Chương 3
Họ cần phải cố gắng bò lên thêm vài mét nữa, dù rằng trận mưa đã ngớt đi nhiều, đất dưới chân chỗ họ đang ngồi có thể rã ra bất cứ lúc nào và lôi họ xuống vực. Cậu thuyết phục cô gắng sức một lần cuối và họ bắt đầu một chặng đường hết sức nguy hiểm. Có lúc cô đã phải hét lên để gọi cậu, chân cô bị kẹt. Vừa đỡ cô, cậu vừa vòng qua một bên để bò xuống bên dưới và thận trọng gỡ chân cô ra khỏi vật gì đó mà trong bóng tối không thể nhận ra. Sau một chằng đường leo núi gian nan, cuối cùng họ cũng bò được lên đến triền núi, chỗ khúc quanh phía trên của con đường. Họ băng qua đường và ngồi tựa lưng vào vách núi. Một lúc sau đó, cơn giông với tính khí thất thường và dữ dội đổi hướng đi về phía đỉnh núi Ignacio cách đó 100 cây số, suy yếu dần và tan ra hẳn tại đó. Bầu đoàn của nó và những cơn mưa như trút cũng ra đi theo.
- Tôi rất tiếc, Juan nói.
- Về chuyện gì cơ?
- Vì đã cướp đi của cô cơ hội có đám tang linh đình, chúng ta thoát rồi!
- Ồ, không sao đâu, cậu đừng lo, tôi có hai ba cô bạn chưa lấy chồng ở tuổi ba mươi cơ, bởi vậy tôi vẫn còn có thể chờ thêm vài năm nữa để được đưa ma mà không bị xem là gái già.
Juan không thích thú lắm với cái kiểu khôi hài của Susan, cậu đứng dậy để chấm dứt cuộc nói chuyện. Ngày vẫn chưa bắt đầu, phải chờ cho trời sáng để có thể đi tiếp trên con đường dẫn tới làng. Trong bóng tối, mỗi bước đi đều rất mạo hiểm. Cả hai người uớt sũng và cô bắt đầu run lên, không chỉ vì bị lạnh mà còn vì những cảm xúc hoàn toàn chính đáng của một người may mắn thoát trong cái chết trong chân tơ kẽ tóc. Cậu chà xát cho cô thật mạnh.
Hai ánh mắt gặp nhau. Răng đánh lập cập, giọng run run, cô đẩy mặt cậu ra xa khỏi mặt mình.
- Juan, cậu là một thanh niên rất đẹp trai, nhưng cậu còn quá trẻ để sờ soạng vú tôi, có lẽ cậu không nghĩ thế, tôi có thể hiểu được điều đó, nhưng đối với tôi, cậu còn phải chờ thêm vài năm nữa.
Juan không chịu nổi kiểu nói của cô. Ngay lập tức, cô thấy vẻ mặt của cậu với hai mắt nheo lại. Nếu không quá rõ khả năng bình tĩnh đến đáng nể của người bạn đồng hành, hẳn cô đã ngờ rằng cậu sẽ cho cô một cái tát. Juan chẳng làm gì hết, cậu chỉ tách xa khỏi cô, bóng của cậu chợt biến mất hẳn. Cô gọi tên cậu trong bóng tối tưởng như dài vô tận.
- Juan, tôi không muốn làm tổn thương cậu!
Để vẫy cho khô cánh, vài con dế lại bắt đầu tiếng kêu râm ran đơn điệu.
- Juan, đừng có giận như vậy, quay trở lại đây và nói với tôi đi!
Bình minh sắp sửa lên. Susan ngồi tựa người vào một gốc cây chờ ngày mới bắt đầu.
Cô hơi thiu thiu ngủ. Khi người đàn ông lay vai cô, ban đầu cô tưởng là Juan, nhưng cái người nông dân đang ngồi xổm trước mặt cô không giống Juan chút nào. Ông ta mỉm cười. Da ông nhăn nheo vì những cơn mưa đã in dấu lên cuộc đời ông. Cô bàng hoàng nhìn cảnh vật hoang tàn xung quanh. Phía dưới kia, cô có thể nhận ra cái gốc cây nhô lên khỏi mặt đất, chính nó đã giữ họ lại, và xa hơn chút xíu, cô nhìn thấy gò đất nơi họ đã ẩn náu, và cuối cùng dưới đáy vực, xác chiếc Dodge gần như đã bị vùi lấp hẳn.
- Ông có thấy Juan đâu không? Cô hỏi giọng yếu ớt.
- Chúng tôi chưa tìm thấy cậu ta, nhưng chúng tôi chỉ có hai người đi tìm cô và cậu ấy.
Mọi người đã nghe thấy tiếng chiếc xe tải. Rolando một mực tin rằng ông đã nhìn thấy đèn pha lao chúi xuống khe núi, nhưng trong khi cơn giông điên cuồng vẫn còn đang hoành hành, việc đi kiếm người là quá nguy hiểm; ông đã không thể thuyết phục được ai đi cùng ông. Khi cơn giông vừa lắng, ông đã cử hai dân làng mang theo một cái xe lừa đi tìm họ, ông tin chắc rằng nếu may mắn lắm tìm được họ còn sống, thế nào họ cũng bị thương và cần chở về làng bằng xe. Người lớn tuổi hơn nói với Donã Blanca rằng cô hẳn đã may mắn được một vị thần hộ mạng che chở thì mới sống sót được qua một cơn bão như vừa rồi.
- Phải đi tìm Juan!
- Không cần phải đi tìm, chỉ cần mở to mắt ra thôi! Cả ngọn đồi đã bị quét sạch, từ đây cho đến tận sâu dưới thung lũng, chẳng còn sinh linh nào sống sót. Nhìn phía bên phải xem, xác chiếc xe tải của cô nhô lên khỏi mặt đất. Nếu thằng bé không thể lên được tới làng có nghĩa là nó đã bị chôn sâu ở đâu đó dưới bùn. Chúng tôi sẽ làm một chữ thập và sẽ cắm xuống tại nơi mà cô và người bạn đồng hành của cô bị trượt xuống khỏi đường.
- Con đường đã bị trượt đi, không phải chúng tôi!
Người trẻ hơn trong hai người đàn ông vung sợi dây da và con lừa bắt đầu lên đường. Trong khi con vật ì ạch tiến lên, Susan băn khoăn lo lắng về số phận của cậu bé được cô bảo trợ, người này đã trở thành vị thần hộ mệnh của cô, cô nghĩ.
Một tiếng đồng hồ sau, họ tới được cổng làng. Cô vội nhảy khỏi chiếc xe lừa và gào lên tên Juan. Chẳng có ai đáp lại lời cô. Chỉ tới lúc đó cô mới nhận thấy bầu không khí im lặng là lùng bao trùm lên con đường duy nhất của ngôi làng. Chẳng có ai ngồi tựa lưng trước cổng nhà hút thuốc lá như mọi khi, không bóng dáng một người dân đi trên con đường dẫn ra suối. Lập tức cô nghĩ đến những cuộc đụng độ đôi khi dẫn đến những trận chiến giữa người dân vùng núi với nhóm phiến quân trên đường chạy trốn khỏi Salvador. Nhưng biên giới cách đó rất xa và người ta chưa bao giờ thấy sự xuất hiện của phiến quân trong những khu vực xung quanh đây. Cô hoảng loạn. Cô gào lên một lần nữa gọi tên người bạn của mình, nhưng câu trả lời duy nhất mà cô nhận được chỉ là chính tiếng cô vọng lại từ vách núi.
Juan xuất hiện dưới cổng của ngôi nhà nằm tận cuối đường. Gương mặt còn nhem nhuốc đầy vết đất khô với những nếp nhăn để lộ rõ nỗi buồn của cậu. Cậu chậm chậm tiến lại gần Susan. Cô đang giận điên người.
- Thật là ngu xuẩn khi cậu bỏ lại tôi một mình như vậy, tôi đã lo lắng cho cậu đến phát điên, đừng bao giờ chơi cái kiểu như vậy với tôi nữa, cậu có phải là đứa bé lên mười đâu!
Cậu nắm lấy cánh tay cô và kéo cô đi theo.
- Đi theo tôi và đừng nói nữa.
Cô vùng ra từ chối không chịu đi theo và nhìn thẳng vào mắt cậu.
- Cậu thôi ngay cái kiểu lúc nào cũng bảo tôi im miệng như vậy đi!
- Tôi xin cô đấy, đừng lớn tiếng, chúng ta không có nhiều thời gian để mất đâu.
Cậu dẫn cô đến trước ngôi nhà nơi cậu vừa bước ra khỏi lúc nãy và họ chui vào căn phòng duy nhất của nó. Trên cửa sổ, người ta căng những tấm vải màu để ngăn không cho ánh sáng chiếu vào. Susan phải mất mấy giây để cho đôi mắt cô quen dần với bóng tối. Cô nhận ra tấm lưng của Rolando Alvarez. Ông đang quỳ gối. Ông đứng dậy và quay về phía cô, đôi mắt đỏ vằn tia máu.
- Thật là một điều kỳ diệu vì cô đã có mặt ở đây, Donã Blanca, con bé không ngừng gọi tên cô.
- Chuyện gì đang xảy ra ở đây? Tại sao làng lại trống trơn không có một bóng người?
Ông đẩy cô về phía cuối văn phòng, vén một bức màn để lộ chiếc giường kê sát vách.
Cô nhận ra cô bé, nguyên nhân để cô dấn thân vào chuyến đi mạo hiểm này. Nó nằm bất tỉnh trên giường. Nhìn vào gương mặt nhỏ bé nhợt nhạt, mồ hôi chảy từng dòng, người ta có thể đoán được nguồn cơn của cơn sốt đã quật ngã cô bé. Susan kéo mấy tấm chăn ra. Khúc chân ít ỏi còn sót lại của cô bé tím tái, sưng tấy vì bệnh hoại thư. Cô nhắc áo lên và thấy bẹn của bé cũng bị lở loét. Khắp cơ thể đã nhiễm trùng. Từ phía sau lưng cô bé, giọng ông Rolando run run, giải thích rằng vì trận bão hoành hành từ ba ngày nay mà ông đã không thể mang cô bé xuống dưới thung lũng. Ông đã cầu nguyện để nghe thấy tiếng xe tải của cô, và trong đêm tối, ông những tưởng lời khẩn cầu của mình được chấp nhận, và rồi ông đã nhìn thấy ngọn đèn pha của xe lao xuống chiếu sáng vực núi. Dù sao cũng phải cảm ơn Chúa vì Donã đã sống sót. Dù sao đối với con ông cũng đã quá muộn, ông đã cảm nhận điều đó từ hai hôm nay, cô bé không có sức lực để chống chọi với căn bệnh nữa. Những người phụ nữ trong làng thay phiên nhau túc trực cạnh giường cô bé, nhưng từ hôm trước, cô bé đã không mở mắt ra nữa và không thể ăn uống được gì. Ông đã mong có thể cứu được cô bé thêm một lần, ông sẵn sàng cho đi một bên chân của chính mình nếu có thể làn được điều đó. Susan ngồi xuống bên cạnh thân thể nhỏ bé bất động, cô lấy miếng vải đang ngậm trong tô nước, vắt khô rồi dịu dàng chấm những giọt mồ hôi đang rịn ra trên trán cô bé. Cô đặt một nụ hôn lên đôi môi nhỏ và thì thầm vào tai cô bé một chuỗi những lời hỗn độn buột ra khỏi miệng cô.
- Chị đây, chị đến để chữa bệnh cho em đây, mọi việc sẽ ổn thôi. Hôm qua ở thung lũng dưới kia, đột nhiên chị nhớ em, muốn gặp em quá, và bây giờ chị đã đây rồi. Khi nào em khỏi bệnh, chị sẽ kể cho em nghe, chị đã trải qua một hành trình gian khổ lắm mới đến được đây...
Susan nằm xuống sát bên cạnh cô bé, lùa những ngón tay vào mài tóc đen dài của em để gỡ những lọn tóc rối và thơm lên gò má nóng hổi của em.
- Chị muốn nói với em là chị yêu em và nhớ em nhiều lắm. Nhiều lắm lắm. Ở dưới kia, lúc nào chị cũng nghĩ đến em. Chị muốn lên đây sớm hơn nhưng không được vì mưa lớn quá. Juan đang ở đây, anh ấy cũng muốn gặp em. Chị muốn đưa em ra bờ biển, chị sẽ dạy em bơi và chúng ta sẽ bơi theo những con sóng. Em chưa bao giờ nhìn thấy gì như vậy đâu, đẹp lắm. Khi mặt trời nhô lên phía trên mặt biển, đại dương giống nhu một tấm gương. Rồi chúng ta sẽ cùng đi thăm khu rừng trải dài xa tít tắp, có những con thú đẹp tuyệt.
Susan ôm chặt lấy cơ thể cô bé trong lòng mình, và cô cảm thấy những nhịp tim cuối cùng trong cơ thể ấy đang tắt dần, ngay cạnh trái tim cô. Đầu cô bé giờ đã trở nên nặng trĩu, cô đưa tay nâng lấy và ép sát vào ngực mình rồi bắt đầu hát khe khẽ. Cô cứ hát ru mãi như vậy cho đến khi ngày tàn hẳn. Tối đến, Juan lại gần và quỳ xuống bên cạnh cô.
- Đã đến lúc phải xa cô bé rồi, chúng ta sẽ phủ mặt em lại để em có thể lên được thiên đàng.
Susan không nói nữa. Ánh mắt trống rỗng vô hồn, cô nhìn chăm chăn lên trần nhà. Juan phải nâng cô dậy và đỡ ngang vai cô. Cậu đưa cô ra ngoài. Khi đi ra đến cửa, cô quay người lại. Một người phụ nữ đã đắp kín cơ thể của cô bé lại. Susan thả mình trượt xuống dọc theo tường, Juan ngồi cạnh cô, cậu chân một điếu thuốc lá và đưa đến miệng cô. Cô ho một chặp sau khi rít hơi đầu tiên. Họ cứ như vậy, nhìn chăm chăm lên những vì sao trên bầu trời.
- Cậu có nghĩ là cô bé đã ở trên đó rồi không?
- Có.
- Lẽ ra tôi phải đến sớm hơn.
- Bởi vì cô nghĩ rằng cô sẽ thay đổi được điều gì sao? Cô không hiểu gì hết về ý muốn của Chúa. Hai lần Người đã gọi cô bé về với Người, cả hai lần con người đã chống lại ý muốn của Chúa: Alvarez đã cứu cô bé khỏi cơn thác bùn, và sau đó, cô đã mang cô bé về để phẫu thuật cho bé. Nhưng bàn tay của Người bao giờ cũng có quyền năng hơn. Người muốn cô bé ở bên Người.
Những giọt nước mắt to lăn dài trên gò má Susan. Cơn tức giận và nỗi đau đớn khiến cho lòng cô quặn lại. Rolando Alvarez bước ra khỏi căn nhà và tiến lại phía họ. Ông ngồi xuống cạnh cô. Cô cúi xuống giấu mặt mình vào giữa hai đầu gối và không thể kiềm chế được cơn giận dữ của mình nữa:
- Phải đi đến cầu nguyện nơi nhà thờ nào đây để trẻ con không còn phải chịu những nỗi thống khổ, và, nếu chúng phải chết, còn ai là người vô tội trên cái hành tinh đầy rẫy những điều ngu xuẩn này?
Alvarez đứng bật dậy và nhìn Susan với một ánh mắt kiêu hãnh. Bằng môt giọng mạnh mẽ và kiên quyết, ông nói với cô rằng Chúa không thể ở khắp mọi nơi, rằng Người không thể cứu tất cả mọi người. Còn đối với Susan, vị Chúa đó đã hoàn toàn quên không ngó ngàng gì đến đất nước Honduras này từ lâu rồi.
- Cô hãy đứng dậy và đừng có than vãn cho chính mình nữa, ông tiếp tục. Có hàng trăm đứa trẻ bị chôn vào đất nơi vùng thung lũng này. Đây chỉ là một đứa trẻ mồ côi đã cụt mất một chân. Nó sẽ hanh phúc bên cha mẹ nó hơn ở đây. Cô còn phải biết khiêm tốn, nhẫn nhục hơn để có thể hiểu được điều đó. Nỗi đau này không thuộc về cô, và đất đai của chúng tôi đã chứa quá nhiều nước rồi, đừng đổ thêm những giọt nước mắt của cô nữa. Nếu như cô không dằn lòng được, hãy đi về đi!
Nói đoạn, người đàn ông với dáng vẻ uy nghi quay gót và biến mất nơi góc đường. Juan để mặc Susan với sự im lặng của cô. Đi theo hướng Alvarez đã đi, cậu tìm thấy ông đang dựa vào một bức tường đắp bằng đất. Ông đang khóc.
Tiếp đó là một mùa xuân tang tóc trôi qua theo nhịp của những lá thư mà hai người gửi cho nhau. Trên đường đi của mình, hẳn chúng gặp nhau đâu đó trên bầu trời Trung Mỹ.
Tháng Ba, Philip thổ lộ với Susan nỗi lo lắng của anh khi các tờ báo của New York đăng tin về những nguyên nhân và hậu quả của lệnh giới nghiêm đưa ra tại Nicaragua, nơi mà theo anh, biên giới quá gần với chỗ cô đang sống. Cô trả lời anh rằng thung lũng Sula cách xa với tất cả. Mỗi lá thư của Philip đều kết thúc bằng một câu hay mô từ nói về sự vắng mặt của cô và nỗi đau mà nó gây ra cho anh; mỗi lá thư trả lời của Susan lại là một lần lẩn tránh chủ đề này. Philip làm việc ột hãng quảng cáo đặt tại đại lộ Madison. Mỗi sáng, sau khi đi bộ băng qua khu SoHo, anh lên chuyến xe bus của mình và nửa tiếng sau đã có mặt tại văn phòng. Suốt nửa tháng nay, cả ekip của anh như đang lên cơn sốt từ khi bắt đầu cuộc tranh đua giành hợp đồng làm chiến dịch quảng cáo truyền thông cho hãng Ralp Lauren. Nếu ekip của anh chiến thắng, sự nghiệp của anh sẽ bắt đầu, đây là lần đầu tiên anh thử sức trong vài trò sáng tạo, và, hàng ngày, trong khi cặm cụi trên bàn vẽ, anh đã mơ tưởng đến ngày anh sẽ quản lý cả bộ phận. Như bao lần khác, anh lao đầu tập trung hoàn toàn vào công việc để rồi nộp bản vẽ phác thảo của anh gần như trước cả khi chúng được đặt hàng.
Sau lần chạy trốn khỏi nhà anh lúc rạng sáng ngày đầu năm mới, Mary đã gọi lại cho anh và từ đó, họ gặp nhau đều đặn mỗi tuần hai lần tại góc phố Prince và Mercer, cùng đi ăn tối tại nhà hàng Fanelli's, nơi có thực đơn vừa túi tiền của họ. Lấy cớ cung cấp cho cô những chủ đề thú vị mà cô có thể sử dụng để viết báo, anh thường xuyên nói cới cô về Susan, và hay phóng đại những câu chuyện cô kể cho anh trong thư để chúng thêm phần hấp dẫn. Buổi tối tiếp tục trong không gian đầy khói thuốc và ồn ào của quán. Đến khi đang nói dở một câu, anh thấy hai mí mắt cô đã nặng, anh liền tính tiền và cùng đi bộ tiễn cô về.
Từ khoảng thời gian cuối tháng Ba này, họ bắt đầu cảm thấy lúng túng khi nói tạm biệt. Hai mái đầu họ sát gần lại, nhưng vào khoảng khắc hứa hẹn một nụ hôn, Mary lại kín đáo lùi lại rồi biến mất hút trong bóng tối âm u lối vào khu chung cư nơi cô ở. Thế là, Philip lại thọc sâu hai tay trong túi áo choàng và trở về nhà, vừa đi vừa suy nghĩ về số phận của mối quan hệ đang được hình thành giữa cô phóng viên thực tập và anh hoạ sĩ thiết kế quảng cáo.
Ngoài đường trang phục của giới nữ báo hiệu đang độ giữa xuân. Philip không hề sống thời khắc những mầm non nẩy lộc của tháng Tư, cũng không để ý đến những chiếc lá rụng vào tháng Sáu, chừng nào còn dồn hết tâm trí vào công việc. Ngày 14 tháng Bảy, sét đánh trúng vào hai nhà máy điện của New York, khiến cho cả thành phố chìm ngập trong bóng tối trong suốt 24 giờ đồng hồ. "Sự cố lớn" được đăng trên trang nhất của tất cả các tờ báo trên thế giới, làm tăng vọt tỉ lệ sinh nở chín tháng sau đó, riêng Philip vẫn ở nhà một mình miệt mài ngồi vẽ suốt đêm với ba ngọn nến đặt trên bàn.
Giữa tháng Tám, Mary vừa trải qua một tuần nghỉ ngơi vui chơi tại nhà các bạn cô ở vùng Hamptons. Ngày hôm sau, cô bắt đầu ngày làm việc đầu tiên của mình với tư cách phóng viên hợp đồng tại toà soạn báo Cosmopolitan.
Chiếc phi cơ của Susan vừa rời trạm quá cảnh sân bay Miami. Tại sân bay Newark, nhà ga sân bay đang tạm đóng cửa để sửa chữa. Philip ra tận hành lang lên máy bay để đón cô. Cũng chỉ một lần này thôi. Cô đặt túi hành lý xuống đấy và lao vào vòng tay anh. Họ cứ đứng như vậy thật lâu, ôm chặt lấy nhau. Anh nắm tay cô, cầm lấy chiếc ba lô nhỏ và kéo cô về phía quán bar.
- Lỡ bàn của chúng ta có người ngồi rồi thì sao?
- Anh đã lo trước rồi!
- Dừng lại đã nào, để em ngắm anh chút đã. Anh trông già đi đấy!
- Cảm ơn em, thật tử tế.
- Không, em thấy trông anh như thế này rất đẹp.
Những ngón tay của cô vuốt dọc hai bên má anh, cô mỉm cười âu yếm nhìn anh và kéo tay anh về nơi đã trở thành một chốn đặc biệt của riêng họ. Cô trông thật rạng rỡ dù còn mệt mỏi sau chuyến đi. Anh hỏi cô thật lâu, thật kỹ về những gì cô đã sống trong năm vừa qua, như thể để xoá đi mọi dấu vết của những giây phút cuối cùng trong lần gặp nhau trước của họ, cô không nói gì về mùa đông cô vừa trải qua. Trong khi cô miêu tả cho anh nghe một ngày bình thường của mình, Philip cầm lấy bút chì và bắt đầu vẽ khuôn mặt cô trong cuốn vở gáy lò xo của anh.
- Thế còn Juan của em, cậu ấy thế nào rồi?
- Em đang tự hỏi khi nào thì anh sẽ nhắc đến chuyện đó. Juan đi rồi. Chỉ có Chúa mới biết liệu em có còn gặp lại cậu ấy hay không.
- Hai người cãi nhau à?
- Không mọi chuyện phức tạp hơn thế. Chúng em đã mất một bé gái, và từ đó, mọi thứ không còn như trước nữa; có một điều gì đó đã vỡ và chúng em đã không thể hàn gắn lại. Có những lúc em và cậu ấy đã ngồi nhìn nhau trừng trừng hàng giờ, như thể cả em và cậu ấy đều có lỗi trong cái chết của cô bé.
- Đêm đó có chuyện gì đã xảy ra?
- Trời mưa, đường đi bị sạt lở khỏi thành núi, em đã suýt làm hại cậu ấy.
Cô không kể cho anh nghe thêm gì khác. Có những câu chuyện chỉ thuộc về những người gặp nạn, và sự kín đáo của những người cứu hộ giúp cho những bí mật ấy được giữ kín. Đầu tháng Năm, Juan đã đến nhà cô, trên vai vác một túi vải lớn màu xanh lá cây. Cô hỏi có phải cậu định đi đâu không? Cậu nhìn thẳng vào mắt cô đầy kiêu hãnh, thông báo rằng mình sẽ ra đi. Ngay lập tức, cô cảm thấy cô sẽ rất nhớ cậu, giống như cô đã từng đau đớn khi tất cả những người mà cô yêu quý đều lần lượt đột ngột biến mất. Đứng ở bậc thềm ngôi nhà nhỏ khiêm tốn của cô, hai tay chống nạnh như để biểu lộ rõ hơn nỗi tức giận trong lòng, từ phía cao hơn, cô không tiếc lời mạt sát cậu. Juan không hề phản ứng lại, điều đó làm cho nỗi tức giận trong cô cuối cùng cũng dịu xuống. Cô ôm xiết lấy cậu trong vòng tay, sau đó chuẩn bị bữa tối cho cậu.
Khi chiếc đĩa cuối cùng được lau khô và xếp vào tủ, cô chùi tay vào quần và quay về phía cậu. Cậu đã đứng ở giữa căn phòng duy nhất trong nhà, túi hành lý để dưới chân, vẻ mặt tiu nghỉu. Thấy thế, cô mỉm cười và, để cho giây phút chia tay dễ dàng hơn, cô chúc cậu lên đường bình an và mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống. Quên đi trong giây lát sự ngượng ngùng của mình, cậu tiến đến gần bên cô. Cô đưa hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt cậu và đặt môi mình lên môi cậu. Sáng hôm sau, từ rất sớm, cậu đã ra đi, chân bước trên những con đường quê hương, đi về phía một giai đoạn mới của cuộc đời. Những tuần sau đó, Susan đã cố gắng chống lại nỗi buồn xâm chiếm lấy cô khi cánh cửa nhà chỉ mở ra trên nỗi cô đơn của chính mình.
- Em nhớ cậu ấy phải không?
- Juan đã nói đúng, chỉ nên phụ thuộc vào chính mình; những người xung quanh ta đều tự do, và việc gắn kết cuộc đời vào một người nào đó là một điều ngu ngốc, nó chỉ khiến cho ta phải đau đớn.
- Vậy là em sẽ không ở lại! Hay là anh phải hỏi lần này em sẽ ở lại trong bao nhiêu tiếng đồng hồ?
- Philip, đừng bắt đầu như vậy!
- Tại sao? Bởi vì nhìn vào em, anh có thể đoán được điều em còn chưa nói, rằng trong một tiếng nữa, em sẽ lại ra đi, và em sẽ lại phải đặt cuộc đời của mình đằng sau ba dấu chấm lửng cho đến năm sau phải không? Anh biết là em sẽ không ở lại, trời ạ, anh đã chuẩn bị tinh thần bao lần để nghe điều đó từ em. Em sẽ đợi đến bao nhiêu tuổi nữa mới nghĩ đến chúng ta, đến cuộc sống của em, cuộc sống thực sự của một người phụ nữ?
- Em mới hai mươi tư tuổi, em còn nhiều thời gian!
- Điều mà anh đang cố gắng nói cho em hiểu, đó là em đang hi sinh cuộc đời của mình cho rất nhiều người, nhưng em vẫn chỉ có một mình, chẳng có ai trong cuộc đời em, để chăm sóc cho em, bảo vệ em, hay ít ra cũng để làm tình với em mỗi đêm.
- Nhưng anh biết gì về cuộc sống của em nào? Anh thật quá đáng, chắc em có cái vẻ mặt thèm khát của một người đàn bà lâu không được làm tình lắm hả?
Susan hét lên, Philip sững lại trong giây lát. Anh cắn môi, tìm cách nối lại cuộc chuyện trò của họ.
- Đó không phải là điều anh muốn nói và em không cần phải hét lên như vậy đâu, Susan.
- Em gào lên như vậy bởi vì anh đã điếc mất rồi. Em không thể sống vì một ngưồi đàn ông duy nhất, mỗi ngày em đang nuôi ba trăm người như vậy, em không thể có con, em đang cố gắng để ột trăm mười đứa trẻ được sống sót, chỉ tính riêng trong thung lũng nơi em ở.
- À! Thế là em có thêm mười đứa nữa hả? Lần trước, em mới chỉ có một trăm đứa!
- Không, năm nay, em đã có thêm mười tám đứa nữa, trừ đi tám đứa em đã đem chôn, tổng cộng vẫn còn một trăm mười đứa, nhưng lần này cái hay ho đã giảm đi tám lần, anh vừa lòng chưa! Xung quanh em toàn là những đứa trẻ mồ côi, quỷ tha ma bắt!
- Và bởi vì chúng giống em nên em muốn cứ mãi như chúng. Ý nghĩ trở thành một người mẹ trước khi là một đứa trẻ mồ côi không có chút hấp dẫn nào với em ư?
- Anh say sưa với lối phân tích của anh để rồi nói với em những điều ngu ngốc đó hả? Anh không thể hiểu được là cuộc sống mà em đang có quá nguy hiểm hay sao?
Người phục vụ bàn tiến lại gần yêu cầu họ bình tĩnh lại. Anh ta kín đáo nháy mắt với Philip và đặt một ly kem lớn trước mặt Susan. Bằng thứ tiếng vùng Ca-xti chuẩn xác, anh ta nói với cô rằng ly kem này do nhà hàng tặng cô, và rằng có rất nhiều lát hạnh nhân dưới lớp sô-cô-la lỏng. Khi rời khỏi bàn, anh ta lại gật đầu ra hiệu với Philip bấy giờ đang làm vẻ như chưa hề nhìn thấy gì.
- Cái anh chàng phục vụ này, hắn nói với em bằng tiếng Tây Ban Nha như vậy có ý gì chứ? cô hỏi vẻ sững sờ.
- Chẳng có gì cả, anh ta chẳng có ý gì với em hết, mà em nói nhỏ hơn chút được không, quỷ tha ma bắt!
Cô chuyển sang thì thầm cố ý thách thức anh.
- Em sẽ không chấp nhận khả năng bị bỏ rơi một lần nữa đâu, em không có cậu, cũng chẳng có gì để thừa kế nếu lỡ có sự gì xảy ra.
- Em đừng có nhầm lẫn giữa những cái cớ này cớ khác mà em viện ra cho những lý do thực sự, em chỉ làm khổ chính mình thôi! Nếu có chuyện gì không hay xảy ra với em như em nói, anh sẽ luôn ở bên em. Em sợ phải phụ thuộc người khác về mặt tình cảm, nhưng Susan, yêu không phải là từ bỏ tự do của mình, mà là mang đến cho nó một ý nghĩa.
Philip không hề muốn cuộc gặp gỡ ngắn ngủi của họ lại kết thúc như lần vừa rồi, nhưng anh không tìm được chủ đề nói chuyện nào khác. Bởi vì tâm trí của anh không làm sao giải phóng được những từ ngữ ngổn ngang đang đè nặng lên nó, và vì anh không sao diễn đạt cho chính xác thành lời.
- Hơn nữa, đã có chiếc mặt dây chuyền của anh bảo vệ em.
- Anh có một trí nhớ thật khéo chọn lọc khi việc đó có lợi cho anh.
Cô chịu mỉm cười và nhận ra ánh mắt của anh khi cô đưa tay vào dưới lớp áp pull. Cô lấy chiếc mặt dây chuyền nhỏ.
- Anh có muốn vào toilet thay đồ không? Cô hỏi vẻ kiêu ngạo, kể cho em nghe về cuộc sống của anh đi?
Đỏ mặt vì bị bắt quả tang khi đang thèm muốn cô, anh kể với cô về những trọng trách được giao phó. Dù chưa hoàn toàn chính thức, nhưng trên thực tế anh đã đứng đầu một nhóm nhỏ, quản lý sáu nguồn kinh phí khác nhau. Nếu mọi việc tiếp tục như thế này, chỉ sau hai năm nữa, anh sẽ trở thành giám đốc bộ phận thiết kế sáng tạo. Ngoài ra anh chẳng có gì đặc biệt kể với cô. Cô không để anh thoát dễ dàng đến thế.
- Thế còn cô bạn gái di xem phim với anh, cô ta chỉ bấu vào tay anh trong khi xem phim kinh dị hay cả bên ngoài phòng chiếu?
- Bộ phim hôm đó hoàn thoàn không phải là một phim kinh dị!
- Thêm một lý do, anh đừng làm điệu bộ nữa, sao rồi, anh và cô ấy đến đâu rồi?
- Chẳng tới đâu hết!
- Nghe này tình yêu bé bỏng của em, trừ khi anh đã bị mất đàn ông tính, anh phải nhận ra là có điều gì đó đang xảy ra trong cuộc đời anh chứ.
Anh phản pháo lại lời khen ngợi của cô. Cô nói là không có thời gian, nhưng chắc hẳn cô đã từng suýt ngã vàovòng tay của người đàn ông nào đó trong những tối vui chơi khởi đầu tại một quán bar, dù chỉ để tìm thấy nơi đó nột chút nhiềm an ủi mà cô đang tìm kiếm. Anh cũng nói đến trạng thái giống hệt như thế để lý giải cho đời sống độc thân của mình. Susan lại tấn công tiếp, dịu dàng hơn, và xoay câu hỏi của mình theo một cách khác. Anh nói đến những buổi đi chơi rất tâm đầu ý hợp với Mary Gautier Thomson, phóng viên tạp chí Cosmopolitan, người mà mỗi tuần ba lần, anh tiễn về đến tận nhà nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra.
- Cô ấy hẳn phải tự hỏi không biết anh có vấn đề gì không.
- Cô ấy cũng vậy, cô ấy không bao giờ chủ động vượt khỏi ranh giới!
- Cô gái này mới thật là cao tay đấy, bởi vì bây giờ chúng ta sẽ là người phải đi bước đầu tiên phải không?
- Em đang đẩy anh vào vòng tay của cô ấy đấy à?
- Em có cảm giác là cũng chằng cần phải đẩy mạnh cho lắm để anh ngã vào cô ấy.
- Như vậy em sẽ hài lòng à?
- Câu hỏi của anh thật kì cục.
- Sự nghi ngờ gặm nhấm con người ta hàng ngày, Susan ạ. Thật là dễ nếu như có ai đó quyết định thay ình.
- Nhưng mà quyết định gì cơ chứ?
- Quyết định lấy đi của chúng ta mọi hi vọng.
- Đó là một chủ đề khác, Philip. Để có một câu chuyện, cần phải có những con người phù hợp vào đúng thời điểm phù hợp.
- Thật là dễ biết mấy khi chỉ cần tự nhủ chưa phải là một thời điểm phù hợp, nhưng đó chính là lúc mà số phận buộc chúng ta phải phân định rõ mọi chuyện.
- Anh muốn biết em có nhớ anh không chứ gì? Câu trả lời là có. Thường xuyên không à? Gần như là mọi lúc, chính xác hơn là ngay khi em có thì giờ, và điều này có thể anh thấy rất vô lý, nhưng em cũng chẳng biết rằng chính em vẫn chưa sẵn sàng.
Cô nắm lấy bàn tay anh và áp má mình lên đó, anh mặc cho cô như vậy. Cô nhắm mắt lại và anh có cảm giác như cô sắp sửa ngủ thiếp đi trong khoảng khắc êm đềm này. Anh ước gì nó kéo dài hơn chút nữa, nhưng tiếng nói từ loa nhà ga đã vang lên thông báo đã đến lúc họ phải chia tay. Cô vẫn cứ để cho hàng giây trôi qua, như thể cô không nghe thấy lời thông báo. Khi anh vừa phác một cử chỉ, cô nói với anh rằng cô biết, rằng cô đã nghe thấy. Cô để yên như vậy thêm vài phút, mắt nhắm nghiền, đầu ngả vào cánh tay anh, và bất chợt bằng một cử chỉ dứt khoát, cô đứng bật dậy, mở to mắt. Cả hai cùng đứng lên và anh ôm cô vào lòng, tay còn lại cầm túi hành lý. Trong hành lang dẫn về phía máy bay, cô hôn lên má anh.
- Anh phải tới với cô bạn gái phóng biên tạp chí mốt lừng danh của anh đi! Nếu như cô ấy xứng đáng với anh. Dù sao đi nữa, anh không đáng phải sống một mình mãi như vậy.
- Nhưng mà anh rất thoải mái khi độc thân thế này.
- Thôi đi, em biết anh quá rõ, cái anh đặc biệt sợ là sự cô đơn. Philip, ý nghĩ rằng có anh ở đó chờ đợi em khiến cho em cảm thấy yên tâm, nhưng em không đủ ích kỉ để kham nổi nó. Em, thực không dám chắc rằng một ngày nào đó, em sẽ mong muốn sống cùng với một ai, và dù em biết chắc chắn không một mảy may nghi ngờ rằng nếu điều đó xảy ra, người ấy sẽ là anh, ván cá cược cho tương lai này vẫn là rất bất công. Rồi anh sẽ căm ghét em.
- Em đã xong chưa? Em sẽ lỡ chuyến bay đấy!
Họ bắt đầu chạy về phía cánh cửa, nó đang khép lại quá nhanh.
- Hơn nữa, một chút tình cảm thoáng qua cũng chẳng có hại gì cho anh cả!
- Ai nói với em nó sẽ chỉ là một tình cảm thoáng qua?
Cô chìa ngón tay út ra và với một dáng điệu ranh mãnh, cô nhìn chăm chăm vào ngón tay: "Nó!" (Người Pháp có câu thành ngữ "Ngón tay út đã nói cho tôi nghe rồi"). Cô nhào tới ôm lấy cổ anh, hôn vào gáy anh rồi chạy vụt về phiá hành lang dẫn ra máy bay. Cô quay đầu lại lần cuối cùng và gửi cho anh một nụ hôn. Khi cô khuất hẳn, anh thì thầm: "Ba chấm lửng cho đến năm sau."
Về đến nhà, anh quyết định sẽ không để mình đắm chìm vào nỗi buồn của những ngày sau khi cô đi. Anh nhắc điện thoại lên và yêu cầu cô tiếp tân nối máy cho anh nói chuyện với Mary Gautier Thomson.
Họ gặp lại nhau khi màn đêm buông xuống, tại chân của toà tháp. Ánh sáng đèn lấp lánh bao trùm lên những ngừơi qua đường tại Quảng trường Thời Đại những màu sắc kì lạ. Trong rạp chiếu phim đang chìm trong bóng tối của bộ phim Một người đàn và bị ảnh hưởng, anh thoáng chạm nhẹ vào cánh tay cô. Hai tiếng sau, họ cùng thả bộ, đi ngược lên con phố số 42. Đến Đại lộ số 5, anh nắm tay cô và kéo cô băng qua đường trước khi đèn đường giải phóng cho đoàn xe đang đứng chờ. Một chiếc taxi vàng đưa họ về phía khu SoHo. Tại quán Fanelli's, họ cùng chia nhau một đĩa xa-lát, và cùng sôi nổi bàn luận về bộ phim của đạo diễn Cassavetes. Trước cửa ra vào chung cư nơi cô ở, anh tiến đến gần cô và những cái chạm má vô tình làm cho hai đôi môi khe chạm vào nhau, trong những nhịp tim đập dồn.
Trời mưa không ngớt từ nhiều ngày nay. Mỗi tối, những trận gió lốc báo trước những cơn dông sẽ rạch nát bầu trời đêm trong khu thung lũng. Những con đường đất bị những rãnh nước nhỏ xẻ ngang xẻ dọc, nước chảy rỉ rỉ đến tận chân của những căn nhà, xói mòn những nền nhà đắp đất tạm bợ. Nước mưa ngoan cố len lỏi qua các mái nhà, chảy thành dòng dọc theo xà nhà. Tiếng la hét và tiếng cười của lũ trẻ con vẫn gọi Susan là "Maestra"(1) làm thành nhịp điệu của những buổi học hàng sáng cô dạy chúng học trong nhà kho mượn tạm làn trường. Buổi chiều, hầu như bao giờ cô cũng lái chiếc xe Jeep Wagoneer, nó ngoan ngoãn và dễ sử dụng hơn chiếc Dodge già nua nhiều. Nhưng dù sao thì cô cũng vẫn tiếc khi mất chiếc Dodge. Cô đi khắp nơi trong thung lũng, mang đến ọi người thuốc men, thực phẩm và đôi khi là cả các giấy tờ hành chính mà cô cẩn thận giúp họ điền. Sau những ngày làm việc vất vả đến sụn lưng, thỉnh thoảng có những tối vui vẻ. Cô đi đến một trong những quán bar trong thung lũng, nơi mà đàn ông đến để uống bia và thứ đặc sản yêu thích của họ, guajo. Mùa đông ở Honduras năm nay đến sớm hơn dự kiến, đi liền với bầu không khí buồn thảm và cuộc chiến chống chọi lại với thiên nhiên bất kham. Để chống lại sự cô đơn của mùa đông, đôi lần Susan lấp đầy ban đêm của mình trong vòng tay của một người đàn ông, và không phải bao giờ cũng với cùng một người.
Ngày 10 tháng Mười một năm 1977,
Susan,
Em là người mà anh muốn chi sẻ tin vui này, chiến dịch quảng cáo lần đầu tiên của anh vừa gặp khách mua. Vài tuần nữa, một trong những dự án của anh sẽ trở thành những tấm áp-phích quảng cáo vĩ đại, dán ở khắp nơi trong thành phố. Đây là chương trình quảng cáo cho bảo tàng Nghệ thuật hiện đại. Khi nào chúng được in ra, anh sẽ gửi cho em bài báo sẽ được đăng trên một tạp chí chuyên ngành, anh vừa ở chỗ phỏng vấn. Lâu lắm rồi anh không nhận được thư của em. Anh biết rằng em rất bận, nhưng anh cũng biết rõ rằng đó không phải là lý do duy nhất của sự im lặng này. Anh thực sự nhớ em, có lẽ anh không nên nói với em điều này, nhưng anh sẽ không chơi với em cái trò chơi ngu ngốc kiểu "theo tình, tình phớt, phớt tình, tình theo".
Anh đã tưởng tượng chuyện anh đến thăm em vào mùa xuân, anh cảm thấy thật có lỗi vì đã không đề nghị với em điều đó sớm hơn. Anh cũng giống như tất cả mọi người, anh ích kỉ. Anh muốn đến để khám phá thế giới của em, để hiểu xem cái gì đã níu giữ em cách xa với cuộc sống của chúng ta, với tất cả những bí mật tuổi thơ mà chúng ta đã có. Thật trớ trêu khi ở nơi đâu cũng in dấu sự vắng bóng của em, anh vẫn thường xuyên hẹn hò với cô bạn mà anh đã kể cho em nghe, mỗi lần tiễn cô ấy về nhà, anh lại cảm thấy rõ rằng mình đang lẩn tránh. Tại sao anh lại nói với em những điều này? Bởi vì anh vẫn còn cái cảm giác rất vô lý là mình đang phản bội một niền hi vọng mà chưa bao giờ anh dám thú nhận. Anh phải dứt ra khỏi cảm giác này. Cũng có thể viết thư cho em là một cách để anh thức tỉnh.
Ngày mai, có thể em sẽ quay lại, nhưng anh muốn mình chưa từng phải chờ đợi em trong suốt thời gian trước đó, chưa từng phải nghe những lời mà em có thể nói với anh hay có thể không cần để ý đến chúng, với một thái độ nhẹ nhàng như một thứ đối trọng với sự vắng mặt của em. Anh sẽ không đến gặp em vào mùa xuân, đó không phải là một ý hay, dù cho anh rất thèm được làm như vậy, anh vẫn nghĩ tốt hơn anh cần phải tạo một khoảng cách với em, và qua khoảng cách giữa nhứng lá thư ít ỏi của em, anh đoán là em cũng đang làm như vậy.
Anh hôn em.
Philip
Tái bút: 7 giờ sáng, khi ngồi uống cà phê, anh đọc lại những gì đã viết cho em hôm qua, anh sẽ để em đọc những dòng chữ mà thường anh sẽ vứt vào thùng rác.
Như rất nhiều thứ ở xung quanh cô, Susan đang thay đổi. Khu tạm cư đang là nơi trú ngụ của hai trăm gia đình và nhịp sống của tất cả những con người mà nỗi đau chỉ vừa mới lành sẹo này dần dần đã giống với sinh hoạt của một ngôi làng. Mùa đông năm đó, những lá thư của Philip ngày càng thưa dần, và những câu trả lời cũng trở nên ngày càng khó viết. Susan ăn mừng tiệc đêm Giáng sinh cùng với nhóm làm việc của mình tại một nhà hàng ở Puerto Corres, mọi người đều có mặt đông đủ. Trời đẹp một cách lạ lùng và buổi tiệc chuếnh choáng hơi men kết thúc trên con đê chắn sóng đối diện với biển. Bên thềm năm mới, cả đất nước dường như đã tìm lại được nhịp sống náo nhiệt của mình. Bến cảng đã nhộn nhịp trở lại và từ nhiều tuần nay, màn múa bale của những chiếc cần cẩu xoay vòng phía trên những chiếc xe chở container không lúc nào ngưng. Từ sáng sớm đến chiều tối, bầu trời luôn có bóng máy bay qua lại, chuyên chở nối liền giữa các sân bay với nhau. Nhiều chiếc cầu vẫn chưa được xây lại nhưng người ta hầu như không còn thấy dấu vết của trận bão – hay cũng có thể người ta đã quen thuộc với chúng rồi. Bầu trời đầy sao hứa hẹn một năm mới tốt lành với những mùa gặt bội thu. Tiếng còi hơi rúc lên báo hiệu mưòi hai giờ đêm và con tàu chất đầy chuối chuẩn bị khởi hành đi châu Âu.
Buổi tối đêm giao thừa, Philip đến nhà đón Mary. Họ sẽ đến buổi tiệc do toà soạn báo của cô tổ chức tại tầng thứ ba mươi ba của một toà tháp nằm ngay cạnh toà tháp của tờ New York Times. Dưới lớp áo choàng, cô mặc một cái váy đen dài, cô đã quàng thêm chiếc khăn lụa mỏng. Cả hai người đều trong tâm trạng rất vui vẻ và dù thỉnh thoảng họ vẫn quay đầu lại để thử cố gắng gọi một chiếc taxi, họ biết rằng trong một dịp lễ như tối nay, họ sẽ phải đi bộ đến tận Quảng trường Thời Đại. Đêm đầy sao và êm dịu. Mary mỉm cười im lặng, còn Philip say sưa châm chọc, nói với cô về những mặt trái của nghề làm quảng cáo. Đèn đỏ giữ chân họ lại ở góc đường Phố 15.
- Anh nói nhiều quá phải không?
- Nhìn em có vẻ đang chán sao? cô trả lời.
- Em quá tử tế, em sẽ không bao giờ tỏ thái độ như vậy. Xin lỗi em, anh đã giữ tất cả những từ ngữ này trong suốt cả tuần, anh đã làm việc rất nhiều, đến nỗi gần như không hề nói chuyện với ai cả.
Họ rẽ một lối đi giữa ba trăm con người đang tập trung tại văn phòng nơi mà buổi tiệc đang đến hồi cao trào. Những món ăn buffet vừa dọn ra đã bị tấn công hết sạch và đội quân những người phục vụ đang nỗ lực tiếp viện đồ ăn. Phần lớn những chiến sĩ mặc đồng phục trắng phải quay lại giữa đường vì khay thức ăn mà họ bưng đã bị cướp phá sạch trước cả khi tới được đến đích. Có muốn nói, nghe hay thậm chí đến cả nhảy, người ta đều không thể làm được vì đám đông quá dày đặc. Hai giờ sau, Mary ra hiệu bằng tay cho Philip trong khi anh đang đứng nói chuyện cách cô vài mét. Tiếng ồn ào hỗn loạn khiến cho anh không thể nghe được một từ nào, nhưng ngón tay trỏ của cô đang chỉ về hướng duy nhất mà anh quan tâm, cửa ra. Anh khẽ gật đầu ra hiệu đã nhận được thông điệp và bắt đầu tìm cách rời khỏi phòng. Mười lăm phút sau, họ gặp lại nhau ở quầy gửi đồ. Cửa vừa đóng lại, không khí đã khác hẳn, sự yên lặng bao trùm khu hành lang chờ thang máy. Trong khi Philip bấm nút và đứng chờ phía trước lớp của đôi bằng đồng của cái thang máy ở chính giữa, Mary lùi ra xa và chầm chậm bước về phía hành lang chắn kính, nơi có thể nhìn toàn cảnh thành phố:
- Cái gì làm cho anh nghĩ rằng chiếc thang máy đó sẽ đến mà không phải là cái bên trái hay bên phải?
- Chẳng có gì cả, chỉ là một thói quen thôi, hơn nữa, đứng giữa, khoảng cách giữa anh và một trong những chiếc cửa sẽ mở ra là ngắn nhất.
Anh vừa dứt lời thì bóng đèn màu xanh lá cây phía trên đầu anh sáng lên, kèm theo một tiếng chuông.
- Em thấy không, anh đã nhắm chính xác!
Mary không phản ứng gì. Cô ép sát trán vào khung cửa kính. Philip để cho thang máy đi qua các tầng khác, đến lượt mình, anh tiến về phía cửa kính và đứng bên cô. Bây giờ, ánh mắt hướng về phía đường phố bên dưới, cô khẽ len bàn tay mình vào bàn tay anh.
- Một năm tốt lành, cô nói.
- Chúng ta đã chúc nhau điều đó từ suốt nửa giờ nay rồi!
- Em không nói về năm mới. Gần như cùng vào giờ này trong đêm giao thừa năm ngoái, anh đã tìm thấy em, chúng ta đã bơi trong bể người phía dưới kia thay vì đứng ở đây, hầu như đó là chi tiết khác biệt duy nhất. Thực ra, em cũng chẳng có gì để phải kêu ca, dù sao thì từ đó đến nay chúng ta cũng đã lên cao được đến ba mươi tầng lầu!
- Em đang cố nói điều gì vậy?
- Philip, đã một năm nay chúng ta cùng ăn tối ba lần mỗi tuần, từ một năm nay anh kể cho em nghe chuyện của anh và em cũng kể anh nghe chuyện của em, đã bốn mùa qua chúng ta cùng đi dọc những con phố trong khu SoHo, khu Village, khu NoHo, thậm chí một hôm chủ nhật, chúng ta đã đi đến tận TriBeCa. Chúng ta chắc đã mài mòn hết tất cả các băng ghế ở quảng trường Washington, thử tất cả các bữa brunch(1) ở đầu bên kia thành phố, cụng ly trong tất cả các quán bar, và cuối mỗi tối đi chơi, anh đưa em về nhà, với cái nụ cười miễn cưỡng này, vì sẽ bỏ lại em một mình suốt đêm. Và mỗi lần bóng anh khuất hẳn nơi góc đường, lòng em lại quặn lên. Em nghĩ là bây giờ em đã biết rõ đường về rồi và anh có thể để em về nhà một mình.
- Em không muốn chúng ta gặp lại nhau nữa sao?
- Philip, em có tình cảm với anh, anh không thể lờ điều đó đi! Khi nào thì anh sẽ thôi chỉ nghĩ đến mình? Anh là người cần chấm dứt mối quan hệ của chúng ta nếu như nó không thực sự tồn tại, anh không thể giả mù đến mức đó!
- Anh làm em đau lòng ư?
Mary hít một hơi đầy buồng phổi, ngẩng mặt nhìn lên trần nhà, cô khẽ thở dài.
- Không, bây giờ anh mới đáng khiến cho em đau lòng đây, làm ơn gọi lại cho em chiếc thang máy tệ hại này đi!
Bối rối, anh thực hiện theo yêu cầu của cô và cánh cửa lập tức mở ra.
- Cảm ơn Chúa, cô thở dài, em đã gần như hết cả ô-xy rồi!
Cô lao vào thang máy, Philip chặn cửa lại nhưng không biết phải nói gì.
- Để cho em đi, Philip, em vẫn rất thích khi anh tỏ ra ngốc nghếch, nhưng bây giờ, ngốc nghếch của anh trở nên thật tàn nhẫn.
Cô đẩy anh ra sau, hai cánh cửa khép lại. Anh quay trở lại bên khung cửa kính, như để cố nhìn thấy cô đi ra khỏi toà nhà. Anh ngồi xuống bên thành lan can và ngắm nhìn cái tổ kiến đang chuyển động không ngưng ở phía dưới.
Từ hai tuần sau, Susan bắt đầu hẹn hò với anh chàng phụ trách phòng khám bệnh nằm phía sau cảng. Cách ba ngày cô mới gặp anh một lần vì đoạn đường phải đi khá xa, nhưng những buổi tối họ ở bên nhau cũng đủ để hai núm đồng tiền lại xuất hiện trên gương mặt mỗi khi cô hạnh phúc. Cô như được "tiếp ô-xy" khi lên thành phố. Tiếng ồn ào của xe cộ, bụi đường, tiếng còi xe lẫn với tiếng người la hét ngoài phố, tiếng của những thùng hàng được vứt xuống mặt đất, tất cả những sự dư thừa của cuộc sống này khiến cô say sưa, cho cô thoát khỏi trạng thái đờ đẫn của một cơn ác mộng dài. Đầu tháng Hai, cô bỏ rơi anh chàng hậu cần của mình và bắt đầu đi ăn tối cùng một chàng phi công của hãng Hondurian Airlines, mỗi ngày anh nhiều lần lái chiếc máy bay hai động cơ chở hành khách đến Tegucigalpa. Buổi tối, khi anh từ đó bay trở về San Pedro, anh vẫn thường đùa nghịch bay là là sát phía trên làng của cô. Cô liền nhảy lên chiếc xe Jeep phóng đuổi theo, bắt đầu cuộc đua về đích trước máy bay dù biết cầm chắc phần thua.
Chàng đợi cô bên hàng rào chấn song bao quanh khu sân bay, cách thành phố 20 cây số. Với bộ râu quai nón và chiếc áo khoác bằng da, chàng giống với một hình tượng thời những năm năm mươi. Những điều đó không làm cho cô bớt thích chàng, đôi khi cô cảm thấy thật tuyệt khi đuợc mặc sức sống như trong xi-nê.
Sáng sớm, sau khi anh đi làm, cô thường phóng nhanh hết cỡ trên con đường dẫn về làng. Cô thích để mở cửa kính xe và ngửi hít mùi đất ẩm ướt trộn lẫn với hương thơn của những cây thông. Mặt trời nhô lên phía sau cô, và khi cô quay đầu lại trong giây lát để nhìn đám bụi đường cuốn theo bánh xe, cô cảm thấy mình đuợc sống. Khi những chiếc cánh máy bay mầu đỏ và trắng bay qua đến lần thứ hai mươi phía trên đầu cô, và khi chiếc phi cơ chỉ còn lại một đốm nhỏ phía chân trời, cô quay đầu xe và trở về nhà. Bộ phim đã hết.
Philip cầm một bó hoa trên tay, bấm nút hệ thống điện thoại nội bộ. Anh đợi vài giây, ổ khoá cửa kêu một tiếng nhỏ. Ngạc nhiên, anh lên ba tầng gác trên chiếc cầu thang cũ kĩ của khu chung cư. Nền cầu thang kêu cọt kẹt dưới chân anh. Khi anh bấm chuông cửa, cánh cửa cũ kĩ màu xanh da trời mở ra ngay tức thì.
- Em đang đợi anh à?
- Không, vì sao?
- Em thậm chí không hỏi xem ai khi anh bấm chuông ở dưới kia.
- Chẳng có ai ở New York này bấm chuông một hồi ngắn ngủi như anh!
- Em đã nói đúng!
- Về chuyện gì?
- Về điều mà em đã nói với anh hôm trước, anh đúng là một thằng ngốc. Em là một phụ nữ rộng lượng, thông minh, hài hước và xinh đẹp, em làm cho anh hạnh phúc còn anh, anh đúng là đã vừa mù vừa điếc.
- Em chẳng cần đến những lời khen ngợi của anh đâu, Philip!
- Điều mà anh muốn nói với em, đó là không được nói chuyện với em, anh muốn phát điên, không được ăn tối với em, anh chẳng còn thấy ngon miệng nữa, và từ mười lăm ngày nay, anh cứ nhìn chằm chằm vào điện thoại của mình như một thằng ngốc.
- Bởi vì anh đúng là một thằng ngốc!
Anh đang định đáp lại thì cô đã ngắt lời anh bằng cách dịu dàng đặt đôi môi của mình lên miệng anh, và khẽ luồn lưỡi của mình vào giữa hai môi anh. Anh buông rơi bó hoa hồng xuống bậc thềm trước cửa nhà để ôm ghì lấy cô rồi bị cô lôi tuột vào phía trong căn hộ nhỏ.
Khuya hơn một chút trong đêm, Mary thò tay qua cánh cửa hé mở và nhặt lấy nó hoa bị bỏ quên trên tấm thảm chùi chân.
Trường học ngày càng chiếm nhiều thời gian của cô, lớp học của cô hiện tại đang ngày có trung bình sáu mươi ba học trò, số lượng thay đổi tuỳ thuộc vào sự tích cực của nhân viên lo việc lùa lũ trẻ đến trường và vào ý thức chuyên cần của đám học trò. Bọn chúng ở vào khoảng từ sáu đến mười ba tuổi và cô phải chuẩn bị một trong những chương trình học đa dạng nhất để thu hút chúng trở lại trường ngày hôm sau, và hôm sau nữa. Đầu giờ chiều, cô ăn trưa bằng một lát bánh ngô cùng với Sandra, một nhân viên mới đến làm việc vài ngày. Khi đi đón Sandra tại sân bay San Pedro, cô đã cầu mong để Sandra không đến trên chuyến máy bay cánh sơn màu đỏ và trắng. Để cho chắc chắn, cô đợi nhân viên mới ở phía trong khu nhà tạm dùng làm nhà ga sân bay. Chàng phi công mà cô ngại chạm trán chỉ dừng máy bay trong chốc lát và không bao giờ rời khỏi khoang lái.
Sandra trông rất trẻ và đẹp. Chưa có chỗ ở nên cô đến ở tạm nhà Susan vài ngày, hoặc cũng có thể một hay vài tuần... Một buổi sáng, trong khi hai nguời đáng ngồi uống cà phê, Susan nhìn cô gái trẻ từ đầu đến chân với vẻ săm soi.
- Tôi khuyên cô nên ở sạch một chút, nếu không với cái nỏng và ẩm thế này, chằng mấy chốc da cô sẽ mọc đầy mụn!
- Tôi không đổ mồ hôi!
- Ồ, có chứ, cô bạn quý của tôi! Cô sẽ đổ mồi hôi như tất cả mọi người, tin tôi đi. Nhân tiện, cô đến giúp tôi chất hàng lên xe nào! Chúng ta có mười lăm túi bột mì phải phân phát trong chiều nay.
Sandra chùi hai tay vào quần và đi về phía nhà kho. Susan đi sát theo sau. Khi nhìn thấy hai cánh cửa nhà kho để mở toang, cô dấn bước và chạy vượt lên phía trước Sandra. Cô vào nhà kho và nhìn quanh khắp những chiếc giá để hàng, điên lên vì tức giận.
- Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt!
- Có chuyện gì vậy? Sandra hỏi.
- Chúng ta bị mất một số bao bột rồi.
- Nhiều không?
- Tôi làm sao biết được, hai mươi, ba mươi bao, phải kiểm kê mới biết được.
- Làm thế có ích gì, nó cũng chẳng giúp ta tìm lại được những bao hang đã mất.
- Nó có ích bởi vì tôi nói với cô như vậy và bởi vì tôi là người phụ trách ở đây. Tôi phải báo cáo về sự việc đã xảy ra. Đã bao nhiêu chuyện thế còn chưa đủ hay sao, đến phát điên lên được!
- Cô bình tĩnh đi, cô có nổi cáu lên như thế cũng chẳng thay đổi được chuyện gì đâu.
- Cô im miệng đi Sandra, ở đây,tôi là người ra lệnh, vì thế, cho đến khi có lệnh mới, cô đừng có mang cái kiểu bình luận như vậy ra nói ở đây rõ chưa.
Sandra chụp lấy vai Susan, ghé sát vào mặt cô. Một đường mạch máu xanh chạy ngang trán Sandra.
- Tôi không thích cái cách cô nói chuyện với tôi, tôi không thích cái kiểu của cô, tôi nghĩ đây là một tổ chức nhân đạo chứ không phải là một trại lính, nếu như cô tự coi mình như một anh binh nhì, hãy tự đi mà đếm mấy cái bao bột của cô đi.
Cô quay gót đi và dù Susan gào lên cách mấy kêu cô quay lại ngay lập tức, cô cũng chẳng mảy may để ý. Vài dân làng đã tập trung lại đứng nhìn, Susan xua xua tay về phía trước như để xua họ đi. Những người đàn ông nhún vai giải tán còn đám phụ nữ nhìn cô ra vẻ không hài lòng. Cô nhấc hai bao lương thực đang còn nằm dưới đất lên và xếp lên giá. Rồi cô lụi hụi tiếp tục làm cả ngày, cho tới khi đêm xuống, cô nén cơn giận và nuốt những giọt nước mắt vào trong. Lưng dựa vào vách, cô cảm nhận được hơi nóng mà bức tường đã hấp thụ trong suốt một ngày đang lan toả đến tận vùng thắt lưng của cô. Cảm giác thật êm dịu. Cô lấy mũi chân vạch mấy chữ cái lên nền đất, một chữ P thật lớn, cô ngồi ngắm trước khi lấy đế giày xoá đi rồi lại viết một chữ J lớn và cô thì thầm : "Tại sao cậu lại đi, Juan?" Khi cô về đến nhà, Sandra đã không còn ở đó.
Ngày 1 tháng Hai năm 1978
Susan,
Một cuộc chiến sôi nổi mà có lẽ em chưa từng thấy bao giờ đang bắt đầu, cuộc chiến của những quả bóng tuyết. Anh biết là em cười vào những trận bão mà người dân ở đây phải chịu, nhưng quả thật trận bão đã tới cách đây ba đêm thật kinh khủng, và suốt mấy ngày nay anh phải chôn chân ở nhà. Cả thành phố hoàn toàn tê liệt, bị phủ dưới một chiếc áo choàng trắng dày đến tận nóc xe hơi. Sáng nay, những tia nắng mặt trời đầu tiên đã trở lại. Lũ trẻ con, người lớn, người cao tuổi, tất cả đều đổ ra chơi trên các vỉa hè, đó là lý do có câu mở đầu lá thư này của anh. Có lẽ lát nữa anh sẽ mạo hiểm ra khỏi nhà đi mua thêm lương thực tiếp tế, mặc trời rét như cắt. Nhìn thành phố như thế này thật đẹp! Lâu lắm rồi anh không nhận được thư của em. Khi nào thì em lại về? Liệu lần này em có thể cố gắng thu xếp để ở lại hai hay ba ngày không? Năm mới có vẻ hứa hẹn nhiều điều tốt lành. Ban giám đốc hài lòng về công việc của anh. Em sẽ không nhận ra anh đâu. Hầu như tất cả các tối, hễ không phải làm việc là anh đi chơi cho đến sáng, và rất thường xuyên như thế. Anh cảm thấy kỳ kỳ khi nói với em về chuyện công việc của anh, giống như bỗng chốc, chúng ta bước vào thế giới người lớn mà chưa hề ý thức về sự thay đổi đó. Một ngày không xa, chúng ta sẽ nói chuyện về con cái của chúng ta và chúng ta sẽ nhận ra rằng chính chúng ta đã trở thành những ông bố bà mẹ. Đừng bắt đầu nhăn mặt lại như thế, từ đây anh có thể nhìn thấy em đó! Khi anh nói con cái của chúng ta, đó chỉ là một cách nói thôi, anh không muốn nói con của em hay của anh, đó chỉ là một hình ảnh, anh cũng hoàn toàn có thể viết "những đứa cháu của chúng ta", nhưng hẳn ngay lập tức em sẽ nghĩ rằng không bao giờ em có thể sống đến già, đủ để trở thành bà. Em và những điều cả quyết đầy bi quan của em! Dù có thế nào đi nữa, thời gian ở đây đang trôi với một tốc độ chóng mặt, và anh đang chờ đợi mùa xuân tới, một khoảng thời gian lạc quan hơn khi ngày em trở lại đến gần. Anh hứa với em, năm nay sẽ không có bất cứ cuộc cãi cọ nào nữa, anh sẽ chỉ nghe em nói với anh tất cả những gì em muốn kể cho anh nghe, và chúng ta sẽ cùng chia sẻ với nhau khoảng thời gian quý báu mà mỗi năm anh vẫn chờ đợi như chờ một đêm Giáng sinh giữa mùa hè này. Trong khi chờ đến mùa đó, anh gửi đến em cả một trời nụ hôn.
Philip.
Chú thích:
(1) Bữa ăn sáng quá buổi người ta thường dùng khi dậy muộn vào những ngày nghỉ, thay cho cả bữa trưa.
Chương 4
Ngày Lễ tình nhân, Philip chở Mary đến bến xe. Họ lên chếc xe bus tuyến 33 nối liền Montclair với Manhattan bằng một giờ đi xe và xuống xe ở giao lộ giữa đường Grove và Alexander. Đi bộ băng qua thành phố, anh chỉ cho cô những nơi đã gắn bó với tuổi thơ của anh. Khi đi ngang qua ngôi nhà cũ của anh, cô hỏi anh có nhớ bố mẹ không từ khi họ chuyển đến ở California; anh không trả lời. Ở nhà bên cạnh, anh nhìn thấy cửa sổ nơi trước đây là phòng của Susan đang sáng đèn. Có thể một cô bé khác đang ngồi ôn bài.
- Đó là nhà của cô ấy phải không? Mary hỏi.
- Đúng thế, làm sao em đoán được?
- Chỉ cần nhìn theo ánh mắt của anh thôi, anh đã thả hồn đến một nơi rất xa.
- Bởi vì thời đó đã xa lắm rồi.
- Có thể không lâu đến thế, Philip.
- Bây giờ, anh đang sống với hiện tại...
- Quá khứ của anh và cô ấy dầy đặc đến mức em không thể nhìn thấy một tương lai nào giữa chúng ta. Em không mơ tưởng đến một tình yêu hoàn hảo, nhưng em không thể sống ở lối điều kiện, càng không thể sống ở thì quá khứ chưa hoàn thành.(1)
Để kết thức chủ đề này, anh hỏi một ngày nào đó cô có muốn đến sống ở đây không. Cô cười phá lên và trả lời rằng, đổi lại, chỉ khi nào anh cho cô tối thiểu hai đứa con thì có thể cô sẽ đồng ý đến sống ở tỉnh. Từ trên những đỉnh đồi, Philip đáp lại, người ta có thể nhìn thấy thành phố Mahattan chỉ cách đó nửa giờ đi xe hơi. Đối với Mary, nhìn thấy thành phố và sống trong nó là hai chuyện hoàn toàn khác nhau; cô không bỏ công học nghề báo chí để rồi đến sống tại một tỉnh lẻ của nước Mỹ, dù nó có gần với "trái táo vĩ đại"(2) đến thế nào đi nữa. Dù sao thì cũng chưa ai trong số hai người bọn họ đến tuổi về hưu.
- Nhưng ở đây, với cùng số tiền thuê nhà, em có thể có một ngôi nhà với vườn bao quanh, em thở hít không khí trong lành và thậm chí em có thể hàng ngày đi làm tại New York. Ở đây em có tất cả lợi thế, anh nói tiếp.
- Chính xác thì anh đang nói về cái gì vậy, Philip? Một kẻ phục tùng không điều kiện cái gọi là khoảnh khắc hiện tại như anh, vậy mà bây giờ anh lại đang nói đến chuyện xây dựng kế hoạch đấy à?
- Em đừng có giễu cợt anh như thế.
- Anh thiếu óc hài hước, anh làm em buồn cười, có vậy thôi. Chưa bao giờ anh đủ khả năng nói với em xem buổi tối cùng ngày hôm đó, anh và em có ăn tối với nhau không, thế mà bây giờ, anh đang hỏi em có muốn chuyển đến tỉnh sống với anh không. Xin lỗi anh, nhưng quả thật là một bước nhảy ngoạn mục vào khoảng không trống rỗng!
- Chỉ có những kẻ ngu đần mới không bao giờ thay đổi ý kiến.
Họ quay trở xuống khu trung tâm thành phố, anh dẫn cô vào một nhà hàng ăn tối. Khi đã ngồi xuống đối diện với anh, cô cầm lấy tay anh.
- Vậy là anh muốn thay đổi ý kiến à? Mary hỏi.
- Hôm nay là một ngày khá đặc biệt, ngày mà người ta coi như là một ngày hội, em có thể đừng nói đến chủ để này được không?
- Anh nói đúng, Philip, hôm nay là một ngày rất đặc biệt và anh đã dẫn chúng ta đến đứng dưới cửa sổ nhà của người con gái đang ám ảnh cuộc sống của anh.
- Đó là điều em nghĩ hả?
- Không Philip, đó chính là điều mà anh nghĩ!
- Chính em mới là người mà anh đang ở bên tối nay, không phải với cô ấy.
- Còn em thì nghĩ đến những tối sau đó.
Cách đó mười lăm ngày và vài ngàn cây số, một người đàn ông khác và một người phụ nữ khác đang cùng ngồi bên một bàn ăn tối khác. Người ta vẫn chưa tìm ra thủ phạm ăn cắp kho hàng. Hiện giờ, cửa nhà kho bị khoá kĩ bằng một sợi dây xích và một ổ khoá và chỉ mình Susan có chìa khoá. Điều này không tránh khỏi việc gây nên một sự bực bội khó chịu cho nhóm làm việc của cô. Sandra càng ngày càng tỏ ra chống đối cô, cô gái này ra mặt chống lại quyền hành của Susan đến mức cô đã phải doạ sẽ gửi báo cáo về Washington để người ta triệu hồi cô ta về nước. Mélanie, một bác sĩ làm việc tại Puerto Cortes đã làm dịu được phần nào mâu thuẫn và sự căng thẳng ở mỗi người, cuộc sống tại đoàn Peace Corps đang làm nhiệm vụ ở đất nước Honduras dần dần trở lại bình thường. Chỉ trừ Susan. Thomas, anh đội trưởng phụ trách phòng khám bệnh, người từng có quan hệ tình cảm với cô trong một thời gian ngắn đã mời cô đến gặp anh với lý do công việc.
Cô lên thành phố vào cuối ngày và đứng đợi anh ở bên ngoài toà nhà. Cuối cùng anh cũng xuất hiện, cởi chiếc áo blu trắng và ném nó ra phía sau chiếc xe hai cầu. Anh đã đặt bàn trước tại một quán ăn nhỏ cạnh cảng. Họ ngồi vào bàn, gọi hai chai bia trước khi xem thực đơn.
- Mọi chuyện ở chỗ anh thế nào? - Cô hỏi.
- Như mọi khi, thiếu thốn dụng cụ, thiếu thốn nhân lực, quá tải công việc, ê-kíp mệt mỏi, công việc đơn điệu ngày nào cũng như ngày nào. Còn chỗ em thì sao?
- Em à, em có cái lợi thế hay cũng có thể gọi là bất lợi cũng được là ở chỗ chúng em rất ít người.
- Em có muốn anh gửi người tăng viện cho em không?
- Đề nghị này chẳng logic với câu nói vừa rồi của anh chút nào.
- Em có quyền chán mọi thứ, Susan em có quyền cảm thấy mệt mỏi và em cũng có cả quyền ngưng công việc lại.
- Anh mời em đi ăn tối để nói những điều xuẩn ngốc đó à?
- Trước hết, anh không hề nói là anh sẽ mời em... Tất cả mọi người đều nhận thấy là từ vài tuần nay em không được ổn lắm. Em cáu gắt gây sự với mọi người và theo những gì anh được biết, uy tín của em trước dân làng đang xuống rất thấp. Chúng ta không ở đây để làm mất tình cảm của mọi người, em phải biết kiểm soát mình nhiều hơn.
Người phục vụ mang đến hai đĩa tamal, cô mở mảnh lá chuối và từ từ gạt lớp nước sốt bao lấy miếng thịt heo. Vừa rưới nước sốt cay một cách hào phóng vào đĩa của mình, Thomas vừa gọi thêm hai chai Salva Vida, một loại bia của vùng này. Mặt trời đã lặn cách đó hai giờ và ánh trăng trước đêm rằm đang toả xuống cảnh vật xung quanh đẹp một cách lạ kỳ. Cô quay đầu ra để ngắm bóng những chiếc cần cẩu dài phản chiếu dưới nước đang uốn lượn chuyển động theo những làn sóng.
- Với đàn ông các anh, phạm sai lầm là điều không thể chấp nhận!
- Cũng như đối với các bác sĩ thôi, dù là nam giới hay phụ nữ! Em là một mắt xích trong một guồng máy, dù em có là người đảm trách vai trò điều khiển guồng máy đó đi nữa; chỉ cần em bứt ra, cả guồng máy sẽ bị khựng lại!
- Đã xảy ra một vụ trộm và điều đó làm em không chịu nổi, em không thể chấp nhận được, chúng ta ở đây để giúp đỡ họ, vậy mà "mấy người đó" lại đi ăn cắp đồ ăn của chính đồng bào mình.
- Susan, anh không thích cái cách em gọi "mấy người đó". Ở nước chúng ta, cũng có những vụ trộm cắp trong các bệnh viện đấy thôi. Và em tưởng là ở chỗ phòng khám bọn anh điều đó không xảy ra à?
Anh cầm lấy khăn định lau tay. Cô cần lấy đầu ngón tay trỏ của anh, đưa lên miệng mình, vừa cắn nhè nhẹ vừa nhìn anh một cách ranh mãnh. Khi ngón tay của Thomas đã sạch, cô mới thả nó ra.
- Đừng có giảng đạo đức cho em nữa, tha cho em đi, cô nói và mỉm cười.
- Em đang thay đổi, Susan.
- Hãy cho em ngủ ở nhà anh tối nay, em không muốn về nhà một mình cả đêm.
Anh tính tiền và bảo cô đứng dậy. Khi hai người rảo bước đi bộ dọc bến cảng, cô quàng tay qua hông anh và ngả đầu lên vai anh.
- Em đang để mình bị nhấn chìm trong cô đơn, và lần đầu tiên trong đời, em có cảm giác mình không thể vượt qua nó nữa.
- Hãy trở về nhà em đi.
- Anh không muốn em ở lại à?
- Anh không nói về tối nay, anh nói về cuộc sống của em, em nên quay về nước.
- Em sẽ không từ bỏ đâu.
- Ra đi không phải bao giờ cũng đồng nghĩa với một sự từ bỏ, đó cũng có thể là một cách để giữ gìn những gì đã trải qua, nếu người ta đi trước khi quá trễ. Để tay lái cho anh, anh sẽ lái xe.
Động cơ xe nhả ra một luồng khói đen và bắt đầu khởi động. Thomas bật đèn pha, chúng quét lên những bức tường phái trước một đường sáng trắng.
- Em phải thay nhớt cho xe đi, nếu không nó sẽ tiêu mất.
- Anh đừng lo, em đã quen với việc mọi cái xung quanh bị hư hỏng rồi!
Susan nằm ngửa ra ghế, thò hai chân qua cửa, gác lên chiếc kính chiếu hậu. Ngoài tiếng động cơ đang chạy, không khí thật tĩnh lặng. Khi Thomas dừng xe đậu phía trước nhà, Susan vẫn không nhúc nhích.
- Anh có nhớ những giấc mơ đã từng có khi còn nhỏ không? - Cô hỏi.
- Đến cả những giấc mơ đêm hôm trước anh cũng còn không nhớ nổi nữa, Thomas trả lời.
- Không, em nói về những điều anh mơ ước, rằng khi lớn lên, mình sẽ trở thành như thế nào đó cơ.
- À, có, cái đó thì anh nhớ, anh đã muốn trở thành bác sĩ, và bây giờ thì anh là một người phụ trách hậu cần trong một trạm xá. Như người ta thường nói, trúng vào bia, nhưng không trúng hồng tâm.
- Còn em, em muốn trở thành hoạ sĩ, để vẽ một thế giới đầy màu sắc, Philip thì muốn trở thành một nghệ sĩ sáng tạo trong ngành quảng cáo còn em thì hoạt động trong lĩnh vực nhân đạo. Có lẽ cả hai bọn em đã nhầm lẫn ở đâu đó.
- Đó không phải là lĩnh vực duy nhất mà cả hai đều nhầm lẫn đâu.
- Thế nghĩa là sao?
- Em nói rất nhiều về anh ấy, và mỗi lần em gọi tên anh ta, giọng nói của em đầy nhớ nhung xa vắng, chẳng còn có thể nghi ngờ gì nữa.
- Nghi ngờ gì cơ?
- Những điều nghi ngờ của em! Anh nghĩ rằng em yêu người đàn ông này và điều đó làm cho em hoảng sợ.
- Đi thôi, chúng ta vào nhà anh nào, em bắt đầu thấy lạnh.
- Làm thế nào mà em có thể có đến chừng ấy dũng cảm ọi người, và ít đến thế cho chính em?
Sáng sớm cô bước xuống giường không gây một tiếng động và nhẹ nhàng nhón chân rời khỏi nhà.
Tháng Ba trôi qua nhanh như một tia chớp. Buổi tối, sau khi kết thúc công việc văn phòng. Philip đến chỗ Mary. Ngủ ở nhà cô, cả hai tiết kiệm đươc mười phút quý giá ỗi buổi sáng. Cuối tuần, hai người đổi qua ngủ trên giường trong căn hộ của anh tại khu SoHo mà họ đã đặt ột cái tên mới "nhà nghỉ ở nông thôn", và ở đó đến hết tuần. Những ngày đầu tiên của tháng tư run rẩy trong cái lạnh của những cơn gió từ phía bắc thổi xuống, dù vậy chúng cũng không làm ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt của người dân thành phố. Chồi non trên cây vẫn nằm im, chỉ duy nhất những tờ lịch là báo hiệu mùa xuân bắt đầu.
Chẳng mấy chốc, Mary được chính thức tuyển làm phóng viên của tờ tạp chí và cô cho rằng đã đến lúc họ cần có một nơi để dọn đồ đạc về ở chung. Cô dàn nhiều thời gian đọc tất cả các mẩu quảng cảo để tìm một căn hộ cho thuê tại khu Midtown. Ở đó giá thuê nhà rẻ hơn và tiện đường đi làm hơn cho cả hai người.
Phần lớn thời gian Susan ngồi sau tay lái chiếc xe Jeep. Cô đi hết làng này đến làng khác làm nhiệm vụ phân phát hạt giống và nhu yếu phẩm. Đôi khi, con đường dẫn cô đi quá xa nên cô không thể trở về nhà vào buổi tối, và cô bắt đầu có thói quen thực hiện những chuyến đi nhiều ngày, rong ruổi trên con đường đến tận những vùng sâu nhất trong thung lũng. Hai lần cô gặp nhóm quân Sandiniste trốn trong những dãy núi. Chưa bao giờ cô thấy nhóm quân này đi xa khỏi biên giới của nước họ đến thế. Đối với cô, tháng Tư có vẻ như dài vô tận. Ngay cả cơ thể cô cũng để lộ sự mệt mỏi với cuộc sống này. Chứng khó ngủ buộc cô phải lao đầu vào những cuộc chơi bời hàng đêm đến rất khuya, và mỗi buổi sáng lại trở nên khó khăn hơn. Một hôm, sau khi đã chất đầy mười bao bột ngô lên chiếc xe hai cần, cô lên đường giữa trời nắng gay gắt để đến thăm ông Alvarez. Đến giữa giờ chiều cô tới nơi. Sau khi đã dỡ hàng xuống, họ cùng ngồi ăn tối trong nhà của ông. Ông nói với cô rằng nhìn cô có vẻ không khoẻ lắm và mời cô đến nghỉ ngơi trên núi vài ngày. Cô hứa sẽ suy nghĩ rồi lên đường trở về nhà vào cuối buổi chiều, từ chối lời mời ngủ lại đêm trong làng. Thấy khó ngủ, cô không dừng lại nhà mà đến thẳng một quán rượu vẫn còn mở cửa vào giờ khuya này.
Cô phủi mạnh chiếc quần jeans vào áo thun khi bước vào quán bar để rũ lớp bụi đường và đất khô bám trên quần áo. Cô gọi một ly rượu mía. Người đàn ông phía sau quầy chộp lấy chai rượu đặt trước mặt cô. Anh ta nhìn cô chăm chăm và đẩy ra phía cô một cái ly bằng thiếc.
- Tôi để cô tự rót nhé. May mà cô vẫn còn bộ ngực và mái tóc dài, nếu không thì người ta đến nhầm tưởng cô đã trở thành đàn ông mất rồi.
- Lời nhận xét sâu xa này có ý gì vậy?
Anh ta nghiêng người về phiá cô nói nhỏ, giọng nói nghiêm trọng nhưng tỏ vẻ thông cảm.
- Cô đi với đàn ông quá thường xuyên hay nói cách khác là quá ít xuất hiện với những người đồng giới với cô, vì thế mọi người ở đây bắt đầu bàn tán về cô.
- Thế những người ở đây họ nói gì?
- Đừng có lên giọng như vậy với tôi, Senorã Blanca! Vì cô nên tôi mới nói thẳng với cô những gì người ta đang xì xào bàn tán sau lưng cô.
- Tất nhiên rồi, bởi vì khi các anh trưng "của quý" của các anh ra trước thiên hạ thì các anh tự coi mình là những kẻ giỏi tán gái, còn khi chúng tôi chỉ cần để lộ ngực một chút thôi thì chúng tôi bị coi là những con điếm. Anh biết không, khi một người đàn ông muốn ngủ với một người phụ nữ, trước tiên phải có một người phụ nữ đã.
- Đừng làm tổn thương đến trái tim của những người phụ nữ trong làng, đó là tất cả những gì tôi đang nói với cô!
- Với rất nhiều người trong số đó, phần nào nhờ có tôi ở đây mà trái tim của họ mới còn đập cho đến ngày hôm nay. Ấy thế mà tôi lại đang làm họ khó chịu cơ đấy!
- Chẳng có ai trong chúng tôi cầu xin sự thương hại của cô, chẳng có ai gọi cô đến để cứu giúp. Nếu cô không muốn ở đây, hãy quay về nhà cô đi. Nhìn cô mà xem, trông cô chẳng ra sao cả. Khi tôi nghĩ đến việc cô là cô giáo gõ đầu trẻ, tôi tự hỏi không biết chúng có thể học được cái gì.
Ông già đang đứng dựa vào quầy ra hiệu để anh ta đừng nói nữa, nhìn vào đôi mắt của Susan là đủ biết anh ta đã quá lời. Anh phục vụ đưa tay chộp lấy chai rượu và cất lên giá; không thèm quay mặt lại, anh ta tuyên bố rằng ly rượu cô uống quán sẽ không tính tiền. Ông già nở một nụ cười thương cảm, hào phóng để lộ hàm răng đã gãy hết chỉ còn trơ lại mấy cái chân răng, nhưng cô đã quay đi và chạy trốn khỏi quán. Ra đến bên ngoài, cô tựa người vào lan can và nôn ra tất cả những gì đang còn trong bao tử. Cô ngồi xổm xuống để lấy lại hơi. Khi đã ngồi trong xe chạy trên đường về nhà, cô ngửa mặt lên trời như để đếm các vì sao, nhưng đầu óc cô quay cuồng và cô phải dừng xe lại lần nữa. Kiệt sức, cô để mặc cho đôi chân dẫn dắt về đến tận thềm nhà.
Ngày 10 tháng Năm năm 1978,
Philip
Mùa đông này chúng ta đã không viết thư được nhiều cho nhau, có lúc này lúc khác, cũng đã có những khi thật khó khăn. Em muốn biết tin tức về anh, xem cuộc sống của anh ra sao, anh có hạnh phúc không. Tấm áp-phíc quảng cáo của anh treo ở đầu giường em, em nhận ra quanh cảnh Manhattan mà lúc nhỏ chúng ta thường leo lên những đỉnh đồi ở Montclair để nhìn ngắm. Đã có lúc em chìm sâu vào bức tranh ấy đến mức em đã có thể tưởng tượng được một trong số những đốm sáng nhỏ ấy là ánh sáng từ cửa sổ của anh. Anh đang ngồi đó làm việc trên một bản vẽ. Anh lùa tay vào mái tóc bù xù như anh vẫn hay làm, và anh gặm đầu bút chì, anh, anh không bao giờ thay đổi. Em rất xúc động khi nhìn thấy hình ảnh của một thời khắc tuổi thơ của chúng ta. Em thật là kỳ lạ. Em nhớ anh và em lại thấy thật khó khăn để thừa nhận điều đó. Anh có nghĩ rằng yêu một người lại có thể khiến cho người ta sợ hãi đến mức chaỵ trốn không? Em có cảm giác mình đang già đi.
Tiếng động quanh nhà khiến cho em thức giấc vào giữa đêm, làm cho em không thể ngủ tiếp được, em cảm thấy nóng rồi lại lạnh trong người, và mỗi buổi sáng em thức dậy trong cảm giác lo âu hồi hộp vì những công việc còn dang dở của ngày hôm trước. Mùa này thời tiết thật êm dịu, em có thể kể cho anh nghe về tất cả những cảnh vật xung quanh, kể cho anh nghe từng giây phút em trải qua mỗi ngày, chỉ cốt để có thể tiếp tục nói với anh về em. Năm nay em sẽ gặp anh sớm hơn, em sẽ về vào giữa tháng Sáu, vô cùng nóng lòng mong gặp lại anh, có một điều rất quan trọng em muốn nói với anh, điều mà em muốn chia sẻ với anh ngay bây giờ và cả về sau. Trong khi chờ đợi, gửi đến anh những cái hôn và sự dịu dàng, hãy để ý chăm sóc ình.
Susan.
***
Ngày 2 tháng Sáu,
Susan,
Anh thì nhớ giọng nói của em. Em có còn hay hát như trước không? Bản nhạc trong lá thư của em được viết từ những nốt nhạc hơi buồn. Mùa hè đã đến rồi và những quán cà phê trên vỉa hè luôn kín chỗ. Anh sắp sửa chuyển nhà, anh sẽ chuyển đến ở phía trên thành phố một chút. Đi lại ngoài đường ngày càng khó khăn và chuyển đến nhà mới anh sẽ đi làm gần hơn. Em biết không, ở đây, nửa giờ cũng quý như vàng. Mọi người ai cũng vội vàng đến mức bây giờ, gần như không thể dừng lại khi đang đi trên vỉa hè, vì nếu không em sẽ có nguy cơ bị cả dòng người đang di chuyển đè bẹp. Anh tự hỏi cái dòng người hỗn độn dường như không gì có thể chặn lại này đang chạy về đâu, phải chăng chính em là người có lý khi đến ở nơi đó, nơi mà không khí còn có một mùi hương. Cuộc sống của em hẳn rất đẹp, anh nôn nóng mong sớm được nghe em kể mọi chuyện, anh thì đang bận túi bụi vì công việc muốn báo với em. Điều quan trọng mà em nói trong thư là gì vậy? Anh sẽ đợi em như mọi khi. Hẹn sớm gặp lại em.
Hôn em.
Philip.
***
Chiếc Boeing 727 của hang Eastern Airlines rời sân bay Tegucigalpa lúc 10 giờ sáng, trễ hai giờ so với lịch bay do thời tiết không thuận lợi. Ngồi trong máy bay, Susan lo lắng dõi mắt theo những đám mây đen đang tiến về phía họ. Khi cô tiếp viên mở cửa kính nhìn xuống đường băng, Susan nhìn theo những dòng hành khách đang di chuyển dưới mưa về phía đường băng. Máy bay đã ở vị trí sẵn sàng để cất cánh, người trưởng phi hành đoàn cho động cơ hoạt động với công suất tối đa để chống lại những cơn gió mạnh đang có nguy cơ làm máy bay lệch khỏi đường băng. Bánh máy bay rời khỏi mặt đất, đầu máy bay dựng lên, cố gắng bay lên thật nhanh để xuyên qua lớp mây. Susan ngồi tại ghế với dây an toàn thắt quanh người, cô bị lắc theo những đợt lắc lư dữ dội của máy bay; ngay cả khi lái chiếc xe hai cầu của mình chạy hết tốc độ trên đường, cô cũng không bị rung mạnh đến thế. Mũi máy bay hướng về phía đông bắc, họ bay phía trên đầu những dãy núi; và cơn bão bỗng nhiên mạnh lên gấp đôi. Một tia chớp đánh trúng thân máy bay, lúc 10 giờ 23 phút, chiếc hộp đen thu giọng nói của người phi công phụ thông báo cho nhóm điều khiển không lưu rằng động cơ số hai đã ngừng hoạt động, họ đang bị hạ độ cao. Ngoài cảm giác chóng mặt đang choán lấy cô, Susan cảm thấy buồn nôn khó tả, cô vòng hai tay ôm lấy phần dưới bụng, máy bay tiếp tục hạ độ cao. Phải mất ba phút thật dài, phi hành đoàn mới khởi động lại được động cơ phản lực và lấy lại độ cao. Phần còn lại của chuyến bay trôi qua trong bầu không khí im lặng thường thấy tiếp theo sau nỗi sợ hãi.
Chú thích:
(1)Hai trạng thái của động từ trong ngữ pháp tiếng Pháp.
(2)Tên gọi người Mỹ thường dùng chỉ New York.
Chúc các bạn online vui vẻ !