Full | Lùi trang 2 | Tiếp trang 4
Chương 5: Thư ngắn tình dài, lòng khôn tỏ
Thư viết rất dài, hết lải nhải kể mấy chuyện đất lề quê thói, rồi dịu dàng tự thuật đôi ba câu chuyện, có điều, một câu xem chừng rất bình thường trong đó lại khiến nàng thấy mắt cay cay.
“Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực cả hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.”
Một chữ “lại” vô tình viết ra mà khiến Tây Lăng Hành trằn trọc suốt cả đêm.
Sau khi dự tiệc Bàn Đào, khách khứa thảy đều giải tán, chẳng còn khách đương nhiên chẳng cần dùng tới cung nữ gỗ nữa, số cung nữ thật trong cung điện vốn không có mấy, đi đi lại lại, lặng lẽ âm thầm, thông thường cả sáng chẳng nghe một tiếng nói.
Không còn những huyên náo phù phiếm, khắp trăm dặm đình đài lầu gác nguy nga tráng lệ cũng đượm đầy vẻ quạnh quẽ thê lương, ngàn dặm đào hoa rực rỡ chẳng làm sao che giấu nổi, có lẽ đây mới chính là diện mạo thật của Ngọc sơn.
Tây Lăng Hành chợt hiểu vì sao cứ ba mươi năm Vương Mẫu lại mở tiệc Bàn Đào một lần, bởi vì, bà quá đỗi tịch mịch! Dù người tham dự đều là những kẻ xa lạ nhưng dù sao cũng có thể mượn sự náo nhiệt của người ta để xua tan đi nỗi cô tịch của mình.
Nghĩ tới việc còn phải ở lại Ngọc sơn một trăm hai mươi năm, tức là mấy vạn ngày đêm nữa, kẻ luôn vô tư hồn nhiên như nàng cũng bắt đầu rầu rĩ.
Có lẽ Xi Vưu cũng hiểu được nỗi cô đơn của nàng nên phái người hầu đưa tới một chú tệ tệ[1] gầy ốm, nghe nói mẹ nó đã chết trong lúc bảo vệ địa bàn của mình, trước khi chết còn chưa sinh nở, để tệ tệ con được sống, tệ tệ mẹ đã gắng chút sức tàn lấy móng vuốt tự rạch bụng, moi đứa con chưa đủ ngày đủ tháng ra, vừa may được Xi Vưu cứu giúp, nhưng một con non như vậy làm sao sống nổi đây?
[1] Sơn Hải kinh – Đông sơn kinh: “Núi Cô Phùng có loài thứ hình dạng như cáo, có cánh, tiếng kêu như hồng nhạn, tên gọi tệ tệ. Tệ tệ thuộc giống hồ ly, tuy có cánh nhưng rất yếu ớt, khó mà bay lên được.”
Tây Lăng Hành ôm chú tệ tệ nhỏ đang thoi thóp tới cho Vương Mẫu xem thử, Vương Mẫu hờ hững nói: “Hồ tộc đỏng đảnh khó nuôi lắm, không sống nổi đâu.”
Chú tệ tệ nhỏ còn chưa mở nổi mắt nhưng khi Tây Lăng Hành lấy tay cù cù, nó liền ngậm ngón tay nàng mút chùn chụt, như đang bày tỏ khát khao ham sống.
Tây Lăng Hành lấy đào tiên và ngọc tủy mà người trong thiên hạ ước ao ra cho tệ tệ nhỏ ăn, chẳng ngại lãng phí, nàng thầm nghĩ nó đã không sống được lâu thì cứ ăn uống cho no nê đi.
Vương Mẫu cũng mặc nàng tùy ý, chỉ đứng bên thờ ơ quan sát.
Đào tiên và ngọc tủy đều do linh khí đất trời hội tụ lại mà thành, nhưng chính vì linh khí quá dồi dào nên nếu không hấp thụ nổi thì chỉ còn đường chết. Quả nhiên chỉ lát sau, chú tệ tệ nhỏ đã dựng hết lông lên, thân mình càng lúc càng phình ra hệt như một quả bóng da, tưởng chừng sắp nổ tung đến nơi, cặp mắt đỏ rực lên vì đau đớn, nó quằn quại vật vã.
Tây Lăng Hành luống cuống vỗ về tệ tệ nhưng nó hết cào lại cắn khiến tay nàng rướm máu. Vô tình mút được chút máu Tây Lăng Hành, tệ tệ nhỏ thấy cơn đau dịu dần bèn cắn chặt lấy tay nàng, ra sức hút máu. Tây Lăng Hành cũng mặc cho nó hút, chẳng hề ghìm giữ linh lực lại, dần dà, thân hình chú tệ tệ nhỏ khôi phục nguyên dạng, nó thỏa mãn cọ cọ vào nàng rồi thiếp đi.
Chữa xằng chữa bậy lại giữ được mạng, đúng là kẻ ngốc có phúc của kẻ ngốc! Vương Mẫu lắc đầu quay người bỏ đi.
Cứ như vậy, hàng ngày Tây Lăng Hành đều nuôi tệ tệ bằng đào tiên và ngọc tủy, hễ người nó trướng lên thì lại cho hút máu mình. Ngày lại ngày qua, chú tệ tệ thập tử nhất sinh đã bắt đầu chạy nhảy tung tăng, lông đen tuyền, đôi cánh bên sườn cũng cứng cáp hẳn lên.
Tới chừng hơn một tuổi nó đã lớn bằng con mèo, Tây Lăng Hành đặt tên cho nó là A Tệ.
Một hôm trong lúc đùa giỡn Tây Lăng Hành đặt A Tệ lên cành đào rồi len lén chuồn đi, A Tệ kêu lên mấy tiếng thảm thương chấp chới đập cánh bay đuổi theo nàng.
Loài tệ tệ tuy có cánh nhưng hai cánh rất yếu, khó mà bay lên được, ấy thế mà A Tệ được nuôi bằng đào tiên và ngọc tủy lại có thể bay!
Tây Lăng Hành kinh ngạc cười khanh khách, lập tức dắt A Tệ đi khắp nơi tập bay, khiến cả rừng đào cũng xao xác cả lên.
Thấy A Tệ tập bay, các cung nữ đồng loạt kéo tới xem, tuy A Tệ còn non nhưng có lẽ Hồ tộc trời sinh đã diễm lệ hơn người, ai thấy cũng yêu, bọn họ kinh ngạc gọi yêu nó là “Phi Thiên tiểu hồ ly”, Vương Mẫu ngẫu nhiên nghe được cũng dừng lại, ngạc nhiên quan sát nó.
Tây Lăng Hành làm mặt hề với Vương Mẫu, cười đắc ý ra vẻ chế nhạo Vương Mẫu cũng có lúc sai, A Tệ chẳng những sống được, mà còn sống khỏe nữa kia.
Tây Lăng Hành bị giam trong núi sâu chỉ có mình A Tệ làm bạn nên ngày ngày đều mong nhận được thư.
Đại ca Thanh Dương bận bịu công việc, đừng nói tới thư từ, đến một câu hỏi thăm cũng chẳng có. Tứ ca Xương Ý tuy quan tâm nàng nhưng chủ yếu là đưa đồ ăn đồ chơi tới chứ không viết thư. Chỉ riêng Xi Vưu cứ gửi thư tới tấp, thường một tháng phải đến mấy lá, từ chuyện lớn như quang cảnh các nơi tới chuyện vụn vặt như món hắn ăn, chuyện cười hắn nghe được đều viết cả vào thư, lá dài lá ngắn, dài thì cả trăm chữ, ngắn thì chỉ cụt lủn một câu: Hoa quỳnh trên bàn đã nở, sắc trắng, thơm ngát.”
Thỉnh thoảng Xi Vưu còn làm nàng bất ngờ. Xi Vưu kể rằng trên sông Hán Thủy xuất hiện yêu quái ăn thịt người, hắn tình nguyện xin đi thu phục yêu quái, tuy giết được nó nhưng cũng bị thương nhẹ, hắn đã lấy răng nó làm chuông gió tặng cho nàng.
Tây Lăng Hành hành treo chuông gió dưới mái hiên, mỗi khi gió thổi, nghe tiếng chuông leng keng, tâm trí nàng lại hiện lên một cảnh tượng vô cùng sống động: giữa biển sóng cuồn cuộn ngất trời, Xi Vưu giao đấu cùng thủy quái, cánh tay bị thương, máu nhuộm đỏ cả dòng Hán Thủy nhưng khóe môi vẫn thấp thoáng nét cười thản nhiên mà ngạo nghễ.
Dần dà Tây Lăng Hành bắt đầu dựa dẫm vào những bức thư của Xi Vưu, dù chỉ một câu ngắn ngủi của hắn cũng mang đầy sức sống và vẻ đẹp của trời đất ngoài kia, trong khi thư phúc đáp của nàng bức nào bức nấy toàn là nàng và A Tệ làm những việc này, nàng và A Tệ làm những việc kia.
Thỉnh thoảng Tây Lăng Hành chợt nghĩ nếu đồng thời xem tất cả các bức thư nàng gửi tới, chắc hẳn Xi Vưu sẽ tức chết mất, có điều nàng viết rất dí dỏm, Xi Vưu cũng chưa từng vì bực bội mà chấm dứt thư từ với nàng.
Đôi bên thư đi tin lại liên tiếp, tuy Vương Mẫu chẳng lấy làm phiền về việc Thanh Điểu[2] mỗi lần lên núi đều chuyển thư giùm A Hành nhưng Xi Vưu thấy không tiện, bèn nhắn nàng rằng đã tìm được một chú chim tuyệt vời để đưa thư.
[2] Theo Sơn Hải kinh – Hải Nội Bắc kinh: “Tây Vương Mẫu lưng tựa kỷ, đầu cài hoa ngọc, phía Nam có ba con Thanh điểu, đưa cơm cho Tây Vương Mẫu.” Theo Sơn Hải kinh – Đại Hoang Tây kinh: “Ba con Thanh điểu đầu đỏ mắt đen, một con tên Đại Thu, một con tên Tiểu Thu, con còn lại tên là Thanh Điểu.”
Mấy tháng sau, một con Lang điểu[3] bị trói gô lại được gửi lên Ngọc sơn.
[3] Sơn Hải kinh: “Lang điểu là loài chim lành, toàn thân trắng muốt.”
Tây Lăng Hành mở thư ra xem ngay trước mặt nó, trong thư Xi Vưu nói theo lệnh Viêm Đế, hắn phải tới vùng rừng rậm ở Tây Nam, nơi chưa một quan viên Thần tộc nào đặt chân đến, cũng chẳng biết phải đi mất bao lâu, vốn định thuần phục con chim này rồi mới gửi cho nàng nhưng bây giờ không thể đem theo nó cùng đi được, đành gửi luôn vậy.
Đọc xong, Tây Lăng Hành nghiêng đầu ngắm nghía chú chim, thật không tưởng tượng nổi, dựa vào khả năng của mình mà Xi Vưu lại không thuần phục nổi một con chim.
Giống Lang điểu toàn thân trắng muốt, hai mắt xanh biếc, vì dáng vẻ đẹp đẽ, tính tình hiền hòa nên thường được các thiếu nữ Thần tộc nuôi trong khuê phòng, có điều con Lang điểu này trông vô cùng ngạo nghễ, chỉ ngẩng đầu nhìn trời, chẳng buồn liếc Tây Lăng Hành đến nửa con mắt.
Tây Lăng Hành cho nó ăn, nó cũng rất hiền hòa, ngoan ngoãn chén sạch hai chú cá ngũ sắc khiến nàng mừng rỡ nhủ thầm: đâu có khó thuần gì! Nào ngờ lúc ăn tới con cá thứ ba, Lang điểu bất thình lình mổ phập vào tay nàng, còn rứt luôn một miếng thịt.
Thấy tay nàng chảy máu ròng ròng, Lang điểu đắc ý hót vang, tiếng hót rất chói tai nhưng chim chóc quanh đó đều nghe tiếng mà đến, sợ sệt đậu đầy cành.
Nghe tiếng nó hót, Vương Mẫu kinh ngạc bước ra, quan sát kỹ một hồi rồi nói: “Hình như con Lang điểu này có lai lịch.”
Tây Lăng Hành khiêm nhường thỉnh giáo, Vương Mẫu bèn giảng giải: “Tiếng hót Lang điểu vốn rất trong trẻo êm tai, nhưng con Lang điểu này hót chói tai như thế là bởi nó không coi mình là Lang điểu mà lại vọng tưởng muốn có giọng hót thánh thót như phượng hoàng. Phượng hoàng năm trăm năm mới sinh một quả trứng, chẳng hiểu sao một quả trứng Lang điểu lại lẫn vào ổ phượng hoàng, cơ duyên xảo hợp, trứng phượng hoàng bỗng biến mất, phượng hoàng tưởng lầm trứng Lang điểu là của mình, liền ấp nở, còn nuôi nó lớn, con Lang điểu này cũng ráng tập theo tiếng kêu thánh thót của phượng hoàng nên mới thành ra thế này.” Vương Mẫu lại nhìn những chú chim muốn bay mà không dám bay trên cành, cười nói: “Nếu là phượng hoàng thật, hẳn giọng hót đã thánh thót như tiếng đàn, muôn chim triều bái, hoan hỷ phục tùng chứ đâu như thế này.”
Đám cung nữ đều bưng miệng cười chế nhạo, chỉ riêng Tây Lăng Hành động lòng thương cảm, bèn xách nó lên. Con Lang điểu này đã như vậy, Lang điểu thật không dám lại gần nó, mà phượng hoàng cũng chẳng thèm coi nó là đồng loại, thật ra, nó cũng đâu muốn làm phượng hoàng?
Nàng nói với nó: “Mày đấu được với Xi Vưu, hiển nhiên không phải thứ chim chóc tầm thường, ta chẳng tâm sức đâu mà thuần hóa mày, nhưng Xi Vưu đã mất công bắt mày tặng cho ta, ta cũng không thể trái ý hắn, thả mày đi được. Mày cứ tạm lưu lại Ngọc sơn truyền tin giúp ta, đợi chừng nào ta xuống núi thì tùy mày muốn ở hay đi cũng được. Nếu đồng ý, ta sẽ thả mày ra, nếu không nhận lời ta sẽ trói mày một trăm năm luôn.”
Đáp lại đề nghị của nàng, Lang điểu há mỏ khạc ra một đám lửa.
Vương Mẫu lắc đầu than thở, thật đáng thương cho lòng kẻ làm cha làm mẹ trên đời, có lẽ đôi phượng hoàng kia đến chết vẫn không hiểu sao đứa con nở ra lại chẳng giống mình, để giúp đỡ nó, chúng đã chẳng tiếc hy sinh bản thân, cho Lang điểu ăn cả nội đan tu luyện trăm năm của mình.
Tây Lăng Hành tránh khỏi ngọn lửa, cũng chẳng lấy thế làm điều, chỉ quay sang bảo A Tệ: “Chúng ta đi.”
Vương Mẫu đưa mắt nhìn đám thị nữ xung quanh, họ lập tức cúi đầu tản đi.
Lang điểu quen thói tự do, dù đã bị Xi Vưu bắt vẫn ngày ngày kháng cự hắn, lúc nào cũng căng thẳng kích động quá mức. Vậy mà bây giờ nó lại bị trói buộc trong một xó hẹp, chẳng ai buồn ngó ngàng, hằng ngày Tây Lăng Hành chỉ tới một lần, quăng đồ ăn vào rồi đi, bất kể nó khiêu khích ra sao nàng vẫn dửng dưng.
Thoạt đầu Lang điểu còn kêu loạn lên, dần dà chẳng hơi sức đâu mà kêu nữa, ngày ngày chỉ ngẩn ngơ nhìn cảnh vật trơ trơ trước mắt.
Mây sớm bay lên, ráng chiều buông xuống.
Tít tắp sâu trong rừng đào thường vẳng ra tiếng kêu vui vẻ của tệ tệ.
Thỉnh thoảng, tệ tệ sải cánh bay ngang qua đầu Lang điểu, để lại một vệt bóng, thực tình thấy tệ tệ bay chấp chới, Lang điểu chẳng xem ra gì, nhưng khi bóng tệ tệ đã khuất nó lại ngẩng đầu nhìn ngây dại bầu không trống trải.
Cứ thế hơn trăm ngày, một hôm Tây Lăng Hành để đồ ăn xuống rồi dợm bước định đi, Lang điểu chợt há mỏ ngậm vạt áo nàng níu lại.
Tây Lăng Hành ngoái đầu hỏi nó, “Mày đồng ý rồi ư?”
Nó ngẩng đầu lên, không đáp.
Tây Lăng Hành cũng chẳng chấp tính ngang ngạnh của nó, chỉ mỉm cười nói: “Tuy mày hung hăng nhưng tính tình cao ngạo, đương nhiên chẳng thèm hứa hão rồi.” Dứt lời, nàng phất tay cởi trói cho nó. “Khi nào có việc tao sẽ tìm mày, còn hàng ngày nếu không muốn gặp tao, mày cứ tùy ý bay lượn, miễn đừng ra khỏi phạm vi Ngọc sơn.”
Nó sắp vỗ cánh bay đi, lại nghe Tây Lăng Hành nói: “Mày không phải Lang điểu, cũng chẳng phải phượng hoàng, mày chỉ là mày thôi, trong thiên hạ này, mày là độc nhất vô nhị, tao tạm gọi mày là Liệt Dương[4] nhé, nếu sau này mày có cơ duyên tu thành người, có thể tùy ý đổi tên khác vậy.”
[4] Liệt: lẫm liệt, mạnh mẽ. Dương: Thái dương, dương khí. (ND)
Liệt Dương đứng ngây ra như đang ngẫm ngợi lời nàng, Tây Lăng Hành liền cầm lấy một cành đào, viết lên mặt đất hai chữ: “Liệt Dương”.
Lang điểu chăm chắm nhìn hai chữ “Liệt Dương” trên mặt đất hồi lâu rồi vỗ cánh bay đi.
Tây Lăng Hành khẽ thở dài, lắc đầu than cùng A Tệ, “Nó quật cường ghê, loài chim vốn ưa bay nhảy tự do, vậy mà vẫn kiên nhẫn được hơn một trăm ngày! Thiếu chút nữa ta đã mềm lòng, định viết thư cho Xi Vưu, xin hắn đồng ý để ta thả nó ra rồi.”
A Tệ nhếch mép cười, ánh mắt lấp lánh niềm vui.
A Tệ là hồ ly, giống vật thông minh nhất trong muông thú, lại lớn lên giữa Ngọc sơn tràn trề linh khí, ăn đào tiên, uống ngọc tủy, được Tây Lăng Hành rèn giũa, tuy chẳng thể nói tiếng người nhưng cũng lanh lợi không kém một đứa trẻ.
Tây Lăng Hành hớn hở chạy về phòng, “Ta phải viết thư cho Xi Vưu, nếu hắn thấy Liệt Dương đưa thư tới hắn sẽ giật nảy mình, tò mò không biết tại sao ta lại thuần phục được nó nhanh thế cho xem. Mày nói ta có nên kể cho hắn chuyện ta cam kết với Liệt Dương không? Hay là đừng kể vội, cứ để hắn tò mò nhé!”
Liệt Dương quả rất giữ lời, nghe tiếng Tây Lăng Hành gọi, nó liền bay tới ngay.
Gửi gắm bức thư cho Liệt Dương xong, nàng còn quàng vào cổ nó một ống trúc đựng đầy ngọc tủy đã chuẩn bị trước, khiến nó tưởng đó là quà cáp mà nàng sai nó chuyển, nào ngờ, Tây Lăng Hành dặn dò: “Cái này để mày uống, khỏi phải ăn những thứ linh tinh, mày bay nhanh, chắc một ngày thì tới nơi, Xi Vưu nhận thư sẽ cởi nó ra hộ mày.”
Liệt Dương vỗ cánh lặng lẽ bay ra ngoài cửa sổ. Quả nhiên nó bay nhanh như chớp, thoáng cái đã mất hút, chỉ còn chiếc chuông gió dưới hiên nhà khẽ ngân những tiếng tinh tang.
Tây Lăng Hành ngồi vào bàn, chống cằm ngắm chuông gió, hai má ửng hồng.
Trên Ngọc sơn này, năm năm tháng tháng hoa như cũ, tháng tháng năm năm thần tiên vẫn hệt xưa, nhưng dưới Ngọc sơn kia xuân qua thu đến, thu hết xuân về, ba mươi năm đằng đẵng, lại đã đến tiệc Bàn Đào.
Để chuẩn bị cho tiệc Bàn Đào, Vương Mẫu đã chế ra rất nhiều cung nữ gỗ phục vụ, trong cung chợt náo nhiệt hẳn lên.
Tây Lăng Hành thấy hay hay cũng bắt chước học làm gỗ. Vương Mẫu dạy nàng rằng trước tiên phải nhỏ máu tươi trong tim vào để người gỗ có sinh khí, rồi mới dùng linh lực điều khiển chúng làm việc. Làm người gỗ không khó, cái khó là điều khiển chúng, đừng nói tới máu tươi trong tim nối liền với huyết mạch của mình, mà linh lực cần thiết cũng quá lớn, thần tiên bình thường khó mà chịu đựng nổi. Kể cả Vương Mẫu nếu chẳng có Ngọc sơn dồi dào linh khí, nếu không phải những người gỗ đó theo hầu hạ bên mình thì bà cũng chẳng điều khiển nổi nhiều người gỗ như thế.
Vương Mẫu trêu Tây Lăng Hành: “Sắp tới được gặp mặt rồi, khỏi phải viết thư nữa, thích quá nhỉ?”
Tây Lăng Hành ngẩn người, như mừng như tủi, cúi gằm mặt xuống.
Vương Mẫu lắc đầu cười.
Đột nhiên Tây Lăng Hành ngẩng lên hỏi: “Vương Mẫu trước kia đâu có tổ chức tiệc Bàn Đào, từ khi Người làm Vương Mẫu mới đặt ra quy củ, cứ ba mươi năm bày tiệc Bàn Đào một lần, hao tổn rất nhiều tâm sức, chẳng rõ vị thần tiên hay yêu quái mà Người muốn gặp đã tới chưa?”
Vương Mẫu bỗng biến sắc, người gỗ đang làm dở trên tay rơi xuống đất, cung nữ bưng trà trong phòng vỡ tan thành tro bụi.
“Đừng tưởng ta ăn nói tử tế với ngươi, ngươi lại quên khuấy đây là đâu nhé, coi chừng ta giam ngươi thêm một trăm hai mươi năm nữa đấy!”
Nói rồi Vương Mẫu đùng đùng tức giận giũ áo đi thẳng, đám cung nữ cũng nín thinh, chỉ mình Tây Lăng Hành ngoảnh sang cười vụng với A Tệ: “Sao ta lại thấy thinh thích lão yêu bà này nhỉ?”
Tiệc Bàn Đào khai mạc, anh hùng các nơi theo thường lệ đều tụ họp đông đủ.
Thấy sứ giả lần này của tộc Hiên Viên là Tứ ca Xương Ý, Tây Lăng Hành rất vui, theo lý lần trước Xương Ý đã tới rồi, lần này không được đi nữa, nhất định là vì nàng nên Tứ ca mới cố nài nỉ phụ vương tranh thủ đến Ngọc sơn.
Tiếc rằng cả tộc Thần Nông chỉ cử mình Cộng Công tới dự yến.
Cộng Công nhận tội với Vương Mẫu, “Nhị vương cơ bệnh nặng qua đời, Viêm Đế đau buồn quá độ mà thành bệnh, các quan lại chức dịch trong tộc đều không dám rời Viêm Đế nên chỉ có mình vãn bối tới dự yến.”
Vương Mẫu đưa Cộng Công một giỏ đào tiên, sai hắn mang về cho Viêm Đế, “Giúp ta chuyển lời chia buồn với Viêm Đế, khuyên ngài cố nén đau thương.”
Cộng Công thi lễ rồi cung kính lui ra, Vương Mẫu đứng bên vách núi đăm đắm nhìn biển mây mờ mịt, dáng vẻ cô độc mà bi thương khôn xiết, cứ đứng như vậy cả ngày, chẳng cung nữ nào dám lại quấy nhiễu.
Tây Lăng Hành bước tới đứng sau lưng Vương Mẫu.
Vương Mẫu bèn đưa cho nàng một chiếc hộp gỗ: “Thanh Điểu vừa mang từ dưới núi lên đó, xem ra tuy Xi Vưu chưa tới nhưng lễ vật đã tới trước rồi.”
Tây Lăng Hành mở hộp ra, thấy bên trong là hai con phượng hoàng được đẽo bằng gỗ.
Thoạt đầu, nàng ngỡ ngàng chẳng hiểu gì cả, sau mới sực nghĩ ra, liền đặt cả hai xuống đất.
Hai con phượng hoàng vừa bén hơi đất lập tức lớn nhanh như thổi, hóa thành hai con phượng hoàng y như thật, bộ lông ngũ sắc rực rỡ, tiếng kêu thánh thót, bay lượn xung quanh.
Phượng hoàng là vua của muôn chim, thân phận cao quý, tính tình kiêu ngạo, nhưng hai chú phượng hoàng này lại rất thân thiết với Tây Lăng Hành, lúc bay ra xa múa lượn cho nàng ngắm, lúc liệng lại gần vờn quanh mình nàng. Giọng hót phượng hoàng thánh thót du dương tựa tiếng đàn, chúng vừa hót vừa bay lượn, khiến chẳng những Tây Lăng Hành mà cả Vương Mẫu cũng phải mỉm cười.
Chừng nửa tuần hương, linh lực để duy trì đã cạn kiệt, đôi phượng hoàng mới thôi múa lượn, khép cánh đỗ xuống, lại biến thành hai con chim gỗ.
Thấy Vương Mẫu ngây ra nhìn hai chú chim gỗ đến ngơ ngẩn, Tây Lăng Hành vội hỏi: “Sao thế ạ?”
Vương Mẫu thờ ơ: “Bạn của ngươi sai khiến được tượng gỗ từ ngoài ngàn dặm, còn khiến chúng cất tiếng hót, đúng là không vừa.” Thật ra, điều khiến Vương Mẫu cảm thán chính là, nhiều kẻ có thể vì quyền lợi mà bất chấp mọi giá, sai khiến rối gỗ từ xa để chúng giết người lấy đồ cho mình, còn Xi Vưu lại chẳng tiếc hao tổn tâm huyết chỉ để làm vui cho Tây Lăng Hành.
Tuy hai con chim gỗ đã thành ra vô dụng, Tây Lăng Hành vẫn tươi cười cất chúng đi.
Tiệc Bàn Đào dài ba ngày trôi qua rất mau.
Ba mươi năm nay, Tây Lăng Hành đã ăn chán đào tiên nên cũng chẳng còn gì hứng thú với tiệc Bàn Đào, thế mà khi tiệc tàn, nàng lại thấy lòng buồn vô cớ, có lẽ là bởi Xương Ý ca ca sắp phải đi.
Tây Lăng Hành quyến luyến tiễn Tứ ca xuống núi rồi một mình đi sâu vào giữa rừng đào, chẳng buồn mang A Tệ theo. Vậy mà chẳng hiểu sao Vương Mẫu vẫn tìm thấy nàng, còn hỏi: “Ngươi nhớ nhà ư?”
Tây Lăng Hành đã băn khoăn vì một câu nói của Vương Mẫu từ rất lâu. Hôm đó khi trừng phạt nàng, Vương Mẫu từng nói: “Nể mặt mẫu hậu ngươi, ta sẽ giữ thanh danh cho ngươi, không công bố tội trộm cắp ra ngoài, chỉ phạt ngươi chăm sóc vườn đào cho ta một trăm hai mươi năm.” Tây Lăng Hành chỉ nghe người ta nể mặt phụ vương oai trấn bốn bể của mình, lần đầu mới thấy có người “nể mặt mẫu hậu ngươi”, hơn nữa người đó lại là Ngọc sơn Vương Mẫu, nên nàng rất tò mò.
Tây Lăng Hành đánh liều hỏi Vương Mẫu: “Người quen mẫu hậu tôi sao?”
“Rất nhiều rất nhiều năm trước, chúng ta từng là đôi bạn khăng khít.”
“Thật ư?” Tây Lăng Hành bị bất ngờ, bán tín bán nghi.
“Giờ đây nhắc tới phụ vương ngươi thì thiên hạ ai ai cũng biết, nhưng khi còn chưa ai biết tới ông ta, mẫu hậu ngươi đã vang danh khắp chốn, người người đều biết nhà Tây Lăng có nàng kỳ nữ. Viêm Đế, Tuấn Đế đều phái sứ giả tới cầu thân cho con trai, nếu mẫu hậu ngươi nhận lời, có lẽ bây giờ ngươi đã là vương cơ của Thần Nông hay Cao Tân rồi.”
Tây Lăng Hành kinh ngạc đến không dám tin: “Vậy năm xưa mẫu hậu tôi thế nào? Còn phụ vương thì sao?”
Vương Mẫu lim dim mắt như đang hồi tưởng lại: “Mẫu hậu ngươi là người con gái thông tuệ dũng cảm nhất mà ta từng thấy, còn phụ vương ngươi cũng là gã thanh niên anh tuấn hào sảng nhất mà ta đã gặp qua, năm đó…” Vương Mẫu ngừng lại ngang chừng, hồi lâu không nói tiếp. Ánh dương xuyên qua những cánh đào rực rỡ, rải xuống đất thành những bụi vàng lắc rắc. Gió lay bóng động, tựa như dằng dặc thiếu hoa trôi ngang dung nhan Vương Mẫu, toát lên một nỗi bi ai mà A Hành cũng không sao hiểu nổi.
“Sao mẫu hậu tôi chưa từng nhắc tới Người nhỉ?”
Vương Mẫu mỉm cười, xua tan bóng dáng tháng năm vừa lướt qua gương mặt, “Bởi chúng ta đã không còn là bạn bè nữa.”
“Người không gặp phụ mẫu tôi bao lâu rồi?”
“Hơn hai ngàn năm nay rồi, từ khi cai quản Ngọc sơn, ta chưa hề xuống núi, họ cũng chưa từng tới đây.”
Tây Lăng Hành nhìn quanh, chẳng nói nên lời. Hai ngàn năm, ngày lại ngày, năm lại năm, Vương Mẫu cứ một mình coi sóc cả rừng đào rực rỡ thắm tươi thế này ư?
Vương Mẫu thoáng trầm ngâm, đoạn hỏi tiếp: “Mẫu hậu ngươi khỏe chứ?”
Tây Lăng Hành nghiêng đầu nghĩ ngợi rồi đáp: “Khỏe lắm, mẫu hậu tôi ưa yên tĩnh, chẳng xuống núi, cũng hiếm khi tiếp khách.”
Dù được ăn đào tiên, người trong Thần tộc cũng chẳng thể trường sinh bất tử, có điều ăn thường xuyên sẽ giữ được dung nhan trẻ trung mãi mãi, nên dung mạo Vương Mẫu vẫn y như thiếu nữ vừa đôi tám. Tây Lăng Hành nhìn Vương Mẫu, buột miệng: “Mẫu hậu tôi tóc đã bạc trắng cả rồi.”
“Cha ngươi, cha ngươi…” Vương Mẫu nói nửa chừng rồi ngưng ngang.
Tây Lăng Hành đã hiểu ý Vương Mẫu muốn hỏi gì, liền đáp, “Mẹ tôi ưa yên tĩnh nên cha cũng hiếm khi quấy rầy bà.”
Vương Mẫu và Tây Lăng Hành nhìn nhau im lặng. Vương Mẫu không thể xuống núi vì giữ quy củ Ngọc sơn, nhưng còn mẹ nàng? Cớ gì bà phải tự giam mình?
Đột nhiên, Vương Mẫu muốn uống một trận say khướt bèn quát gọi thị nữ, sai họ đi lấy rượu.
Vương Mẫu đã say rồi, mấy ngàn năm nay mà mới được một trận thật say.
Tây Lăng Hành nhìn Vương Mẫu phất tay áo, phấp phới múa giữa rừng đào bát ngát.
Vương Mẫu mỉm cười, nhìn nàng, khẽ gọi: “A Luy, lại đây, A Luy, lại đây mau lên…”
Lần đầu tiên Tây Lăng Hành biết mẹ mình từng được bạn bè gọi thân mật là “A Luy”. Nàng đành đứng dậy múa cùng Vương Mẫu, nhưng không sao đáp lại lời bà. Rất nhiều rất nhiều năm trước, hẳn Vương Mẫu cũng có một cái tên rất dịu dàng, chỉ là đã lâu lắm chẳng ai gọi tới nên mọi người đều không biết. Tây Lăng Hành không muốn gọi bà là Vương Mẫu, ít nhất là hiện giờ, nên đành làm thinh mà múa cùng bà.
Tiệc Bàn Đào đã tàn, Ngọc sơn trở lại vẻ quạnh quẽ hoang lương, tĩnh lặng như chết trước kia.
Hôm nay cũng giống hôm qua, từng ngày từng ngày đều đều trôi đi. Cỏ cây không đổi, cảnh sắc chẳng thay, bốn mùa đều là xuân nên ấm lạnh vẫn như thế, chẳng có gì biến chuyển.
Ba mươi năm trước, Tây Lăng Hành còn nhỏ, ít trải sự đời, chưa thấm thía nỗi khổ bị mất tự do nên không biết sợ, đương nhiên cũng chẳng mấy khổ đau, nhưng mới trải qua ba mươi năm, nghĩ tới còn ba lần mươi năm nữa, nàng chợt thấy tháng ngày trước mắt sao mà đằng đẵng lê thê, vì sợ hãi, nỗi đau khổ của nàng lại càng tăng thêm.
Ngọc sơn cách biệt thế gian nên Tây Lăng Hành cũng bị cách biệt với thế giới. Nàng thường nghĩ, có lẽ tới khi xuống núi nàng lại nhận ra mình đã chẳng biết nói gì với bạn bè nữa. Những gì họ biết, nàng nào có biết đâu.
Dẫu là Thần tộc thì một đời có được mấy mùa thanh xuân một trăm hai mươi năm?
Thư nàng gửi cho Xi Vưu cứ ngắn dần ngắn dần, ít dần ít dần, rồi cuối cùng ngừng hẳn.
Nhưng Xi Vưu vẫn gửi thư đều đặn như thường, thậm chí cũng chẳng truy vấn tại sao Tây Lăng Hành không trả lời, hắn chỉ bình thản thuật lại cuộc sống của mình, thỉnh thoảng kèm theo một món quà nho nhỏ.
Dù không hồi âm, nhưng mỗi khi nhận được thư hắn, Tây Lăng Hành cũng thấy vui lên.
Hơn ba năm, một ngàn mấy trăm ngày Tây Lăng Hành chẳng viết cho hắn lấy nửa chữ, nhưng hắn vẫn đều đặn viết thư cho nàng như xưa.
Sau bốn năm, cảnh sắc trên Ngọc sơn vẫn trơ trơ không đổi như suốt ngàn năm qua, nhưng dưới núi, một mùa đông rét buốt căm căm lại vừa qua, tất cả đang chờ đón một mùa xuân ấm áp.
Đương lúc Tây Lăng Hành đứng giữa rừng đào nheo mắt ngắm vầng dương, Thanh Điểu lại mang thư của Xi Vưu tới.
Thư viết rất dài, hết lải nhải kể mấy chuyện đất lề quê thói, rồi dịu dàng tự thuật đôi ba câu chuyện, có điều, một câu xem chừng rất bình thường trong đó lại khiến mắt nàng cay cay.
“Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực cả hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.”
Một chữ “lại” vô tình viết ra mà khiến Tây Lăng Hành trằn trọc suốt cả đêm.
Sớm hôm sau, Liệt Dương mang thư của nàng từ Ngọc sơn bay đi.
Mấy chục năm sống bên nhau, A Tệ cùng Liệt Dương đã thành ra thân thuộc. Tuy Liệt Dương tính khí lạ lùng, không dễ gần gũi nhưng A Tệ thích Liệt Dương, bất kể Liệt Dương đối xử ra sao nó vẫn cứ bám riết lấy, Liệt Dương bị bám mãi cũng hết cả cáu kỉnh, dần dà chấp nhận A Tệ.
Thường thường, trong khi Tây Lăng Hành vừa coi sóc vườn đào vừa chăm chút đám trứng tằm, A Tệ hay chơi đùa với Liệt Dương.
Mấy chục năm nay nàng đã nhận được rất nhiều quà của Xi Vưu, nhưng chẳng hề tặng lại món gì. Trên Ngọc sơn đầy rẫy ngọc quý, cây hiếm, báu vật, có điều hết thảy thuộc về Vương Mẫu chứ không thuộc về nàng.
Mẹ nàng thạo nuôi tằm dệt vải nên từ khi chưa biết nói, nàng đã biết phân biệt đủ các loại trứng tằm, bèn nảy ý định dựa vào linh khí trên Ngọc sơn để ươm một mẻ trứng có một không hai, dệt một tấm áo độc nhất vô nhị trên đời tặng Xi Vưu.
Trên Ngọc sơn không hề có cảm giác nhật nguyệt chuyển vần, hoa đào nở một lần là tươi suốt ngàn năm nên nàng chỉ có thể tính thời gian dựa vào những bức thư đi tin lại của Xi Vưu.
Hắn viết thư cho nàng, nàng viết thư cho hắn, hắn lại viết thư cho nàng, nàng lại viết thư cho hắn… bao nhiêu thời gian đằng đẵng đã trôi qua giữa những cánh thư đi thư lại.
Mười sáu năm ươm được trứng hoa đào, năm năm quay tơ, ba năm dệt vải, một năm may áo, mất hai mươi lăm năm nàng mới may xong một chiếc áo tặng Xi Vưu.
Áo vừa may xong, hồng quang đã tỏa rực khắp phòng, làm kinh động cả Ngọc sơn. Đám thị nữ ngỡ là có cháy liền chạy nháo nhào khắp nơi kêu cứu, Vương Mẫu vội vàng tới nơi, chỉ thấy một tấm áo đỏ thắm giản dị nhưng sắc đỏ tựa hồ có sức sống, như đang điên cuồng tràn ra, lại như đang hú hét lao vút đi, Vương Mẫu quan sát hồi lâu, cảm thấy như mình sắp bị sắc đỏ đó nhấn chìm.
Cả Vương Mẫu cũng mới lần đầu được thấy sắc đỏ như vậy, bà sững sờ nhìn ngắm hồi lâu rồi quay sang bảo Tây Lăng Hành: “Ngươi đúng là con gái của A Luy.”
Tây Lăng Hành sai Liệt Dương mang áo tới cho Xi Vưu, cũng chẳng giải thích tấm áo này từ đâu mà có, chỉ nói là quà tặng cho hắn, mong rằng hắn sẽ thích.
Chương 6: Rừng vắng riêng mình ta vò võ[1]
[1] Trích trong bài từ theo điệu Mãn giang hồng, nhan đề Nhớ Tử Do của Tô Thức đời Tống. (ND)
A Hành chăm chú nhìn y, cảm thấy con người này khác hẳn nam tử cùng mình uống rượu chuyện trò đêm trước. Thiếu Hạo đêm qua hệt như kẻ hiệp khách ngang tàng, ngẫu nhiên gặp gỡ bên bờ dương liễu, có thể cùng chuốc chén, nói cười, thù tạc, nhưng sáng nay, dưới ánh mặt trời, y lại giống bậc vương giả cô đơn sải bước trên con đường trước điện, đầy ẩn nhẫn, lạnh lùng và thâm trầm.
Thấm thoắt lại đã tới tiệc Bàn Đào. Lần này, Hiên Viên tộc cử vương tử Thương Lâm, Thần Nông tộc cử vương cơ Vân Tang, Cao Tân tộc cử vương tử Yến Long tới dự.
Sau khi lên núi, theo lời Viêm Đế căn dặn, Vân Tang giao hết mọi việc giao tế đối đãi cho Xi Vưu còn bản thân tha hồ thảnh thơi tản bộ, vô tình, nàng lại đi tới Ao Đột quán.
Thấy Hiên Viên Bạt đang ngồi bên hồ ngẩn mặt nhìn trời, Vân Tang hết sức kinh ngạc, bèn đến gần “hù” một tiếng khiến Hiên Viên Bạt giật nảy mình.
“Sao muội lại lên Ngọc sơn này? Ta đâu có nghe nói muội tới dự yến!”
“Nói ra thì dài lắm, sáu mươi năm trước, sau khi tan tiệc Bàn Đào muội đã bị Vương Mẫu giữ lại đây, chưa hề xuống núi.”
Vân Tang sững người rồi sực hiểu ra, “Muội chính là tên trộm bị Vương Mẫu giam cầm ư?”
Hiên Viên Bạt bĩu môi gật đầu. Vân Tang liền ngồi xuống cạnh Hiên Viên Bạt hỏi chuyện, “Ta không tin muội lại tham mấy món thần binh lợi khí của Ngọc sơn đâu, thế rốt cuộc là sao? Liệu có phải bên trong có hiểu lầm gì không?”
Hiên Viên Bạt nhún vai, ra vẻ thản nhiên đáp: “Dẫu sao Ngọc sơn cũng là nơi tràn trề linh khí, bao nhiêu con em Thần tộc mong tới còn chưa được, muội bỗng dưng được cho không một trăm hai mươi năm, toàn đóng cửa tu luyện thôi.”
Vân Tang thông tuệ, thừa biết bên trong ắt có ẩn tình, có điều giờ lòng nàng đang ngổn ngang tâm sự, Hiên Viên Bạt đã không nói, nàng cũng chẳng bụng dạ nào mà gặng hỏi. Nhìn cảnh nước sâu thẳm, núi chót vót bày ra trước mặt, nàng không nén nổi tiếng thở dài, “Ta đang có chuyện buồn muốn tìm muội tâm sự đây.” Dứt lời, nàng lại làm thinh.
Biết tính Vân Tang muốn nói thì sẽ nói, nếu không có hỏi cũng bằng thừa, Hiên Viên Bạt chỉ im lặng ngồi bên nàng.
Hồi lâu Vân Tang mới lên tiếng: “Kể từ sau khi gặp Nặc Nại ở đây lần trước, chúng ta vẫn âm thầm qua lại với nhau.”
Hiên Viên Bạt mỉm cười: “Muội đoán được từ lâu rồi.”
“Nhị muội Dao Cơ sinh ra đã đau ốm, bao năm nay không rời giường bệnh, phụ vương chỉ một lòng lo lắng cho nó, để an ủi phụ vương đồng thời săn sóc Du Võng mồ côi mẹ từ lúc lọt lòng, ta đã phải gồng mình trưởng thành thật mau. Đôi khi Dao Cơ bị bệnh tật giày vò khổ sở muốn chết, phụ vương cũng đau đớn chẳng kém gì nó, ta lại trộm nghĩ, thà rằng… thà rằng Dao Cơ chết quách cho xong, giải thoát cho mình, cũng giải thoát cho tất cả chúng ta.”
Hiên Viên Bạt lặng lẽ nắm chặt tay Vân Tang. Nàng nhớ mẹ mình vô cùng yêu thương Vân Tang, có lần bà từng than thở: “Con nha đầu này chưa làm nũng hay gây chuyện bao giờ, cứ như là trời sinh ra để làm chị cả chăm sóc các em ấy.”
“Ba mươi năm trước, Dao Cơ cũng… cũng mất, phụ vương bệnh nặng nằm liệt giường, cơ hồ sắp theo Dao Cơ đi tìm mẫu thân, ta không rơi một giọt nước mắt, chỉ lo ngày đêm hầu hạ bên Người. Bệnh tình của Người lui dần, nhưng ta lại dần dần nhận ra mình không chịu nổi nỗi đau mất đi Dao Cơ, tuy Nhị muội có vẻ yếu ớt, nhưng mỗi lúc ta cần nhất, nó đều ở bên ta.” Vân Tang nhìn Hiên Viên Bạt, “Ta sinh ra trong vương thất, đã quá hiểu những thủ đoạn ngấm ngầm triệt hạ lẫn nhau, tính tình Du Võng lại nhu nhược nên có rất nhiều việc ta buộc phải cứng rắn. Đôi lúc mệt mỏi vô chừng mà chẳng có nổi một người bạn để thổ lệ tâm tình, ta chỉ biết ngồi thừ người ra đó. Mỗi lúc như vậy Dao Cơ lại tới ngồi sau lưng, gỡ tóc ta ra rồi dịu dàng chải lại, mùi thuốc tỏa ra từ người Nhị muội như an ủi vỗ về ta. Đêm hè, trong lúc ta tra cứu sách vở, Nhị muội thường quấn một tấm thảm ngồi bên cạnh thêu túi hương, mùa đông, Nhị muội không chịu được lạnh nhưng vẫn thèm chơi tuyết, lần nào như lần nấy đều ngồi trong nhà hé rèm nhìn ta và Du Võng nghịch tuyết, được chúng ta cho một quả cầu tuyết, Nhị muội thích lắm, như được bảo bối vậy.”
Bàn tay lạnh ngắt của Vân Tang run lên bần bật khiến Hiên Viên Bạt phải siết tay truyền hơi ấm và sức mạnh cho nàng, “Trong cung chẳng còn thoang thoảng mùi thuốc của Dao Cơ, ta đau đớn như chết cả cõi lòng nhưng ngoài mặt vẫn phải giữ vẻ thản nhiên, bệnh của phụ vương vừa khá lên, ta không dám khiến Người thương tâm thêm nữa. Nửa đêm dông gió, tiếng sấm sét làm ta giật mình tỉnh giấc, nhưng chẳng còn Dao Cơ ôm gối đứng ngoài rèm khẽ hỏi: ‘Tỷ tỷ, muội sợ lắm, cho muội ngủ với tỷ được không?’ Trước nay ta vẫn ngỡ là mình an ủi, bầu bạn cùng Nhị muội, ta bỗng thấy tiếng sấm thật là đáng sợ, mới hiểu ra, trong những đêm mưa gió đùng đùng ấy, không chỉ có ta che chở Dao Cơ, mà chính Dao Cơ cũng đã che chở cho ta. Trong đêm mưa gió, ta từ Thần Nông sơn lao tới tận biên thùy giáp Cao Tân tìm Nặc Nại đóng quân ở đó, lúc thấy ta xông vào trướng, chắc y đã được một phen hoảng hồn, dạo đó ta chỉ còn da bọc xương, mặt mày vàng vọt, lúc ấy lại vội vã xuống núi nên quần áo xộc xệch, đầu tóc bơ phờ, cả người ướt lướt thướt, hai chân đi đất.”
Vân Tang nhìn Hiên Viên Bạt, mặt đỏ lên rồi lại tái đi, “Ta cũng chẳng hiểu nổi mình nữa, vừa trông thấy Nặc Nại, ta đã nhào vào lòng y khóc òa lên như tìm được chỗ dựa, có thể buông hết những gánh nặng trên vai xuống, từ nhỏ đến giờ, đó là lần đầu ta mất kiềm chế. Y cứ ôm lấy ta mặc cho ta khóc lóc, bao nhiêu nước mắt phải kìm nén từ sau khi mẫu thân qua đời ta đều trút hết ra, khóc mãi khóc mãi đến nỗi ngất xỉu.”
Vân Tang đỏ bừng mặt hạ giọng: “Lúc ta tỉnh lại, y đã không còn trong trướng. Ta cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp y, bèn lập tức quay về Thần Nông sơn. Rất lâu sau chúng ta không liên lạc, cũng chẳng nhắc lại chuyện đêm đó, xem như chưa xảy ra chuyện gì, y đối với ta rất thờ ơ, nhưng, nhưng…” Vân Tang lúng túng mãi không nói nốt được nửa câu “nhưng cả hai đều biết có gì đó đã xảy ra rồi.”
Thần Nông và Cao Tân đều là Thần tộc từ thời thượng cổ, lễ nghĩa rất thủ cựu nghiêm ngặt, còn Hiên Viên lại khá phóng khoáng thoải mái đối với chuyện nam nữ, vậy nên thái độ của Hiên Viên Bạt và Vân Tang trước chuyện này khác nhau một trời một vực. Hiên Viên Bạt thấy đó là tình sâu nghĩa nặng, là chuyện hiển nhiên, nhưng Vân Tang lại lấy làm hổ thẹn, thấp thỏm lo lắng.
Hiên Viên Bạt cười hỏi: “Tỷ tỷ, tỷ đã tiết lộ thân phận mình cho Nặc Nại chưa?”
Vân Tang ủ rũ đáp, “Vẫn chưa. Ban đầu ta quá cẩn trọng, lại nghĩ thôi thì lỡ lầm cho lầm luôn, còn muốn thử thách nhân phẩm y trước đã, nhưng về sau chẳng hiểu sao càng lúc càng sợ thú thật, chỉ e y sẽ nổi giận rồi bỏ mặc ta. Ta định đợi cho đôi bên thân thiết hơn rồi nói, may ra y sẽ thông cảm, nhưng khi đã thân thiết ta lại lo sợ, mỗi lần định nói đều không thốt nên lời, sau đó lại xảy ra chuyện xấu hổ kia, y tỏ vẻ rất lạnh nhạt xa cách nên ta càng không tiện nói, cứ thế dùng dằng đến bây giờ, muội xem có cách gì không?”
“Dù tỷ tên gì thì cũng vẫn là tỷ, không phải sao? Nói rõ là được mà.”
“Giành được lòng tin rất khó mà hủy diệt thì dễ lắm, quan trọng không phải là dối gạt chuyện lớn hay nhỏ mà chính việc dối gạt đã là vấn đề. Cứ suy từ ta mà ra, nếu Nặc Nại cũng gạt ta như vậy, ta nhất định sẽ hoài nghi mọi lời y nói đều là giả dối. Nhìn y khiêm tốn ôn hòa như vậy nhưng còn trẻ đã nắm giữ binh quyền, chức vị lại cao, được Thiếu Hạo xem trọng, nhất định là tâm tư rất thâm trầm, giành được lòng tin của y hẳn là khó lắm, vậy mà ta lại, lại… gạt y.” Vân Tang rầu rĩ tự trách.
Hiên Viên Bạt sửng sốt, lẽ nào mọi chuyện phức tạp vậy sao? Hồi lâu sau, nàng thở dài, đột nhiên cũng bắt đầu lo lắng.
Tiệc Bàn Đào vẫn náo nhiệt như xưa, hết thảy khách khứa đều tụ họp bên bờ Dao trì, ăn uống no say, nói cười vui vẻ.
Xi Vưu ngồi một lát rồi lẻn đi tìm Tây Lăng Hành. Hắn rảo bước qua ngàn dãy hành lang, trăm gian lầu gác, một dãy rồi một dãy, một gian lại một gian, càng gần tới chỗ nàng, bước chân hắn càng chậm lại.
Hắn lần tới nơi nàng ở nhưng chỉ thấy vườn không nhà trống, gió nhẹ hiu hiu, chiếc chuông gió bằng răng thú dưới mái hiên khẽ tinh tang như một khúc ca dao xưa cũ.
Xi Vưu ngơ ngẩn lắng tai nghe. Năm xưa lúc hắn mới làm xong, chiếc chuông gió này trắng muốt như ngọc, trải sáu mươi năm dầm mưa dãi nắng, nó đã ngả vàng.
Hắn vòng qua gian nhà, đi thẳng vào rừng đào sau núi.
Dưới ánh trăng, cỏ xanh mươn mướt, ngàn cây đào rực rỡ trổ bông, nom xa tựa ráng hồng lộng lẫy, nhìn gần lại thấy lả tả hoa bay.
Lang điểu trắng muốt cao chừng một thước đậu trên ngọn cây, hồ ly to lớn, lông đen tuyền nằm dài trên bãi cỏ, thiếu nữ áo xanh tựa mình vào nó ngủ vùi, mặc cánh hoa rụng đầy lưng.
Đột nhiên A Tệ ngẩng lên nhìn gã nam tử áo đỏ cao lớn khôi ngô vừa xuất hiện trong rừng đào đầy cảnh giác, còn Liệt Dương chỉ hé mắt liếc qua rồi uể oải nhắm mắt lại.
A Tệ cùng Liệt Dương sớm tối bên nhau mấy chục năm, đôi bên đã hình thành cách giao tiếp riêng, thấy Liệt Dương như vậy, A Tệ cũng bớt cảnh giác, uể oải vùi đầu vào đám cỏ, hai tay bịt mắt tỏ ý: các người cứ tự nhiên, xem như không có ta.
Xi Vưu rón rén, ngồi xuống bên Tây Lăng Hành.
Thực ra Tây Lăng Hành không hề ngủ, Xi Vưu vừa tới nàng đã nhận ra ngay, nhưng cố tình vờ ngủ, nào ngờ tên Xi Vưu này bề ngoài nôn nóng nhưng thực chất rất kiên trì, cứ lẳng lặng ngồi đợi.
Tây Lăng Hành không giả vờ nổi nữa bèn hơi nhỏm người dậy hỏi: “Sao ngươi không gọi ta? Nếu ta ngủ suốt đêm ngươi cũng đợi suốt đêm à?”
Xi Vưu cười hì hì đáp: “Cô là vợ ngoan của ta, đợi cả đời cả kiếp cũng được, sá gì một đêm.”
Tây Lăng Hành vung tay đấm hắn: “Ta cảnh cáo đấy, không được nói nhảm nữa, ta đâu phải vợ ngươi.”
Xi Vưu giữ chặt tay Tây Lăng Hành, đăm đắm nhìn nàng, cười nói: “Cô không chịu làm vợ ta thì định làm vợ ai đây? Cô đã bị ngài Thú vương đây chấm làm vợ rồi, nếu kẻ nào lớn mật dám tranh đoạt, ta sẽ quyết đấu công bằng với hắn.”
Xi Vưu vốn chẳng tuấn tú gì cho cam, nhưng ánh mắt hắn sắc sảo, giảo hoạt như loài thú hoang, ẩn sau vẻ ngoài thờ ơ là sức mạnh kinh người, khiến dung mạo hắn toát lên sức cuốn hút lạ lùng, hễ gặp một lần là nhớ mãi.
Chẳng hiểu sao Tây Lăng Hành chợt thấy sờ sợ, không còn cảm giác thoải mái cười đùa mắng mỏ hắn như xưa nữa. Nàng liền vùng khỏi tay Xi Vưu, “Chúng ta đâu phải thú vật, quyết đấu gì chứ?”
Xi Vưu cười phá lên: “Các con đực chỉ quyết đấu để giành quyền giao phối cùng con cái khỏe đẹp thôi, chứ còn cô…” Hắn nhìn nàng tặc tặc lưỡi rồi lắc đầu, tỏ ý chẳng con đực nào buồn ngó tới nàng hay giao phối cùng nàng cả.
Câu nói của Xi Vưu quá đỗi thô thiển khiến Tây Lăng Hành ngượng đỏ cả mặt, bây giờ nàng mới hiểu tại sao người ta gọi hắn là súc sinh, liền bịt tai hét lên: “Xi Vưu, ngươi còn dám nói bậy ta sẽ không nghe nữa đâu đấy.”
Ngắm Tây Lăng Hành thẹn quá hóa giận, Xi Vưu bỗng thấy mê mẩn cả tâm thần, dục vọng ban sơ nhất của giống đực rục rịch trào lên, hắn đột nhiên sán lại đặt lên môi nàng một nụ hôn.
Tây Lăng Hành kinh ngạc đến đờ người, trợn trừng mắt nhìn Xi Vưu.
Xi Vưu xưa này hành sự rất lão luyện dứt khoát nhưng đây là lần đầu kề cận phụ nữ, hơn nữa còn là người con gái mình hằng yêu thương, lòng hắn khó tránh khỏi bối rối, trái tim vững vàng bình thản ngay cả khi sống chết cận kề giờ đây lại đập rộn lên trong lồng ngực, ánh mắt chan chứa nhu tình. Chừng như còn thèm thuồng vị ngọt ngào khi nãy, Xi Vưu lại cúi xuống tham lam hôn Tây Lăng Hành, vừa hôn vừa vụng về quờ quạng, toan lấn lướt thêm chút nữa.
Tây Lăng Hành sực tỉnh, vội cắn cho Xi Vưu một cái thật đau khiến hắn ré lên lùi lại, trợn mắt nhìn nàng, vừa ngượng ngùng vừa bối rối, hệt như một con thú nhỏ đang giận dữ.
Tây Lăng Hành lạnh lùng mắng: “Mùi vị thế nào? Lần sau ngươi còn dám, dám… như vậy nữa, ta sẽ… không nể nang đâu!”
Xi Vưu nhướng mày cười, lại biến thành Thú vương xảo quyệt tàn nhẫn, hắn giơ ngón tay quẹt máu trên miệng rồi thè lưỡi liếm mép, chăm chú nhìn bờ môi Tây Lăng Hành thật lâu như hồi tưởng tư vị khi nãy, lát sau mới lên tiếng đáp, không quên xuyên tạc câu hỏi của nàng: “Mùi vị tuyệt lắm!”
Tây Lăng Hành giận đến nghiến răng nghiến lợi nhưng chửi không lại, đánh không được, đành quay người chạy ra khỏi rừng, căm hận ném lại một câu: “Ta không muốn gặp đồ khinh bạc vô sỉ nhà ngươi nữa! Từ giờ chúng ta cắt đứt liên lạc!”
“Tốt quá tốt quá! Ta chán viết thư cho cô lắm rồi!”
Tây Lăng Hành chạy thẳng không buồn ngoái lại, đột nhiên hai mắt nàng đỏ lựng cả lên, dù chính nàng cũng chẳng rõ mình bực bội chuyện gì nữa.
Đêm đó, Tây Lăng Hành trằn trọc hoài không ngủ nổi, nghe tiếng chuông gió ngoài hiên cứ tinh tang mãi điếc cả tai, nàng bực bội tuột xuống giường, chạy lại bên cửa sổ, giật chuông gió quẳng đi.
Bốn bề xung quanh đã yên tĩnh, nhưng nàng càng khó chịu hơn, cảm thấy mọi thứ im ắng đến rùng mình, nếu không có chiếc chuông gió kia bầu bạn mấy mươi năm nay, có lẽ nàng đã nghẹt thở mà chết vì sự tĩnh lặng của Ngọc sơn rồi.
Một lúc lâu sau, nàng lại trở dậy nhìn đồng hồ nước, thấy mới tới canh hai, đêm nay sao mà dài đằng đẵng, nàng còn sáu mươi năm nữa, là bao nhiêu đêm đằng đẵng thế này đây?
Tây Lăng Hành uể oải nằm xuống nhắm mắt, cố dỗ giấc ngủ, có điều vừa trở mình nàng đã thấy không ổn, vội mở bừng mắt, liền trông thấy Xi Vưu đang nằm bên mép giường, một tay chống đầu, tay kia giơ chiếc chuông gió vừa bị nàng quẳng đi khi nãy, cười hì hì nhìn nàng.
Tây Lăng Hành quá đỗi kinh ngạc chỉ biết ngây người ra nhìn hắn, lát sau mới lấy lại được phản ứng, vội vận đủ mười phần linh lực tấn công Xi Vưu, những mong đập chết tên vô lại coi trời bằng vung này cho hả!
Xi Vưu chẳng buồn động tay đã nhẹ nhàng hóa giải được đòn tấn công của nàng, còn giở giọng trêu chọc: “Sao nha đầu bừng bừng sát khí thế?”
Trong lúc hắn nói, trên giường bỗng mọc ra mấy sợi dây leo xanh mướt, trói chặt lấy tứ chi nàng.
Biết linh lực đôi bên chênh lệch quá xa, bản thân mình đấu không lại Xi Vưu, Tây Lăng Hành lập tức thay đổi sách lược, hét lớn: “Cứu mạng, cứu mạng…”
Xi Vưu chống má ung dung nhìn nàng, cười thích thú như đang đợi để thưởng thức sự ngốc nghếch của nàng, xem xem mất bao lâu nàng mới phản kháng lại được. Hắn đã dám đến, đương nhiên nào có sợ gì.
Sực hiểu ra hắn đã hạ cấm chế, tiếng hét trong này chẳng thể truyền ra ngoài, nàng liền im bặt, nghiêm mặt lạnh lùng hỏi: “Ngươi muốn làm gì đây?”
Xi Vưu cười cười ngồi dậy cởi đồ ra, Tây Lăng Hành tái mặt, vẻ trấn tĩnh vờ vịt nãy giờ biến mất, cặp mắt nàng hằn nét kinh hoàng: “Ngươi dám!”
“Ta không dám à? Khắp thiên hạ chỉ có chuyện ta không muốn, chứ nào có chuyện ta không dám!” Hắn thản nhiên giơ tay cởi y phục của nàng, vẻ mặt tàn nhẫn vô tình.
Ánh mắt Tây Lăng Hành đầy khổ đau thất vọng, nàng gằn từng tiếng: “Tuy hiện giờ ta chẳng cách nào kháng cự nổi ngươi, nhưng ngươi hãy nhớ lấy, trừ phi ngươi giết luôn ta, bằng không sẽ có ngày ta đập nát xương ngươi.”
Xi Vưu cười phá lên, lập tức dịu ngay nét mặt, vỗ vỗ má nàng: “Đùa với cô vui ghê, mới giỡn tí đã giận đùng đùng lên rồi, cô tưởng ta định làm vậy với cô thật sao?”
Tây Lăng Hành bị quay mòng mòng, chỉ biết ngớ ra nhìn Xi Vưu, mặc hắn khoác áo lại rồi ngả người nằm xuống bên cạnh, cười hì hì nhìn nàng, “Các người chớ tưởng thú vật là man rợ, khi muốn giao phối, con đực không thể cưỡng ép mà phải nài nỉ để con cái chấp thuận, giữa đôi bên là tự nguyện cả đó.”
Tây Lăng Hành đỏ mặt lườm hắn: “Ngươi đã, đã không phải… nửa đêm còn mò vào phòng ta làm gì?”
“Ta muốn đưa cô đi.”
Thấy Tây Lăng Hành ngơ ngác, Xi Vưu liền giải thích: “Chẳng phải ta đã bảo ta chán viết thư cho cô lắm rồi sao? Để khỏi phải viết thư nữa, ta sẽ đưa cô xuống núi.”
“Nhưng ta còn phải chịu phạt sáu mươi năm nữa.”
“Hừ, ta ngỡ cô chịu hết nổi từ lâu rồi chứ, lẽ nào cô ở đây mãi sinh nghiện à?”
“Đương nhiên là không, nhưng…”
“Sao lắm nhưng với nhị thế? Dù Thần tộc các người sống dai nhưng cũng chẳng nên phí hoài thời gian thế này, chẳng lẽ cô không nhớ những ngày tháng tự do tự tại khi trước sao?”
Tây Lăng Hành nín lặng hồi lâu, đoạn hỏi: “Vậy còn A Tệ với Liệt Dương làm sao đây?”
“Ta đã bàn bạc với chúng rồi, trước tiên cả hai sẽ yểm trợ cho chúng ta, đợi chúng ta xuống núi an toàn, Liệt Dương cùng A Tệ sẽ tìm tới sau.” Xi Vưu vuốt tóc nàng, “A Hành, mặc kệ cô có nhận lời hay không ta cũng quyết định rồi, ta sẽ đánh ngất rồi giấu cô trong đội xe của mình, chừng nào từ biệt Vương Mẫu thì đem theo cô xuống núi luôn. Nếu sau này xảy ra chuyện gì cũng là do Xi Vưu ta làm, không liên quan gì tới cô cả.”
Tây Lăng Hành lạnh lùng hỏi: “Ngươi đã có bản lĩnh này, sao sáu mươi năm trước không làm đi?”
Xi Vưu cười không đáp, “Cảm ơn cô đã tặng áo.”
“Đó là ta nhờ Tứ ca mua giùm, ngươi muốn cảm ơn thì đi mà cảm ơn Tứ ca ta ấy.” Tây Lăng Hành lườm hắn rồi nhắm nghiền mắt lại.
Xi Vưu dỗ dành, “Cô cứ ngủ đi, đến khi nào đánh ngất cô, ta cũng đỡ phải gọi.”
Tây Lăng Hành càng nghe hắn nói càng tức anh ách, chẳng biết đốp lại thế nào. Xi Vưu búng tay tách một tiếng, đột nhiên trên thân leo trói chặt cổ tay Tây Lăng Hành chợt nhú lên từng nụ hoa trắng muốt lẫn trong đám lá xanh um, sau đó nở xòe thành từng đóa hoa nho nhỏ, tỏa hương thơm ngát, ru nàng vào giấc ngủ.
Tây Lăng Hành thiếp đi giữa hương hoa ngan ngát.
Tỉnh lại, nàng nhận ra mình đã không còn nằm trên giường, mà đang ở trong một cỗ xe dát vàng khảm ngọc.
Dẫu biết chắc Xi Vưu đã hạ cấm chế, nàng vẫn cẩn thận thu lại khí tức rồi mới khẽ khàng vén rèm trông ra.
Phần lớn các tộc đều đã được cung nữ đưa xuống núi, chỉ còn Tam đại Thần tộc do Vương Mẫu đích thân đưa tiễn, bấy giờ đang thi lễ cáo biệt trước đại điện.
Vương Mẫu lần lượt từ biệt Thần Nông tộc, Cao Tân tộc, Hiên Viên tộc, các thần đang chuẩn bị lên đường chợt nghe thấy giữa trời vang lên mấy tiếng chim kêu lảnh lót, dường như có người tới gõ cửa, phá vỡ bầu không khí yên tĩnh của Ngọc sơn.
Vương Mẫu tắt hẳn nụ cười. Đã mấy ngàn năm nay, chẳng thần tiên yêu quỷ nào không mời mà dám đến gõ cửa nơi này cả, “Kẻ nào dám tự tiện xông vào cấm địa Ngọc sơn?” Giọng nói uy nghiêm của Vương Mẫu vang lên tận mây xanh rồi lại từ mây xanh dội xuống, ầm ầm rền vang như sấm, chấn động cả đất trời.
Đám nô bộc các tộc chịu không nổi, bưng tai đau đớn lăn lộn dưới đất, bấy giờ mọi người mới thật hiểu sự đáng sợ của Ngọc sơn.
“Vãn bối Cao Tân Thiếu Hạo, mạo muội cầu kiến Ngọc sơn Vương Mẫu.”
Giọng nói trong trẻo như phượng hót vang lên tự nhiên mà êm ái như gió cuốn mây trôi, mưa tưới sen hồng, thoạt nghe ôn hòa nhã nhặn, cả đám nô bộc đang lăn lộn dưới đất bỗng thấy tim đập chậm lại, mọi đau đớn thoắt tan đi hết.
Một ngàn chín trăm năm trước, Thiếu Hạo một mình bức lui mười vạn đại quân Thần Nông, công thành lại rũ áo ra đi, chẳng cậy công, không kiêu ngạo, thế nên bấy nhiêu năm đằng đẵng, dù Nhân tộc chỉ còn mang máng nhớ nhưng cả Thần tộc chẳng ai không biết tới y.
Hai tiếng “Thiếu Hạo” có một ma lực mãnh liệt, cả Ngọc sơn tức thời im phăng phắc, mấy cỗ xe đang lăn bánh trên sườn núi cũng dừng cả lại, ai nấy đều muốn chiêm ngưỡng phong thái của y.
Vương Mẫu hơi dịu giọng, “Ngọc sơn không can dự vào chuyện phân tranh của thế gian, không biết ngươi có chuyện gì đây?”
“Vị hôn thê của vãn bối là Hiên Viên Bạt bị giam tại đây, vãn bối vì nàng mà tới.”
Hai đại tộc Cao Tân và Hiên Viên đặt cạnh nhau quả nhiên uy thế không vừa, khắp trên dưới Ngọc sơn bỗng xôn xao cả lên, người trong Thần tộc ai ai cũng xì xào to nhỏ.
Vương Mẫu cau mày đáp: “Mời vào.”
“Đa tạ.”
Ngón tay Tây Lăng Hành nắm chặt song cửa đến trắng bệch ra, nàng tì người vào cửa sổ, chăm chắm nhìn lên không trung không chớp mắt.
Đương lúc bình minh, mặt trời vừa ló rạng, ánh dương rực rỡ muôn màu bao trùm cả Ngọc sơn, nam tử bạch y[2] cưỡi trên lưng Huyền điểu đen tuyền, từ vầng sáng rạng ngời tỏa ngợp cả bầu không kia băng mây lướt gió bay lại, đáp xuống thềm ngọc ngay trước đại điện.
[2] Ân Thương tự xưng là Tuấn Đế, cũng tức là hậu nhân của Thiếu Hạo. Nhà Thương coi chim là vật tổ, tôn sùng Huyền điểu, coi màu trắng là tôn quý nhất. Theo sách Hoài Nam Tử: “Lễ nghi thời nhà Ân, linh vị thổ thần là đá, thờ cúng môn thần, trước mộ người chết trồng tùng, lễ nhạc dùng cho tế tự là ‘Đại hoạch’ và ‘Thần lộ’, quần áo dùng toàn màu trắng.” Đoạn văn này lý giải tín ngưỡng của người Ân, bởi vậy, trong tác phẩm này Thiếu Hạo mới mặc áo trắng.
Ánh dương lấp loáng chói mắt làm mờ cả gương mặt y, chỉ thấy một tà áo trắng bay bay theo gió.
Y thong dong tiến về phía Vương Mẫu, tay áo bay bay, phong thái thoát tục, ánh mắt tươi tắn lướt qua khắp lượt các vị thần tiên, tựa như chào hỏi tất cả, lại tựa như chẳng nhìn thấy ai cả.
Vương Mẫu chăm chú quan sát Thiếu Hạo, thầm sửng sốt. Người ta thường nói thưởng núi phải lên Bắc, ngắm sông phải xuôi Nam, nước Nam non Bắc là những thắng cảnh khác hẳn nhau, nhưng nam tử trước mặt đây vừa lạnh lùng hờ hững như dải núi phía Bắc gió tuyết liên miên, lại vừa ôn hòa nho nhã tựa dòng nước Giang Nam mênh mông mưa khói, lẽ nào trên đời có kẻ hội đủ thần thái của non cao nước biếc thế này ư?
Thiếu Hạo tới trước mặt Vương Mẫu thi lễ, “Hôm nay vãn bối đến là muốn đón vị hôn thê Hiên Viên Bạt xuống núi.”
Vương Mẫu nén kinh ngạc, cười nhạt, “Hẳn ngươi biết rõ nguyên do ta giam lỏng nàng ta, nếu ngươi muốn đón thì sáu mươi năm nữa hãy tới.”
“Đúng là Hiên Viên Bạt đã sai, mạo phạm tôn nghiêm của Ngọc sơn, nhưng biết đâu nàng ta chỉ ham rong chơi, nửa đêm dạo tới Dao trì, xui xẻo đụng phải chuyện này thì sao? Dám hỏi Vương Mẫu có từng bắt được tang vật chứng minh Hiên Viên Bạt ăn trộm bảo bối hay chưa? Kẻo không một khi sự thật phơi bày, Ngọc sơn đã giam oan Hiên Viên Bạt một trăm hai mươi năm, e rằng khó tránh tổn hại đến uy danh Ngọc sơn!”
Thiếu Hạo nói năng từ tốn nhưng lời lẽ sắc sảo, câu nào câu nấy đều nhằm trúng chỗ hiểm khiến Vương Mẫu nhất thời cứng họng. Chẳng để Vương Mẫu kịp nổi giận, y đã cung kính hành lễ, “Nói sao đi nữa cũng là tại Hiên Viên Bạt đã mạo phạm Ngọc sơn trước, Vương Mẫu phạt nàng ta đương nhiên có lý do. Hôm nay vãn bối tới đây thỉnh tội với Vương Mẫu, tuy vãn bối chưa thành hôn với Hiên Viên Bạt nhưng phu thê đồng thể, cái sai của nàng cũng là cái sai của vãn bối, hơn nữa vãn bối thân là nam nhi lại chưa làm tròn trách nhiệm chăm lo cho thê tử, khiến nàng phải chịu khổ, tội còn nặng hơn một bậc.”
Vương Mẫu nghe y nói đến váng đầu hoa mắt, giận dữ cười nhạt, “À? Ra ngươi muốn ta trừng phạt ngươi chứ gì?”
“Vãn bối chỉ có hai đề nghị.”
“Nói.”
“Xin Người giam vãn bối lại để vãn bối chịu thay Hiên Viên Bạt ba mươi năm.”
“Còn đề nghị kia?”
“Xin Vương Mẫu lập tức thả Hiên Viên Bạt, nếu sau này chứng minh được báu vật đúng là do nàng lấy đi, vãn bối thề sẽ trả nó lại cho chủ cũ, hơn nữa còn làm một việc cho Ngọc sơn vô điều kiện, xem như đền bù.”
Người trong Thần tộc nghe nói đều thầm kinh ngạc, dù báu vật bị mất quý giá đến đâu chăng nữa, chỉ cần một lời thề này của Cao Tân Thiếu Hạo cũng đủ đền bù, hơn nữa chẳng đủ chứng cứ, lại đã trừng phạt sáu mươi năm, Thiếu Hạo còn khẩn khoản nài xin như vậy, Vương Mẫu không chịu thả Hiên Viên Bạt thì quả có phần quá đáng.
Vẻ mặt Vương Mẫu vẫn lạnh băng, “Nếu ta không chấp thuận cả hai thì sao?”
Thiếu Hạo cười đáp, “Vậy vãn bối đành ở lại đây bầu bạn với Hiên Viên Bạt tới khi nào nàng được xuống núi thôi.”
Câu này của Thiếu Hạo rất cung kính nhưng lại ép cho Vương Mẫu không còn đường chọn lựa, nếu không chấp thuận, bà sẽ mang tiếng là con người không thông tình lý. Vương Mẫu giận đến nỗi tay run bần bật, ai chẳng biết Ngọc sơn không chứa chấp nam tử, nếu đổi lại là cao thủ nào khác của Thần tộc, hẳn bà đã đá bay xuống núi từ lâu, nhưng đây lại là Cao Tân Thiếu Hạo, cánh chim hồng vừa xuất hiện đã vang danh suốt ngàn năm nên bà cũng không nắm chắc phần thắng.
Vương Mẫu đưa mắt nhìn xa xăm, yên lặng ngẫm nghĩ. Thiếu Hạo cũng không vội, cứ làm thinh đứng đợi.
Suy tính kỹ càng hồi lâu, Vương Mẫu dịu nét mặt cười nói: “Ngươi nói cũng có lý, nếu Hiên Viên Bạt chỉ vô tình mạo phạm thì giam cầm sáu mươi năm là đủ rồi, còn nếu nàng ta cố ý, sau này ta sẽ tìm tới ngươi đó.” Đoạn bà ngoảnh lại bảo thị nữ, “Mau đi mời Hiên Viên Bạt, nói rằng nàng ta có thể xuống núi được rồi, dặn nàng ta mang theo hành lý đến luôn thể.”
Thiếu Hạo vội mỉm cười thi lễ, “Đa tạ Vương Mẫu.”
Ngồi trong xe, Tây Lăng Hành sững người. Một chuyện ầm ĩ như vậy mà Thiếu Hạo chỉ dăm câu ba điều đã giải quyết ổn thỏa ư? Trước khi Vương Mẫu phát hiện thấy nàng mất tích, nhất định nàng phải thoát khỏi đây mới được.
Nàng vô tình nhìn về phía bóng áo đỏ, nào ngờ Xi Vưu cũng đang chòng chọc nhìn mình, ánh mắt lạnh buốt đầy những kinh ngạc, nghi ngờ, căm giận, thậm chí còn thấp thoáng một tia hy vọng, như mong mỏi nàng lên tiếng thanh minh rằng mình không phải Hiên Viên Bạt mà chỉ là Tây Lăng Hành.
Chẳng hiểu sao lòng Tây Lăng Hành chợt nhói đau, nàng định tìm lời giải thích nhưng mấp máy môi mấy lần đều bất lực, đành hổ thẹn cúi gằm mặt xuống.
Tây Lăng Hành vừa đưa tay toan vén rèm lên thì xoạch một tiếng, sợi dây leo xanh mướt đã kéo sập rèm lại, hai tay nàng bị dây leo quấn chặt, càng cố giằng ra thì càng bị siết chặt hơn, không sao thoát nổi.
Nhưng Tây Lăng Hành nhất định phải thoát khỏi đây trước khi thị nữ quay lại, nàng vừa gắng sức rút tay ra, vừa ngẩng đầu nhìn Xi Vưu cầu khẩn. Mặt Xi Vưu trắng bệch, cả người cứng đờ nhưng vẻ mặt vẫn trơ trơ như gỗ đá, chỉ có đôi mắt chằm chặp nhìn nàng.
Tây Lăng Hành cắn môi gắng rút tay ra nhưng mấy sợi dây leo càng trói càng chặt, thấy thời gian cứ vùn vụt trôi đi, nàng đành nghiến răng lấy chưởng làm đao chặt đứt dây leo, nhảy xuống xe, chạy về phía Thiếu Hạo.
Trông thấy nàng, Thiếu Hạo mỉm cười, vừa rảo bước tiến lại, vừa dịu dàng giới thiệu: “A Hành, ta là Thiếu Hạo.”
Trông thấy Thiếu Hạo xuất chúng ngời ngời, nàng vô cùng mừng rỡ, nhưng dường như trái tim nàng đã bị những sợi dây leo kia quấn chặt, chỉ trong thoáng chốc, lại bị chúng siết cho đau nhói. Nàng vội nói với Thiếu Hạo: “Chúng ta xuống núi thôi.”
“Ừ!” Thiếu Hạo lẹ làng chìa tay ra, nàng thoáng do dự rồi nắm chặt lấy tay y. Thiếu Hạo kéo nàng nhảy lên lưng Huyền điểu, lập tức Huyền điểu vỗ cánh bay lên, y đứng giữa chừng không chắp tay hành lễ cùng Vương Mẫu: “Đa tạ Vương Mẫu giúp đỡ, vãn bối xin cáo từ.”
Huyền điểu dang cánh bay đi, Tây Lăng Hành ngoảnh lại thấy Xi Vưu đang đứng bất động dưới gốc đào hoa rơi lả tả, ngẩng đầu nhìn mình đăm đắm, khóe môi mím chặt, ánh mắt lạnh lùng.
Huyền điểu càng bay càng xa, nhưng tà áo đỏ kia vẫn đứng yên tại chỗ, đỏ đến nhức nhối cả mắt.
Mong rằng Xi Vưu sẽ hiểu cho nỗi khổ tâm của nàng mà đừng oán đừng giận, nhưng nếu hắn không hiểu thì sao? Có lẽ bọn họ chẳng nên dây dưa với nhau nữa, dù sao thì tên thật của nàng cũng là Hiên Viên Bạt.
Chẳng biết bao lâu sau, A Hành mới sực nhớ đến người đang đứng cạnh, cũng là vị hôn phu của nàng, Cao Tân Thiếu Hạo.
Nàng chẳng dám ngẩng lên, chỉ liếc thấy tà áo trắng của y bay phần phật trong gió, khiến nàng rối bời cả ruột gan.
Từ khi hiểu chuyện, nàng đã bao lần băn khoăn không biết Thiếu Hạo dáng vẻ ra sao, mỗi lần thấy thế Tứ ca lại cười cười an ủi nàng, nói tất cả đàn ông trong thiên hạ đều phải tự thẹn vì không bằng Thiếu Hạo. Nghe vậy nàng cứ cho là Tứ ca thổi phồng, mãi đến giờ mới biết, Tứ ca chẳng phóng đại chút nào.
A Hành im lặng, Thiếu Hạo cũng làm thinh.
Bầu không khí yên lặng kéo dài khiến A Hành lúng túng, nàng định cảm ơn y một tiếng, bèn lấy can đảm ngẩng đầu lên, nào ngờ đập vào mắt nàng là một gương mặt nhợt nhạt, còn chưa kịp cất lời, thân mình Thiếu Hạo đã rớt khỏi lưng Huyền điểu mà rơi xuống, Huyền điểu ré lên một tiếng thảm thiết, lập tức nhao theo cứu chủ, A Hành cũng vận linh lực, vô số sợi tơ từ áo nàng bay ra, níu lấy Thiếu Hạo.
Huyền điểu chở hai người đỗ xuống một khe núi không biết tên, A Hành phẩy tay gọt phẳng một phiến đá thành chiếc giường rồi đặt Thiếu Hạo lên đó.
Thiếu Hạo mạch tượng rối loạn, rõ ràng vừa bị thương. A Hành chỉ biết từ từ truyền linh lực của mình cho y để ổn định lại mạch tượng.
Mãi đến chập tối, mạch đập của y bình ổn lại, nàng mới dám thở phào nhẹ nhõm, lau mồ hôi trán.
Hèn chi nàng vừa nói đi là Thiếu Hạo đi ngay, té ra y sợ Vương Mẫu nhận ra mình bị thương. Nhưng trên đời này còn ai đủ bản lĩnh đả thương Thiếu Hạo đây? A Hành lo lắng nghĩ, hay tay ôm lấy chân, tì cằm lên đầu gối, chăm chú nhìn y.
Thiếu Hạo dung mạo thanh nhã, duy chỉ có đôi mày nghiêm nghị như ngọn núi sừng sững vạn thước bên trời Bắc, cô đơn ngạo nghễ, lạnh lẽo thâm trầm.
A Hành chợt nảy dạ tò mò, cặp mắt y phải thế nào mới trấn áp được dải núi nguy nga sừng sững đó nhỉ?
Đúng lúc nàng đang muốn nhìn, Thiếu Hạo bỗng mở bừng mắt, chỉ thấy hai mắt y tựa đôi dòng sông trong veo lặng sóng, sâu thăm thẳm như dải nước xanh ngàn dặm phương Nam, có thần thái tiêu dao của hải âu sải cánh giữa biển mây, vẻ lãng đãng khi ngắm ráng chiều mà nghe trống dồn tiêu vắng, cái êm ái của lông vũ mướt xanh hay của vạt áo mỹ nhân đỏ thắm, giữa muôn trùng sóng nước mênh mang ấy, cả dãy núi chót vót vạn thước kia cũng uyển chuyển mà đắm mình hòa lẫn vào nhau.
Bị Thiếu Hạo bắt quả tang đang ngắm y, A Hành đỏ bừng mặt, vội ngoảnh đầu quay đi.
Thiếu Hạo chẳng màng tới thương thế bản thân, còn quan tâm hỏi: “Làm nàng giật mình ư?”
Tây Lăng Hành khẽ đáp: “Đâu có.”
“Ta gọi nàng là A Hành như mấy vị ca ca nàng được chứ?”
“Vâng.” A Hành ngập ngừng giây lát rồi hỏi, “Ai đả thương chàng thế?”
Thiếu Hạo trở mình ngồi dậy, “Là Thanh Dương.”
A Hành kinh ngạc nhìn y, “Gì cơ? Là Đại ca thiếp ư?”
Thiếu Hạo gượng cười, “Đại ca nàng đánh cuộc với ta, ai thua phải tới Ngọc sơn đón nàng.”
A Hành dở khóc dở cười, té ra màn anh hùng cứu mỹ nhân đó đâu có phải vì người đẹp, hơn nữa chẳng để cho nàng ăn dưa bở, y đã phải vội vã thanh minh ngay.
“Nàng bị giam cầm bao nhiêu năm như thế, có oán trách Đại ca không đoái hoài gì tới mình chăng?”
A Hành làm thinh không đáp, quả thật sáu mươi năm nay, nàng đã vô số lần thầm oán Đại ca.
“Biết nàng bị Vương Mẫu giam lỏng, mẫu hậu nàng giận tím mặt, viết thư nói với phụ vương nàng rằng nếu ngài không phái thuộc hạ đi đón nàng, bà sẽ đích thân lên Ngọc sơn đòi người, Thanh Dương phải giải thích rõ ngọn ngành, còn hứa sau sáu mươi năm nhất định sẽ đưa nàng về, mới xoa dịu được cơn giận của bà.”
A Hành xưa nay cứ ngỡ mẹ mình nghiêm khắc bảo thủ, nào ngờ bà lại nuông chiều nàng đến thế, bất giác cay cay khóe mắt.
Thiếu Hạo cười, “Thanh Dương để nàng ở lại Ngọc sơn sáu mươi năm đâu phải vì sợ Vương Mẫu mà chính vì thương thế của nàng đấy chứ. Lần trước nàng bị thương rất nặng, thủy linh của Quy khư chỉ giữ được mạng chứ không trị dứt được vết thương, ta đã phải cùng Thanh Dương đi khắp nơi lùng tìm linh đan diệu dược, nào ngờ cơ duyên xảo hợp, Vương Mẫu lại giam cầm nàng, Thanh Dương bèn quyết định tát nước theo mưa luôn. Ngọc sơn là thánh địa từ thời thượng cổ, linh khí rất hợp với nữ giới, trên núi lại có đào tiên ngàn tuổi, ngọc tùy vạn năm, vừa khéo điều dưỡng được thân thể của nàng.”
Hóa ra là vậy! Hẳn Xi Vưu cũng vì thế mà sáu mươi năm sau mới tới đón nàng xuống núi. Nghĩ tới đây, nàng sững sờ chẳng thốt nên lời, lòng ngổn ngang trăm mối.
Thiếu Hạo cười nói: “Nếu không vì thế, Tứ ca nàng đâu có chịu khoanh tay ngồi nhìn. Tuy Xương Ý tính nết ôn hòa nhưng rất mực cưng chiều em gái, dù Thanh Dương không ra tay, y cũng tự xoay xở nghĩ cách, chẳng hiểu sẽ gây ra những chuyện gì nữa.”
A Hành nhoẻn miệng cười tươi rói, “Tứ ca hiền lắm, chẳng bao giờ gây chuyện đâu.”
Thiếu Hạo lắc đầu cười, “Nàng chưa thấy Xương Ý nổi giận đấy thôi.”
“Chàng thấy rồi ư? Sao Tứ ca lại nổi giận?” Tây Lăng Hành kinh ngạc hỏi.
Thiếu Hạo đáp quấy quá: “Ta cũng chưa thấy, chỉ nghe nói thôi.”
A Hành hỏi: “Bây giờ Đại ca thiếp đâu?”
Thiếu Hạo cười đắc ý: “Hắn đánh ta bị thương thế này, ta đời nào để yên cho hắn? Hắn bị thương còn nặng hơn ta, chẳng cưỡi nổi tọa kỵ nữa, lại sợ bị phụ vương nàng phát hiện nên lấy cớ đi thăm mẫu hậu, chuồn về núi Hiên Viên dưỡng thương rồi.”
A Hành hỏi: “Chàng bị thương thế này, sao ban sáng còn dám nói cứng với Vương Mẫu thế?”
Ánh mắt Thiếu Hạo lóe lên ranh mãnh, “Việc binh chẳng nề gian trá, mà nói vậy cũng đâu phải là gạt Vương Mẫu! Nếu Vương Mẫu ra tay thật thì ta đánh bài chuồn, dù sao bà ta cũng chẳng thể xuống núi, không bắt được ta đâu!”
A Hành ngớ người ra rồi phá lên cười. Thiếu Hạo vang danh thiên hạ hóa ra lại láu cá thế này ư!
Những ngượng ngùng giữa đôi bên cũng theo tiếng cười mà tan đi cả.
Đương lúc đêm hè tháng Sáu, muôn ngàn ánh sao nhấp nháy trên nền trời đen thăm thẳm như đứa nhỏ mê mải chơi trốn tìm, loài hoa dại không tên nở đầy sơn cốc, bông xanh bông vàng chen nhau, thỉnh thoảng trong rừng vang lên tiếng cú rúc thê lương khiến màn đêm đượm phần rùng rợn, gió đưa hương cỏ cây ngan ngát khắp nơi làm người ta nhẹ nhõm vô cùng.
Thiếu Hạo đứng dậy định giục A Hành lên đường, nào ngờ nàng đã ngước lên khẽ năn nỉ: “Nán ngồi thêm lát nữa hãy đi được không? Sáu mươi năm nay thiếp mới lại được trông thấy quang cảnh này đó.”
Thiếu Hạo không đáp, chỉ lặng thinh ngồi xuống, rút bầu rượu ra vừa ngắm sao vừa uống.
A Hành chun chun mũi ngửi, nhắm nghiền mắt nói: “Đây là Điền tửu đất Điền.”
Bình sinh Thiếu Hạo có ba tuyệt kỹ – rèn sắt, ủ rượu, gảy đàn, thấy A Hành ngửi hương đoán rượu, y liền nhận ra ngay đồng đạo, “Không sai, hơn hai trăm năm trước ta mất bao công sức mới moi được bí quyết này từ một người dân Điền đấy.”
A Hành phụ họa: “Chín mươi năm trước thiếp qua đất Điền, lập tức mê tít rượu ở đó, nán lại cả năm trời vẫn chưa đã thèm, hùng tửu thì nồng đượm, thư tửu thì thanh khiết, uống riêng đã ngon, uống chung càng ngon hơn.”
Thiếu Hạo ngẩn người, ngạc nhiên hỏi: “Hùng tửu? Thư tửu? Sao ta chưa từng nghe rượu cũng chia ra thư hùng[3] nhỉ?”
[3] Hùng, thư: chỉ giống đực và giống cái. (ND)
A Hành cười đáp: “Thiếp tới đất Điền mới hay rượu cũng phân thư hùng đấy. Một cô gái rất giỏi nghề ủ rượu kể với thiếp rằng tổ tiên cô ấy vốn chỉ là một tiều phu đốn củi trong núi, tính mê rượu nhưng nhà nghèo chẳng có tiền mua nên cứ đau đáu nghĩ cách cất rượu từ cây cỏ hoa trái trên núi. Có chí thì nên, một hôm ông ta nằm mơ thấy cách cất rượu, cất được loại rượu ngon, chẳng những đậm đà thơm ngát mà còn bổ thân dưỡng thể. Ông ta dâng rượu lên Điền vương, được Điền vương hết lòng sủng ái. Nào ngờ long ân dồi dào lại khiến cho người ngoài ghen ghét, chúng dùng đủ cách đoạt lấy bí quyết cất rượu nhưng ông ta vẫn giữ kín như bưng. Về sau ông ta gặp một cô bán rượu, cũng rất giỏi nấu rượu, đôi bên kết thành vợ chồng ân ân ái ái, mấy năm sau sinh được một trai một gái. Ông ta tiết lộ cho vợ cách nấu rượu, bà vợ dựa theo đó nấu ra một loại rượu khác, hai loại rượu cùng một xuất xứ nhưng một cương một nhu, một nồng đượm một thanh khiết, vợ chồng họ nhờ rượu mà quen nhau, nhờ rượu mà thành hôn, lại cũng nhờ rượu mà khăng khít bền lâu. Đương lúc họ hạnh phúc vẹn tròn thì có kẻ dâng lên đại vương thứ rượu hệt như của họ nên dần dần họ bị thất sủng, còn bị người ta hãm hại, cả nhà rơi vào hiểm cảnh. Ông chồng nghi ngờ bà vợ phản bội mình, bà ta không sao biện bạch, đành tự vẫn ngay trước vò rượu đang ủ, lấy cái chết tỏ lòng mình, máu biếc bắn đầy lên vò khiến đất vàng bịt miệng vò bị nhuộm đỏ thắm. Hạn dâng rượu lên đại vương đã cận kề, ông ta chẳng kịp ủ vò rượu mới, đành đem vò rượu đó dâng lên, nào ngờ đại vương uống xong vô cùng thích thú, nhờ đó mà bảo toàn được tính mệnh cả nhà, nhưng chẳng ai biết được vợ ông ta có tiết lộ bí quyết hay không nữa. Trải qua chuyện này, ông ta nguội lòng nản chí, bèn ẩn cư nơi hoang dã, cả đời không tục huyền, nhưng cũng không cho phép mai táng vợ trong phần mộ của gia tộc. Lúc thiếp gặp cô gái ủ rượu kia tại một quán rượu nơi thôn dã, câu chuyện đó đã trôi qua cả trăm năm, theo lời cô ấy, trước lúc lâm chung, bà cô ta vẫn khăng khăng với con gái rằng: ‘Không phải mẹ làm đâu.’ Vì bà cô ta, mẹ cô ta đã phải tủi hổ suốt đời trong dòng tộc, bị nhà chồng ruồng rẫy, nhưng vẫn ra sức giữ bí quyết mà mẹ mình truyền lại, bởi bà ta hiểu bí quyết cất rượu chính là kết tinh tâm huyết cả đời của người ủ rượu.”
Thiếu Hạo chăm chú lắng nghe, ánh mắt thoáng vẻ bi ai. A Hành kể tiếp: “Thiếp nghe cô ta thuật lại chuyện đó bèn nảy dạ tò mò, dùng linh lực tra xét khắp nơi, cuối cùng tìm được hậu nhân một nhà khác cũng có bí quyết kia.”
“Nàng tra được chân tướng rồi sao?”
“Quả không phải người đàn bà thông tuệ khéo tay kia tiết lộ, mà là đứa con nhỏ lanh lợi của nhà đó. Lúc vợ chồng họ ủ rượu, cho rằng đứa con nhỏ dại chưa hiểu chuyện nên chẳng hề giấu giếm, nào ngờ thằng nhỏ rất giỏi bắt chước, lại theo nòi cha mẹ, lúc những trẻ khác còn vầy đất nghịch cát, nó đã biết lấy vò lấy lọ đựng cây cỏ học theo cha mẹ cất rượu. Tuy nó chỉ nghịch chơi nhưng lọt vào mắt một tay cất rượu nhà nghề, hắn chỉ cần đào sâu nghiên cứu là tìm ra bí quyết đó ngay. Sau khi bà ta tự vẫn, tuy tay cất rượu kia được vinh hoa phú quý cả đời nhưng lúc nào cũng thấp thỏm không yên, trước lúc lâm chung bèn thuật lại chuyện này cho con cháu.”
Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com
Thiếu Hạo thở dài hỏi: “Về sau thì sao?”
“Cô gái kia cảm kích thiếp giải giúp mối oan bèn tặng lại bí quyết đó cho thiếp, có điều thiếp chỉ biết uống chứ nào biết cất rượu, có cũng vô ích, để thiếp chép cho chàng.”
“Ta không hỏi cái đó, ta hỏi thi hài của người phụ nữ kia cơ? Chẳng phải nàng nói bà ta bị chôn ngoài đồng hoang đấy sao?”
A Hành liếc nhìn Thiếu Hạo, chợt thấy ấm lòng, y mê rượu nhường ấy mà vẫn lo tới người phụ nữ kia, không hề chăm chăm nghĩ tới bí quyết ủ rượu, bèn đáp: “Bọn họ đã tới bái tế trước phần mộ tổ tiên, kể rõ đầu đuôi câu chuyện rồi dời hài cốt bà ta vào phần mộ tổ tiên, kể rõ đầu đuôi câu chuyện rồi dời hài cốt bà ta vào phần mộ dòng họ, tuy nhiên không hợp táng cùng chồng mà chôn bên cạnh con trai con gái mình.”
Thiếu Hạo gật đầu rồi lại dốc bầu tu một hớp, “Chắc đây là hùng tửu?”
“Vâng. Dòng họ đó lấy làm hổ thẹn vì người phụ nữ kia nên không cất thư tửu, bởi vậy chẳng ai hay trên đời từng có một người phụ nữ ủ được thứ rượu ngon tuyệt trần, may mà con gái bà ta vẫn lén giữ lại được bí quyết này. Có điều nếu hiện giờ chàng qua đất Điền, có thể được nếm thư tửu rồi.”
Thiếu Hạo nghiêng bầu rót rượu xuống đất rồi nói với hư không: “Cùng nghề cất rượu, xin được kính cô nương một chén từ xa, cảm tạ cô đã để lại thư tửu đất Điền cho gã tửu khách như ta.” Y lại trao bầu rượu cho A Hành, “Cũng cảm tạ nàng đã để gã tửu khách là ta có cơ hội được nếm rượu của cô ấy.”
A Hành chẳng nề tiểu tiết, mỉm cười nhận lấy, hào sảng ngửa cổ tu một hớp, rồi trả lại cho Thiếu Hạo, “Rượu ngon, có điều ít quá.”
“Nhìn bầu rượu bé thế thôi, bên trong không ít đâu, bảo đảm đủ cho nàng say.”
A Hành liền giật bầu rượu lại, “Vậy thiếp chẳng khách sáo nữa đâu.” Nói rồi nàng tu liền ba ngụm, lim dim mắt rồi từ từ thở ra một hơi, mặt đỏ bừng ngây ngất.
Thiếu Hạo nhìn A Hành, ánh mắt thấp thoáng nét cười, “Tiếc rằng ta đi vội quá, quên đem đàn theo mất rồi.”
A Hành cười nói: “Mượn nhạc bồi rượu dĩ nhiên là thú vị, nhưng thiếp còn biết một cách khác, hay hơn cả đàn sáo nhã nhạc và người đẹp ca múa cơ.”
“Cách gì thế?”
“Kể chuyện. Chàng đã bao giờ vừa nghe chuyện vừa uống rượu chưa? Bôn ba mệt mỏi suốt dặm trường, được ôm bầu rượu ngon ngồi bên đống lửa giữa đồng hoang hay trên thuyền nhỏ cạnh bến sông, vừa uống vừa nghe mấy kẻ qua đường khề khà kể chuyện, bất kể là truyền kỳ ma quái hay là yên hận nhân gian, qua miệng họ đều thành ra vừa hấp dẫn vừa ấm cúng.”
Thiếu Hạo bật cười, chừng như cảm động vì câu nói của A Hành, ánh mắt y chợt trở nên chứa chan hoài niệm, “Hơn hai ngàn năm trước, có lần ta lạc tới tận vùng cực Bắc, ngàn dặm tuyết bay, vạn tầng băng phủ, giá lạnh thấu xương, tối đến trên trời không một đốm sao, dưới đất cũng chẳng thấy ánh đèn, bốn bề tối đen như mực, ta một mình dẫn bước, đột nhiên lòng dâng lên một cảm giác lạ lùng, không phải sợ hãi, mà là… Dường như cả đất trời chỉ còn lại mình ta, tựa hồ gió tuyết sẽ gầm rít mãi chẳng ngừng, con đường này đi hoài đi mãi cũng không tới đích. Đương lúc ta lầm lũi lê bước, chợt trông thấy xa xa thấp thoáng ánh đèn, ta dõi mắt nhìn theo, liền trông thấy…” Thiếu Hạo nhìn A Hành, nuốt lại cái tên đã thốt ra tới miệng, kể tiếp, “Thấy một người thợ săn cáo tuyết đang trú trong căn lều băng được dựng vội vàng, vừa sưởi ấm vừa uống rượu. Được anh ta mời, ta liền bước vào ngồi xuống bên đống lửa, cùng anh ta uống thứ rượu dở tệ, nghe anh ta kể chuyện đi săn. Về sau mỗi khi ai đó hỏi ta thấy thứ rượu nào ngon nhất, chẳng hiểu sao ta đều nhớ tới bữa rượu đêm ấy.”
A Hành cười nói: “Chuyện của chàng hay đấy, đáng để chúng ta cạn ba chung lớn.” Nàng uống liền ba hớp rồi lại đưa bầu rượu cho Thiếu Hạo.
Tới lượt A Hành kể chuyện: “Năm đó, ta xuống núi chơi…”
Dưới trời sao lấp lánh, Thiếu Hạo và A Hành sánh vai ngồi trên phiến đá, người này một ngụm, người kia một hớp, cùng thưởng thức hùng tửu đất Điền nồng đượm, kể cho nhau nghe hết chuyện này sang chuyện khác, Thiếu Hạo từng trải lịch lãm, A Hành tinh tế thông minh, đôi bên khi cười nói, lúc lại làm thinh ngắm sao trời, chớp mắt đã qua một đêm.
Khi ánh bình minh rọi vào mắt hai người, A Hành nhoẻn miệng cười với tia nắng đầu ngày mỏng tựa cánh ve, thật khó tin rằng nàng lại cùng Thiếu Hạo chuyện gẫu thâu đêm, nhưng thực tình nàng thấy vui vẻ sáng khoái vô cùng. Bao năm nay, A Hành đã đặt bao kỳ vọng cùng âu lo vào hai chữ Thiếu Hạo, hơn nữa còn giấu kín không cho người khác biết, mỗi khi có ai nhắc tới nàng đều ra vẻ không màng, vậy mà sao bao nhiêu năm, hết thảy âu lo kỳ vọng ấy cuối cùng hóa thành một nỗi êm đềm từ sâu thẳm đáy lòng.
Khác với nàng, giữa ánh nắng đầu ngày rực rỡ, cặp mắt Thiếu Hạo bỗng trầm xuống như vừa tỉnh mộng, nét cười trong mắt tắt lịm, nhưng khóe miệng lại tươi cười.
Y mỉm cười đứng dậy, “Chúng ta lên đường thôi.”
A Hành chăm chú nhìn y, cảm thấy con người này khác hẳn nam tử cùng mình uống rượu chuyện trò đêm trước. Thiếu Hạo đêm qua hệt như kẻ hiệp khách ngang tàng, ngẫu nhiên gặp gỡ bên bờ dương liễu, có thể cùng chuốc chén, nói cười, thù tạc, nhưng sáng nay dưới ánh mặt trời, y lại giống bậc vương giả cô đơn sải bước trên con đường trước điện, đầy ẩn nhẫn, lạnh lùng và thâm trầm.
Nàng đành lặng lẽ theo sau y, đang định đặt chân lên lưng Huyền điểu, bỗng Thiếu Hạo ngước nhìn lên vách núi, cao giọng nói: “Các hạ quanh quẩn ở đó cả nửa đêm không đi, dám hỏi có chuyện gì đây?”
Là Xi Vưu ư? Tim nàng nhảy thót lên tới cổ họng, vội rảo bước chen lên trước, nào ngờ kẻ từ trong núi đi ra lại là Vân Tang.
A Hành kinh ngạc hỏi: “Sao tỷ lại ở đây?”
Vân Tang cười đáp: “Ta có mấy câu muốn hỏi Thiếu Hạo điện hạ, ai ngờ mải nghe hai người trò chuyện, chẳng nỡ nào quấy nhiễu.”
Thấy Thiếu Hạo nghi hoặc nhìn mình, A Hành vội giới thiệu: “Vị này là Đại vương cơ Vân Tang của Thần Nông.”
Thiếu Hạo tươi cười hành lễ, “Chẳng hay vương cơ muốn hỏi chuyện gì?”
Vân Tang đáp lễ nhưng do dự mãi chẳng thốt nên lời, dáng vẻ vô cùng bối rối. Thấy vậy, Thiếu Hạo động viên, “Vương cơ yên tâm, chuyện này nàng nói ta nghe, rời khỏi đây ta sẽ quên đi ngay.”
Vân Tang vội đáp, “Phụ vương rất hiếm khi khen ngợi ai, nhưng lại hết lời ca tụng điện hạ cùng Thanh Dương. Không phải tôi không tin điện hạ, chỉ là chuyện này nói ra quả có chút thất lễ.”
“Xin vương cơ cứ nói.”
“Trên Ngọc sơn, tôi có nghe nói điện hạ đã giam cầm Nặc Nại, chẳng rõ vì nguyên cớ gì? Nếu liên quan tới quốc sự Cao Tân thì xem như tôi chưa hỏi, nhưng nếu là việc riêng thì xin điện hạ cho tôi hay, biết đâu bên trong có chút hiểu lầm mà tôi giải quyết được chăng?”
Thiếu Hạo liền đáp: “Thật không dám giấu, quả là việc riêng.”
“A…” A Hành kinh ngạc bưng miệng nhìn Vân Tang rồi lại nhìn sang Thiếu Hạo. Lẽ nào y đã biết “vương cơ Hiên Viên” cùng Nặc Nại…
Thiếu Hạo nói tiếp: “Ta và Nặc Nại quen nhau từ nhỏ. Dù Cao Tân lễ giáo nghiêm ngặt nhưng y dung mạo tuấn tú, khó ngăn được các cô nương trẻ trung nhiệt tình đem lòng ngưỡng mộ, có điều y vẫn giữ đúng phép tắc, chưa từng vượt qua quy củ. Chẳng hiểu sao mấy năm gần đây lại thay đổi tâm tính, phong lưu đa tình, gây ra không ít điều tiếng. Tình cảm nam nữ là việc riêng tư, đáng ra chẳng nên hỏi tới, nhưng nghĩ tình thân thiết nên thường cũng bóng gió nhắc nhở, khuyên nhủ đôi câu, tiếc rằng càng nói y càng phóng túng hơn. Nặc Nại xuất thân từ Hy Hòa bộ, một trong Cao Tân tứ bộ[4], rất nhiều nhà quyền quý muốn gả con gái cho y, ấy vậy mà trong một lần say rượu, y lại hồ đồ đáp ứng việc chung thân.”
[4] Theo sách vở ghi lại thì bộ tộc của Thiếu Hạo chia ra làm bốn bộ: bộ Thanh Dương, bộ Hy Hòa, bộ Bạch Hổ, bộ Thường Hy, trong sách này đổi bộ Thanh Dương thành bộ Thanh Long, nguyên do thì sau này sẽ rõ.
“Gì cơ? Y đã đính ước rồi ư?” Sắc mặt Vân Tang thoắt chốc tái nhợt.
“Đâu chỉ là đính ước, mà còn sắp tới ngày cưới nữa kia. Nghe nói vương cơ học rộng hiểu nhiều, hẳn cũng biết quy củ hôn phối của Cao Tân rất nghiêm ngặt, tuy Nặc Nại say rượu hứa bừa nhưng hôn nhân đại sự chẳng phải chuyện chơi, y không thể nuốt lời được. Bởi thế hằng ngày y cứ vùi đầu trong rượu, say tràn cung mây, mặc cho người ta sắp xếp, thậm chí còn lè nhè cười khuyên ta nên sớm thành thân, dặn ta nhớ chăm lo cho thê tử thật tốt, có điều ta thấy thực lòng y không muốn cưới đối phương, đành phải gán đại cho y một tội danh, đem nhốt vào thiên lao, ít ra cũng hoãn được hôn sự của y lại.”
Ánh mắt Vân Tang lộ rõ vẻ hoảng hốt, vội gượng gạo hỏi: “Cô gái đó là ai vậy?”
“Chuyện liên quan tới danh dự của cô ấy, càng ít người hay càng tốt nên không tiện nói rõ, mong vương cơ bỏ quá cho.”
A Hành tức tối hỏi: “Sao lại thế được? Nặc Nại hồ đồ, lẽ nào gia đình kia cũng hồ đồ nốt, coi lời nói lúc say của y là thật ư? Vân Tang tỷ tỷ, chúng ta đi Cao Tân nói rõ với bọn họ!”
Thiếu Hạo liếc A Hành, làm thinh không nói. Vân Tang gượng cười, nhưng nhìn còn thảm hơn cả khóc, “Đâu có hồ đồ, gia đình họ quá khôn ngoan ấy chứ! Nặc Nại là tướng quân của Hy Hòa bộ mà họ cũng dám ‘bức hôn’, e rằng cô gái kia lai lịch chẳng phải tầm thường, không ở Thường Hy bộ thì ở Bạch Hổ bộ.” Nàng lại quay sang bảo Thiếu Hạo: “Điện hạ trì hoãn hôn sự, hẳn không chỉ vì nhận thấy y không muốn thành thân.”
Thiếu Hạo mỉm cười, cũng không phủ nhận, “Xưa nay nghe đồn Đại vương cơ Thần Nông huệ chất lan tâm, thông minh cao khiết, quả nhiên danh bất hư truyền.”
“Điện hạ có nắm chắc không?”
“Lễ giáo quy củ của Cao Tân tích lũy từ cả vạn năm nay, quả thực ta chẳng lấy gì làm chắc cả, đành được đến đâu hay đến đó mà thôi.”
“Hai người nói gì thế?” A Hành nghe cả hai nói chuyện cứ như vịt nghe sấm.
Vân Tang từ biệt Thiếu Hạo, gọi tọa kỵ Bạch Thước[5] của mình tới, đoạn mỉm cười kéo tay A Hành, quay sang nói với Thiếu Hạo: “Tôi có chút chuyện riêng muốn nói với vương cơ.”
[5] Bạch Thước, thời cổ còn gọi là bạch vũ thước (chim khách lông trắng), là loài chim lành, dáng vẻ đẹp đẽ, tính tình cao khiết, lông trắng muốt như tuyết.
Thiếu Hạo khoát tay tỏ ý cứ tự nhiên rồi chủ động lánh đi.
Còn lại hai người, Vân Tang dặn A Hành: “Muội đừng lo cho tỷ, chừng nào về Triêu Vân phong, nhớ thay tỷ hỏi thăm vương hậu nương nương.”
“Tỷ tỷ…” A Hành lo lắng nhìn nàng.
Từ nhỏ Vân Tang đã quen làm vẻ thản nhiên để che giấu nỗi buồn thương nên dù đau khổ thắt lòng, nàng vẫn bình tĩnh cười nói: “Ta không sao thật mà.” Nói rồi, nàng lại nhìn bóng Thiếu Hạo đằng xa, nói nhỏ: “Đừng cho Thiếu Hạo biết chuyện của ta và Nặc Nại nhé.”
“Sao thế tỷ? Muội sợ Thiếu Hạo…”
“Không đâu, Thiếu Hạo rất tốt, tốt vô cùng, có điều ta e rằng y quá tốt với muội thì phải! Muội nên để ý mọi chuyện một chút, câu gì có thể không nói thì đừng nói ra. Phải nhớ rằng sống trong vương tộc, rất nhiều chuyện thoạt nhìn có vẻ đơn giản, thật ra chẳng đơn giản chút nào đâu.”
A Hành nghe hiểu láng máng, thoáng ngẩn người ra rồi khẽ hỏi: “Tỷ tỷ, Xi Vưu đã về Thần Nông chưa?”
“Ta không biết. Lúc ấy ta canh cánh chuyện kia trong lòng nên cũng chẳng lưu ý, muội hỏi ta mới nhớ, tính nết Xi Vưu xưa nay nói dễ nghe thì là lãnh đạm, nói khó nghe thì là tàn nhẫn, chẳng màng tới chuyện gì, vậy mà hôm qua đột nhiên lại hỏi ta đủ chuyện về muội và Thiếu Hạo, nào là đính ước khi nào, tình cảm ra sao…” Vân Tang chăm chú nhìn A Hành, “Giờ đến lượt muội hỏi thăm hắn, không lẽ muội và hắn… có chuyện gì à? Ta còn không biết hai người quen nhau từ bao giờ nữa đó.”
A Hành thở dài, “Nói ra thì dài lắm, trước đâu giấu giếm là vì sợ tỷ phạt hắn đấy thôi. Sau này từ từ muội sẽ kể với tỷ.”
“Ta phạt hắn ư?” Vân Tang hừ một tiếng, cười khổ: “Tính hắn như thế, trời không ràng đất không buộc nổi, ai mà dám chọc vào? Hắn đừng làm phiền tới ta là ta đã tạ trời tạ đất rồi.” Dứt lời, Vân Tang bước lên lưng Bạch Tước, “Ta đi đây, ngày sau sẽ khảo tiếp chuyện của muội cùng tên ma đầu kia, nhưng ta nói muội nghe, gã Xi Vưu ấy không trêu vào được đâu, tốt nhất muội nên tránh xa hắn ra.” Nàng cười với A Hành rồi tha thướt bay lên.
“A Hành, chúng ta cũng lên đường thôi.” Thiếu Hạo tươi cười chìa tay mời nàng ngồi lên lưng Huyền điểu, nhưng nụ cười ôn hòa mà khách sáo ấy lại khiến nàng thấy xa cách vô cùng, tựa vầng trăng trên trời vậy, dù sáng tới đâu cũng chẳng có nổi chút hơi ấm. A Hành bắt đầu cảm thấy mọi chuyện tối qua như một giấc mơ, Thiếu Hạo cùng nàng uống chung bầu rượu, nói cười tán gẫu thâu đêm dưới trời sao lấp lánh hình như cũng chỉ là tưởng tượng của nàng thôi.
Dọc đường, cả hai đều yên lặng, mãi tới rạng sáng, khi về đến Hiên Viên sơn, Thiếu Hạo mới quay sang nói với nàng: “Ta chẳng có việc gì cầu kiến nên không tiện lên núi, chỉ đưa được nàng tới đây thôi.”
A Hành khẽ đáp: “Đa tạ chàng.”
Thiếu Hạo cười: “Cảm ơn nàng đã tặng ta bí quyết ủ rượu, lần sau có dịp, ta sẽ mời nàng uống thư tửu ta tự cất.” Nói rồi y ngẩng đầu nhìn lên núi: “Người hầu tới đón nàng rồi kìa, gặp lại sau nhé.” Vừa nói, y vừa cưỡi Huyền điểu bay vút đi.
Xe mây đã đỗ xuống bên cạnh, đám thị nữ quỳ xuống mời vương cơ lên xe.
A Hành cứ ngơ ngẩn như không nghe thấy, ngẩng đầu đăm đắm trông theo tà áo trắng càng lúc càng bay xa giữa ánh tà dương đỏ rực, dần dần chỉ còn lại một đốm trắng, rồi đốm trắng đó cũng tan vào ráng chiều rực rỡ, nhưng phong thái tựa nước Nam non Bắc của y vẫn như còn rành rành trước mắt nàng.
Full | Lùi trang 2 | Tiếp trang 4
Chúc các bạn online vui vẻ !