Lamborghini Huracán LP 610-4 t
Tiểu thuyết tình yêu

Tiểu Thuyết Tình Yêu

Đọc truyện tại Tiểu Thuyết Tình Yêu

Loading...

Truyện ngôn tình - Thành phố hoang vắng - trang 8

Full | Lùi trang 7 | Tiếp trang 9

Chương 29

Ra khỏi quán cà phê, Thái Hồng thất thểu bước đi trên phố. Cô suy nghĩ về tình bạn giữa mình và Lợi Lợi, càng nghĩ càng thấy rối như tơ vò. Sau vụ Ngụy Triết, cô luôn tận hưởng một cảm giác ưu việt về mặt đạo đức những tưởng rằng mình tha thứ cho Lợi Lợi, còn không câu nệ chuyện xưa mà tiếp tục giữ mối quan hệ qua lại với cô ấy, tưởng rằng mình thật là cao thượng. Giờ đây, rốt cuộc là ai làm tổn thương ai? Rốt cuộc là ai không câu nệ chuyện xưa? Và rốt cuộc, ai mới là người coi trọng tình bạn? Tất cả đều không thể nói rõ được!

Càng hoang đường hơn nữa là, xét theo toàn bộ sự việc, dường như từ đầu chí cuối chỉ có hai cao thủ Lý Minh Châu và Lợi Lợi so chiêu với nhau, chuyện ai thắng ai thua đều chẳng liên quan gì đến Thái Hồng.

Thù mới hận cũ như những đường ống ngầm dưới lòng thành phố này, được che lấp sâu bên dưới, đến là lộn xộn, rối rắm. Dù lộ ra hay che lại thì nó vẫn lộn xộn, rối rắm khiến người ta chẳng thể nào hiểu được. Thái Hồng ngẩn ngơ lang thang trên phố, đi mãi, bước chân bất giác đưa cô đến trước cung thiếu niên.

Nhìn đồng hồ, giờ này chắc Quý Hoàng đang dạy yoga trong cung thiếu niên. Anh đã tìm một giáo viên khác đứng lớp thay để đến nhà cô ăn tối, ai dè nhanh như thế đã bị “tiễn ra cửa”, chắc anh lại đến đây dạy rồi. Cô vào trong hỏi, quả nhiên có anh trong đó.

Cô tìm một chiếc ghế ngồi xuống bên cạnh cửa, xuyên qua lớp kính, từ xa trông thấy Quý Hoàng đang làm động tác mẫu với vẻ nghiêm túc và chăm chú. Trong những cử động uyển chuyển, nhịp nhàng ấy, dường như có một sức mạnh vô hình truyền về phía cô, khiến cô bình tâm trở lại. Dần dần, lòng cô đã hết rối bời, cô bắt đầu ngây người ra trên ghế.

Có lẽ đã thấm mệt vì đi nhiều, cũng có lẽ lòng đã quá muộn phiền, cô tựa người vào lưng ghế, mơ màng ngủ thiếp đi. Một hồi lâu sau, cô cảm thấy có một bàn tay khẽ xoa đầu mình. Cô mở mắt ra, nghe tiếng Quý Hoàng hỏi: “Thái Hồng, sao em lại đến đây?”

“Không có chuyện gì, em ra ngoài đi dạo, loanh quanh rồi đến đây, tiện ghé vào thăm anh một lát.” Cô ngáp một cái rõ dài, giơ chiếc túi ra. “Em có mua dâu cho anh, đã rửa sạch rồi, anh ăn không?”

Toàn thân vã mồ hôi, anh ngồi xuống, không khách khí cầm lấy ăn.

“Đói vậy sao?” Lần đầu thấy anh ngấu nghiến ăn, Thái Hồng cảm thấy xót xa. “Nhất định là do những lời nói chua ngoa của mẹ em, hại anh đến cơm tối cũng ăn không ngon.”

“Không phải vậy đâu.” Anh nói. “Em tin không? Đây là lần đầu anh được ăn dâu, đúng là rất ngon.”

Cô ngẩn người, sửng sốt: “Không phải chứ? Dưới quê anh không bán dâu sao?” Dù ở dưới quê không có, thì ở thành phố nơi anh học đại học chắc chắn có bán chứ? Ngay sau đó cô liền hiểu ra. Dâu rất đắt tiền, cũng có thể coi là thứ xa xỉ trong các loại trái cây, nhà Thái Hồng cũng hiếm khi mới mua về ăn, gia cảnh nghèo khó như Quý Hoàng thì lại càng không thể mua. Ý nghĩ này vừa thoáng qua trong đầu, cô liền cảm thấy mình cứ chăm chăm vào chuyện này thì thật là ngốc nghếch quá.

May là Quý Hoàng không để tâm, anh nhanh chóng chuyển sang đề tài khác: “Anh ăn táo nhiều hơn. Đúng rồi, bộ sách lần trước nhà sách bảo hết hàng hôm nay có rồi”, anh nói. “Anh đã mua cho em một bộ.”

“Bộ nào? Của Bakhtin hay là Sigmund Freud?”

“Bakhtin toàn tập.”

“Em chỉ cần quyển Những vấn đề thi pháp Doctoyevsky”, cô le lưỡi làm mặt quỷ. “Những quyển còn lại anh cứ giữ cho mình đi nhé!”

“Anh mua những hai bộ. Nhà sách có nói sách học thuật bán không chạy nên họ chỉ nhập về có hai bộ thôi.”

“Bao nhiêu tiền?”

“Hơn hai trăm tệ một bộ, tổng cộng có sáu quyển. Đừng lo lắng chuyện tiền bạc, anh tặng em mà.”

“Anh xem anh kìa, cứ nói đến mua sách là hào phóng dễ sợ.” Thái Hồng thở dài.

“Ai bảo cô Hà phải thi tiến sĩ nào? Bakhtin hơi khó, em phải từ từ đọc nó, chỗ nào không hiểu thì ghi ra.”

“Anh có ghi chép sách của ông ấy không?”

“Đương nhiên là có. Những quyển sách hay anh đều ghi chép lại hết, gom góp từ trước đến giờ cũng được mấy nghìn trang rồi ấy chứ!”

“Thế thì anh cho em mượn đi.” Cô ngang ngược bảo. “Em muốn xem tất cả!”

“Đương nhiên là được. Nhưng mà những thứ mà anh “gặm” qua không có ích với em lắm. Sách em phải tự mình đọc và ghi chép thì tốt hơn. Chuyện học vấn người khác không thể nào làm thay em, huống chi anh và em đâu có chung một phương hướng nghiên cứu.”

Vừa nhắc đến chuyện ghi chép, Thái Hồng liền cảm thấy mình kinh nghiệm đầy mình, có đủ lý do để phê bình anh chuyện này: “Này, giờ là thời đại nào rồi mà anh còn ở đó ghi ghi chép chép lên quyển sổ dày như cục gạch đó? Anh biết không, có một loại phần mềm cao cấp có thể tự động phân biệt chữ trên các ấn phẩm, đến cả giọng anh cũng có thể phân biệt được, hoàn toàn thay thế cho cách ghi chép thủ công, hơn nữa còn có thể tự động làm mục lục và tra cứu, tìm kiếm. Nói cách khác, nghiên cứu và học vấn bây giờ đã chuyển sang số hóa lâu rồi, còn ai chép từng chữ, từng chữ một lên giấy giống anh chứ? Những kho sách điện tử trên mạng đầy ra ấy, muốn tra gì chứ việc lên google là có tất… Quý Hoàng à, anh thừa nhận đi, kỹ thuật anh lỗi thời lắm rồi!”

“Anh thích chép tay đấy, anh không thích nhờ máy tính ghi nhớ và suy nghĩ thay anh.”

“Từ chối đi cùng thời đại?”

“Cũng không phải. Internet có vấn đề của internet, và trong số đó có những vấn đề tương đối nghiêm trọng đối với các học giả, không biết em đã từng nghĩ đến chưa?”

“Chưa hề nghĩ đến. Anh xem em gửi một bức e-mail, chỉ một giây là được rồi. Đấy, giống thế này này, ding doong! You got a mail. Cái này gọi là hiệu suất công việc, lại tiết kiệm giấy và bảo vệ môi trường.”

“Thứ nhất, tài liệu có được quá dễ dàng, nhưng thực ra em không nghiêm túc nghiên cứu đầu đuôi của vấn đề, cho nên em không có được những ý thức từ việc trải nghiệm mà các lão tiền bối tích lũy được thông qua việc đọc sách theo kiểu trải thảm. Thứ hai, thời gian của em sẽ bị các liên kết phân cắt ra thành những mảnh vụn vặt, khó mà tập trung suy nghĩ sâu xa về một thứ. Cho nên anh không tán thành việc tốn quá nhiều thời gian cho internet.”

“Thôi thì nói toạc ra rằng, anh hoàn toàn không tán thành việc dùng máy tính.”

“… Cũng gần gần như vậy.” Anh thừa nhận.

“Có lẽ đây là phương hướng phát triển mới, tạm thời đặt tên là chủ nghĩa “tân điền viên”?” Cô nháy nháy mắt.

“Cũng có thể gọi là chủ nghĩa hậu internet.” Anh thêm vào một câu.

Cô bật cười to.

Được trò chuyện vui vẻ với sự dí dỏm của Quý Hoàng, tậm trạng Thái Hồng cuối cùng trở nên nhẹ nhõm hẳn. Cô đứng dậy, kéo anh: “Thế thì chúng ta mau ra ngoài nào. Đi, hôm nay trong lòng em bực bội suốt, đi xem phim nào!”

Hai người cười nói vui vẻ, tay trong tay đi đến rạp chiếu phim, xem một bộ phim hành động hài của Châu Tinh Trì. Khi vào rạp, cô chỉnh lại âm lượng của di động, bỗng phát hiện trên đó có đến hai mươi ba cuộc gọi nhỡ, đều là số điện thoại nhà cô.

Thấy hai mắt cô nhìn chăm chăm vào màn hình điện thoại, Quý Hoàng hỏi: “Em có cuộc gọi nhỡ à?”

Thái Hồng mỉm cười, nhét di động vào ví tiền: “Không có.”

Hai người tản bộ trên con đường quen thuộc, mãi đến tận cánh cổng nhà Thái Hồng, hai người mới bịn rịn tạm biệt nhau. Thấy tâm trạng Thái Hồng không tốt, suốt cả đoạn đường đi người kiệm lời như Quý Hoàng cũng kiếm chuyện để chọc cô vui, những chuyện thú vị trong ký túc xá nam, chuyện đó đây của các học giả nước ngoài, những luận điểm quái gở trong nghiên cứu học thuật… nói hết chuyện này đến chuyện khác, thao thao bất tuyệt. Nếu là bình thường thì Thái Hồng chắc chắn đã bò lăn ra mà cười rồi, nhưng càng về đến gần nhà, cô càng không cười nổi. Quý Hoàng vừa về, cô cất bước lên lầu, nghĩ đến bóng dáng của Minh Châu, tâm trạng cô bất chợt nặng nề hơn.

Đẩy cửa bước vào nhà, quả không sai, Lý Minh Châu đang ngồi đan áo len trên sofa, mặt sầm lại.

Thời đại bây giờ đã không còn thịnh áo len đan tay nữa. Từ lúc vào đại học Thái Hồng không mấy khi mặc nó, những khi cần thì vào cửa hàng mua, và đương nhiên mọi thứ đều do một tay Minh Châu lo liệu. Với con mắt của mình, Minh Châu không hề dễ dãi khi mua đồ, nhưng món nào bà vừa ý thì chắc chắn là hàng có chất lượng thượng hạng, kiểu dáng mới mẻ, hơn nữa sẽ giảm giá vào mùa sau. Cho nên áo len của Thái Hồng không nhiều, nhưng cái nào cái nấy đáng giá đồng tiền bát gạo. Bản thân Minh Châu thì lại tiếc tiền mua cho mình nên tất cả quần, áo len, bao gồm cả của Hà Đại Lộ đều do bà tự tay đan. Sợi len cũ rồi tháo ra giặt một lần, xong đặt ở ban công phơi nắng, rồi đan lại thành quần áo, vừa ấm áp lại bồng bềnh.

“Về rồi đấy à?” Lý Minh Châu hỏi.

“Dạ!” Thái Hồng lặng lẽ cởi áo khoác, chuẩn bị đi vào trong phòng.

“Mẹ có hầm canh đuôi bò cho con đấy, mau uống đi cho nóng.” Lý Minh Châu đặt que đan xuống, đi vào bếp múc một bát canh đặt lên bàn.

Cô đành ngồi xuống bưng bát canh lên, khẽ thổi cho nguội bớt.

“Đi đâu, làm gì mà đến tận giờ này mới về? Gọi điện thoại cũng chẳng bắt máy lấy một lần?” Lý Minh Châu hỏi.

“Con đi xem phim với bạn.”

“Lại với gã Quý Hoàng đó?”

“Dạ.” Thái Hồng đặt bát xuống, nghe giọng mình khẽ run rẩy: “Con thích ở cạnh anh ấy.”

Sự im lặng bỗng bao trùm.

Một hồi sau, Lý Minh Châu thở dài: “Thái Hồng, cả đời này mẹ sống nghèo khổ nên cũng quen rồi, nửa đời sau dựa vào bảo hiểm lao động, tằn tiện chi tiêu cũng đủ sống qua ngày. Tục ngữ nói, con cháu tự có phúc của con cháu, số mẹ trước giờ không tốt cũng không dám mơ mộng gì quá cao xa. Mẹ không phải ích kỷ vì bản thân mình, nếu con có được tấm chồng tốt, dù mỗi ngày chỉ ăn dưa cải mẹ cũng vui lòng. Nhưng mà gã Quý Hoàng này, mẹ thực sự không cam tâm! Hai mươi mấy năm nay, mẹ vất vả trăm phương ngàn kế nuôi dưỡng con, con cũng giỏi giang tìm được một công việc tốt, học vấn cao, vẻ ngoài xinh đẹp, tính thêm ông ngoại con vào, gia thế nhà mình cũng không kém cạnh ai. Con có điều kiện như thế thì lo gì không tìm được tấm chồng tốt, lại đi tìm một người xuất thân từ mỏ than ở cái huyện nhỏ kia chứ? Không có nền tảng kinh tế chẳng nói làm gì, đằng này còn phải gánh vác một đống gánh nặng trên vai. Con thế này không phải tự mua dây buộc vào người rồi sao? Gã Quý Hoàng này, đừng thấy vẻ ngoài của hắn nhã nhặn, lịch sự, mẹ thấy hắn cũng chẳng khác Hạ Phong bao nhiêu, chỉ e còn hung dữ hơn cậu ta nữa kia. Loại người này bề ngoài trung thực nhưng bên trong phong kiến, gia trưởng hơn bất kỳ ai! Sau này trông chờ hắn ta thương yêu con, đừng có hòng! Con xem, lần này thì hay rồi, cuộc đời mẹ và con tuy không xuất phát từ cùng một điểm, nhưng lại cùng chạy đến một điểm đích, nửa đời người chui rúc trong căn nhà chật chội, một xu tiền phải cố bẻ làm đôi để tiêu xài. Nếu con lấy Quý Hoàng, chỉ sợ ngay đến một căn nhà chật chội cũng chẳng có mà ở. Nếu biết sớm, từ nhỏ mẹ đã nuôi con như một đứa bé nhà nghèo, năm giờ sáng bắt dậy nhóm lửa nấu cơm, lúc nào không vui thì đánh con một trận. Còn con, chịu khổ quen rồi sẽ không cảm thấy bị đau khổ giày vò, bị đánh quen rồi nên cũng quên cái gì gọi là đau… Thái Hồng, mẹ hiểu con, con chẳng qua là muốn tìm một người có chung sở thích để có thể trò chuyện vui vẻ với nhau, đúng không? Con trai kiểu như thế có nhiều mà. Ban nãy mẹ gọi điện cho dì Tạ của con, khéo sao dì ấy đang có một người như thế, là giảng viên khoa tiếng Pháp của một trường đại học, là tiến sĩ du học về nước. Cha mẹ là giáo sư Tâm lý học. Gia cảnh tốt, đạo đức, văn hóa tốt, và may mắn là cha mẹ thuộc hàng trí thức tiến bộ, lại am hiểu tâm lý học… phú quý chúng ta không có phúc, cũng chẳng dám với cao, phù hợp nhất vẫn là gia đình trí thức, hiểu lễ nghĩa. Mẹ vừa nói với dì Tạ là dì ấy hài lòng lắm, gọi điện ngay cho nhà bên kia, họ tỏ ý chấp nhận hẹn gặp mặt một lần, hẹn uống cà phê vào bảy giờ tối thứ Bảy tuần này…”

Những lời lẽ thực dụng thế kia chính là thứ mà chủ nghĩa nữ quyền cần phản đối nhất! Thái Hồng cảm thấy mẹ mình vì xem ti vi quá nhiều, suốt ngày nghe những lời tán gẫu nên mê muội đầu óc rồi. Cô liền bực bội cướp lời bà: “Con không đi, con không thích. Mẹ thích thì mẹ tự đi đi! Con tìm bạn trai của con, mẹ tìm con rể của mẹ. Tìm được ai vừa ý rồi thì mẹ cứ việc sinh thêm đứa con gái gả cho hắn…”

Chưa kịp dứt lời, một tiếng “bốp” vang lên, cô lãnh một cú tát đau điếng.

“Con dám báo đáp cha mẹ thế đấy hả!” Lý Minh Châu giận sôi máu, ném phịch cái áo len xuống sàn, hằn học giậm mạnh vài cái. “Mẹ vất vả, cực nhọc nuôi con từ lúc còn bé đến nay đã hơn hai mươi năm, cha mẹ làm trâu làm ngựa cho con, chỉ thiếu điều cắt tim gan dâng cho con, là vì cái gì? Là để con lông cánh cứng cáp rồi quay lại báo đáp cha mẹ như thế sao? Con nói xem, cha mẹ có chỗ nào không phải với con? Tiền lương của cha mẹ có đồng nào mà không chi tiêu cho con chứ? Nhà thì rách nát, tồi tàn, cho con mặc thì toàn gấm vóc lụa là, ăn những thứ rau muối chấm tương để cho con ăn sơn hào hải vị. Cuối cùng cha mẹ được hưởng phúc gì từ con hả? Thái Hồng! Con căng mắt ra nhìn lại cái nhà này, rồi xem lại chính con đi, con chẳng phải là một chim phượng hoàng sống trong ổ gà đó sao? Không có mẹ đỡ đần, con nghiên cứu được cái quái gì về chủ nghĩa nữ quyền cơ chứ! Có giỏi thì con thử thay đổi tình trạng của cái nhà này xem, đừng có mà tốn công tốn sức gây gổ với cha mẹ để người dưng nước lã lợi dụng, cuối cùng lại khóc lóc ỉ ôi chạy về nhà mẹ than khóc kể khổ. Đến khi con trở thành Hàn Thanh, bị thượng cẳng chân hạ cẳng tay, mẹ cũng chẳng bảo vệ được con đâu. Đúng là ngốc nghếch, càng học nhiều càng ngốc mà!”

Mặt Thái Hồng đau rát, vừa thẹn vừa giận, cô ngoảnh đầu chạy vào phòng mình, đóng cửa cái “rầm”. Trong bóng tối, cô ôm chăn khóc nức nở.

Xuyên qua rèm cửa, ánh đèn thành phố lấp loáng giữa bóng cây xào xạc. Dòng xe cộ tấp nập ngược xuôi, mùi thơm của những món nướng dưới lầu được gió thoảng đưa lên, các cửa hàng đã đóng cửa nhưng khu chợ đêm ồn ào, náo nhiệt thì chỉ vừa bắt đầu. Cứ thế, bầu không khí xô bồ, nhộn nhịp tiếp nối ngày và đêm giữa thành phố hầu như không ngủ này, và hơi thở thực dụng vẫn lan tỏa khắp chung quanh, dẫu là màn đêm thăm thẳm cũng chẳng thể che giấu được.

Một tiếng đồng hồ trôi qua, phòng khách vắng lặng không một tiếng động, cửa phòng ngủ của Thái Hồng khẽ mở ra.

Đèn bàn chợt bật sáng, Thái Hồng ngồi dậy.

Là cha cô, Hà Đại Lộ.

“Lại cãi nhau với mẹ con à?” Hà Đại Lộ hỏi.

Thái Hồng giận dỗi không trả lời.

“Tính khí mẹ con có hơi nóng nảy, nhưng mà cha đồng ý quan điểm của mẹ con.” Hà Đại Lộ thở dài nặng nề, đưa tay xoa xoa đầu cô, từ cổ tay áo tỏa ra mùi xăng dầu quen thuộc. Thái Hồng nghe ông nói: “Mẹ con rất có mắt nhìn người, trước nay chưa bao giờ nhìn lầm, đừng nói cha, đến cả lãnh đạo ở cơ quan bà ấy cũng phải khâm phục, nếu không thì sao bà ấy có thể từ một nhân viên tài vụ quèn được đề bạt lên chức trưởng phòng chứ? Con người thầy Quý không tệ, theo cha thấy cậu ta không phải người xấu. Nhưng thực sự nhà cậu ta khó khăn chồng chất, sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc và chất lượng cuộc sống của con sau này. Con chưa bao giờ lo liệu chuyện trong nhà, không biết nó khó khăn như thế nào đâu. Cha thấy tốt nhất con hãy từ bỏ sớm đi, đây là ý kiến của cha và mẹ con.”

Những lời của cha nằm trong dự đoán của cô. Chuyện lớn trong nhà từ trước giờ Hà Đại Lộ đều răm rắp nghe theo Lý Minh Châu, về điểm này từ khi Thái Hồng hiểu chuyện, nó đã như thế rồi và chưa từng thay đổi.

“Một người đàn ông đã thích con, đương nhiên sẽ tìm trăm phương ngàn kế lấy lòng con.” Hà Đại Lộ nói tiếp. “Nếu con dễ dàng cảm động bởi những điều ấy thì đúng ý nguyện của anh ta rồi. Người ở quê có ai mà không muốn ở lại phát triển tại thành phố này? Chẳng biết rõ gốc gác, thân thế của người này, làm sao cha mẹ yên tâm để con và cậu ta chung sống qua ngày được chứ?”

Thái Hồng nói: “Sao lại không biết gốc gác, thân thế? Người ta là tiến sĩ của trường đại học danh tiếng, thành tích ưu tú, được phân làm giảng viên đại học, là một học giả giản dị, trong sạch… lý lịch của anh ấy con đã xem qua, không có bất kỳ vết nhơ nào.”

“Gia đình cậu ta thế nào con hiểu rõ không? Cha cậu ta là người thế nào, mẹ cậu ta là người thế nào? Con biết được bao nhiêu? Học giả, học giả, con gả cho cậu ta không phải vì học vấn, mà là để sinh sống qua ngày. Chủ nghĩa Marx con biết chứ? Tư liệu sản xuất quyết định thượng tầng kiến trúc. Cậu ta có bao nhiêu tư liệu sản xuất con biết không hả? Con thông minh lắm mà, sao giờ lại chuyển thành chủ nghĩa duy tâm mất rồi?”

Đúng là người nào người nấy giỏi nói chuyện đạo lý, mà chỉ có hơn chứ chẳng có kém, Thái Hồng thiếu điều ngất xỉu vì tức, ngã lăn ra giường, phớt lờ cha mình.

“Cha mẹ chỉ muốn tốt cho con, người trẻ hay hành sự theo cảm tính, đưa ra lựa chọn không thiết thực, đến lúc xảy ra chuyện thì hối hận không kịp nữa.” Giọng của Hà Đại Lộ thô ráp, pha chút khàn khàn.

Thấy Thái Hồng hồi lâu chẳng buồn đáp lời, ông đành nói: “Con hãy suy nghĩ kỹ nhé, ngủ sớm đi!” Dứt lời, ông đi ra phòng khách.

Vừa mở cửa, đột nhiên Thái Hồng cất tiếng hỏi: “Cha, năm xưa mẹ và cha kết hôn là hành sự theo cảm tính hay là lựa chọn thiết thực? Bao nhiêu năm qua, hai người hạnh phúc không?”

Không có câu trả lời, đáp lại là một tiếng “rầm” đinh tai, cánh cửa đóng sập lại.

Trong thoáng chốc, đêm đen ngập tràn nỗi lạnh lẽo buốt giá.

Thái Hồng biết mình đã bắn một mũi tên làm tổn thương cha mình. Cô vẫn nhớ rõ, lúc còn nhỏ, cha mẹ cô thường xuyên gây gổ, cãi cọ, sau trận cãi vã là chiến tranh lạnh kéo dài đến mấy tuần, phải nhờ Thái Hồng làm bồ câu đưa thư, chuyển giấy nhắn tin để nói chuyện với nhau.

Một ngày nọ, khi cô mười tuổi, Thái Hồng không chịu nổi nữa, bèn viết một bức thư cho cha mẹ, ghi rằng thà cô chết sớm cũng không muốn trông thấy hai người cãi cọ. Cô đặt bức thư vào trong một phong bì ngũ sắc, nhét vào ví tiền đặt trong đống quần áo sắp mang đi giặt. Cô biết Minh Châu có thói quen kiếm tra tất cả các túi áo quần trước khi giặt quần áo.

Từ sau hôm đó, những trận cãi vã biến mất, chiến tranh lạnh kết thúc, thay vào đó là cảnh êm ấm bề ngoài. Cha mẹ vẫn mâu thuẫn với nhau, chẳng qua là từ cãi cọ công khai chuyển sang âm thầm, giấu giếm mà thôi. Hơn ai hết, khi lỡ bước sai đường, những người già luôn biết cái gì gọi là đâm lao phải theo lao, chỉ biết bất lực thở dài chịu đựng.

Chương 30

Vẫn như thường ngày, chuyện sinh hoạt trong nhà vẫn đều đều như cũ, không ngừng quay vòng tiếp diễn. Bánh xe khổng lồ của thói quen ầm ầm chuyển động, cán qua tất cả sự tranh chấp, giống như chiếc xe trộn xi măng lạnh lẽo, vô tình, có thể nghiền nát mọi thứ vật chất cho vào đó rồi trộn đều thành chất bê tông cứng chắc vô cùng.

Quá trình trưởng thành của con người không phải cũng giống quá trình đổ bê tông đó sao?

Trong khoảng thời gian này, ý chí của cha mẹ như đã chịu lùi bước, tựa như đó là một bước ngoặt lớn trong chiến lược của họ. Bất luận là Minh Châu hay Đại Lộ, cả hai đều tỏ ra ăn năn hối hận. Sáng sớm ngày hôm sau, Thái Hồng tỉnh dậy, phát hiện trên bàn có đặt một cốc sữa đậu nành nóng hổi và bánh bao chiên mà cô thích. Cả nhà chào nhau như chưa từng xảy ra chuyện gì. Chiếc radio ra rả đưa tin về tình hình giao thông, Hà Đại Lộ nói thời tiết chuyển lạnh, dặn dò Thái Hồng mặc thêm nhiều áo. Như thường lệ, Minh Châu đưa Thái Hồng một hộp cơm, trong đó có món sườn kho mà cô thích nhất.

Vẻ mặt của cha mẹ đều có vẻ bị tổn thương nhưng vẫn cố gắng nói cười.

“Con đi đây.” Thái Hồng nhét hộp cơm vào ba lô mà tê tái trong lòng.

“Cha mẹ ra ngoài tập thể dục, tiện tiễn con luôn.” Không ngờ hai người lại cùng cô xuống lầu, lại một mực đưa cô đến tận trạm xe, nhìn cô bước lên xe buýt.

Thái Hồng vội vã đến trường, y như muốn trốn chạy khỏi cha mẹ.

Còn mười phút nữa mới vào tiết thứ nhất, Thái Hồng phát hiện cửa văn phòng của Quan Diệp hé mở, bên trong có ánh đèn, từ khe cửa, một luồng gió từ trong phòng ùa ra. Thái Hồng tò mò ngó vào, phát hiện Quan Diệp đang ngồi trên ghế mây, một tay kẹp điếu thuốc, tay kia cầm bút chấm bài. Ngoài máy vi tính cô thường dùng, trên bàn còn có một cốc trà.

Bất kỳ lúc nào gặp Quan Diệp, dáng vẻ cô vẫn luôn xinh đẹp, tao nhã và thảnh thơi vô cùng. Trong số những người quen biết, Thái Hồng chưa từng gặp ai có cách sống như Quan Diệp, sống một cách thanh cao, theo ý mình và phớt lờ ánh mắt của người đời. Khi mới vào trường, Thái Hồng cũng từng như các bậc đàn anh, đàn chị khác, thích thú tìm hiểu về đời sống riêng của thầy cô giáo. Thái Hồng quan sát phòng ngủ của cô, những người đồng nghiệp có quan hệ qua lại với cô, thậm chí còn tìm kiếm cuộc sống tình cảm của cô trong các bài tản văn mà cô từng phát biểu trước kia, tiếc là không có bất kỳ manh mối nào. Về Quan Diệp, ngoại trừ khí chất tao nhã, thảnh thơi và những quyển sách cô viết, những bài cô dạy cùng với các bài luận đã phát biểu, những kẻ tò mò không thể tìm thêm được bất kỳ nội dung thú vị nào để nghiền ngẫm nữa. Thấy cô đã chú ý đến mình, Thái Hồng vội vàng cất tiếng chào: “Chào buổi sáng, cô Quan!”

“Chào!” Quan Diệp chỉ tay về phía cốc trà của mình, nói: “Có người tặng cô một bịch trà lipton, em có muốn uống thử không?”

“Có sữa không ạ?”

“Có sữa đặc, trong tủ lạnh ấy.”

Thái Hồng cầm cốc trà của mình đi rót nửa cốc nước nóng, rồi quay lại bên bàn của Quan Diệp pha cho mình một cốc trà, nhấp một ngụm thưởng thức.

“Cô Quan, em có một vấn đề muốn hỏi cô.”

“Cô sắp có tiết, cho em ba phút.”

“Em có quen hai chàng trai, cả hai đều đối xử với em rất tốt. Một người trò chuyện rất hợp, tiếc là không có tiền, một người không hợp cho lắm, nhưng lại có rất nhiều tiền.” Thái Hồng nói. “Em nên chọn ai đây?”

Quan Diệp rít một hơi thuốc, hướng về phía cửa sổ nhả ra làn khói trắng, rồi quay đầu nhìn cô, cười nhạt: “Vóc dáng của hai người đó thế nào?”

“Ý cô muốn chỉ bộ phận nào?”

“Bộ phận hấp dẫn em đấy.”

“Người không có tiền hấp dẫn em hơn.”

“Chẳng phải chỉ là nghèo thôi sao?” Quan Diệp nhịp nhịp tay gõ tàn thuốc. “Sao tự em không kiếm tiền nhiều hơn chút, sau đó vui vẻ tận hưởng anh chàng hấp dẫn em chứ?”

Thái Hồng cười khổ: “Nhưng mà… cha mẹ em nhất mực không đồng ý.”

“Em có biết, ở Ấn Độ, người ta thuần phục voi như thế nào không?” Quan Diệp vừa thu dọn tập bài thi vừa nói. “Bọn họ dùng một sợi dây trói chú voi con mới sinh vào một thân cây nhỏ. Vài tháng sau, chú voi con đã lớn hơn chút, bọn họ liền buộc nó vào thân cây to hơn. Lớn hơn chút nữa, lại đổi sang một thân cây khác to hơn…”

Thái Hồng ngơ ngẩn nhìn cô.

“Với một chú voi có cân nặng được tính bằng đơn vị tấn, thực ra không có thân cây nào có thể buộc được nó cả.” Quan Diệp nói. “Nhưng mà, sợi dây đó đã in vào trong đầu nó, còn độ to nhỏ của thân cây như thế nào đã không còn quan trọng. Vậy nên sau khi trưởng thành, dù là bất kỳ thân cây nào cũng có thể buộc được chú voi… bởi vì nó đã quen với việc bị hạn chế rồi.”

Trong đầu Thái Hồng bất chợt lóe lên một tia sáng. Thực ra đạo lý này cô hiểu, chỉ là không biết bản thân sợ hãi điều gì.

Cô không sợ sợi dây đó, mà là sợ bàn tay nắm đầu kia của sợi dây.

Cầm cốc trà quay về văn phòng của mình, Thái Hồng phát hiện Quý Hoàng đã đến từ lúc nào. Kỳ lạ, hôm nay anh không có tiết, đâu cần đến trường làm gì…

“Chào”, cô nói.

“Chào.” Quý Hoàng bước qua, chăm chú nhìn cô, hỏi: “Sao thế? Sao mắt lại sưng húp thế kia?”

“Bị dị ứng.” Cô nhẹ nhàng bước lên trước. “Xem giúp em mí mắt có đỏ không? Hay là bị sởi rồi cũng nên?”

“Không phải.” Anh xoa xoa mặt cô, rồi nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên mặt cô. “Đừng lo lắng, anh sẽ thật cố gắng.”

Cô thở dài, chẳng tài nào giả khờ khạo, lú lẫn với anh được. Mỗi người không thể chọn nơi mình sinh ra, nhưng Quý Hoàng đã phải vì nó mà chịu đủ sự lạnh nhạt và trắc trở ở đời, vì vậy cô không nên làm tăng thêm gánh nặng cho anh.

Cô nhìn anh, nở nụ cười tươi rói: “Sao đến sớm thế này, hôm nay anh có cuộc họp à?”

“Không có. Anh đến sửa bài luận cho sinh viên.”

Để thực hiện lời hứa, Quý Hoàng đã giúp cô chấm hai chồng bài thi môn Văn học cổ đại, cho Thái Hồng có thời gian chuẩn bị thi tiến sĩ. Thái Hồng cảm thấy rất ngại, ôm cả chồng bài luận trên bàn vào lòng: “Không, không, đây là công việc của em, tự em làm được rồi.”

“Để anh làm vẫn hơn, anh chấm bài nhanh. Viết nhận xét cũng không làm tổn thương lòng tự trọng của sinh viên.”

Cô trừng mắt nhìn anh, nói: “Ơ này! Ý anh là sao hả? Chẳng lẽ lời nhận xét của em làm tổn thương lòng tự trọng của người ta sao?”

“Nào, nào, nào, anh đọc vài câu cho em nghe thử nhé!” Quý Hoàng tiện tay rút một bài, đọc: “Bài này kết cấu tạm được nhưng mở đầu không đủ mạnh mẽ. Ví dụ quá nhiều nhưng không phân tích đầy đủ, kết nối luận điểm và luận cứ không đủ rõ ràng.”

Anh lại rút ra một bài nữa, đọc: “Cô đọc qua tiểu thuyết này rồi, cô cũng biết câu chuyện này rồi, chẳng lẽ cần em phải kể lại một lần nữa từ đầu chí cuối trong bài luận sao?”

“Xin đừng đùa giỡn với thuật ngữ, khi dẫn dụng xin mời định nghĩa trước.”

“Tuy em viết rất dài nhưng thực sự em không tìm được điểm chính, cũng chẳng biết rốt cuộc em đang muốn nói cái gì.”



Được rồi, được rồi, Thái Hồng nghĩ bụng, em thừa nhận có vài bài thi em càng chấm càng phát cáu. Dù có nhẫn nại bao nhiêu đi chăng nữa cũng tiêu biến sạch sẽ bởi những bài luận không đâu vào đâu này. Thái Hồng thở dài: “Chấm bài là một công việc vất vả, nặng nhọc, ngồi sửa sửa chấm chấm mãi rồi máu cứ thế sôi lên. Thật đấy, em đảm bảo với anh, em đã khách sáo lắm rồi.” Dứt lời, cô chỉ tay về làn mưa bên ngoài cửa sổ: “Thời tiết thế này em không thể chấm bài nổi, phải đợi mặt trời xuất hiện, nếu không tâm trạng em sẽ bị ảnh hưởng ghê gớm lắm.”

Quý Hoàng bật cười: “ Ra là em làm việc cũng cần phải xem thời tiết nữa cơ đấy.”

“Chính thế!”

“Thân là người làm công tác giáo dục, anh kỳ thị những người chỉ có thể làm việc khi trời nắng mà không thể làm việc lúc trời mưa.” Anh nói. “Công việc là công việc, phải dùng thái độ chuyên nghiệp để làm chứ!”

Lại bị phê bình rồi. Chậc, thế này mà gọi là bạn trai sao? Chẳng khác gì tự tìm cho mình một giáo viên hướng dẫn lúc nào cũng kè kè nhắc nhở. Thái Hồng trợn mắt không đồng ý nhưng Quý Hoàng vẫn khăng khăng kéo cô đến bên bàn, ngồi xuống, lấy ra một bài thi, nhẫn nại nói: “Học sinh bây giờ có lòng tự tôn cao lắm, khi viết lời nhận xét phải tìm ra ưu điểm trước, dù bài luận văn tệ đến đâu cũng có thể tìm ra vài chỗ để khen ngợi. Chẳng hạn như mở đầu tốt, ví dụ rất sát thực, hay như đoạn phân tích này làm tốt. Nhớ kỹ một điều, luôn phải khen ba câu mắng hai câu. Chỗ được khen ngợi phải nhiều hơn chỗ bị phê bình, như thế học sinh mới tự tin vào chính mình, mới dễ dàng chấp nhận lời phê bình ở phía sau.”

Thái Hồng mặt mày ỉu xìu nói: “Tìm những ưu điểm trong bài viết của bọn nhóc này á?... Thầy Quý, thầy làm khó em quá rồi. Thỉnh thoảng cũng có bài hay, em vừa đọc đã biết không phải là do chúng tự viết, là chép đó. Mấy đứa trẻ này cũng thật là… Chẳng lẽ trên đời này chỉ có chúng nó biết google thôi sao?”

“Đừng nói như thế, bình thường, mỗi lớp đều có vài sinh viên giỏi. Học sinh bây giờ đều là con một, phê bình phải có tính xây dựng mới được.”

Thái Hồng rút một bài thi ra: “Được thôi, đây là lời phê của bài mà em chấm rồi: “Bài này kết cấu rời rạc, luận thuật rườm rà, thiếu chứng cứ, thuật ngữ quá nhiều nhưng lại sơ sài, kết luận mới lạ nhưng không đủ thuyết phục.” Anh nói thử xem, làm sao để nhận xét có tính xây dựng được đây?”

“Anh cảm thấy mỗi lời nhận xét đều là một bức thư, vì vậy, tốt nhất nên có xưng hô, không nên đặt mình vào vị trí trên cao để nói chuyện. Em học sinh này tên là gì?”

“Đường Thuận Sinh.”

“Em có thể nhận xét thế này: “ Em Đường Thuận Sinh, bài luận phân tích kỹ lưỡng, chứng tỏ em có đầu tư suy nghĩ. Việc vận dụng thuật ngữ chứng minh em có một lượng kiến thức lý luận nhất định. Nếu có thể làm kết cấu bài văn chặt chẽ hơn, bổ sung luận cứ thuyết phục hơn, kết luận của em sẽ rất mới mẻ, khiến độc giả nhận được không ít sự khơi gợi.”

Thái Hồng chớp chớp mắt: “Đấy chẳng phải cũng giống những gì mà em nói sao?”

“Nhưng giọng điệu khác, của anh là tích cực, cổ vũ, còn em là tiêu cực, đả kích. Cậu Đường Thuận Sinh đó chắc chắn thích lời phê mà anh viết hơn. Đương nhiên, anh sẽ không viết đơn giản, trừu tượng khiến người ta chẳng biết đâu mà nói cho cậu ta biết rời rạc ở phần nào, hay luận cứ không đủ, anh cũng sẽ chỉ ra luận cứ của luận điểm nào không đủ. Như thế mới có ý nghĩa hướng dẫn đối với bài viết sau của sinh viên, đúng không nào?”

Thái Hồng cầm cả chồng bài thi dúi vào tay anh, cười nói: “Phải viết nhiều như thế, cụ thể ra sao, thầy Quý, vậy mệt biết chừng nào, thôi thì cứ để anh chấm đi nhé!” Nói rồi, cô quay gót đi về phía cửa.

“Đợi đã, em định đi đâu?” Quý Hoàng hỏi.

“Em phải đi gặp thầy Thôi.” Thái Hồng đáp.

“Thầy ở tầng trên ư?”

“Ừ, là Thôi Đông Bích. Nghe nói năm nay đề thi tiến sĩ môn Lý luận là do thầy ấy ra, em định qua đó thám thính chút. Ông lão ấy nghiên cứu về chủ nghĩa giải cấu trúc, và có tìm hiểu một chút về Lacan, suốt ngày cứ điên điên, khùng khùng.” Dứt lời, chợt cảm thấy mình như đang ám chỉ Quý Hoàng, cô bèn cười ruồi một cái.

Ở bộ môn Lý luận văn nghệ trong khoa này có không ít giáo sư, ai nấy cũng tài năng đầy mình, không ai nể mặt ai. Quý Hoàng gật đầu tỏ ý biết ông thầy đó, rồi không khỏi nhíu mày: “Không phải chứ, em cũng sợ môn chuyên ngành sao?”

“Biết người biết ta trăm trận trăm thắng mà, huống chi em mắc chứng sợ thi, lần nào vào phòng thi cũng quên sạch.”

Quý Hoàng nhìn cô vẻ ngao ngán, thở dài.

Văn phòng của Thôi Đông Bích ở tầng năm. Người này khi trẻ tài hoa hơn người, hào hoa phóng khoáng, từng là nhân vật hô mưa gọi gió trong giới học thuật. Tiếc là cậu con trai mười bảy tuổi chết vì tai nạn giao thông, nghe đồn hiện trường vụ tai nạn thảm khốc vô cùng, Thôi Đông Bích chịu cú sốc lớn, biến thành một người hoàn toàn khác, cả vợ cũng ly dị . Từ đó ông trở thành “giáo sư ngồi bàn” duy nhất trong khoa, bất luận là có tiết hay không, ngày nào cũng đến văn phòng. Lên lớp chỉ đọc giáo án, không nói chuyện với bất kỳ sinh viên nào, sinh viên thắc mắc hỏi cũng không buồn trả lời, chỉ nói năm chữ: tự mình về đọc sách. Khi thi ra đề cực khó, cực kỳ hiểm hóc, tỉ lệ qua rất thấp. Sinh viên ý kiến rất nhiều nhưng trong khoa không dám đắc tội với ông. Ông viết rất nhiều sách, các nguồn ngân sách đều trông cậy vào ông lấy về cho khoa nên chẳng ai dám nói lời nào. Nói chung, ông là một người “phi thường”.

Thời học đại học, Thái Hồng không chọn môn của Thôi Đông Bích, lúc học nghiên cứu sinh lại càng tránh xa, lần này nghe nói người ra đề là ông, cô thất kinh hồn vía. Với một chuyên gia như thế, muốn dìm học sinh rớt là chuyện dễ như trở bàn tay, Thôi Đông Bích lại tính tình cổ quái, nếu thực sự không đậu thì cứ thẳng tay đánh rớt chứ chẳng nể nang gì. Thái Hồng cảm thấy nhất định phải đến thám thính xem sao, cho dù không hỏi thăm được phạm vi đề cũng phải để ông quen mặt, hy vọng ông nể mặt mà nhẹ tay chút.

Không hiểu sao hành lang tầng năm dài dằng dặc, ánh sáng tối tăm đến phát sợ, văn phòng của Thôi Đông Bích ở đầu bên kia. Ngặt nỗi đèn ở phía trên lại hư, Thái Hồng càng đi càng thấy tối, xung quanh âm u lạnh lẽo, chẳng thấy được năm đầu ngón tay.

Cô mò mẫm đến trước cửa, lịch sự gõ, bên trong có tiếng hỏi: “Tìm ai?”

Thái Hồng lớn tiếng nói: “Xin hỏi có phải thầy Thôi không ạ?”

Thái Hồng giật nẩy mình, bên trong cũng chẳng bật đèn, phòng tối như bưng, cô lờ mờ nhận ra ánh sáng lập lòe của vài nén hương đang thắp.

Thôi Đông Bích hai mắt lõm sâu, thâm quầng, ông đứng bên cửa, trông cứ như một âm hồn.

“Em.. em là Hà Thái Hồng, bộ… môn Văn học đương đại ạ!” Thái Hồng lắp bắp nói.

“Cô là học trò của Quan Diệp?”

“Dạ phải.”

Không ngờ “sếp sòng” biết cô, lại chịu tiếp cô. Thái Hồng khấp khởi mừng thầm.

“Có chuyện gì?” Ông hỏi.

“Em.. em đăng ký thi tiến sĩ năm nay, về môn lý luận, có vài vấn đề muốn hỏi thầy…”

“Rầm!” Chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra, cửa đột ngột đóng sầm lại. May mà Thái Hồng tránh kịp, không thì cái đầu chắc chắn đã bị đập vào cửa.

Cô gào thét trong lòng, thầy Thôi, thầy không thể lạnh lùng, vô tình như thế được!!!

Mặt mày thoắt xanh thoắt đỏ, cô co giò chạy về văn phòng. Quý Hoàng đang ngồi chấm bài trong đó.

“Sao rồi? Thám thính được gì không?” Anh hỏi.

Thái Hồng vẫn còn nơm nớp sợ: “Haizz, ai cũng nói Thôi Đông Bích điên điên khùng khùng, em cứ không tin, khăng khăng đi đâm đầu vào tường chơi, đúng là ngốc thật!”

Quý Hoàng cười cười, không đáp.

Thái Hồng càng nghĩ càng tức: “Anh nói xem, thầy ấy có khi nào vì chuyện này mà dìm em không? Em giờ không mong biết phạm vi đề thi nữa, chỉ cầu thầy ấy đừng dựa vào ấn tượng ban đầu mà đánh trượt em là được rồi.” Nói rồi, cô lo lắng đi tới đi lui trong văn phòng.

“Đừng nghĩ ngợi nhiều quá, thầy Thôi là một người hiểu lý lẽ, có thể thấy được điều đó trong các nghiên cứu của thầy. Nếu em làm bài tốt, thầy ấy tuyệt đối không đánh rớt em đâu… Đó là đạo đức cơ bản nhất của người làm thầy. Tính khí thầy Thôi có thể hơi kỳ quái nhưng chắc chắn không tùy tiện, nhà trường cũng không cho phép thầy ấy làm bừa mà.”

“Cái này là anh nói đấy nhé!” Thái Hồng lườm anh một cái. “Lỡ mà thầy ấy lên cơn điên đánh rớt em thì em sẽ ăn thua đủ với thầy ấy luôn. Phải biết rằng phá bát cơm người khác cũng chẳng khác gì giết cha mẹ người ta…”

“Căng thẳng chút cũng tốt, cứ ôn tập nghiêm túc vào thì chẳng có gì xấu đâu. Điểm mạnh của em là phân tích văn bản, điểm yếu là tư duy lý luận, rất có khả năng thầy Thôi sẽ ra đề thi thuần về lý luận.”

Vừa nghe xong, Thái Hồng liền quýnh lên: “Chết rồi, chết rồi, em sợ nhất là cái này! Sao giờ anh mới nói, còn chưa đến nửa tháng nữa là thi rồi.” Nói rồi, chẳng cần biết xanh đỏ, trắng đen, cô rút từ trên kệ sách ra một quyển Văn tự học của Derrida lật tới tấp.

Quý Hoàng giật lấy quyển sách: “Giờ này mới bắt đầu xem, có phải hơi muộn rồi không?”

“Thầy Quý, không thì… anh phụ đạo cho em?”

Điện thoại trên bàn bỗng đổ chuông.

Quý Hoàng cầm ống nghe lên đối đáp vài câu, đặt điện thoại xuống rồi nói với Thái Hồng: “Bí thư tìm anh có chuyện, anh đi chút rồi về ngay.”

Khi quay về, vẻ mặt anh nghiêm trọng, khẽ đóng cửa lại, anh thấp giọng nói: “Thái Hồng, e rằng chúng ta không thể dùng chung văn phòng này được rồi.”

Thái Hồng ngạc nhiên: “Có chuyện gì ư?”

“Không có chuyện gì lớn, chỉ là sắp tới trong khoa… chắc sẽ có hai người mới nữa, cho nên không tiện dùng chung văn phòng, bảo rằng không thể phá lệ được. Bí thư nói, tất cả trợ giảng mới đến đều không được bố trí văn phòng, buổi trưa nếu thực sự cần nghỉ ngơi có thể đến phòng sinh hoạt.”

Những lời này của anh tỏ ra đã được châm chước, rõ ràng bí thư còn nói những cái khác nữa, chỉ là anh không tiện nói ra.

“Dùng chung văn phòng là do bí thư phê duyệt, danh chính ngôn thuận. Cái gì mà người mới vào chứ?” Thái Hồng quay gót định đi nói lý lẽ. “Không được, em phải đi hỏi cho ra nhẽ mới được.”

Quý Hoàng đưa tay kéo cô lại: “Đừng đi.”

“Em mới đến chưa đầy nửa năm, có đắc tội với ai đâu chứ?” Thái Hồng ngồi phịch xuống ghế, chưa được một giây, lại không kiềm chế được xông ra ngoài, đến thẳng văn phòng của Bí thư Trần Nhuệ Phong.

Dường như đoán được cô sẽ đến, cửa để mở sẵn, Trần Nhuệ Phong chỉ tay về phía chiếc sofa, nói: “Là Tiểu Hà hả? Mời ngồi!”

“Bí thư Trần, Quý Hoàng nói, em không thể dùng chung văn phòng với thầy ấy, về vấn đề này em muốn nói cho rõ một chút, đây là quyết định của khoa, chìa khóa là do chính thầy Triệu Thiết Thành đưa cho em…”

Sau một hồi trầm ngâm, Trần Nhuệ Phong đáp: “Tiểu Hà, em và Tiểu Quý đều là giáo viên mới. Trai gái dùng chung một văn phòng sẽ có lời ong tiếng ve, chuyện đó đối với thanh danh của cả em và Tiểu Quý đều không tốt.”

“Ai? Là ai nói ra nói vào gì rồi?”

“Có người phản ánh thầy Quý lợi dụng chức quyền của thầy giáo hướng dẫn, bức ép em phải thiết lập mối quan hệ trên mức đồng nghiệp với cậu ấy.”

“Là ai phản ánh?” Thái Hồng tức giận. “Thầy Quý chưa từng bức em làm bất kỳ chuyện gì, là ai đặt điều? Là ai?”

Trần Nhuệ Phong nhìn cô, cảm thấy rất thú vị, hồi lâu mới nói: “Nói vậy là… em và Tiểu Quý… thực sự có mối quan hệ trên mức đồng nghiệp?”

“Có.” Thái Hồng thẳng thắn nói. “Quý Hoàng là bạn trai em.”

Trần Nhuệ Phong từ tốn uống một ngụm trà, nói: “Tiểu Hà, em là sinh viên tốt nghiệp loại ưu của khoa, thầy Quý là nhân tài mà thầy phải tốn rất nhiều công sức mới mời được từ Bắc Kinh về đây, thầy đặt kỳ vọng rất lớn vào hai em. Thanh niên các em qua lại với nhau như thế nào thầy không quản, chỉ hy vọng cả hai có thể trước sau tốt đẹp, đừng có gây ra những lời đồn không hay, càng không nên gây ra chuyện gì xấu mặt. Nếu không thì… cho dù khoa có muốn giữ hai em lại cũng đành bó tay. Em hiểu ý thầy chứ?”

Sống lưng Thái Hồng thoáng cứng đờ, đáp: “Dạ em hiểu rồi.”

“Tốt hơn em không nên dùng chung văn phòng với Tiểu Quý nữa, để tránh hiểu lầm. Vả lại hai người đã là đồng nghiệp, gần như ngày nào cũng gặp nhau, hẹn hò nhất thiết phải dùng chung một văn phòng sao?”

“Em…” Thái Hồng mấp máy môi, cảm thấy bất lực, đành nói: “Vậy được thôi ạ.”

Cô đứng dậy, định rời khỏi, cuối cùng Trần Nhuệ Phong bổ sung một câu: “Tiểu Hà, chuyện của em và Tiểu Quý… nên trò chuyện rõ ràng với mẹ em thì hơn.”

Hiểu rồi.

Từ hồi tiểu học, Lý Minh Châu đã thích gọi điện thoại cho thầy cô của Thái Hồng, hỏi về thái độ, thành tích, hoặc phản ánh tình hình gần đây của cô. Bà luôn nghĩ rằng, muốn quản tốt con cái nhất định phải đoàn kết với các thầy cô giáo của con mình. Bốn năm đại học, Minh Châu quen mặt hết những giảng viên của Thái Hồng, lúc làm nghiên cứu sinh thì mỗi dịp lễ tết lại tặng quà cáp cho Quan Diệp. Có bà mẹ nắm rõ hành tung của mình như thế, Thái Hồng không trốn đi đâu được, đành làm một cô học trò ngoan.

Sau khi tốt nghiệp thạc sĩ rồi đi làm, Thái Hồng nghĩ thầm, giờ thì Minh Châu chẳng tìm được thầy cô để quản giáo mình nữa rồi! Đấy, người ta không tìm thầy cô nữa, tìm thẳng bí thư luôn rồi kìa!

Thôi đành chịu vậy! Thái Hồng hít một hơi thật sâu, sống lưng lạnh toát.

Chương 31

Về đến văn phòng, Thái Hồng không dám khai ra Minh Châu là người đã tác động vào chuyện này, cô quyết định trao lại chìa khóa: “Ý của bí thư vẫn là muốn bảo vệ chúng ta, thế thì hai ta cứ cẩn thận chút vậy.”

Thực ra hai người ở cạnh nhau chẳng qua cũng chỉ vì mấy chuyện như chấm bài thi, thảo luận về bài luận, uống trà, ăn cơm trưa, chỉ thế thôi. Hai người đều không thuộc dân văn phòng, phải trực ban, thời gian cùng xuất hiện trong khoa không nhiều. Bất luận là bộ môn Lý luận của Quý Hoàng hay bộ môn Văn học hiện đại và đương đại của cô, tỷ lệ nữ giảng viên rất ít, mọi người chuyện ai người nấy làm, nên cũng chẳng có gì để đồn thổi.

Một cú đả kích xíu xiu không là gì. Hai người cùng nhau đến căng tin ăn trưa, sau đó ra phía sau vườn trường, mỗi người cầm một chai nước khoáng, ở đó có con đường mòn do dấu chân người đi đường tạo nên, hai người tản bộ trên con đường đó.

Trời đã vào cuối thu, lá phong đỏ rực một góc trời, xa xa thấp thoáng từng dãy kiến trúc giả cổ của khu ký túc xá dành cho giáo viên hướng dẫn tiến sĩ. Những mái ngói màu xanh lam cong cong tựa như đàn chim én bay qua tán cây đang xào xạc. Những người yêu thích phong thủy nói rằng khu ký túc xá đó ở thế tựa núi hướng sông, hướng Nam đón nắng, chính là vùng đất lành hiếm có của trường F, trước giờ chỉ dành cho những học giả ưu tú nhất, những người đại diện cho thực lực của trường. Thuở còn làm nghiên cứu sinh, Thái Hồng từng đến đó vài lần. Khu ký túc xá này tuy thiết kế đẹp nhưng không quá lộng lẫy như người ta vẫn tưởng. Hành lang hơi tối vì ánh sáng không tốt lắm, nhưng phía sau tòa nhà có con đường đi thẳng vào rừng cây, có thể nói là ngập tràn hương đồng nội, không khí trong lành.

Thái Hồng vỗ vỗ vai Quý Hoàng: “Quý Hoàng, có thấy mấy tòa nhà màu đỏ kia không?”

“Thấy rồi. Sao?”

“Anh hãy cố gắng để được vào trong đó, lúc đó em sẽ có căn hộ tốt để ở rồi.”

“Đó là tòa nhà gì mà em lại mong ngóng thế?”

“Ký túc xá dành cho giáo viên hướng dẫn tiến sĩ đấy! 4-2LDK, còn có thêm một vườn hoa nhỏ nữa.”

“Căn nhà to thế em ở được không đấy?” Quý Hoàng tìm một tảng đá to rồi ngồi xuống, hờ hững nói.

“Ở được chứ sao không, càng to càng tốt! Khu vườn ở phía sau, em sẽ trồng một cây quế, rồi trồng thêm một dãy thủy tiên. Ở giữa đặt chiếc bàn, hai cái ghế mây, những khi rỗi rãi chúng ta có thể ngồi đó hóng gió, uống trà, còn có thể nằm xuống cùng nhau ngắm mưa sao băng…”

Quý Hoàng đang uống nước, suýt nữa phun ra hết vì sặc: “Cô Hà, cô nghiên cứu cả buổi chủ nghĩa nữ quyền, nghiên cứu tới nghiên cứu lui, vẫn là gửi gắm hy vọng trở nên giàu sang phú quý lên vai người đàn ông. Chẳng lẽ thứ mà em nghiên cứu không gợi mở chút gì cho nhân sinh quan của em sao?”

“Không có. Cũng giống bà Virginia Woolf đó, một mặt viết những tiểu thuyết tràn ngập ý thức nữ quyền, một mặt không hề ngại ngùng sai khiến mấy người giúp việc nữ. Đấy gọi là theo nghề chủ nghĩa nữ quyền. Nói cách khác là những người nghiên cứu cái này đều không tin vào nó, em chẳng qua là buôn bán các lý luận, kiếm tiền nuôi nhà mà thôi.”

“Thế những thứ em tin có khác gì với tiểu thuyết ngôn tình hả?”

Thái Hồng sững người, nín lặng. Thực ra cô chỉ nói đùa cho vui, nhưng Quý Hoàng lại tưởng thật. Thái Hồng nghĩ thầm, nếu em tin vào cái đó thì sao còn đi yêu anh làm gì? Không cầm lòng được, cô trêu anh tiếp: “Không có gì khác. Này, có phải anh cảm thấy em rất thực dụng, khiến anh thất vọng không?”

“…” Quý Hoàng không đáp.

“Nói đi chứ, anh tin vào cái gì?” Mắt cô đảo quanh, rồi ném câu hỏi về lại phía anh.

“Anh tin vào lao động. Anh thích hoạt động thể lực, từng có một thời gian anh rất muốn làm công nhân xây dựng.” Câu trả lời của anh rất kỳ quặc. “Khi lao động có thể khiến người ta quên đi rất nhiều chuyện.”

Ánh mặt trời xuyên qua tán cây, đọng lại trên gương mặt anh một bóng râm nơi hốc mắt. Nhìn nghiêng, trông gương mặt anh như một bức ảnh trắng đen có chút gì đó giống phong cách của những năm 30. Thái Hồng luôn cảm thấy Quý Hoàng nên cười nhiều hơn, khi cười, trông anh trong sáng đơn thuần làm sao! Nhưng hầu hết thời gian trông anh đều có vẻ u uất, tựa như đang cất giữ biết bao tâm sự trong lòng.

Ý nghĩ thoáng qua trong đầu, cô lại cảm thấy xót xa.

Cổ họng khát khô, cô lục tìm nước trong ba lô của anh, nhưng lại sờ thấy một cái lọ tròn tròn, lấy ra xem, là bình xịt thuốc hen suyễn lần trước.

“Lúc nào anh cũng mang theo thứ này sao?” Cô tò mò hỏi. “Anh rất ít khi lên cơn hen suyễn rồi, đúng chứ?”

“Hơn ba năm nay không tái phát rồi, từ khi anh trưởng thành, hiếm khi phát bệnh lắm.”

“Nhưng anh vẫn mang theo nó mỗi ngày để đề phòng ư?”

“Mẹ anh bắt anh lúc nào cũng phải mang theo nó.” Anh nói. “Nếu như biết anh không mang theo, bà sẽ căng thẳng và tức giận vô cùng.”

“Thật sao?”

Trong đầu Thái Hồng lập tức hiện lên hình ảnh người phụ nữ với sắc mặt xanh xao, nét u sầu vương trên khuôn mặt. Cô để ý thấy mỗi khi Quý Hoàng nhắc đến bà, giọng anh rất dịu dàng, trên mặt sẽ nở một nụ cười hiếm hoi. Tình cảm giữa mẹ con anh hẳn là sâu nặng lắm.

“Ừ. Ngày còn bé, mẹ anh luôn lo rằng anh sẽ chết yểu… Bây giờ cũng như thế. Mỗi lần gọi điện cho mẹ, mẹ đều không quên hỏi anh có mang thuốc dự phòng bên người không…”

“Thế mẹ đã từng đánh anh bao giờ chưa?”

“Chưa.”

“Mẹ em từng đánh em một lần, đến bây giờ em vẫn nhớ. Hồi nhỏ em rất bướng, không chịu nghe lời, là đứa bé nghịch ngợm, bướng bỉnh nổi tiếng trong khu nhà, ban ngày chẳng thấy bóng dáng em đâu, ban đêm thì không chịu đi ngủ. Cha mẹ em đều đi làm, với số tiền lương ba cọc ba đồng đó, họ phải dốc sức làm việc, khi về đến nhà thì đã mệt lử, ngặt nỗi em lại không chịu yên lặng, cứ quậy phá khiến hai người rất mệt mỏi. Mẹ em từng nhờ một cụ già ở tầng dưới trông chừng em, trông được ba ngày thì đình công, nói em lén lút chơi quẹt diêm suýt nữa đốt luôn nhà. Mẹ em nổi cơn tam bành, đè em ra đánh một trận tơi bời. Đó là lần đầu tiên em bị đánh.”

“Em đúng là nghịch quá!” Quý Hoàng nói. “Có lẽ chọc mẹ em giận điên rồi.”

“Còn anh? Anh có nghịch không?”

Trong ấn tượng của cô, Quý Hoàng rất hiếm khi nhắc đến chuyện nhà, anh nhanh chóng bác bỏ: “Nhà anh có đến ba thằng con trai liệu có thế không nghịch được sao?”

“Mẹ anh lại không đánh con cái, làm sao mà quản được?”

“Ai nói quản con cái nhất định phải dùng đòn roi nào?”

“Xử phạt về thể xác với con trẻ đúng là không tốt, nhưng vào thời gian đó mọi người đều bận rộn, lại quá nghèo, không đối xử nhẹ nhàng với con cái hoặc dạy bảo những thứ tốt đẹp đâu.” Thái Hồng thở dài nói.

“Mỗi thế hệ đều có khó khăn riêng, chúng ta nên cố gắng lý giải chứ đừng ôm hận trong lòng.”

“Mẹ em cưng em lắm chứ, thực ra tính khí bà nóng nảy, nhưng vì em mẹ đã thay đổi rất nhiều. Em chưa bao giờ vì điều đó mà trách mẹ.”

Sự im lặng đột ngột bao trùm lên hai người. Đề tài liên quan đến gia đình và tuổi thơ xem ra khó mà bàn sâu.

“Quý Hoàng, anh kể về cha anh có được không?” Thái Hồng đánh bạo. “Em muốn hiểu hơn về anh.”

“Cha anh mất sớm.” Giọng anh rất bình thản, tựa như đang thuật lại một tin tức đã lỗi thời. “Ông chết trong một tai nạn hầm mỏ.”

“Anh… ưm… đau lòng lắm đúng không?” Cô dè dặt hỏi.

Anh không trả lời, bỗng nói: “Anh đói rồi.”

“Anh đói rồi?” Thái Hồng ngơ ngác.

“Chúng ta quay về đi.”

Ba tháng thấm thoắt trôi qua.

Cả nhà Thái Hồng bước vào tình trạng chiến tranh lạnh, hình thức cụ thể của chiến tranh lạnh là “phủ tuyết”, không ai nhắc đến Quý Hoàng thêm lần nào, chàng trai mà Thái Hồng đang hẹn hò và yêu say đắm này dường như không hề tồn tại trên cõi đời. Cuộc sống sinh hoạt hằng ngày tiếp diễn như cũ, Hà Đại Lộ ngày ngủ, đêm lái taxi, Lý Minh Châu sáng đi làm chiều về nhà. Thái Hồng cũng dốc toàn tâm toàn sức vào kỳ thi tiến sĩ đang tới gần. Thực ra chuyện thi tiến sĩ tại chức này là sự bồi dưỡng có định hướng của khoa, chỉ cần Anh văn qua ải thì chắc chắn sẽ đỗ. Thái Hồng vốn cầm chắc chín phần mười sẽ đỗ, nhưng vì người ra đề là Thôi Đông Bích được mệnh danh là “bom cay” nên cô không dám khinh suất.

Quả nhiên không sai, đề thi lý luận thi ba tiếng đồng hồ, cô ngồi thi mà muốn cắn đứt cả lưỡi, cả phòng thi ai ai cũng vò đầu bứt tai, càng sốt ruột thì lại càng viết không ra, chỉ thiếu điều lấy sợi dây thắt cổ cho xong. Vừa bước ra phòng thi, Thái Hồng liền chửi trời với Quý Hoàng: “Chết tiệt! Lão Thôi đại tiên năm nay ra đề chắc chắn là đệ nhất khó từ trước đến giờ. Chỉ riêng phân tích đề thi đã mất một tiếng đồng hồ, lão còn bắt em kết hợp Habermas, Derrida, Foucault để bàn về tính biểu diễn của Butler, hỏi “biểu diễn” và “tính biểu diễn” có gì khác nhau, có ý nghĩa đặc biệt gì trong phê bình chủ nghĩa nữ tính không? Khó chết đi được, cả phòng thi người nào người nấy đơ ra, cả hội trường rộng lớn đầy tiếng thở ngắn than dài. Năm nay đúng là năm hạn, sao số em lại xui xẻo thế này không biết!”

Quý Hoàng nhìn cô, vẻ nhàn nhã: “Đâu đến nỗi nghiêm trọng thế? Cho dù không biết trả lời, nhưng viết đầy cả tờ giấy thi chắc em làm được mà!”

“Yên tâm, yên tâm!” Thái Hồng đáp. “Em giỏi nhất là chém gió, Habermas chưa đọc qua nhưng mấy người kia thì biết đại khái. Nhưng mà, câu này em thực sự không biết trả lời ra sao, trong bài thi toàn viết lan man tản mạn không đi vào vấn đề chính. Người khác còn có thể đánh lừa, Thôi đại tiên thì chắc không lừa nổi rồi, đoán chừng sẽ trừ mất bốn mươi điểm của em. Hu hu hu! Em chắc rớt rồi!”

Càng nghĩ càng chán nản, cô giơ chân đá mạnh, cả một chùm cỏ trên đất bị cô đá bay.

“Thế thì bây giờ em biết trả lời như thế nào chưa?” Quý Hoàng hỏi.

“Haizz! Thi xong rồi ai còn lo đáp án nữa. Tốt hay xấu gì cũng xong hết rồi, em không thèm quan tâm đáp án.” Thái Hồng lầm bầm. “Đừng có nhắc thi cử với em nữa.”

“Thế sao được, thực ra đây là một câu hỏi rất cơ bản, em lại là người nghiên cứu về phương diện này, em nói không biết đến anh nghe cũng giật mình.”

“Anh có ý gì đây hả? Em đâu phải dân lý luận chuyên nghiệp đâu chứ? Câu hỏi đó lại quá thâm sâu.” Thái Hồng không kiềm được muốn chửi trời tiếp. “Em nghiên cứu về Beauvoir, chứ có phải là Butler đâu. Em nào biết được ông thầy điên đó lại cho thi Butler chứ!”

“Anh tưởng rằng em ít nhiều gì cũng biết chút ít về Butler.” Quý Hoàng nói. “Tính “biểu biễn” của Butler là một khái niệm quan trọng trong nghiên cứu giới tính. Bài cô Quan Diệp dạy không thể nào không nhắc đến.”

“Nhắc thì cũng có nhắc”, Thái Hồng cúi gằm mặt, tựa như bị người khác nắm thóp. “Em cũng có ghi chép lại, nhưng đó là chuyện của hai năm trước, quên sạch từ lâu rồi. Nhưng mà, anh đừng lo! Em viết rất nhiều, rất dài… chỉ là không chắc lắm… có lẽ đã lạc đề đến tận đẩu tận đâu rồi.”

Đến phiên Quý Hoàng sốt ruột: “Rốt cuộc em trả lời như thế nào? Nói anh nghe xem, để anh biết rốt cuộc em chạy lạc đến bao xa rồi.”

Thái Hồng tìm một chiếc ghế đá rồi ngồi xuống, nghĩ ngợi, nói: “Trước tiên, em phân tích một đống cái gì là “biểu diễn”, biểu diễn là một người dùng hành vi diễn dịch “cái tôi” lý tưởng nhất của mình đến trạng thái lý tưởng nhất, thực ra cũng gọi là “biểu hiện”. “Biểu diễn” cũng là một người đóng vai một người khác, là sự biểu đạt trạng thái nội tâm bằng hành động. “Tính biểu diễn” là chỉ sự thuật lại quyền lực và kết cấu trên người của một người, cho nên nó không phải là sự biểu đạt tự do dục vọng cá nhân, mà là những truyền thống và quy tắc xã hội thông qua cá nhân để tiến hành sao chép cái tôi. Cho nên điểm khác biệt lớn nhất của “biểu diễn” và “tính biểu diễn” là, khi biểu diễn, cá nhân ít nhất có thể ý thức được có một chủ thể nào đó đang biểu diễn, còn “tính biểu diễn” lại mang ý nghĩa chủ thể biến mất, cá nhân bị các quy tắc bắt trở thành người phát ngôn thay cho nó. Ví dụ như em đóng vai Trương Phi, đó chính là biểu diễn, bởi em biết em không phải Trương Phi. Còn nếu như em trông thấy anh tô son môi rồi trêu cười anh, thì đó là “tính biểu diễn”, bởi vì quy tắc xã hội ám chỉ làm như thế không giống một người đàn ông, và trong tiềm thức của em mặc định ngầm quy tắc này. Cho nên hành vi của em chính là thuật lại quy tắc một lần trước mặt anh…”

“Câu hỏi sáu mươi điểm mà em chỉ nói có bấy nhiêu thôi?” Quý Hoàng nhướn mày.

“Đương nhiên là không chỉ có bấy nhiêu, mấy cái như quyền lực của Foucault, chủ thể của Lacan, dấu hiệu của Derrida em đều mang vào chém gió hết… Tuy không diễn đạt hết ý nhưng chắc chắn nội dung trong đó rối tung rối mù, dám cá có thể ru ngủ Thôi đại tiên luôn, ngủ một giấc tỉnh dậy thấy em viết nhiều như thế không có công lao cũng có khổ lao, nói sao cũng phải cho em một nửa số điểm. Hi hi!”

Quý Hoàng phì cười, vỗ vỗ đầu cô: “Cô nhóc cũng thông minh đấy chứ. Thực ra em trả lời cũng không tính là lạc đề, một nửa số điểm chắc chắn là lấy được.”

Thái Hồng mừng rỡ: “Thật hả? Ý anh nói em là thiên tài đúng không?”

“Không dám khen bừa em là thiên tài”, đôi mày anh dãn ra. “Nhưng cũng rất có thực lực đấy.”

“Nếu người chấm bài là anh thì hay quá rồi. Gặp phải ông thầy Thôi đại tiên đó, có trời mới biết kết quả sẽ như thế nào!”

“Bài thi chắc chắn là thầy Thôi chấm.” Anh ngại ngùng cười cười. “Nhưng mà đề thi là anh ra.”

“Oa! Hu hu hu… Anh chơi em! Anh đừng có mà chơi người ta thế chứ!” Thái Hồng nhảy bổ vào, ra thế bóp cổ anh.

Thái Hồng trải qua một buổi chiều vui vẻ trong căn hộ của Quý Hoàng. Mấy tháng nay ôn tập căng thẳng, về nhà còn phải đối diện với vẻ mặt lạnh như tiền của Minh Châu và những ánh mắt dò xét của các bà dì, cô thím trong tòa nhà, ấy thế mà đúng lúc này Tô Đông Lâm, tấm bia đỡ đạn cao cấp của cô lại ra nước ngoài bàn chuyện dự án.

Khi ánh mặt trời uể oải từ ngoài cửa sổ chiếu vào, làn gió nhẹ lướt qua ban công thổi rơi đóa hải đường trên ban, Thái Hồng sực nhớ đến một câu trong Lậu Thất Minh: “Núi dẫu không cao, có tiên nên danh”, nhà này tuy nhỏ, cũng đủ gửi gắm một đời người. Tiện tay với lấy một cuốn tạp chí, cô nhàn nhã ngồi trên ghế mây, lắng nghe Quý Hoàng tất bật dưới bếp. Lật được hai trang, cô chạy xuống bếp từ sau lưng vòng tay ôm anh.

“Chuyện gì đấy?” Anh rải một chút hành tây thái nhỏ vào nồi canh cá đang sôi sùng sục. Giơ một tay ra, siết chặt lấy cô.

“Để em giúp anh nhé?” Cô nói.

“Không phải đã giúp anh thái dưa leo rồi sao?”

Cô vùi mặt vào bờ lưng anh, tay bóp mạnh ba cái vào lòng bàn tay anh: “I love you.”

Vài đĩa thức nhắm bình thường, thông qua bàn tay kỳ diệu của Quý Hoàng liền trở thành món khai vị thượng hạng. Thái Hồng ăn ngon lành, còn uống hết một chai bia to. Trước khi màn đêm buông xuống, cô tạm biệt anh ra về, biết rằng ở nhà mẹ chắc cũng đã làm xong một bàn thức ăn chờ cô về.

Bởi thái độ kiên quyết của Minh Châu, để giảm thiểu xung đột, mỗi tối Thái Hồng đều về nhà trước chín giờ đêm. Nếu không về thì chẳng khác nào tự tìm phiền phức, vì Minh Châu sẽ liên tục dội bom điện thoại cho cô. Khi về đến nhà cô không những phải nhìn nét mặt hầm hừ của bà, mà còn phải khai báo đã đi đâu, làm gì…. Dù cô có giải thích thế nào, cuối cùng bà vẫn dồn sự hoài nghi về phía Quý Hoàng, sau đó là một trận quở trách cộng thêm nói bóng nói gió…

Thái Hồng ngao ngán nói với Quý Hoàng: “Thứ em nghiên cứu là chủ nghĩa nữ quyền, nhưng chủ nghĩa nữ quyền trên người em thực sự lại là một trò cười.”

Cô không nhắc đến cách nhìn của nhà cô đối với anh, thứ nhất, Quý Hoàng là người thông minh, thứ hai, thế giới của Quý Hoàng là một thế giới trong trẻo, mớ lý luận trần tục của cha mẹ cô sẽ chỉ làm vấy bẩn anh mà thôi.

Cứ từ từ, cô có thời gian, rồi tất cả mâu thuẫn sẽ được giải quyết, bởi vì không có ai là người xấu cả. Thái Hồng luôn tự nhủ với lòng mình như vậy.

Cô không thể ngờ rằng mình và Quý Hoàng lại kết thúc một cách chóng vánh đến thế.

Hai tuần sau khi kết thúc kỳ thi, Quý Hoàng từ trước đến giờ chưa từng nghỉ tiết bất ngờ xin nghỉ phép ba tuần.

Mẹ anh lâm bệnh nặng.

Biền biệt năm ngày không điện thoại, Thái Hồng thấy ngày dài đằng đẵng. Mãi đến cuối tuần mới nghe Quý Hoàng bảo bệnh thận của mẹ anh chuyển nặng, dạ dày và phổi đều xuất hiện dấu hiệu lây nhiễm, đang tiến hành trị liệu thẩm tách.

Thực ra so với những người cùng tuổi, thu nhập của Quý Hoàng không phải là thấp. Dù mỗi tháng phải đóng hơn một nghìn tệ tiền nhà, anh độc thân đơn chiếc, tiết kiệm chi tiêu cũng đủ sống qua ngày. Sở dĩ anh phải đi làm thêm là vì sức khỏe mẹ anh không tốt, lại không có bảo hiểm y tế. Ngoài ra hai đứa em trai đều theo học trường trung học trọng điểm của Trung Bích, tiền sinh hoạt, tiền học và tiền ăn ở đều do một mình anh gánh vác.

“Đủ tiền dùng không?” Thái Hồng hỏi.

“Anh có tiết kiệm được một số tiền, tạm thời không sao.” Chăm sóc người bệnh rất vất vả, giọng của anh khàn hẳn đi.

“Hay là anh đưa bác gái lên đây điều trị đi? Bệnh viện ở đây lớn, nhiều bác sĩ giỏi, điều kiện lại tốt.” Thái Hồng đề nghị. “Hơn nữa em lại có nhiều thời gian rảnh hơn anh, có thể giúp anh chăm sóc cho bác.”

“Cảm ơn em. Anh khuyên mẹ rồi”. Quý Hoàng nói. “Nhưng bà lo tiền viện phí đắt quá, kiên quyết không đi.”

“Thế có ảnh hưởng đến việc điều trị không?”

“Anh đang suy nghĩ cách khác.”

Không thể vắng tiết quá lâu, khi quay về, trông Quý Hoàng hốc hác hẳn đi. Anh bảo, bệnh viện mẹ anh đang nằm tuy điều kiện không tốt lắm nhưng thuốc thang cần dùng đều có đủ. Anh thuê y tá chăm sóc bà, nên tạm thời không có vấn đề gì. Có thể thấy anh đang rất lo lắng, nhưng anh cũng không nói cụ thể về bệnh tình của mẹ.

Mấy ngày sau, anh bắt đầu đi làm thêm không ngừng nghỉ, tất cả các buổi tối đều đi làm đến tận mười hai giờ đêm. Thái Hồng hỏi anh có cần giúp đỡ không, anh lắc đầu. Bao nhiêu năm nay cuộc sống của anh đều trôi qua như thế, mẹ thường xuyên lâm bệnh, phải nằm viện nhiều, bắt đầu từ năm nhất anh đã quen với cuộc sống bận rộn và vất vả này rồi…

Con nhà nghèo quả nhiên ý chí kiên cường…

Thái Hồng nhẩm tính, một ngày Quý Hoàng nhiều nhất cũng chỉ ngủ được khoảng bốn tiếng đồng hồ. Vốn có thể ngủ thêm một tiếng nữa, nhưng anh dùng thời gian đó để chạy bộ buổi sáng, cho nên khi thầy Quý xuất hiện trước mặt sinh viên, trông anh tràn trề sinh lực, thần sắc rạng rỡ, chỉ có Thái Hồng là đau thắt trong lòng, vì cô biết anh đã sức cùng lực kiệt, tựa như cánh cung sắp hết đà vì quá lao lực.

Chắc chắn anh đang rất cần tiền.

Mấy ngày sau, suy đoán của cô đã được chứng thực. Một buổi chiều, Thái Hồng gặp Quan Diệp, trong lúc tán gẫu có nhắc đến Quý Hoàng, Quan Diệp nói: “Bệnh của mẹ cậu ta không nhẹ, nghe nói là suy thận, một tháng gần đây toàn dựa vào trị liệu thẩm tách để duy trì sống.”

Không ngờ lại nghiêm trọng đến thế, Thái Hồng ớ lên một tiếng: “Có biện pháp chữa trị nào không?”

“Cô có nhờ người quen tìm một chuyên gia về thận dò hỏi giúp cậu ta rồi, với tình hình trước mắt, biện pháp duy nhất là thay thận.” Quan Diệp nói. “Nguồn thận hạn hẹp, nhà cậu ta cũng chẳng mua nổi, cho nên cậu ta định hiến thận của mình. Dù như thế, tiền phẫu thuật cũng phải đến trăm nghìn.”

Thái Hồng nuốt nghẹn: “Cái gì? Một trăm nghìn? Đắt thế sao?”

“Em đừng quên đó là phẫu thuật hai người. Tiền thuốc sau phẫu thuật cũng rất đắt, một tháng cũng phải tốn khoảng bốn nghìn. Bản thân cậu ta có tiết kiệm được một khoản tiền, cô cho cậu ta vay thêm một ít, nhưng chắc vẫn còn thiếu, chỉ không biết là bao nhiêu.”

Thái Hồng cảm thấy hơi bực tức, chuyện lớn thế này mà Quý Hoàng không nói gì với cô, chẳng lẽ anh sợ cô lo lắng sao? Ngẫm nghĩ lại, bản thân cô cũng làm gì có tiền, tiền lương chưa đến cuối tháng đã tiêu hết sạch, bất đắc dĩ còn đến chỗ Quý Hoàng ăn cơm chùa, việc đến nước này cũng chỉ có thể lo suông mà thôi.

“Thế thì… thiếu một quả thận có ảnh hưởng gì đến sức khỏe của anh ấy không?” Thái Hồng lại hỏi. Tuy cũng nghe nói người khỏe mạnh chỉ cần một quả thận là đủ rồi, nhưng dù sao cũng là động đến dao kéo, là cắt nội tạng chứ có phải chuyện đùa đâu!

“Cậu ta làm xét nghiệm ở bệnh viện rồi. Cậu ta có chung nhóm máu với mẹ mình, nội tạng cũng tương thích, về phía Quý Hoàng thì tỷ lệ thành công rất cao, hồi phục cũng sẽ tốt. Nhưng bệnh tình của mẹ cậu ta tương đối phức tạp, ghép thận xong rồi liệu có thể bình phục hay không vẫn còn chưa biết. Hơn nữa, mất một quả thận vẫn có ảnh hưởng đối với cơ thể, sau phẫu thuật phải đặc biệt chú ý đến vấn đề ăn uống, không được để bị cảm, cũng không được làm nhiều việc nặng…”

Đêm đó, Thái Hồng đã mất ngủ.

Mấy năm nay cô cũng tiết kiệm được một số tiền, cộng lại chắc cũng được mười nghìn, toàn bộ đều giao cho mẹ gửi vào ngân hàng hết. Chuyện tiền bạc Thái Hồng không rành mấy, cũng chẳng bao giờ bận tâm, Minh Châu là nhân viên tài vụ, đương nhiên để bà lo liệu cho. Sau đó Minh Châu bảo, trừ mười nghìn kia ra, mỗi năm bà đều gửi một số tiền vào tài khoản đó, tuy không nhiều, nhưng tích tiểu thành đại, còn hơn để Đại Lộ lấy đi mua rượu. Đợi sau này cô đi lấy chồng rồi cũng có cái làm bệ đỡ khi về nhà chồng.

Thế là vào buổi trưa ngày hôm sau, Thái Hồng giả vờ lơ đãng hỏi dò Minh Châu: “Mẹ ơi, số tiền mà con để dành, có thể lấy ra một ít không?”

Minh Châu đang xào đồ ăn, gương mặt hơi biến sắc: “Con cần tiền à?”

“Không phải, Hàn Thanh nói dạo này ngân hàng trung ương điều chỉnh lãi suất, muốn trả nợ sớm trước thời hạn, đi xoay xở, gom góp tiền cũng gần đủ rồi, hỏi con có thể giúp cô ấy một chút không… Bây giờ tiền lương của cô ấy cao lắm, có lẽ không lâu sau là có thể trả con rồi.”

Minh Châu đưa mắt nhìn cô một cái, phán đoán xem những lời nói đó là thật hay giả, rồi cười nhạt: “Lương nó cao như thế, sao lại có thể để tâm đến chút tiền tiết kiệm còm cõi của con?”

“Tiền lương cao nhưng để trả góp cũng cao mà, lãi suất cũng cao nữa.” Nói đến trình độ đặt ra mấy lời nói dối vô hại để đánh lừa người khác, đẳng cấp của Thái Hồng không phải là thấp, nếu không thì thời đại học cô cũng chẳng thể ăn không nói có, viết được biết bao nhiêu bức thư tình. Ngặt nỗi Minh Châu lại là tử huyệt của cô, mẹ cô cười một tiếng, cô tức thì chột dạ, giữa chừng bất giác chùng giọng.

“Một tháng lương của nó hơn mười nghìn con có biết không hả? Không nhắc đến chuyện này thì thôi, nhắc đến là mẹ lại bực mình! Con đúng là đồ đầu đất! Công việc tốt như thế tại sao con không làm? Giới thiệu cho nó làm gì? Hả? Con là cái đồ chân đèn đế cao, chỉ rọi được người khác mà chẳng rọi được chính mình! Đầu óc lú lẫn rồi!”

Thái Hồng sượng trân: “Con? Con đi làm gì? Con đâu có thiếu việc làm?”

“Con không thiếu việc làm nhưng con thiếu tiền, con biết không hả? Hai đứa con tốt nghiệp cùng một khoa, trình độ con còn cao hơn nó, công việc nó làm được, con cũng làm được. Một tháng người ta kiếm được bằng nửa năm tiền lương của con, một cơ hội tốt như thế, sao lại nhường cho nó chứ? Xem người ta kìa, nhờ vào quan hệ của con mà trở nên khá giả rồi đấy, thấy chưa? Căn hộ mấy trăm nghìn cũng sắp trả xong rồi. Con nhìn lại nhà mình đi… muốn đổi sang tầng khác cũng chẳng được. Tiểu thư của tôi ơi! Sao con lại không bớt ngốc nghếch một chút hả?”

“Mẹ, tiền lương của Hàn Thanh sao mẹ lại biết?” Đây là con số mới nhất về lương của Hành Thanh, còn cao hơn cả mức lương hướng dẫn tiến sĩ, Thái Hồng nghe mà giật nẩy mình.

“Nó gọi điện thoại tìm con mấy lần con đều không có nhà, mẹ bèn ngồi nói chuyện với nó một chút, hỏi mấy câu là nó khai hết, còn không ngừng cảm ơn con nữa kìa!”

“Ồ!”

“Số tiền còm cõi đó của con chỉ là hạt muối bỏ biển, đừng có ở đó tự làm mất mặt mình. Nó thiếu tiền, có ông chủ lớn là Tô Đông Lâm ở đó không mượn, mượn con làm gì?”

“Mẹ à!” Thái Hồng nói, vẻ nghiêm túc. “Đông Lâm là bạn tốt của tụi con, nhưng bọn con không bao giờ mượn tiền của anh ấy. Đông Lâm có bao nhiêu tiền chẳng liên quan đến tụi con. Nếu suốt ngày chỉ nhắm vào tiền của anh ấy, quan hệ giữa bọn con với anh ấy đã biến chất mất rồi.”

“Quan hệ giữa con với cậu ta đúng là nên thay đổi đi!” Minh Châu phẩy tạp dề một cái, hai tay chống nạnh, trưng ra tư thế bắt đầu tranh luận. “Nói thật đi, có phải con và Quý Hoàng vẫn còn qua lại với nhau không? Đừng có nghĩ bà già này không biết! Đông Lâm không gọi điện đến nhà chúng ta là một chứng cứ rõ ràng.”

Bị Minh Châu khí thế bừng bừng trách móc, Thái Hồng cũng mất hết bình tĩnh: “Quý Hoàng là thầy hướng dẫn của con, cũng là đồng nghiệp của con, ở trường làm sao mà không chạm mặt nhau được, sao có thể không qua lại cơ chứ? Hơn nữa, cũng không đáng để mẹ phải gọi điện lên tận lãnh đạo khoa để phá hoại thanh danh của người ta vì chuyện đó chứ! Mẹ à, có phải mẹ làm hơi quá rồi không? Con thật sự không dám tin mẹ lại có thể làm chuyện như thế!”

“Quá đáng ư? Chẳng quá đáng tí nào cả!” Giọng của Minh Châu bỗng chốc vút cao. “Nếu con còn không chịu cắt đứt với gã họ Quý đó, Lý Minh Châu này quyết sẽ đối đầu với hắn đến cùng!” Dứt lời, bà cầm con dao lên, “phập” một cái, chém đứt đôi củ cà rốt trên thớt.

Thái Hồng chỉ cảm thấy sống lưng lạnh toát, bèn quay đầu bỏ đi.

Ra đường rẽ phải, lại rẽ qua vài con phố, có một trung tâm giao dịch đá quý nổi tiếng của thành phố nằm ở đó.

Trên cổ Thái Hồng luôn đeo một mặt ngọc phúc lộc thọ nhân sinh như ý, là của bà ngoại để lại cho cô. Phỉ thúy của Myanmar, có màu xanh dịu nhẹ, màu sắc trong suốt, không vương chút tạp chất nào. Nghe Minh Châu nói, mặt ngọc này bà ngoại có rất nhiều, tiếc là thời Cách mạng văn hóa bị bà ném hết xuống sông Trường Giang. Mảnh ngọc này luôn được Minh Châu mang bên mình nên mới không bị vứt xuống sông. Cho nên mỗi lần nhắc đến của hồi môn của Thái Hồng, Minh Châu đều tỏ vẻ rất tự hào. Mặt ngọc này là phỉ thúy hảo hạng nhờ những người chuyên nghiệp trong giới xem, ai cũng nói nó đáng giá hơn hai trăm nghìn. Khi nhà hết tiền cũng từng nghĩ đến việc mang đi bán, có hỏi qua vài người nhưng họ ra giá thấp vô cùng, ai cũng nói nghề làm ngọc này trông thì có giá đấy, nhưng lại không dễ chuyển đổi thành tiền mặt như vàng, một miếng ngọc để trong tiệm những mấy năm vẫn không bán được là chuyện bình thường. Minh Châu bèn từ bỏ ý nghĩ đó, để Thái Hồng đeo, coi như bảo bối gia truyền.

Thái Hồng đi thẳng lên “Bích Ngọc Hiên” trên tầng hai, chủ tiệm là bạn thời trung học của cô, Thái Tiểu Huy.

Tháo mặt ngọc ra, nắm trong lòng bàn tay, cảm nhận sự ấm áp, nhẵn mịn của nó lần cuối, Thái Hồng quyến luyến đặt nó vào tay Tiểu Huy. Tiểu Huy dùng kính phóng đại và đèn pin tụ quang xem xét kỹ lưỡng, gật đầu một cách hài lòng: “Ừm, là hàng tốt. Tuy không to nhưng rất dày, chất địa cũng rất thuần.”

“Là bà ngoại để lại cho mình. Ông ngoại mình trước giải phóng là hội trưởng thương hội của thành phố này, tên Lý Sĩ Khiêm, cậu từng nghe qua chưa?”

“Lý Sĩ Khiêm, mình biết đấy!” Ánh mắt Thái Tiểu Huy long lanh ngời sáng. “Là nhà đại tư bản ấy chứ! Nghe nói lần đầu tiên thành phố mình lắp đèn đường là ông ấy làm đó.”

“Mình thiếu tiền, muốn bán miếng ngọc này, cậu ra giá đi.”

“Hả? Người ta vẫn nói vàng bạc có giá ngọc vô giá, nếu mua vào, giá cả không thể bẳng giá bán được đâu.” Cậu ta cầm trên tay nghiên cứu một hồi, lại bước vào phòng trong dùng máy móc chuyên dụng kiểm tra, một lúc sau bước ra, nói. “Thế này đi, nể tình mình và cậu quen biết nhau, mình trả cậu mười lăm nghìn.”

Thái Hồng vừa nghe xong, cảm thấy hơi buồn: “Ít vậy sao? Mẹ mình nói miếng ngọc này đáng giá hai trăm nghìn cơ.”

“Đó là trước kia. Bây giờ trên thị trường, phỉ thúy cũng nhiều, làm ăn không dễ. Miếng ngọc này á, mình thấy có thể bán được giá một trăm hai mươi nghìn, nhưng phải xem cái duyên đã, trong thời gian ngắn chắc chắn không bán được, để trong tủ trưng vài năm cũng là chuyện thường. Chỗ này bọn mình thống nhất giá mua hết, đều là một phần mười của nguyên giá, vả lại chỉ giới hạn mua loại ngọc cao cấp, hàng bình thường bọn mình không nhận. Trả cậu mười lăm nghìn là nhiều hơn ba nghìn rồi.”

Thái Hồng ngẫm nghĩ, ngước nhìn cậu ta, mặt tiu nghỉu đến tội nghiệp, nói: “Nể tình bọn mình là bạn học cũ, cậu trả mình hai mươi nghìn được không? Nếu không phải cần tiền gấp mình cũng chẳng nỡ bán nó đâu.”

Thái Tiểu Huy đưa mắt quan sát cô một cái, Thái Hồng vội trưng ra vẻ mặt sầu thảm, cậu thở dài, nói: “Thế này đi, nể tình xưa kia cậu chịu cho mình chép bài tập, mười tám nghìn. Mình chỉ có thể trả bấy nhiêu thôi. Không tin cậu có thể mang nó đi một vòng tầng hai hỏi người khác, giá này thực sự là giá cao nhất rồi.”

“Thôi cũng được.”

Thái Hồng rút ra hai nghìn cuối cùng trong thẻ của mình, góp lại thành hai mươi nghìn, bỏ vào trong một phong bì, nhắm thời gian rảnh hẹn Quý Hoàng ra đưa cho anh: “Anh này, mẹ anh bệnh nặng, cần tiền đúng không? Đây là hai mươi nghìn, anh mang về dùng tạm đi.”

Anh không chịu nhận, cô cứ dúi vào tay anh, hào phóng nói: “Cũng chẳng phải tặng không anh đâu, cái này coi như của hồi môn của em, tạm để ở chỗ anh trước.”

Quý Hoàng cười khổ: “Quả là một cô nhóc ngốc nghếch! Người ta mà biết thế nào cũng cười em thối mũi, người chưa gả vào nhà, của hồi môn đã gửi trước rồi.”

Thái Hồng vòng tay ôm cổ anh, không ngượng ngùng hôn anh một cái: “Trông thấy anh mệt như thế em đau lòng lắm. Đừng đi làm thêm nhiều vậy nữa, được không anh?”

Quý Hoàng ngẫm nghĩ, cầm lấy phong bì, nghiêm túc nói: “Cám ơn em, tiền này coi như anh mượn em. Cho anh thời gian một năm, ngày này năm sau anh nhất định sẽ trả lại em.”

Dứt lời, anh kéo ngăn bàn ra tìm giấy bút.

“Ôi trời! Anh làm gì thế?” Thái Hồng ngăn anh lại.

“Anh viết giấy nợ.”

“Nợ cái đầu anh ấy! Với em mà cũng phải nghiêm chỉnh đến thế sao? Nếu em không tin anh, liệu em có thể cho anh mượn không? Anh coi em là con ngốc à? Nếu còn khách khí với em như thế, em trở mặt bây giờ đấy.” Nói rồi, cô cầm giấy bút ném lại vào ngăn bàn, rồi đưa tay vuốt ve gương mặt anh, gương mặt ấy đã hốc hác đến nỗi xương gò mà nhô lên, lại dùng ngón tay khẽ miết nếp nhăn trên trán anh. “Em bây giờ không có bệnh tật hay tai nạn gì, tiền không cần trả gấp đâu, anh đi làm thêm ít thôi, nghỉ ngơi nhiều vào anh nhé!”

Quý Hoàng ngồi xuống, cầm lấy tay cô, nói: “Về bệnh tình của mẹ anh, có vài điều anh muốn nói cho em biết… Mẹ anh bị suy thận giai đoạn cuối, rất nghiêm trọng, cần phải thay thận. Anh…”

“Cái này là phẫu thuật lớn lắm, đúng không anh?” Thái Hồng có một người bạn thời tiểu học, cha của người đó từng phẫu thuật thay thận, lúc đó nghe nói nếu phải mua thận rất tốn kém, chỉ một quả thận thôi giá đã là hai trăm nghìn, chưa kể chi phí phẫu thuật. May mà nhà bạn đó giàu có, cuộc phẫu thuật thành công, cha cậu ta vẫn khỏe mạnh sống đến tận bây giờ.

“So với các loại phẫu thuật cấy ghép nội tạng khác, nó tương đối đơn giản.”

“Thế thì… đã tìm được thận chưa?” Cô hỏi.

“Bác sĩ nói nếu là người thân trực hệ có nội tạng tương thích thì càng tốt, tỷ lệ thành công càng cao.” Anh đáp. “Hơn nữa… có thể tiết kiệm tiền.”

Mặt cô thoáng tái đi, khẽ cầm lấy tay anh: “Em hiểu, cô Quan đã kể cho em nghe rồi.”

Anh lặng lẽ ngồi đó, một lúc lâu không nói gì. Hồi sau, đang định cất lời, Thái Hồng liền đưa tay chặn môi anh: “Anh cứ yên tâm làm phẫu thuật, em sẽ chăm sóc anh và bác gái thật tốt.”

Trên mặt anh hiện lên nét cười khổ: “Sau khi cắt đi một quả thận, có thể sẽ có di chứng… anh muốn nói là cuộc sống sau này. Chẳng hạn như không được uống rượu, không được uống cà phê v.v… Nếu như…”

“Thế thì không uống.” Thái Hồng nói. “Đâu phải là em không được uống, nên em sẽ không khó chịu đâu.”

Anh thoáng ngập ngừng, nói tiếp: “Đương nhiên còn có những cái khác nữa…”

Thái Hồng ngượng ngùng: “Đừng nói là không thể làm… chuyện đó nhé? Thế thì em thực sự phải bỏ cuộc rồi.”

“Cái đó thì không ảnh hưởng.” Anh vội đính chính, sau đó phì cười. “Xem em nghĩ đến chuyện gì kìa.”

Thái Hồng vỗ vỗ vai anh, nói: “Thế thì không sao. Cùng lắm sau này không để anh làm việc nặng, em kiếm tiền nhiều chút, thuê người thay bình ga thôi!”

Anh siết chặt cô vào lòng, nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên môi cô, nói: “Thực sự rất xin lỗi em, anh cũng không nghĩ sự việc lại đến nước này.”

Thái Hồng lại hỏi: “Tiền phẫu thuật có đủ không anh? Nếu không đủ, em có thể mượn một số bạn bè, chắc chắn có thể gom đủ.”

“Đã đủ rồi.” Anh nói. “Anh đã liên hệ được một chuyên gia phẫu thuật thận rồi, mấy ngày nữa sẽ đi làm vài xét nghiệm.” Anh thoáng ngừng, rồi lại thở dài: “Vấn đề là mẹ anh kiên quyết không chịu phẫu thuật. Anh vừa nhắc chuyện này mẹ liền nổi giận, nhất định không đồng ý.”

“Vì sao? Đây là chuyện tốt cơ mà!”

“Mẹ bệnh từ rất lâu rồi, bị trầm cảm nhẹ, gần đây cảm xúc không ổn định lắm.” Có thể thấy rõ nét âu sầu, lo lắng trên gương mặt anh.

“Đừng lo. Sau phẫu thuật, sức khỏe của bác gái sẽ hồi phục, mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi.”

“Thực ra tình trạng của mẹ không lạc quan đến thế, chỉ là… anh không muốn từ bỏ hy vọng, dù chỉ là một tia hy vọng mong manh anh cũng muốn nắm lấy. Chuyện phẫu thuật anh định giấu mẹ. Nói với mẹ rằng bệnh tình mẹ không nghiêm trọng đến mức phải thay thận, chỉ cần cắt bỏ một quả thận hỏng là được rồi.”

Thái Hồng gật đầu, tỏ ý hiểu: “Khi nào tiến hành phẫu thuật?”

“Bác sĩ nói càng nhanh càng tốt, anh định vào mùng Một tháng sau.”

“Lịch dạy của anh thì sao?”

“Cô Quan sẽ giúp anh đứng lớp một tuần, sau khi phẫu thuật một tuần là anh có thể xuất viện rồi.”

Xem ra mọi việc đã được sắp xếp xong xuôi hết. Cô nhìn anh, cảm thấy có chút bi thương: “Dù sao cũng là cuộc phẫu thuật lớn, xem anh nói đơn giản chưa kìa!”

Cụp mắt hồi lâu, anh nắm tay cô, dáng vẻ áy náy như có lỗi: “Xin lỗi em, trước giờ anh không kể cho em nghe nhiều chuyện. Không phải anh cố ý giấu em, mà thực sự anh không ngờ bệnh tình của mẹ lại đột ngột xấu đi như vậy, cầm bệnh án của mẹ đến đây tìm bác sĩ để hỏi thăm anh mới dám tin… Bệnh của mẹ vì lao lực mà ra, cuộc đời mẹ chưa sống được ngày nào sung sướng. Anh luôn nghĩ rằng, sau này cuộc sống ổn định, anh sẽ hiếu thảo phụng dưỡng mẹ thật chu đáo, không biết ước nguyện này có thể thực hiện được không.”

“Yên tâm! Bác gái ở hiền ắt gặp lành, chắc chắn bác sẽ vượt qua cửa ải này!”

“Quả thận này… không còn cách nào khác… anh chỉ có thể dâng hiến cho mẹ mà thôi.” Anh nghiêm túc nói. “Thế nhưng em hãy yên tâm, sau phẫu thuật, anh sẽ chăm sóc sức khỏe của mình thật tốt, không để xảy ra chuyện gì đâu…”

Thái Hồng ngượng chín người. Cảm giác anh như đang lo lắng điều gì đó, và muốn cố gắng chứng minh điều gì, nhưng đến giờ cô vẫn ngây ngô không hề nghĩ sẽ có hậu quả đáng sợ nào xảy ra. Nghe anh nói như thế, bất chợt một cảm giác sợ hãi dâng lên trong lòng cô.

Phẫu thuật liệu có thất bại không?

Mất một quả thận, quả thận còn lại liệu có đủ để duy trì nửa đời sau của anh? Lỡ như quả thận duy nhất ấy của anh cũng mắc chứng viêm thận thì sao? Đến lúc đó, ai sẽ hiến thận cho anh đây?

“Hôm nay có món cật heo mà con thích đấy.” Minh Châu cười tươi, nói. “Thái Hồng à, mẹ đã hẹn cho con ba giờ chiều thứ Bảy tuần này rồi, dì Chu nói sẽ giới thiệu một chàng trai cho con… con đừng có đánh trống lảng với mẹ và dì nữa đấy.”

Nhìn những món ăn nóng hổi đang bốc khói nghi ngút trên bàn, đột nhiên cô cảm thấy buồn nôn.

Full | Lùi trang 7 | Tiếp trang 9

Loading...

Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!

Chúc các bạn online vui vẻ !

Laptop Tùng Anh

Tour Phú Quốc

Vinhomes Cầu Rào 2

Trang Chủ