhau nhảy từ trên cây cầu cao ngất xuống nước, đọ xem bọt nước của ai làm bắn lên to hơn. Mùa đông tuyết rơi, hai người cùng nằm lăn ra trên mặt tuyết, dùng sọt úp chim tước. Hắn tặng A Hành con anh vũ mình yêu thích nhất, A Hành cũng thêu hầu bao cho hắn, một chiếc hầu bao có tua tuyệt đẹp.

Trên núi vắng mọc đầy cỏ dại là khu vườn bí mật của họ, cùng đuổi nhau, cùng bắt bướm, cùng vồ dế, đào giun, A Hành gọi “Cửu ca, từ từ thôi”, hắn sẽ gọi “A Hành, mau lên”.

Có lẽ vì mẹ và các anh đều cấm họ chơi chung, mà cả hai lại quá bướng bỉnh, nên càng cấm họ càng thân thiết. Rõ ràng rất thân nhau, nhưng mỗi lần cả nhà họp mặt, đều phải lờ nhau đi, vờ như không quen, đợi đến nơi không có ai, lại nhìn nhau cười, lén làm mặt quỷ chòng nhau, hí hửng vì cha mẹ và các anh không biết bí mật nhỏ của họ.

Mỗi lúc ăn cơm cùng, vì ngang hàng, hai người ngồi cạnh nhau, chẳng ai dám nói với ai câu nào, nhưng dưới gầm bàn lại lén lút ta đẩy ngươi, ngươi đánh ta, cùng mím môi cười vụng.

Nghe nói Tượng Võng thúc thúc bắt được một con yêu quái rất lợi hại, cả hai rủ nhau trốn học đi xem đại yêu quái, hai mái đầu chụm lại, thì thầm bàn tính một lát đã ra được vô số âm mưu quy kế, gạt được tất cả thị vệ. Hai người lẻn vào, vô ý phá vỡ cầm chế, khiến con yêu quái hung bạo xông ra. Cả hai sợ cuống quýt, vội co cẳng chạy như bay. A Hành mặc váy nên chạy không được nhanh, bị yêu quái vồ được, bẻ gãy lìa tay. Hắn ngoảnh lại nhìn A Hành, thấy nửa nửa người A Hành toàn máu là máu, vẫn không quên hét bảo hắn: “Cửu ca, chạy mau, chạy mau!”

Hắn vô cùng sợ hãi, rất muốn bỏ chạy, nhưng hắn còn sợ A Hành bị yêu quái ăn thịt hơn, bèn chạy ngược lại cứu A Hành, nhảy tưng tưng, huơ huơ tay trước mặt yêu quái, “Đến đây, đến đây, đến mà bắt tao đây này!”

Con yêu quái bị chọc giận, bèn bỏ lại A Hành đuổi theo hắn. Hắn chạy không thoát, liền bị yêu quái tóm được, móng vuốt sắc nhọn của nó xuyên thủng cả vai hắn, chưa hết, một chân kia của nó sắp cắm ngập vào tim hắn. A Hành kéo lê cánh tay gãy, nhảy vọt lên vai yêu quái, ra sức nện vào mắt nó, vừa nên vừa khóc: “Cửu ca, Cửu ca, huynh có đau không?”

Hắn không muốn tỏ vẻ yếu đuối như con gái, bèn gắng gượng làm mặt quỷ với A Hành, vờ như không hề gì, hít một hơi khí lạnh, nói: “Con yêu quái này cũng lợi hại ghê.”

Nhìn hắn làm mặt quỷ, A Hành phá lên cười.

May sao Tượng Võng thúc thúc đến kịp, cứu được hai đứa. Tuy thúc thúc cùng các anh đều xin cho, nhưng phụ vương vẫn vô cùng giận dữ, đem nhốt cả hai lại, còn nói thầy thuốc không được chữa lành sẹo cho hai người, để cả hai trông thấy mà nhớ kỹ lời người lớn.

Những tháng ngày cùng nhau học hành, cùng nhau nô đùa, cùng nhau đối phó với cha mẹ, cùng nhau lừa gạt các anh trai…

Di Bành nắm lấy tay A Hành, vẻ mặt hoang mang vô hạn, tựa hồ không hiểu sao bọn họ lại thành ra thế này.

“A Hành.” Di Bành khẽ gọi. Từ khi Tam ca Hiên Viên Huy chết đi, hắn vẫn khách khí gọi nàng là tiểu muội.

A Hành ròng ròng nước mắt, “Cửu ca.” Từ sau khi Thanh Dương chết đi, đây là lần đầu tiên nàng thật lòng xem hắn là anh trai.

Di Bành mỉm cười, “Nếu chúng ta không bao giờ lớn lên thì hay quá, ta thực muốn được quay về ngày nhỏ như xưa.”

Linh lực của A Hành không kiềm chế nổi linh lực của Di Bành nữa, cơn đau lại tăng lên, Di Bành nhẹ nhàng gỡ thanh chủy thủ A Hành đeo bên eo, cũng chính là thanh chủy thủ Xương Phó dùng để tự vẫn, gắng chút sức tàn đâm thẳng vào ngực mình, “A Hành, con yêu quái lần này lợi hại quá, chúng ta đều thua cả rồi.”

“Cửu ca, Cửu ca…”

A Hành hốt hoảng gọi, mắt nhòe nhoẹt nước mắt, đột nhiên, Di Bành lè lưỡi làm mặt quỷ với nàng.

Gương mặt quỷ bỗng cứng đờ, trở thành lời cáo biệt vĩnh hằng.

“Cửu ca!” A Hành ôm lấy Di Bành, khóc không ra tiếng.

Trên triền núi, bươm bướm dập dờn, một đôi thiếu niên thiếu nữ đang chạy nhảy trong gió, tiếng cười rộn rã lan xa.

A Hành, A Hành, mau lên, mau lên!

Cửu ca, Cửu ca, từ từ, từ từ thôi!

Ha ha ha ha… Ha ha ha ha…

Dưới sự cố chấp của Chuyên Húc, mọi người đành đứng đợi trước mộ Xương Ý và Xương Phó.

Trông thấy A Hành sắc mặt tái nhợt, lảo đảo tiến lại, Tiểu Tông Bá lập tức tuyên bố bắt đầu nghi thức.

Trong tay A Hành nắm chặt một thanh chủy thủ nhuộm máu là lễ vật nàng và Thiếu Hạo tặng cho Xương Ý và Xương Phó nhân ngày thành hôn, là thanh chủy thủ đâm chết Đồng Ngư thị, cũng là thanh chủy thủ Xương Phó dùng để tự vẫn, nhưng hôm nay, sao nó lại nhuốm máu?

Trong tiếng nhạc ai oán, A Hành cắm phập thanh chủy thủ trước mộ, “Tứ tẩu, tẩu yên tâm đi cùng Tứ ca đi, không còn ai có thể làm hại Chuyên Húc nữa đâu.”

Người khác không hiểu nàng đang nói gì, chỉ mình Hoàng Đế biến sắc mặt: “Hành nhi, rốt cuộc con đã làm gì hả?”

“Con kết thúc tất cả mọi chuyện rồi!” A Hành đứng đó, thân mình lảo đảo như thể gió thổi cũng ngã, nhưng gương mặt lại quật cường lạnh lẽo đến không ngờ.

Hoàng Đế giật thót mình, vội quay phắt người chạy về phía mộ Đồng Ngư thị.

Hồi lâu sau, chợt nghe trong rừng sâu vọng ra một tiếng kêu thê lương mà ngắn ngủi. Thân mình A Hành lảo đảo như sắp ngã, nhưng nàng vẫn cắn lưỡi, gắng gượng đứng vững.

Nàng bế Chuyên Húc lên, “Chúng ta về nhà thôi, về xem bà nội và Tiểu Yêu thế nào.”

Chuyên Húc nắm lấy thanh chủy thủ bằng cả hai tay, “Vậy còn cái này? Để lại cho mẹ con à?”

“Con giữ lấy mà hộ thân, để mẹ con được yên lòng.”

Chuyên Húc ôm lấy thanh chủy thủ, khóe môi mím chặt, chăm chú nhìn ngôi mộ cha mẹ, kiên quyết gật đầu như thầm hứa.

A Hành vừa đặt chân vào Triêu Vân điện, Hoàng Đế đã xách kiếm bám theo sát gót.

Chẳng để đám thị nữ bẩm cáo, Hoàng Đế xông thẳng vào, vung kiếm toan lấy mạng A Hành, Chu Du định ngăn lại mà không ngăn nổi, Cửu Dao hoảng sợ khóc ré lên, vừa khóc vừa cùng Chuyên Húc một trái một phải ôm ghì lấy chân Hoàng Đế, nhưng chẳng cản được bước chân ông.

A Hành ngồi yên bất động, ngẩng đầu chăm chú nhìn Hoàng đế, không hề sợ hãi.

Hoàng Đế giơ cao kiếm, bàn tay run bắn lên, vung kiếm định chém xuống.

“Ông muốn giết thì giết tôi trước đi!” Giọng già nua yếu ớt của Luy Tổ chợt vang lên.

Thì ra, Vân Tang thấy tình hình không ổn, lập tức chạy đi tìm Luy Tổ, bấy giờ nàng vừa đỡ Luy Tổ hớt hải chạy đến.

Hoàng Đế giật mình, nhát kiếm lệch đi, không chém trúng A Hành. Ông ngoảnh lại trừng mắt nhìn Luy Tổ, trỏ vào A Hành hỏi: “Bà có biết nó đã làm gì không? Nó giết Di Bành ngay trước mộ Đồng Ngư đấy, máu Di Bành loang đỏ cả nấm mộ…” Hoàng Đế run giọng, không nói tiếp được nữa.

Luy Tổ lạnh lùng hỏi lại: “Ông đã điều tra chưa? Sao có thể không truy xét gì đã định tội cho Hành nhỉ?”

Hoàng Đế cười thâm, giễu cợt hỏi: “Còn cần tra xét nữa ư?” Ông trợn mắt nhìn A Hành, “Là mày làm phải không?”

A Hành thản nhiên nhìn Hoàng Đế, hờ hững hỏi: “Phụ vương thấy thế à? Ngàn năm trước, khi Nhị ca chết đi, nếu phụ vương có thể trả lời rõ ràng câu hỏi của Đại ca, thì đâu có câu hỏi ngày hôm nay.”

Hoàng Đế chợt run bắn lên, thanh kiếm trong tay keng một tiếng rơi xuống sàn: “Mày đã không còn là Hành nhi con gái ta nữa rồi!” Ông trừng trừng nhìn A Hành, thê lương nói: “Sau khi Vân Trạch chết đi, ta đã sợ rằng sẽ có ngày này. Ta bất chấp mọi người phản đối, cố ý cho mày và Di Bành học chung một thầy, để cả hai cùng học cùng chơi, cùng nhau lớn lên, chính là hy vọng không xảy ra sự việc ngày nay.”

Đoạn ông tóm lấy cánh tay A Hành, “Nhìn thấy vết thương này không? Còn nhớ Di Bành đã cứu mày thế nào không? Ta lệnh cho thầy thuốc không chữa lành sẹo, không phải để trừng phạt hai đứa bướng bỉnh, mà là để hai đứa suốt đời phải ghi nhớ, hai đứa là huynh muội, một giọt máu đào hơn ao nước lã!” Nói rồi ông ném cánh tay A Hành xuống: “Vết thương này cả đời mày cũng không xóa được, ngày ngày mày sẽ phải ghi nhớ rằng mày đã giết chết Di Bành, mày cứ ôm lấy ký ức ấy mà sống đi, sống một ngày là đau khổ một ngày!”. Dứt lời, Hoàng Đế quay phắt người, rời khỏi Triêu Vân điện.

Chương 15: Đương quyến luyến, hiệu kèn đã giục


Xi Vưu nâng cằm A Hành lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Nếu ta chết đi, nàng đừng oán phụ vương nàng, nếu Hoàng Đế chết, mong rằng nàng cũng sẽ tha thứ cho ta, đây chỉ là trận quyết đấu công bằng của hai nam tử mà thôi.”

Khóe mắt A Hành chợt đỏ hoe, “Ta lên tới đây gặp chàng, vậy mà chàng lại nói với ta rằng chàng nhất định phải giết phụ vương ta ư?”


Từ sau khi Du Võng bị chém đầu trước trận tiền, sĩ khí quân Thần Nông tan tác, lòng dân phân tán, liên tiếp thua trận, nhưng cái chết bi thảm của Chúc Dung đã khiến tất cả dân Thần Nông phấn chấn tinh thần, giống như đương lúc bị dồn vào đường cùng, lại nghe thấy tiếng kèn lệnh xung phong hùng dũng vậy.

Chúc Dung chẳng những đã đem thân mình thắp sáng núi lửa, mà còn thắp sáng lên vô số ý chí phản kháng của nam nhi Thần Nông. Tuy Thần Nông quốc đã tan rã, nhưng dân chúng Thần Nông còn đó. Vô số người ùn ùn từ bốn phương tám hướng đổ về, phất cao ngọn cờ chống đối, dùng máu và mạng sống để chống lại Hoàng Đế.

E rằng chính Chúc Dung cũng không tưởng tượng nổi, cái chết của hắn có thể xoay chuyển hoàn toàn cục thể đại hoang, cuộc đấu tranh của hai phe Viêm, Hoàng từ đây bắt đầu kéo dài suốt mấy trăm năm, vô số nam nhi đã khảng khái hy sinh, làm nên một trang sử bi tráng hào hùng nhất trong lịch sự Thần tộc. Đến nỗi sau này khi Chuyên Húc đăng cơ trở thành Thiên đế, cắt đứt giao lưu giữa trời và đất, đốt hết điền tịch, thì câu chuyện về cuộc đại chiến của Thần tộc vẫn còn lưu truyền giữa nhân gian.

Khác hẳn Chúc Dung, Hoàng Đế đã lường trước cục diện ngày nay, nên ông nhất quyết không dám bại, bèn lựa cách mềm mỏng để đối phó Chúc Dung. Nhưng người tính chẳng bằng trời tính, Chúc Dung lại dùng một đám cháy kinh thiên động địa thắp lên cả Thần Nông. Thần Nông hiện giờ tựa như những con suối nhỏ róc rách đang dần dần hội tụ lại thành dòng sông lớn cuồn cuộn chảy, đợi sĩ khí của chúng tụ lại rồi bùng phát, chi bằng ra tay tấn công ngay khi chúng còn chưa hoàn toàn tụ lại, nắm lấy quyền chủ động.

Hoàng Đế lệnh cho Hiên Viên Hưu và Thương Lâm tấn công Trạch Châu thành.

Hiên Viên Hưu dẫn hai vạn tinh nhuệ Hiên Viên, bày trận thế công thành, bắt đầu tấn công.

Theo thông lệ, Trạch Châu là cứ điểm quân sự quan trọng, có ưu thế về địa lý, chỉ cần tử thủ trong thành lấy tĩnh chế động là ổn. Làm vậy vừa phát huy được trọn vẹn ưu thế của tòa thành này, vừa có thể giảm thiểu thương vong, tiết kiệm binh lực. Nào ngờ Xi Vưu chơi cờ chẳng buồn tuân theo luật lệ gì hết, lại dẫn một cánh quân chừng trăm người xông ra, chính diện giao phong với đại quân Hiên Viên.

Nhờ quân số ít, hành động thần tốc, tấn công hay tập kích đều hết sức mau lẹ, lại thêm Xi Vưu khí thế dũng mãnh, tựa như mãnh hổ hạ sơn, xông xáo khi bên trái lúc bên phải, đánh cho đội hình hai vạn người của Hiên Viên rối loạn cả lên, giết liền một lúc hơn hai ngàn người. Đợi Hiên Viên Hưu kịp phản ứng, khống chế quân đội, hạ lệnh bao vây tiêu diệt Xi Vưu thì hắn đã rút trở vào thành như gió lốc.

Vừa đụng độ một trận, khí thế đã nghiêng về phía Xi Vưu, Hiên Viên Hưu nháo nhác gào lên đòi chính diện giao chiến, nhưng bất luận hắn ở trước cổng thành chửi rủa thế nào, Xi Vưu cũng chỉ cười hề hề đứng trên đầu thành nhìn xuống như đang ngắm cảnh.

Xi Vưu còn cho người đem hơn hai ngàn đầu lâu vừa chém xuống, chưa khô hết máu, xâu lại thành từng chuỗi, mỗi chuỗi trăm cái, treo trên đầu thành, máu nhuộm đỏ thẫm cả tường thành nâu xám.

Binh sĩ Hiên Viên trông thấy chuỗi đầu lâu lõng thõng trên đầu thành, không rét mà run, vừa hận vừa sợ Xi Vưu.

Những ngày này, mỗi lần Hiên Viên và Thần Nông giao tranh, số đầu lâu treo trên thành lại tăng lên, tựa như những chiếc đèn lồng lắc lư trên cao vậy, hết lớp này say lớp khác, sin sít dày đặc, ngay cả kẻ to gan nhất trông thấy cũng phải giật thót mình.

Thoạt đầu, hành vi ngông cuồng tàn nhẫn của Xi Vưu đã chọc giận binh lính Hiên Viên vốn nổi danh dũng mãnh, khiến đấu chí của họ bốc cao ngùn ngụt, quyết lấy mạng Xi Vưu, trả thù cho đồng đội. Nhưng chiến thuật của Xi Vưu biến hóa đa đoan, khi hung mãnh như hổ, lúc kín đáo như rắn, khi lại giảo hoạt như hồ ly, bất luận binh sĩ Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến chừng nào, số đầu lâu trên tường thành không ngừng tăng lên từng ngày.

Cảm giác của binh lính Hiên Viên đối với Xi Vưu càng ngày càng phức tạp, thoạt đầu họ tưởng Xi Vưu là một tảng đá, chỉ cần dốc sức là có thể khiêng đi, về sau họ lại phát hiện Xi Vưu là một ngọn núi, không cách nào lay chuyển được, họ cứ ngỡ chỉ cần tìm được chiến thuật thỏa đáng, đồng tâm hiệp lực, nhất định có thể vượt qua Xi Vưu, nhưng bất luận họ trèo thế nào, dùng phương pháp gì cũng vậy, càng leo lên cao thì càng nhận ra Xi Vưu đang ở cao hơn, vả lại bất cứ lúc nào hắn đều có thể lắc mình biến thành vực sâu, khiến bọn họ từng người ngã xuống chết.

Các chiến sĩ Hiên Viên tộc từ nhỏ đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi, dân chúng hiếu chiến, tính tình dũng mãnh, kẻ càng dũng mãnh càng không biết sợ, nhưng một khi có kẻ dũng mãnh hơn khiến bọn họ sợ hãi, thì nỗi sợ hãi đó còn có sức uy hiếp hơn cả tử vong. Dù ngoài miệng họ không chịu thừa nhận, nhưng nỗi sợ hãi cũng giống như ôn dịch, chưa nảy sinh thì không sao, một khi nảy sinh rồi, liền cứ thế lan ra, không cách nào không chế.

Cứ gián đoạn như thế, chiến dịch này đã kéo dài hơn một năm. Hiên Viên Hưu tổ chức hai đợt tấn công lớn cùng vô số đợt tấn công nhỏ, hết thảy đều bị Xi Vưu đập tan. Trạch Châu thành vẫn sừng sững đứng đó, chẳng hề suy suyễn, có chăng là số đầu lâu treo trên tường thành đã tăng lên đến hơn một vạn chiếc.

Treo lủng lẳng hơn một vạn đầu lâu trước thành, Trạch Châu thành trở nên đáng sợ hơn cả Ma vực Ngu uyên, mỗi lần nhác thấy bóng áo đỏ của Xi Vưu đứng trên đầu thành, mọi người đều như thấy Ma vương xuất hiện, cần cổ bất giác lạnh buốt, tựa hồ đã bị thanh trường đao của Xi Vưu cắt mất đầu vậy.

Một sớm nắng đẹp, Xi Vưu đứng trên đầu thành vươn vai, nheo mắt nhìn vầng thái dương xán lạn một lát, đột ngột hạ lệnh cho Phong Bá và Vũ Sư: “Mở hết các cửa thành ra, dẫn mọi người cùng tấn công.”

Vũ Sư và Phong Bá mừng rỡ hô vang, chia nhau đi gọi các huynh đệ.

Binh sĩ Hiên Viên trợn mắt há miệng nhìn tất cả các cánh cửa thành lần lượt mở ra – họ vất vả giành co tại nơi này suốt một năm cũng chỉ vì mục đích ấy. Giờ đây cửa thành đều đã mở, nhưng họ lại thấy ớn lạnh.

Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao xông ra khỏi thành, quân đội Thần Nông đông như kiến cũng từ trong thành tràn ra, như một bầy dã thú bị nhốt trong chuồng lâu ngày, con nào con nấy đều dũng mãnh vô song, khiến binh sĩ Hiên Viên tộc phát hoảng, không sao chống cự nổi, đành liên tiếp thoái lui.

Chiều hôm ấy, Hoàng Đế nhận được tin Hiên Viên đại bại. Hơn tám vạn chỉ còn chưa đến bốn vạn người.

Nỗi sợ hãi nhanh chóng như ôn dịch lan ra, từ chiến trường truyền đến cả Hiên Viên quốc. Trong quân doanh, các binh sĩ đều thao thao kể chuyện, sinh động như thật, nói mỗi lần Xi Vưu giết một người, hắn đều tắm trong máu người đó, giết càng nhiều người thì linh lực càng tăng cao. Cùng với những lời đồn đại, hình ảnh Xi Vưu trong lòng binh sĩ Hiên Viên vừa là tên ác ma tàn độc hung ác, vừa là vị chiến thần không thể đánh bại.

Mất thành trì đất đai cũng chưa phải điều đáng lo nhất, Hoàng Đế e ngại nhất là nỗi kinh hoàng của binh sĩ đối với Xi Vưu. Hơn ai hết, ông hiểu rõ sức mạnh của nỗi sợ hãi, chẳng phải Thần Nông vì sợ hãi mà tan rã trong một đêm đó ư? Trước đây, Hiên Viên liên tiếp giành thắng lợi, quyết không phải vì chiến sĩ Hiên Viên thiện chiến hơn chiến sĩ Thần Nông, mà chỉ bởi bọn họ tin rằng mình sẽ thắng, hai bên giao đấu, kẻ gan dạ hơn tất thắng.

Hoàng Đế hạ lệnh, hễ phát hiện kẻ nào bàn tán về Xi Vưu, liền định tội nói nhảm dụ người, lập tức nghiêm trị, nhưng chính ông cũng biết đây chỉ là uống rượu độc giải khát, tạm thời thì hữu hiệu, còn về lâu về dài, càng cấm đoán sẽ càng khiến mọi người sợ Xi Vưu.

Chỉ chiến thắng mới có thể đập tan nỗi sợ!

Hoàng Đế phái thêm đại quân, lệnh cho Ly Chu và Tượng Võng, hai phụ tá đắc lực của mình cầm quân, dẫn mười hai vạn người vây đánh Xi Vưu.

Hơn một năm sau, Hiên Viên tiếp tục đại bại, mười hai vạn quân chỉ còn lại năm vạn, bị Xi Vưu dồn đến Phản Tuyền.

Tin báo về Hiên Viên thành, Hoàng Đế thất thần đến nổi bủn rủn ngồi phịch xuống sập.

Phản Tuyền! Được Phản Tuyền thì được Trung Nguyên. Mất Phản Tuyền thì mất Trung Nguyên! Ông không thể để mất Phản Tuyền được!

Nhưng hiện giờ sĩ khí Hiên Viên đang suy yếu, trong khi sĩ khí Thần Nông lại tăng cao. Binh sĩ Hiên Viên chẳng có tình cảm gì đối với Phản Tuyền nên không có động lực tử thủ. Nhưng đối với binh sĩ Thần Nông, Phản Tuyền lại là cố hương của họ, Viêm Đế Du Võng cũng chết tại Phản Tuyền, nên đó còn là mảnh đất ô nhục của Thần Nông tộc. Con người ta vì hổ thẹn mà dũng mãnh, binh sĩ Thần Nông ắt không tiếc bất cứ giá nào để đoạt lại Phản Tuyền, rửa mối nhục khi xưa.

Đôi bên giao tranh, ai thắng ai thua dường như chỉ thoáng qua đã rõ cả rồi.

Vì binh lực không đủ, Hoàng Đế chẳng còn lòng dạ nào lo lắng Cộng Công nữa, bèn triệu hồi quân đội đang truy kích Cộng Công tăng cường cho Phản Tuyền, lại hạ tử lệnh cho Ly Chu và Tượng Võng phải tử thủ tường thành, không được ra ngoài nghênh chiến, nếu không giữ được Phản Tuyền thì cả hai đừng về nữa.

Nhưng Hoàng Đế cũng biết, đây chỉ là kế tạm thời mà thôi. Trừ khi viên đại tướng cầm quân khích lệ được sĩ khí của binh sĩ Hiên Viên, đập tan nỗi sợ hãi của họ đối với Xi Vưu. Nhìn khắp Hiên Viên quốc chỉ có hai người làm được điều này: người thứ nhất là Thanh Dương, người thứ hai là Hoàng Đế. Có điều ai cũng biết, Thanh Dương đang bị trọng thương không cách nào cầm quân tác chiến được.

Hoàng Đế bước vào Binh Khí thất trong Hiên Viên sơn, đám tùy tùng định vào theo nhưng Hoàng Đế xua tay, ý bảo họ chờ bên ngoài.

Hoàng Đế trọng võ nên Binh Khí thất được xây dựng xa hoa hơn cung điện nhiều, bố cục hình chữ nhật, ở giữa để trống, dưới đất nạm ngọc tủy của Ngọc sơn, trần nhà lại dùng thạch anh Quy khư, hai bên trái phải bày đầy những vũ khí và khôi giáp, thoạt nhìn có vẻ rất nhiều nhưng thực tế là chỉ đủ cho hai người sử dụng. Khôi giáp vũ khí bên tay trái là của ông, còn bên phải là của Luy Tổ. Những bộ khôi giáp bên trái đều được pha lẫn hoàng kim vào đúc, còn bên phải thì pha bạch ngân, lấp loáng chói lọi, một bên ánh vàng lóa mắt, một nên ánh bạc lung linh, ánh chiếu lẫn nhau, sáng rực cả phòng.

Hoàng Đế bước sang trái, quan sát kỹ từng bộ khôi giáp, mãi đến khi chọn được một bộ ưng ý. Ông tỉ mỉ lao chùi bộ khôi giáp đó, lau xong ngắm kỹ lại, mới nhận ra đó là bộ khôi giáp đầu tiên của mình.

Mấy ngàn năm trước, bản đồ lãnh thổ Hiên Viên ngày càng mở rộng, thì kẻ địch mà bọn họ phải đối mặt lại càng hùng mạnh, một đám thanh niên vừa có chút danh tiếng hi hi ha ha nói phải rèn cho ông một bộ khôi giáp ra dáng, bằng không sẽ rất mất mặt mỗi khi ra ngoài! Từng người lần lượt lấy ra những thứ bảo bối mình cất giữ bao năm nay, sau đó lại tranh cải ỏm tỏi không biết phải chọn chất liệu, màu sắc và hình dạng ra sao, chợt A Luy từ đầu chí cuối vẫn lặng thinh đột ngột lên tiếng, nói khôi giáp nên để thuần một màu vàng rực, chói lòa như vầng thái dương vậy, một khi xuất hiện sẽ giống như mặt trời ló dạng, khiến tất cả mọi người trên chiến trường đều trông thấy.

Ai nấy nhao nhao phản đối, nói nếu quá thu hút, chẳng phải sẽ trở thành đích nắm cho quân địch hay sao?

A Luy chẳng buồn cãi lại, chỉ đưa mắt nhìn ông. Ông liền mỉm cười, sang sảng tuyên bố, cứ dùng thuần một màu vàng rực như lời A Luy đi!

Mấy ngàn năm sau, bộ giáp vàng của ông đã trở thành dũng khí cho Hiên Viên tộc. Mấy lần rơi vào tuyệt cảnh, toàn quân sắp bị diệt tới nơi, nhưng chỉ cần ông mặc khôi giáp xông lên chiến trường, các chiến sĩ Hiên Viên ở bất cứ đâu cũng đều trông thấy, đều biết rằng tộc trưởng của họ không hề chùn bước, những chiến sĩ dũng mãnh can đảm nhất thế gian ấy sẽ lại theo ông chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.

Đối với tất cả chiến sĩ Hiên Viên, bộ giáp vàng ấy còn chói lọi hơn cả mặt trời, bởi nó có thể soi sáng dũng khí của họ, nhưng đối với kẻ địch, bộ giáp vàng lại là biều tượng của tử vong, ánh sáng rọi tới đâu, nỗi kinh hoàng sẽ lan tới đó.

Hoàng Đế lại quay sang nhìn một dãy khôi giáp bày đầy bên phải, phía sau mỗi bộ khôi giáp là một trận huyết chiến. Bộ giáp vàng chói lọi đến nỗi người ta nhăng mắt, bóng áo giáp bạc đứng khuất sau vầng thái dương, nhưng những kẻ từng bôn ba chinh chiến, tắm máu sa trường như họ đều hiểu cả.

Sau khi Hiên Viên lập quốc, đã mấy lần ông định bỏ đám khôi giáp bên phải này đi, nhưng đều gặp phải sự phản đối kịch liệt của Tri Mạt. Tượng Võng đứng về phía của Tri Mạt, chỉ riêng Ly Chu không lên tiếng, nhưng rõ ràng cũng chẳng tán đồng. Qua đó, ông biết được địa vị của Luy Tổ trong lòng bọn họ vẫn không hề suy suyển.

Suốt ngàn năm ấy, đây là lần đầu Hoàng Đế nhìn kỹ lại những bộ giáp vàng giáp bạc của hai người.

Ông bước đến trước một tấm nhuyễn y màu bạc rất rộng, chuyện xưa lại chợt cuộn lên trong lòng, chiếc áo này không phải áo giáp, nhưng đáng sánh ngang với tất cả áo giáp ở đây.

Thụ Sa quốc và ba bộ tộc khác liên kết lại vây đánh Hiên Viên quốc, A Luy lúc đó đang có mang Thanh Dương, không thể ra trận, ông bèn phái thị vệ hộ tống nàng tránh vào tận trong núi sâu. Sau mấy ngày kịch chiến, ông rơi vào Lưu Sa trận, bị trận thế lôi kéo, bộ giáp vàng càng lúc càng nặng trịch, Ly Chu khuyên ông cởi giáp mà chạy, nhưng ông biết rõ là mình không thể. Chừng nào ông chưa cởi áo giáp, tất cả các binh sỹ còn bám vào chút hy vọng mong manh ông đem lại mà kiên trì chiến đấu, một khi áo giáp cởi ra rồi, chắc ông có thể chạy thoát, nhưng Hiên Viên tộc sẽ chấm dứt ở đây.

Trong Lưu Sa trận mù mịt cát vàng, dần dà che mờ cả ánh sáng chói lòa của áo giáp vàng. Khi tất cả mọi người tưởng như đã tuyệt vọng, chợt ông nhác thấy một vệt sáng bạc lấp lánh vụt qua chân trời. Thoạt tiên ông ngỡ ngàng mình hoa mắt, nhưng một thoáng sau, ông trông thấy A Luy vận tấm áo mềm dệt từ tơ tằm bạc, cưỡi trên Tứ Si Bạch nga[1] đã bị bịt hai mắt dẫn theo năm trăm binh sĩ mượn được từ Xích Thủy thị băng băng chạy tới.

[1] Bướm trắng bốn cánh. (ND)

Chỉ trong chớp mắt, toàn thân ông chợt căng tràn sinh lực, liền giơ tay hô vang, xốc lại sĩ khí toàn quân. Nhân lúc kẻ địch kinh hoàng thất thố, mà khí thế quân ta lại đang lên, ông và A Luy nội ứng ngoại hợp, cuối cùng chuyển bại thành thắng. Trận ấy không chỉ khiến Thụy Sa quốc quy thuận Hiên Viên mà còn có tác dụng răn đe, khiến các quốc gia miệt Tây Bắc không dám xâm phạm Hiên Viên nữa.

Hoàng Đế khẽ miết tay lên tấm nhuyễn giáp màu bạc, chỉ thấy lạnh thấu xương. Mới thế mà đã mấy ngàn năm rồi!

Hoàng Đế ra khỏi Binh Khí thất, men theo con đường mòn trên núi, đám tùy tùng toan đi theo đều bị ông ngăn lại: “Ta muốn đi một mình.”

Cứ dọc theo con đường mòn trong núi sẽ đến một hang động khuất nẻo có lối thông thẳng đến Triêu Vân điện, đây là thông đạo bí mật mà năm xưa khi xây điện ông đã phát hiện ra.

Phía sau Triêu Vân điện um tùm cỏ dại vì nhãng sửa sang. Hoàng Đế băng qua đám cỏ hoang lúc đầu gối, lặng lẽ đi thẳng đến sương điện.

Phượng hoàng trong sân đang nở rộ, đỏ rực cả tàng cây, từng chùm hoa rủ xuống trĩu cành, mỗi trận gió nhẹ thổi qua lại cuốn theo một cơn mưa hoa lả tả.

Trên cây mắc một chiếc đu, Cửu Dao đang đứng trên đó, vừa đu vừa gọi: “Bà ngoại, xem cháu này, bà xem, cháu đu cao hơn ngọn cây rồi này!”

Dưới hiên nhà kê một chiếc sập gỗ dâu, Luy Tổ dáng vẻ tiều tụy, mái tóc bạc trắng đang ngả mình trên sập, tựa hồ thiêm thiếp ngủ, nhưng mỗi khi nghe Cửu Dao gọi, bà lại hé môi cười.

Chuyên Húc ngồi xếp bằng dưới đất, tựa mình vào chân sập, cúi đầu đọc sách.

Chu Du và Vân Tang mỗi người bưng một chiếc giỏ trúc ngồi trên thềm đá, vừa lựa chồi non, vừa bàn xem tối nay ăn gì.

“Bác ơi, nhìn con đi”

“Ta thấy rồi, thấy rồi, con đu cao hơn ngọn cây chứ gì.” Vân Tang cười nói

“Biểu ca…”

Chuyên Húc giơ tay bịt tai, làm bộ không muốn nghe.

Cửu Dao đu lên đến đỉnh, đột nhiên buông đu nhảy xuống, ngắt một đóa Phượng Hoàng hoa trên ngọn cây, tà tà đáp xuống, được nửa chừng, bỗng cô bé vung tay ném cành hoa vào đầu Chuyên Húc, vênh vênh đắc ý.

Chuyên Húc khinh khỉnh lườm Cửu Dao, đột ngột từ dưới đất vọt lên tuốt ngọn cây, bẻ một đóa Phượng Hoàng hoa, rồi ung dung xoay người, vững vàng đáp xuống.

Cửu Dao đầy vẻ hậm hực, đang định bật lại thì A Hành ra tay can thiệp: “Không được cãi nhau! Hai đứa giỏi thế thì động tay động chân vào rừng dâu nhặt ít lá khô đi, bà thích uống canh cá hấp lá dâu.”

Cửu Dao ủ rũ gục mặt xuống, nguýt Chuyên Húc một cái, làu bàu: “Tại huynh hết.”

Chuyên Húc rất nghe lời, lập tức xách sọt chạy vào rừng dâu, còn Cửu Dao lại tức tốc chạy đến bên Luy Tổ, tấn công: “Bà ngoại, canh cá hôm nay là con nấu cho bà đấy, bà uống nhiều vào nhé.”

Vân Tang và Chu Du nghe vậy cười phá lên, Hoàng Đế cũng không nhịn được lắc đầu cười, con nhỏ này quả có tố chất làm gian thần, chuyên nịnh nọt bề trên, nói không thành có, vơ hết công lao vào mình.

Thấy mặt trời đã khuất núi, hơi ẩm dưới đất sắp bốc lên, A Hành bèn cùng Chu Du bê chiếc sập gỗ dâu vào nhà.

Cửu Dao nằm ườn trên sập, tựa vào người bà ngoại, lẩm bẩm nói gì đó. Động chân động tay? Động chân động tay nỗi gì? Bà ngoại kéo bé lại nói chuyện cơ mà!

Vân Tang đứng dậy, giũ hết những phiến lá vụn bám trên gấu váy, xách giỏ trúc bước vào sương điện, không quên ném lại một câu qua cửa sổ: “Tiểu Dao, khi nào con đi nấu canh cá?”

Cửu Dao làm mặt quỷ với Vân Tang.

Chuyên Húc đã bê sọt lá về, Chu Du đang hấp cá trong sân còn Vân Tang làm cơm dưới bếp.

Mùi khói bếp lan tỏa trong không gian – đối với Hoàng Đế lại vô cùng lạ lẫm, đã bao lâu rồi chưa ngửi thấy mùi này? Thậm chí ông còn chẳng biết nhà bếp trong cung ở đâu nữa. Nhưng đối với Hoàng Đế, thứ mùi này cũng rất thân quen, trước đây, tất cả những thứ này đều gắn bó với ông hằng ngày, ông còn nhớ, chính mình đã dạy A Luy hấp cá, chứ Tây Lăng đại tiểu thư ngày ấy chỉ biết ăn, nào biết hấp cá gì.

A Hành vào bếp phụ Vân Tang, còn Chuyên Húc và Cửu Dao ngồi chồm hổm bên sập của Luy Tổ nô đùa, lấy cuống lá dâu chơi kéo co, ai thua bị búng mũi, Luy Tổ làm trọng tài, giám sát cả hai đứa.

Bóng tối dần buông, cơm chiều đã dọn, mọi người đều vào nhà, chỉ để lại một khoảnh sân vắng tanh, lặng ngắt, tối mù.

Trong phòng sáng rực ánh đèn, cả nhà đang quay quần quanh Luy Tổ.

Cánh tay Luy Tổ cử động khó khăn nên A Hành phải bưng bát bón cho bà, như cho trẻ con ăn vậy. Nhìn cảnh tượng ấy, Hoàng Đế chợt thấy sống mũi cay cay, người đàn bà kia một thuở từng mặc khôi giáp, xuất lĩnh thiên binh vạn mã, oai phong lẫm liệt mà!

Dùng cơm xong, A Hành và Vân Tang lại cùng Luy Tổ uống trà nói chuyện. Chừng xuôi cơm, Vân Tang mới dắt bọn nhỏ đi rửa mặt nghỉ ngơi, A Hành và Chu Du ở lại chăm sóc Luy Tổ.

Sắp xếp cho mẹ nghỉ ngơi xong, A Hành bảo chu Du đi nghỉ, còn nàng ngủ trên chiếc sập kê ở gian ngoài, phòng khi nửa đêm Luy Tổ có khó ở, nàng cũng tiện trở dậy săn sóc.

A Hành ngả người nắm xuống sập, vừa lật được mấy trang sách, chợt một làn gió thơm ngát lùa qua, mí mắt bỗng nặng trĩu, nàng lịm người đi, chẳng còn biết gì nữa.

Hoàng Đế đẩy cửa sổ nhảy vào phòng, bước đến bên giường Luy Tổ.

Trướng rủ màn che, không trông rõ được nét mặt người bên trong.

Hoàng Đế đứng ngoài màn, hạ giọng nói: “Tôi biết bà đã quyết đoạn tuyệt ân tình, đành nhân lúc bà thiếp ngủ mà đến từ biệt. Hiện giờ quân đội Hiên Viên có vẻ hùng mạnh, nhưng thật sự tin tưởng được vẫn chỉ có mấy cánh quân khi xưa cùng chúng ta xông pha sa trường, tắm máu kẻ thù mà thôi, các cánh quân đầu hàng chẳng qua là thêu hoa trên gấm, chứ mong gì chúng ra tay tương trợ. Quân đội của Xi Vưu đã đến Phản Tuyền, tôi quyết định sẽ đích thân cầm quân nghênh chiến, chọn lựa cả nửa ngày mới được một bộ giáp, lại chính là bộ giáp đầu tiên các người rèn cho tôi. Bà còn nhớ năm đó mọi người đều phản đối chúng ta dùng màu vàng lóa mắt không?”

Trong người A Hành có ma lực của Ngu uyên, linh lực của Hoàng Đế vẫn chưa thể khiến nàng hoàn toàn mê mệt. Nàng sực tỉnh dậy, phát hiện chiếc vỏ sò đựng đầy dạ minh châu mở toang, bản thân lại đang ngồi lên cuốn sách ngủ mê mệt, thẻ trúc cấn vào làm ê ẩm cả mặt.

A Hành vừa toan nhỏm dậy gom đóng thẻ trúc lại, chợt ngẩng lên trông thấy một bóng người hắt lên tường. Nàng giật thót mình, vội vận lực vào bàn tay, nín thở, rón rén tiến đến, nào ngờ lại trông thấy phụ vương đang đứng trước ngay giường mẹ nàng, hình như còn chăm chú nhìn bà qua lớp rèm sa dày.

A Hành sửng sốt, không hiểu sao phụ vương nửa đêm lại lẻn vào tẩm cung của Luy Tổ, bèn len lén núp sau lớp màn che, âm thầm quan sát.

Hoàng Đế mỉm cười, khẽ lẩm bẩm một mình: “Bọn họ làm sao hiểu được, một kẻ muốn sở hữu hào quang chói lọi, ắt chẳng sợ bị thương vì ánh hào quang đó. Còn sắc màu gì chói lòa rạng rỡ hơn được ánh thái dương đây?”

Ánh mắt Hoàng Đế đầy kiên định, nhưng giọng điệu lại rất dịu dàng, như đang thổ lộ với người mình thương mến: “Thống nhất Trung Nguyên, quân lâm thiên hạ là chí nguyện từ nhỏ của tôi, nếu kiếp này chẳng được sinh ra trên Thần Nông sơn, chỉ mong rằng được chôn xác ở Phản Tuyền.” Hoàng Đế tiến lại gần, đưa tay ra, tựa hồ định vén màn lên. Lần này ly biệt, rất có thề là chia cắt muôn đời! Nhưng đột nhiên cánh tay ông khựng lại nửa chừng, vẻ mặt càng lúc càng lạnh đi, sau cùng, ông rụt phắt tay về. Thân hình thoáng cái đã ra đến ngoài sân, hai cánh cửa sổ từ từ khép lại sau lưng.

Ngoảnh đầu lại, chỉ trông thấy gió thổi trướng sa, cánh màn lay động, ánh trăng mờ ảo xóa nhòa hết thảy thời gian đằng đẵng vô tình, bóng người trên giường thấp thoáng, tựa hồ vẫn như năm ấy.

Hoàng Đế đang bàng hoàng ngơ ngẩn, chợt buông miệng: “ A Luy, ta đi đây.” Hệt như mấy ngàn năm trước, mỗi lần từ biệt ra chiến trường.

Trùng Minh điểu, mãnh cầm hàng đầu đại hoang đáp xuống, Hoàng Đế nhảy lên lưng Trùng Minh điểu, bay vút lên, biến mất sau làn mây.

A Hành liêu xiêu bước đến bên giường, phụ vương nàng đang định cầm quân xuất chinh, quyết một trận tử chiến với Xi Vưu.

Nàng yếu ớt khép chiếc vỏ sò đựng đầy dạ minh châu lại, ngồi thần người ra.

Đã mấy năm rồi nàng chưa gặp Xi Vưu, cũng chẳng nhắc nhỏm gì đến hắn, nhưng hắn vẫn luôn ở trong đáy lòng nàng, ngày đêm kề cận bên nàng.

Trước khi Tứ tẩu tự vẫn còn trối rằng Tứ ca không còn hận Xi Vưu nữa, nhưng mẹ nàng biết Đại ca đã chết, nàng sợ mẹ gặp Xi Vưu sẽ lại kích động. Bởi thế, lần trước khi Xi Vưu đến tìm, nàng đã nài nỉ hắn đừng lên Triêu Vân phong nữa.

Mấy năm nay, có nàng chăm sóc, những tháng ngày cuối đời của mẹ thật thực bình lặng yên ổn.

Nàng cũng cố không màng đến cuộc chiến của Xi Vưu và Hiên Viên, chỉ biết rằng hắn liên tiếp thắng lợi.

Nhưng hiện giờ, phụ vương nàng lại định cầm quân xuất chinh, giao tranh với Xi Vưu!

A Hành đột ngột đứng bật dậy, nhanh nhẹn bước ra ngoài đánh thức Chu Du, dặn ả săn sóc cho Luy Tổ.

Chạy đến chỗ Vân Tang, chỉ thấy trên chiếc giường ở gian ngoài có một tấm chăn cuộn lại, nhưng chẳng thấy Vân Tang. A Hành không kịp nghỉ ngợi nhiều, đi thẳng vào gian trong, thấy Chuyên Húc và Tiểu Yêu đang nằm cạnh nhau say giấc nồng. Nàng hiện tại vớ tấm áo choàng quấn lấy Tiểu Yêu, cưỡi lên Lang điểu do Liệt Dương hóa thành, bay thẳng đến Phản Tuyền.

Từ sau khi rời khỏi Ngu uyên, trong cơ thể của Liệt Dương đã ngưng tụ ma lực, tuy tốc độ không bì được với Tiêu Dao, nhưng cũng hơn xa các loại tọa kỵ khác.

Đại quân Xi Vưu đóng bên ngoài Phản Tuyền, giằng co với đội quân của Hoàng Đế trong Phản Tuyền thành.

Trong trướng đèn đuốc sáng trưng, mấy viên đại tướng Thần Nông, cả Tứ vương cơ Mộc Cận đều có mặt.

Nghe Phong Bá, Vũ Sư báo cáo tình hình hằng ngày xong, Xi Vưu lên tiếng: “Nhất định Hoàng Đế không bỏ được Phản Tuyền, giờ Thanh Dương đang trọng thương, không thể ra trận, cả Hiên Viên quốc chẳng còn đại tướng nào đủ sức đối đầu với ta, theo ta đoán, chắc Hoàng Đế sẽ cầm quân thân chinh ra trận.”

Vũ Sư làm thinh không nói, Phong Bá lộ vẻ đăm chiêu, chỉ mình Mộc Cận hào hứng: “Vậy chúng ta có thể báo thù cho Du Võng ca ca rồi.” Sực nghĩ đến Hoàng Đế không như các bậc đế vương khác, ông ta từng Nam chinh Bắc chiến, một tay gây dựng nên đế quốc Hiên Viên hùng cường, nỗi hứng khởi của Mộc Cận vụt tắt lịm, thay vào đó là sợ hãi, nàng chăm chú nhìn Xi Vưu: “Ngươi có chắc đánh bại được Hoàng Đế không?”

Xi Vưu cười nhạt: “Sáng mai cô về Thần Nông sơn đi, đây không phải chỗ cho cô du ngoạn đâu.”

Mộc Cận bất mãn lườm Xi Vưu, nửa giận dữ nửa nũng nịu phản bác: “Ta đâu có du ngoạn? Ta tới giúp ngươi mà, không được sao? Lẽ nào ta không phải con dân Thần Nông? Ngươi đừng tưởng ta là con gái thì không chiến đấu được, ta nói ngươi hay…”

Xi Vưu ngáp dài, vươn vai đứng dậy, “Nửa đêm rồi, đi ngủ thôi!” Nói rồi hắn rảo chân bước vội ra ngoài.

Mộc Cận phùng mang trợn mắt, tức tối nhìn theo bóng Xi Vưu, đột nhiên, gương mặt nàng dần đổi sang vẻ bi ai, trên sa trường sống nay chết mai, nàng giận hắn làm gì chứ?

Nàng quay vào trướng rửa mặt đi nằm, nhưng trằn trọc mãi không sao ngủ được. Từ sau khi Du Võng chết đi, nàng vẫn mong ngày đoạt lại được Phản Tuyền, vậy mà giờ đây Xi Vưu sắp giao chiến với Hoàng Đế tại Phản Tuyền, nàng lại đâm ra lo sợ, lỡ, lỡ như… Xi Vưu thua thì sao?

Trên sa trường, thua, tức là chết.

Mộc Cận trở dậy, ngẩng ra một thoáng, đoạn chẳng buồn khoác áo ngoài, chỉ quàng một chiếc áo choàng, lặng lẽ ra ngoài.

Xi Vưu đã có lệnh nên quanh trướng của hắn không hề có thị vệ canh giữ, Mộc Cận có thể dễ dàng lẻn vào.

Xi Vưu đang nhắm nghiền mắt, ngủ say trần tấm da hổ, Mộc Cận đỏ bừng mặt, cắn môi, nhẹ nhàng cởi áo ra, mon men lại gần hắn.

Vừa đến gần, đột nhiên Xi Vưu vươn tay túm lấy cổ nàng bóp nghẹt, mở bừng mắt ra.

Nhận ra Mộc Cận nửa người lõa lồ, Xi Vưu chợt sững ra, vội phát tán hết linh lực trên tay, lạnh lùng cảnh cáo: “Đừng tùy tiện lại gần ta, vừa nãy nếu ta phát lực rồi mới mở mắt thì cô chết chắc.”

Nào ngờ, Mộc Cận lại nhào đến nắm lấy tay Xi Vưu, gần như quỳ xuống bên hắn, “Ngươi còn nhớ không? Hồi nhỏ, ta toàn hùa theo mọi người, lấy đá ném ngươi, chửi ngươi là cầm thú, yêu quái.”

Xi Vưu rút tay lại, lạnh nhạt hỏi: “Nửa đêm nửa hôm cô chạy đến đây để nói chuyện này đấy à? Nếu muốn xin lỗi thì khỏi đi, ta chẳng quan tâm các ngươi nói ta gì đâu.”

“Bấy nhiêu năm nay, ta hết lần này đến lần khác tỏ bày, lẽ nào ngươi vẫn không hiểu lòng ta? Thực ra, hồi ấy ta không hề ghét ngươi, thậm chí còn thấy ngươi thật lợi hại, có thể điều khiển được muôn thú, chẳng qua ta hậm hực vì ngươi chưa bao giờ chịu lấy lòng ta. Ta là vương cơ, dung mạo đẹp đẽ, ai nấy đều phải chiều chuộng tâng bốc, chỉ mình ngươi một mực lạnh lùng với ta. Ta nuốt không trôi cục tức đó, bèn đầu têu bọn họ chửi rủa miệt thị ngươi. Thuở ấy ta còn quá nhỏ, đâu hiểu được rằng thật ra trong lòng ta rất muốn làm thân với ngươi, giờ có hối hận cũng muộn rồi.”

Mộc Cận cởi nốt manh áo cuối cùng, dán sát mình vào Xi Vưu, rưng rưng nước mắt nài nỉ: “Mấy trăm năm rồi, ta đâu phải kẻ ngốc, ta biết ngươi không yêu ta, ta cũng chẳng dám hy vọng gì, nhưng ta rất sợ, sợ sau này không còn cơ hội nữa, sợ rằng ta sẽ hối hận. Một đêm thôi mà, chỉ một đêm nay thôi, sáng mai ta sẽ quay về Thần Nông sơn, nếu ngươi thắng trận thì coi như chưa có chuyện gì xảy ra, nếu ngươi thua trận, ta sẽ ghi nhớ mãi đêm nay, không còn gì hối tiếc…”

Chẳng hiểu do sợ hãi hay ngại ngùng, toàn thân Mộc Cận cứ run bắn lên, nước mắt chảy thành dòng. Dưới sự dẫn dắt của bản năng phụ nữ, chẳng cần ai chỉ dạy, nàng khiêu khích quấn lấy Xi Vưu như rắn nước, thân hình mềm oặt tưởng chừng không có xương, làn da nõn nà như mỡ đông, hơi thở thơm ngát tựa hoa lan, thì thầm bên tay Xi Vưu: “Xi Vưu, chỉ một đêm, một đêm nay thôi mà!”

Hương thơm dìu dịu, người ngọc trong tay, tình mềm như nước, Mộc Cận tin rằng lần này Xi Vưu không thể cự tuyệt nàng.

Nào ngờ Xi Vưu nắm lấy hai vai nàng kiên quyết đẩy ra, đoạn đứng phắt dậy quơ lấy một chiếc áo phủ lên mình nàng, đưa mắt khinh khỉnh nhìn xuống Mộc Cận bên dưới.

Tình cảm tha thiết chân thành của Mộc Cận bị đập vỡ tan tành, nàng ngẩng đầu trừng trừng nhìn Xi Vưu, mặt chan hòa nước mắt, nhưng chẳng còn dũng khí thử lại nữa.

Xi Vưu lạnh lùng nói: “Để ta phái thị vệ lập tức đưa cô về Thần Nông sơn.”

“Khỏi cần!” Mộc Cận đứng phắt dậy, lảo đảo chạy ra khỏi trướng.

Xi Vưu ngồi lặng, chẳng hiểu đang nghĩ gì, nét mặt trơ trơ, không mừng không giận, không lo không sợ.

Hắn cầm tấm áo đỏ gắp vuông vắn dưới gối lên, nhẹ vuốt ve như đang ấu yếm da thịt tình nhân.

Lại một người rón rén tiến vào, Xi Vưu bực bội dùng tinh lực hất ra, “Sao cô còn đến nữa?”

“Xi Vưu.” A Hành ngã ngửa ra sau, may mà Xi Vưu chỉ định đẩy Môc Cận ra ngoài chứ không có ý làm nàng bị thương, nghe tiếng A Hành, hắn cuống lên, vội lao tới đỡ A Hành trước khi nàng ngã xuống.

Xi Vưu vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: “A Hành, là nàng thất đấy ư?” Mấy năm không gặp, nay lại bất ngờ gặp gỡ, khiến hắn cứ ngỡ mình đang nằm mộng.

A Hành cũng mừng mừng tủi tủi, chăm chú nhìn Xi Vưu như mới gặp lần đầu, hồi lâu mới cụp mi xuống, cười hỏi: “Vừa rồi chàng nói ai còn đến nữa? Nửa đêm có cô nào tìm đến chàng à?”

Xi Vưu nửa cười nửa không: “Chẳng phải nàng đấy ư!”

A Hành lườm hắn, khẽ nói: “Ta mắt kém không nhìn rõ, nhưng Liệt Dương tinh mắt đã trông thấy Mộc Cận quần áo xốc xếch chạy ra từ trướng của chàng!”

Thấy Xi Vưu toan giải thích, A Hành lắc đầu, tỏ ý không cần nhiều lời: “Nếu là Mộc Cận, chàng cũng đừng gò bó kiêng dè nhiều thế làm gì. Đôi khi, ta cũng hy vọng chàng có thể ở bên Mộc Cận.”

“Nếu không phải vì ta, nàng cũng chẳng cần mạo hiểm nửa đêm lẻn vào trại địch. Nàng có hối hận không?”

A Hành không đáp, chỉ dựa vào lòng hắn.

Xi Vưu quàng tay ôm chặt lấy nàng: “Bất kể xảy ra chuyện gì, trong lòng ta cũng chỉ có một mình nàng thôi, lúc trước đã thế, bây giờ là thế, sau này vẫn thế.”

A Hành khẽ nói: “Phụ vương ta đã quyết thân chinh ra trận rồi.”

Xi Vưu đáp: “Ta biết, đó là kế hoạch của ta, ta muốn ép Hoàng Đế phải đích thân nghênh chiến với ta tại Phản Tuyền. Ông ta đã giết Du Võng tại đó, ta phải báo thù cho Du Võng.”

“Chàng không sợ thua phụ vương ta ư? Mấy ngàn năm nay, ông ấy chưa bao giờ thua cả!”

“Quả thật, ta có thể thua, nhưng ta không sợ. Ta giết người thì người giết ta, đó vốn là đạo trời, nếu ta thắng, ta còn sợ hơn!” Xi Vưu nâng cằm A Hành lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Nếu ta chết đi, nàng đừng oán phụ vương nàng, nếu Hoàng Đế chết, mong nàng cũng sẻ tha thứ cho ta, đây chỉ là trận quyết đấu công bằng của hai nam tử mà thôi.”

Khóe mắt A Hành chợt đỏ hoe, “Ta lên tới đây gặp chàng, mà chàng lại nói với ta rằng chàng nhất định phải giết phụ vương ta ư?” Nói rồi nàng đẩy phắt Xi Vưu ra, quay người định đi.

Xi Vưu vội kéo nàng lại, “Khó khăn lắm chúng ta mới gặp được nhau, từ lần gặp trước đến giờ là bao nhiêu năm rồi? A Hành, nàng đành lòng đi như thế sao?”

A Hành lộ vẻ thê lương, không bảo đi, cũng chẳng bảo ở.

Nhìn bộ dạng của nàng, Xi Vưu vô cùng xót xa, chần chừ một thoáng rồi hỏi: “Ta cả đời ngang dọc phóng khoáng, chẳng còn điều gì nuối tiếc, nhưng có một điều ta canh cánh mãi, chết đi cũng không buông xuống được: trong lòng nàng, rốt cuộc ta là gì đây? Thiếu Hạo…”

A Hành quay phắt lại, ôm ghì lấy hắn, “Không được nói đến chuyện chết!” Vòng tay càng siết chặt, nước mắt thấm ướt cả vạt áo hắn.

“Thôi, được rồi, được rồi, không nhắc tới hắn nữa, dù sao ta cũng là dã thú, không để ý những chuyện đó.” Xi Vưu cúi đầu hôn A Hành, thì thào bên tai nàng, “Thật ra, nàng mạo hiểm tới đây tìm ta, đã đủ chứng minh nàng không đành bỏ ta rồi.”

A Hành kéo Xi Vưu ra ngoài trướng, “Còn một người nữa cũng tới gặp chàng đấy.” Xi Vưu ngỡ ngàng không hiểu, nhưng cũng chẳng hỏi nhiều.

Giữa khu rừng vắng vẻ, Liệt Dương đang canh giấc cho Tiểu Yêu, thấy hai người tiến lại, nó liền chủ động bay vút đi. A Hành bồng Tiểu Yêu trao cho Xi Vưu, Xi Vưu ngoài miệng không để ý, nhưng thấy Tiểu Yêu giống đúc Thiếu Hạo, cũng chẳng vui vẻ gì, không muốn đón lấy bé.

A Hành cứ ấn Tiểu Yêu vào lòng hắn, thấy cô bé đang say ngủ, A Hành lay lay bé: “Thúc thúc sắp ra chiến trường rồi, con từ biệt thúc thúc đi.”

Tiểu Yêu miễn cưỡng mở mắt ra nhìn Xi Vưu, gọi một tiếng “thúc thúc” đoạn lại ngáp dài nhắm nghiền mắt, hai tay ôm lấy cổ Xi Vưu, ngả đầu vào ngực hắn ngủ tiếp.

A Hành định gọi nữa, nhưng Xi Vưu đã ngăn lại: “Đừng gọi nữa, gọi dậy nó lại quấy khóc.”

A Hành khẽ thở dài, đành mặc cho Tiểu Yêu ngủ.

Xi Vưu tinh minh sắc sảo, há chẳng sinh nghi, bèn mượn ánh trăng quan sát kỹ dung mạo Tiểu Yêu. Vì Tiểu Yêu rất giống Thiếu Hạo nên Xi Vưu xưa nay chẳng nhìn kỹ bé bao giờ, lần này mới phát hiện ra giữa trán bé lờ mờ một dấu hoa đào, lòng chợt rung động, vội hỏi: “A Hành, Tiểu Dao có phải con ta không?”

A Hành mở miệng toan đáp, nhưng chợt nén lại, nhoẻn cười ranh mãnh: “Chàng phải sống, chàng sống thì sẽ biết nó là con ai.”

Tuy không nhận được câu trả lời như ý, nhưng hắn còn mừng hơn biết được bất cứ đáp án nào, bởi A Hành muốn hắn sống!

Xi Vưu tay phải ôm Tiểu Yêu, tay trái vòng ra kéo A Hành vào lòng.

A Hành một tay ôm eo hắn, tay kia nắm tay con gái, dựa vào lòng hắn. Ánh trăng chênh chếch chiếu xuống cánh rừng, dịu dàng tỏa sáng cho ba người bọn họ.

Nàng xiết bao hy vọng khoảnh khắc này kéo dài vĩnh viễn.

Tiếc rằng mây tía dễ tan, mộng đẹp mau tỉnh.

“Ra là ngươi, Cao Tân vương phi, Hiên Viên vương cơ! Ngươi là đồ dâm phụ, không biết xấu hổ!” Mộc Cận cưỡi tọa kỵ Tuyết nhạn từ trên trời đáp xuống, rít lên the thé đầy phẫn nộ, “Xi Vưu, sao ngươi có thể cùng ả… Ngươi thích ai chẳng được, nhưng ả là vương cơ Hiên Viên, lại đã thành hôn rồi mà!”

A Hành lặng thinh không đáp, chỉ vội vàng vận linh lực giăng cấm chế, để Tiểu Yêu không nghe được động tĩnh gì, nhưng Xi Vưu lại vô cùng phẫn nộ: “Cút về Thần Nông sơn ngay!”

Mộc Cận căm hận đáp: “Giờ ta sẽ đi nói cho bọn Phong Bá, Vũ Sư biết, để xem có bao nhiêu tướng sĩ Thần Nông chịu chấp nhận con dâm phụ Hiên Viên này?”

Dứt lời, Mộc Cận ngoay ngoắt người chạy vụt đi, Xi Vưu xòe tay, vận linh lực, toan hạ sát chiêu nhưng A Hành kịp níu lại: “Cô ấy là nghĩa nữ của Viêm Đế, nghĩa muội của Du Võng mà!” Đoạn cất tiếng gọi Mộc Cận, “Vương cơ, cô nghe tôi nói đã.” Nhưng Mộc Cận tính tình xốc nổi, lời khuyên nhủ nào lọt tay cho được.

“Mộc Cận, đứng lại.”

Bỗng một tiếng quát vang lên lanh lảnh, Mộc Cận đang vừa buồn, vừa hận cũng khựng lại, nghi hoặc nhìn quanh, “Vân Tang tỷ tỷ?”

Thấy Vân Tang lững thững bước ra, Mộc Cận trỏ A Hành, bừng bừng giận dữ tố cáo: “Thì ra ả yêu nữ quyến rũ Xi Vưu là con dâm phụ đã có chồng con đề huề nay.”

Vân Tang lạnh nhạt đáp, “Ta biết lâu rồi, Phong Bá và Vũ Sư cũng không để tâm chuyện Xi Vưu thích ai đâu.”

“Nhưng những bách tính Thần Nông bị Hiên Viên đốt phá cửa nhà, giết hại người thân lại để tâm! Tỷ tỷ, tỷ mang nặng trọng trách, cam chịu gả đến Hiên Viên là vì cái gì? Các chiến sĩ Thần Nông đổ máu chiến đấu ở đây là vì cái gì? Tất cả bách tính Thần Nông đều mong Xi Vưu đánh bại Hoàng Đế, gây dựng lại Thần Nông, vậy mà hắn lại lén lút ở bên con dâm phụ Hiên Viên này! Ta nhất định phải công bố điều này cho tất cả các binh sĩ, để cả Thần Nông được biết!”

“Mộc Cận, đại chiến sắp tới rồi, nếu hiện giờ muội công bố chuyện này cho cả thiên hạ, khiến sĩ khí Thần Nông tan tác, bị Hoàng Đế đánh bại, dẫu muội được hả giận, nhưng còn Thần Nông thì sao? Muội làm thế là muốn tốt cho Thần Nông ư?”

Thấy Mộc Cận sững người, Vân Tang khẽ thở dài: “Trong mắt muội, không đúng thì là sai, không yêu thì là hận, không phải bạn thì là thù, nếu mọi chuyện thất sự đơn giản như vậy thì tốt biết bao! Nhưng nhiều khi đúng sai không phân rõ được, yêu hận phức tạp, vừa là bạn cũng vừa là thù. Nghe lời tỷ, ngoan ngoãn về Thần Nông cố gắng tu luyện đi, sớm muộn sẽ có ngày muội hiểu những lời ta nói hôm nay.”

Mộc Cận là người bộc trực, tính tình xốc nổi, nhưng từ nhỏ phục nhất là Vân Tang. Lúc này, tuy nàng không cam tâm, chỉ muốn ngay lập tức ra tay trừng phạt ả dâm phụ Hiên Viên quyến rũ Xi Vưu, nhưng nàng cũng hiểu trận quyết chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu sắp đến không thể làm càn. Nàng đành trừng mắt lườm A Hành, đoạn nhảy lên lưng Tuyết nhạn, bay thẳng về Thần Nông sơn.

A Hành hành lễ cảm tạ Vân Tang: “May mà có tẩu, Đại tẩu đi theo muội ư?”

Vân Tang đáp: “Tọa kỵ của ta không đuổi kịp Liệt Dương, ta đi trước muội mà lại đến sau.”

A Hành ngỡ ngàng không hiểu, nàng vốn tưởng rằng Vân Tang phát hiện hành tung quỷ dị của mình, bèn bám theo đến đây, nhưng nghe ý tứ hình như không phải, lẽ nào Vân Tang cũng tới gặp Xi Vưu?

Vân Tang tiến lại mấy bước, đối diện với cả hai người, hạ giọng nói: “Mấy ngày trước, ta lên tới Cao Tân một chuyến, thấy Nặc Nại đã chìm đắm trong rượu thuốc đến mê loạn cả thần trí. Đêm nay ta tới đây gặp Vũ Sư, nghe nói y là trợ thủ đắc lực, là đại tướng tâm phúc của ngươi.” Vân Tang dùng giọng trần thuật nhưng ánh mắt lại không rời Xi Vưu, như vừa đặt câu hỏi, vừa tìm đáp án trong mắt hắn.

Xi Vưu cười, nhưng ánh mắt lại khóe lên sắc lạnh: “Đánh trận cần một lượng lớn binh khí, Cao Tân là đồng minh của Hiên Viên, dù Thần Nông có tiền cũng không thể mua binh khí từ Cao Tân được. Vũ Sư chẳng những thần lực cao cường, mà còn giỏi rèn binh khí, may mà có y, chúng ta mới có nguồn cung cấp binh khí dồi dào. Hiện giờ, y đúng là trợ thủ đắc lực của ta.”

Tựa hồ đã tìm được đáp án vừa ý trong mắt Xi Vưu, Vân Tang như trút được gánh nặng: “Vậy thì tốt.” Liền sau đó, sắc mặt nàng chợt đổi sang bi thảm, mắt ầng ậng nước, nhưng trước khi nước mắt kịp rơi, nàng đã quay ngoắt người, rảo bước bỏ đi. “Ta đi đây, A Hành, muội cũng mau đi đi, nấn ná ở đây đối với muội hay Xi Vưu đều quá nguy hiểm.”

A Hành nói nhỏ: “Ta phải đi rồi.” Xi Vưu khẽ khàng đặt Tiểu Yêu vào lòng A Hành, đoạn hôn lên trán nàng.

Bốn mắt nhìn nhau, Xi Vưu và A Hành lặng thinh, nhưng ánh mắt quyến luyến chẳng nỡ rời, ngay sau đó, cả hai không hẹn mà cùng nhoẻn cười. Nếu từ đây phải biệt ly, bọn họ đều mong đối phương ghi nhớ nụ cười của mình.

A Hành ôm lấy Tiểu Yêu nhảy lên lưng của Liệt Dương, bay xa dần. Nâng giơ cánh tay Tiểu Yêu lên vẫy vẫy Xi Vưu, thì thầm bên tai bé: “Tiểu Yêu, từ biệt cha đi con.”

Tiểu Yêu mơ màng mở mắt nhìn Xi Vưu.

A Hành vẫn đứng quay mặt về phía Xi Vưu, hắn tiễn nàng, nàng cũng tiễn hắn, hai người mỗi lúc một xa, mỗi lúc một nhỏ dần đi trong mắt nhau, dần dà, trong mắt cả hai chỉ còn một trời tịch mịch.

Full | Lùi trang 15 | Tiếp trang 17

Loading...

Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!

Chúc các bạn online vui vẻ !

Laptop Tùng Anh

Tour Phú Quốc

Vinhomes Cầu Rào 2

Trang Chủ