Tiểu thuyết tình yêu

Tiểu Thuyết Tình Yêu

Đọc truyện tại Tiểu Thuyết Tình Yêu

Loading...

Tiểu thuyết - Bắt trẻ đồng xanh - trang 6-end

Chương 22

Thấy tôi bỏ đi, nó bèn rút gối ra khỏi đầu, tôi biết nó sẽ làm thế. Nó nằm ngửa, không thèm nhìn tôi. Tôi lại gần giường, ngồi xuống là nó lập tức quay phắt lưng lại. Nó tẩy chay tôi mới khiếp chứ, không tồi hơn bọn đấu kiếm ở Pencey, khi tôi quên tất cả dụng cụ thi đấu chết giẫm của chúng ở xe điện ngầm.

- Thế Hazel Weatherfield của em độ này sống ra sao? - Tôi hỏi - Em có viết thêm truyện ngắn nào về nó không? Truyện em gửi anh bữa trước nằm trong vali ấy. Truyện rất khá, thật đấy.

- Bố sẽ giết anh.

Nó mà đã nhồi được điều gì vào sọ rồi thì phát khiếp!

- Không, không giết đâu. Cùng lắm, bố sẽ la hét một trận rồi tống vào trường quân sự. Bố sẽ chả làm gì anh hơn. Mà thứ hai là anh sẽ không có đây. Anh sẽ ở xa, một nơi nào đó thật xa, có lẽ, ở Colorado, ở cái trại chăn nuôi đó.

- Đừng có tán nhảm. Anh thì đi ngựa cũng chẳng biết.

- Biết tốt! Có gì mà không biết? Ở đó người ta sẽ dạy chỉ trong vòng hai phút! - Tôi nói. - Đừng có động đến cái băng! - Nó cứ giật giật miếng băng dính ở tay suốt. - Thế ai cắt tóc cho em thế? - Chỉ đến giờ tôi mới nhận ra cái đầu nó xấu khủng khiếp. Cứ như bị húi trọc, mà lại còn húi nham húi nhở nữa.

- Chẳng việc gì đến anh! - Đôi lúc nó ngắt lời tôi như vậy. Một cách trịch thượng, bạn hiểu không. - Có lẽ, anh lại thi trượt tất cả các môn chứ gì?- nó vẫn tiếp tục. Tôi bắt đầu thấy nực cười. Nó trò chuyện cứ như một bà giáo nào đó, mà bản thân thì vừa chui ra khỏi tã chứ lâu la gì.

- Không, không phải tất cả các môn - tôi nói. - Anh qua được môn tiếng Anh.- Rồi bỗng nhiên tôi bẹo vào dưới lưng nó. Nó nằm nghiêng khoanh tròn, mông cứ cựa quậy. Tôi bẹo nó không đau, nhưng nó muốn đập vào tay tôi, và đập trượt. Rồi tự nhiên nó nói:

- Ôi, tại sao, tại sao anh lại thế?- Có lẽ nó muốn nói: tại sao tôi lại cuốn xéo khỏi trường. Nhưng Phoebe nói điều đó thật thê thảm khiến tôi buồn nẫu ruột.

- Ôi, lạy Chúa, giá em đừng có hỏi anh, - tôi nói.- Ai cũng lặp đi lặp lại, không tài nào chịu nổi. Tại sao, tại sao... có đến hàng nghìn lý do! Anh chưa từng học ở cái trường nào đê tiện như thế. Cái gì cũng phô trương. Cái gì cũng giả tạo. Hoặc là đểu giả. Anh chưa từng gặp trong đời một bộ sưu tập nhiều thằng khốn kiếp đến thế. Ví như, nếu em ngồi ba hoa thiên địa trong một hội rồi bỗng nhiên có ai đó gõ cửa, muốn vào cũng sẽ không bao giờ vào được, nếu trông người đó hơi đần, và mặt đầy trứng cá. Cửa sẽ sập lại ngay trước mũi. Ở đó còn có một hội kín chết tiệt nữa, anh cũng gia nhập vì nhát gan. Rồi có một thằng chán khủng khiếp, mặt đầy trứng cá tên là Robert Ackley cũng muốn ghi tên nhưng nó không được nhận. Chỉ vì nó chán ngắt và mặt đầy trứng cá. Hãy tin lời anh, anh chưa từng gặp một trường nào thối đến thế.

Phoebe của tôi im lặng. Nhìn gáy cũng biết là nó đang nghe. Nó rất biết nghe người khác nói chuyện. Và nực cười nhất là nó hiểu tất cả những gì người ta nói với nó. Hiểu thực sự. Tôi lại bắt đầu kể về Pencey, tôi đang muốn giãi bày mọi chuyện.

- Ở đó có một vài giáo viên tốt, nhưng dẫu sao họ cũng chỉ là những người giả tạo, - tôi nói. - Ví như ông già Spencer chẳng hạn. Vợ ông ấy thường thế bọn anh sôcôla nóng, nói chung cả hai người đều dễ mến. Nhưng em cứ thử nhìn xem, điều gì đã xảy ra với họ khi lão già Thurmer, hiệu trưởng trường anh đến ngồi ở bàn sau cùng vào giờ sử. Tứ thời lão đến, ngồi im lìm phía sau chừng nửa tiếng đồng hồ. Cứ như người ẩn danh ý. Chán chê rồi bắt đầu cắt ngang lời thầy Spencer bằng những chuyện đùa tếu ngu xuẩn của hắn. Còn ông già Spencer thì cố sức cười nịnh toàn thân cứ rung lên vì cười, làm như lão hiệu trưởng là thiên tài không bằng, quỷ tha ma bắt lão!

- Anh đừng chửi rủa thế!

- Ở đó, em sẽ phát buồn nôn, thật đấy! Cả cái ngày hội trường nữa, tất tật bọn cặn bã tốt nghiệp Pencey khéo từ năm 1776 đến giờ, tụ tập tại trường, diễu đi diễu lại khắp trường với đám vợ con. Em cứ nhìn một lão già chừng năm chục tuổi xem. Lão vào thẳng phòng bọn anh, dĩ nhiên có gõ cửa, rồi hỏi: Có thể vào nhà vệ sinh được không. Mà nhà vệ sinh lại ở cuối hành lang, bọn anh không tài nào hiểu nổi. Em biết lão nói gì với bọn anh không? Tôi muốn xem tên họ tôi có còn trên cửa nhà vệ sinh không. Em hiểu chứ, đến cả trăm năm trước, lão khắc cái tên thê thảm, ngu xuẩn, bất tài của lão lên cái cửa nhà vệ sinh và bây giờ muốn kiểm tra xem chúng có còn nguyên vẹn hay không. Bọn anh đành phải dẫn lão đến nơi và đứng đó chờ lão tìm kiếm tên họ chết tiệt trên các cánh cửa chết tiệt. Lão vừa tìm vừa kể tràng giang đại hải rằng, những năm học ở Pencey là những năm tốt đẹp nhất trong đời lão, rồi còn khuyên bảo bọn anh mấy lời chết giẫm nào đó cho tương lai, lạy Chúa, anh rầu cả người vì lão. Cũng không phải vì lão xấu xa gì. Nhưng nói chung, cũng đừng có vô duyên đến mức bắt người khác phải rầu rĩ, ngay cả người tốt cũng có thể mất hứng hoàn toàn. Lão phun ra một lô một lốc những lời khuyên vô dụng trong lúc tìm kiếm tên mình trên các cánh cửa, và chỉ có thế! Anh đã không quá bực nếu như cái lão chết giẫm ấy không bị ngột thở. Lão không sao thở nổi sau từng ấy bậc cầu thang. Lão vừa tìm tên họ mình vừa thở hồng hộc, vừa khịt mũi suốt. Vừa thương hại, vừa nực cười, đã thế lão còn lải nhải mãi với anh và Stradlater là phải khai thác, tận dụng mọi kiến thức ở Pencey, tất tật những gì có thể được. Ôi, lạy Chúa, Phoebe! Không tài nào giảng giải cho em hiểu được. Anh ghét tất cả mọi thứ ở Pencey. Không sao giải thích nổi!

Bỗng Phoebe nói một câu gì đó nhưng tôi không nghe rõ vì nó lại rúc đầu xuống dưới gối.

- Gì cơ? Quay mặt lại đây nào. Anh cóc nghe thấy gì hết khi em cứ thì thầm sau cái gối.

- Anh thì có thích cái gì bao giờ!

Tôi còn phiền muộn hơn khi nó nói câu ấy.

- Không, anh thích chứ. Thích nhiều cái. Đừng có nói vậy. Em nói thế làm gì?

- Vì đó là sự thật. Anh không thích tất cả trường học, không thích tất cả mọi thứ trên đời. Anh không thích - chỉ đơn giản vậy thôi!

- Không đúng! Em nhầm rồi - chính thế, em nhầm rồi! Em bịa đặt những thứ quái quỷ gì về anh thế? - Tôi rầu rĩ khủng khiếp vì những lời nó nói.

- Không, em không hề bịa. Anh thử gọi ra một thứ gì anh yêu trên đời xem nào! Gọi cái gì? Cái mà anh yêu á? Thật không may, tôi không sao nghĩ ra được. Đôi lúc khó tập trung kinh khủng.

- Em muốn nói cái gì anh rất yêu phải không? - tôi cố trì hoãn. Phoebe không trả lời ngay. Nó tránh xa khỏi tôi có trời mà biết đến mức nào, đến tận cuối góc giường, đến cả gần trăm dặm chứ không ít.

- Nào em trả lời ngay đi! Gọi tên cái gì đó anh yêu hay chỉ thích nói chung?

- Cái gì anh yêu.

- Được - Nhưng tôi không tài nào nghĩ ra được. Tôi nhớ lại hai cô tu sĩ mà tôi đã quyên tiền vào cái giỏ đan cũ kỹ. Đặc biệt tôi nhớ cô đeo kính gọng kim loại. Tôi nhớ cả thằng bé học cùng tôi ở trường Elkton Hills, James Castle kể một chuyện phét lác kinh khủng về Phil Stabile, gọi nó là thằng ngốc tự phụ và một trong những thằng bạn đê tiện của Stabile đến mách nó. Khi đó Stabile cùng sáu thằng đểu cáng khác đến phòng James Castle đóng cửa lại, cố bắt nó nói lại lời mình, nhưng James từ chối. Thế là bọn chúng đập cho nó một trận. Tôi không thể nói được chúng nó làm những gì với James - hèn hạ kinh khủng - nhưng dù vậy nó vẫn không đồng ý nhắc lại lời mình. Các bạn cứ thử nhìn nó xem: gầy nhom, bé xíu, tay như que củi. Rồi kết cục, bạn biết, nó làm gì thay việc từ chối những lời đã nói không? Nó nhảy qua cửa sổ. Tôi đang ở nhà tắm lúc đó mà cũng nghe thấy nó ngã cái đánh uỵch. Tôi cứ nghĩ, có cái gì đó bị rớt qua cửa sổ, đài bán dẫn hay tủ đầu giường. Rồi tôi nghe thấy tất cả chạy dọc hành lang xuống cầu thang. Tôi khoác vội áo choàng rồi cũng lao xuống. Ở đó, trên cái bậc thang, thằng James Castle của bọn tôi đang nằm. Nó đã chết, xung quanh đầy máu, răng văng ra xa, ai cũng sợ khi lại gần. Nó bận chiếc áo len dài tay mà tôi cho mượn. Mấy thằng khốn kiếp nhốt nó trong phòng chẳng sao hết, chỉ bị đuổi khỏi trường. Thậm chí chúng cũng không phải ngồi tù.

Tôi không thể nhớ lại được gì hơn. Hai cô tu sĩ mà tôi đã cùng ăn sáng. và James Castle học cùng tôi ở trường Elkton Hills. Nực cười nhất nói thực ra lại là ở chỗ tôi hầu như không biết James Castle. Nó là một thằng bé rất trầm tính. Bọn tôi học cùng một lớp, nhưng nó ngồi ở góc bên kia và rất hiếm khi lên bảng trả lời. Mà tôi nói chuyện với nó, chỉ có đúng một lần khi nó hỏi mượn tôi cái áo len dài tay ấy. Tôi suýt chết vì ngạc nhiên khi nó ngỏ lời, thật bất ngờ kinh khủng. Tôi nhớ, tôi đang đánh răng trong phòng rửa mặt thì nó lại gần nói là em họ nó rủ đi trượt băng. Thậm chí, tôi còn không nghĩ là nó biết tôi có áo len dài tay rất ấm. Tôi chỉ biết mỗi một điều về nó là trong sổ đầu bài của lớp nó đứng trên tôi. Cable R, Calbe U, Castle, Caulfield - đến giờ tôi vẫn nhớ. Còn nếu nói sự thật, thì suýt nữa tôi đã từ chối không cho nó mượn áo. Chỉ đơn giản là vì tôi hầu như không biết gì về nó.

- Gì nào? - Phoebe hỏi, trước đấy nó có nói gì đó nhưng tôi không nghe thấy

- Anh không thể gọi ra được thứ gì, đúng không?

- Không, anh có thể. Có thể chứ.

- Thế thì làm đi!

- Anh yêu thằng Allie, - tôi nói, - và anh thích ngồi ở đây, thế này, trò chuyện với em, và nhớ lại mọi chuyện.

- Allie chết rồi, -lúc nào anh cũng lặp đi lặp lại mỗi câu đó. Một khi người ta chết và đã lên trời thì không thể yêu người ấy thực sự được.

- Anh biết là nó đã chết! Chả lẽ, theo em, anh không biết hay sao? Nhưng dẫu sao anh vẫn có thể yêu nó! Vì khi người đã chết thì không được ngừng yêu người đó, quỷ tha ma bắt, nhất là khi người đó đã từng tốt hơn tất cả những ai còn sống, hiểu chưa? Phoebe chẳng nói gì hết, khi chẳng có gì để nói thì bao giờ nó cũng im lặng.

- Với lại bây giờ anh thích ở đây, - tôi nói. - Em hiểu không, bây giờ, tại đây.

Ngồi bên em, tán gẫu mọi chuyện.

- Ồ, không, hoàn toàn không phải điều đó.

- Sao lại không? Tại sao lại không phải là điều đó, quỷ tha ma bắt?

- Đừng có chửi rủa nữa! Thôi được, hãy nói ra thêm một cái gì nữa đi. Hãy nói anh muốn trở thành người như thế nào. Bác học hay luật sư, hoặc gì đó nữa.

- Bác học gì anh! Anh không có khiếu khoa học

- Thế thì luật sư như bố.

- Luật sư, có lẽ, cũng không tồi, nhưng dù sao anh cũng chả thích, - tôi nói. -

Em hiểu không, không tồi khi họ cứu sống những con người vô tội và nói chung khi họ nghiên cứu công việc gì đó, nhưng vấn đề là ở chỗ các luật sư không làm những việc tương tự. Nếu trở thành luật sư thì chỉ có chạy theo tiền, chơi golf, chơi bridge, mua xe hơi, uống các loại cocktail rồi ăn mặc đỏm dáng. Mà nói chung, thậm chí nếu em có cứu người suốt đi chăng nữa thì làm sao em biết được làm thế để làm gì, để cứu sống con người trên thực tế, hay chỉ để trở thành luật sư nổi tiếng, để tất cả mọi người vỗ vai chúc mừng em, khi thắng được một vụ án chết giẫm. Tóm lại, cứ như trong phim ấy, những bộ phim tồi tệ. Làm sao mà nhận ra được, em làm tất cả chỉ để phô trương, hay làm một cách thực sự, tất cả những cái đó có là giả tạo hay không? Trời mới biết được!

Con bé Phoebe có hiểu những gì tôi đơm đặt không, tôi không tin tưởng lắm. Dẫu sao, nó vẫn còn quá nhỏ. Nhưng được cái nó nghe tôi chăm chú. Thật dễ chịu khi người ta chịu nghe bạn.

- Bố sẽ giết anh, đơn giản là sẽ giết anh. - Nó nhắc lại.

Nhưng tôi chẳng nghe nó. Một ý nghĩ vụt thoáng trong óc tôi, một ý nghĩ man rợ kinh khủng.

- Em biết anh muốn trở thành người như thế nào không? - Tôi nói. - Biết không? Quỷ tha ma bắt tất cả đi.

- Đừng có chửi rủa nữa! Nào, anh sẽ làm gì hả?

- Em biết bài hát này không - "Nếu bạn bắt được ai đó trong ruộng lúa mạch vào buổi chiều".

- Không phải thế! Thế này cơ "Nếu ai đó gọi ai buổi chiều ngoài đồng lúa mạch...".Đó là thơ của Robert Bunrns.

- Anh biết là thơ của Bunrns rồi.

Nó đúng. Đúng là "Nếu ai đó gọi ai buổi chiều ngoài đồng lúa mạch". Tôi quên, thực thế.

- Anh tưởng đó là "bắt ai đó trong ruộng lúa mạch vào buổi chiều chứ", - tôi nhắc lại lần nữa. Anh cứ hình dung bọn con nít chơi trên cánh đồng khổng lồ vào buổi chiều, trong đám lúa mạch. Có đến nghìn đứa trẻ mà xung quanh không có lấy một người lớn nào, ngoài anh. Còn anh thì đứng tận rìa vách đá trên vực thẳm, em hiểu không? Và việc của anh là luôn sẵn sàng tóm lấy bọn trẻ để chúng không lăn tõm xuống vực. Em hiểu không, chúng chơi đùa mà chẳng hề nhìn xem mình chạy đi đâu, thế là anh đuổi theo chúng, tóm chúng lại. Đấy, tất cả công việc của anh là ở đó.

Canh giữ lũ trẻ trên bờ vực thẳm trong đồng lúa mạch. Anh biết, đó chỉ là điều ngu xuẩn, nhưng là cái duy nhất anh muốn làm thực sự. Có lẽ, anh là một thằng ngốc. Phoebe im lặng khá lâu. Sau đó nó chỉ lặp lại:

- Bố sẽ giết anh.

- Thây kệ, anh nhổ vào tất cả! - Tôi đứng dậy khỏi giường vì định gọi điện cho một người, ông giáo tiếng Anh của tôi ở trường Elkton Hills. Thầy Antolini hiện đang sống ở New York. Thầy rời trường Elkton Hills, nhận chức giảng viên tiếng Anh tại Trưòng đại học tổng hợp New York. Anh cần gọi điện, - tôi nói. - Anh sẽ quay lại ngay. Em đừng ngủ nhé, nghe thấy không? - Tôi rất không muốn nó ngủ thiếp đi trong khi tôi gọi điện. Tôi biết nó sẽ không làm thế nhưng vẫn dặn lại cho chắc chắn.

- Holden! Thế là tôi ngoảnh lại.

Nó ngồi trên giường, rất kháu khỉnh, đơn giản là trông nó thật tuyệt!

- Có một đứa dạy em nấc, con bé Phyllis Mufgulis ấy mà! - Nó nói - Nghe này! Tôi nghe nhưng chả thấy gì đặc biệt hết.

- Cũng không tồi! - Tôi phán.

Rồi tôi vào phòng khách gọi điện cho thầy giáo cũ Antolini.

Chương 23

Tôi gọi điện rất nhanh, vì bỗng sợ cha mẹ tôi xuất hiện. Nhưng họ chưa về. Thầy Antolini rất niềm nở. Thầy nói, tôi có thể đến nhà ông ngay bây giờ cũng được. Có lẽ, tôi đã làm cả hai người thức giấc vì rất lâu không có ai đến cầm máy. Việc đầu tiên là thầy hỏi có chuyện gì xảy ra, tôi trả lời: không có gì đặc biệt. Nhưng tôi cũng kể cho thầy nghe chuyện tôi bị đuổi khỏi Pencey. Dẫu sao cũng cần phải kể cho một ai đó. Thầy nói:

- Lạy Chúa, hãy thương lấy chúng con, những kẻ tội lỗi!- Thầy có tính hài hước thực sự. Thầy cho phép tôi tới gặp ngay nếu thấy cần.

Thầy là người tốt nhất trong số các thầy giáo của tôi, thầy Antolini ấy. Thầy còn khá trẻ, chỉ già hơn anh D.B một chút, và có thể đùa với thầy được, mặc dù ai cũng quý trọng thầy. Thầy là người đầu tiên nhấc thằng James lên khỏi mặt đất, cái thằng nhảy qua cửa sổ ấy. Thầy Antolini bắt mạch sau đó cởi áo khoác ra phủ lên người James rồi bế nó trên tay đi vội vã đến trạm quân y. Thầy cũng chả thèm bận tâm đến cái áo khoác bị dây đầy máu.

Tôi quay về phòng anh D.B, con bé Phoebe đã bật radio. Đang có một điệu nhảy và radio được vặn rất khẽ để chị hầu phòng không bị thức giấc. Bạn cứ thử nhìn Phoebe xem. Nó ngồi giữa giường trên đống chăn, hai chân co lại, hệt như võ sĩ Yoga ấy, và nghe nhạc. Thật nực cười.

- Dậy đi! - tôi nói - Em có muốn nhảy một chút không?

Tôi đã dạy nó nhảy hồi nó còn bé xíu. Nó nhảy rất giỏi. Nói chung, tôi chỉ bảo sơ sơ, còn nó tự học hết. Không thể dạy người khác học nhảy một cách thực sự được, điều đó chỉ có chính bản thân anh ta mới có thể làm được.

- Anh còn đi giày mà, - nó nói.

- Không sao, anh sẽ cởi ra. Dậy đi!

Nó nhảy phóc ra khỏi giường. Chờ tôi cởi giày, sau đó bọn tôi cùng nhảy. Nó khiêu vũ mới tuyệt chứ. Nói chung, tôi không chịu nổi khi người lớn nhảy với con nít, trông phát ghê. Tỉ như có một bố nào đó bỗng nhiên ra nhảy với đứa con gái nhỏ của lão ở nhà hàng. Lão dẫn nó đi vụng về đến mức váy nó tứ thời bị tốc lên phía sau, mà con bé thì hoàn toàn không biết nhảy. Nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ nhảy với Phoebe ở nơi công cộng. Bọn tôi chỉ nhảy ở nhà, và cũng chỉ đùa nghịch thôi. Mặc dù Phoebe là chuyện khác hẳn, nó nhảy rất tuyệt. Nó ngoan ngoãn bước theo bạn. Chỉ cần giữ nó chặt hơn, khi đó nó sẽ không làm vướng dù chân bạn có dài hơn nó đến cả trăm lần. Với nó có thể chuyển điệu, quay mọi kiểu, thậm chí cả Jiterburg nữa, nó chả bao giờ rớt lại. Với nó có thể nhảy cả tango nữa, bạn thấy tuyệt không!

Bọn tôi nhảy bốn bài. Những lúc nghỉ, nó xử sự mới khôi hài chứ, thật nực cười. Nó cứ đứng và đợi không trò chuyện, không nói năng gì. Cứ đứng đực ra và đợi cho đến lúc dàn nhạc chơi tiếp. Tôi buồn cười quá. Vậy mà nó không cho tôi cười. Tóm lại, bọn tôi nhảy chán rồi tắt radio. Phoebe của tôi rúc vào chăn và hỏi:

- Em nhảy đã đẹp chưa?

- Còn phải nói! - Tôi ngồi xuống giường nó. Tôi thở mới khiếp chứ. Có lẽ, tại vì hút thuốc quá nhiều. Còn nó thì chả thèm hổn hển chút nào.

- Anh sờ trán em đi!- Bỗng nó nói.

- Để làm gì?

- Thì cứ thử xem! Đặt tay lên nào!- Tôi đặt lòng bàn tay lên nhưng chẳng cảm thấy gì. - Trán em có nóng nhiều không? - Nó hỏi

- Hình như đang bắt đầu. - Tôi không muốn ở nó phát triển cái gì đó tựa như một tổng thể không hoàn chỉnh. Nó gật đầu.

- Em có thể gây nóng cả trên nhiệt kế cơ!

- Trên n-h-iệ-t kế. Ai chỉ cho em đấy?

- Alice Holmborg dạy em. Cần phải khoanh chân lại và nghĩ về một cái gì đó thật nóng. Ví dụ như về máy quạt hơi. Thế là trán bắt đầu nóng đến mức có thể làm bỏng tay người khác.

Suýt nữa thì tôi phá lên cười. Tôi cố tình giật tay khỏi trán nó làm như sợ bỏng thật.

- Cảm ơn em đã báo trước! - Tôi nói.

- Không, em sẽ không làm anh bỏng đâu! Em sẽ dừng lại trước đó. - Suỵt! - Đột nhiên nó hơi chồm dậy, trên giường. Tôi hoảng gần chết.

- Gì vậy?

- Cửa ngoài! - Nó nói thầm khá to. - Bố mẹ đấy!

Tôi bật ngay dậy, chạy lại bàn tắt đèn. Sau đó dập tắt điếu thuốc, nhét mẩu dở vào túi và huơ huơ tay cho tan khói. Mà tại sao tôi lại vừa hút thuốc ở đây cơ chứ, quỷ tha ma bắt tôi đi! Sau đó tôi vớ lấy giày, chui vào tủ trong tường, đóng cửa tủ lại. Tim tôi đập thình thịch như đồ chết giẫm. Tôi nghe thấy mẹ tôi bước vào.

- Phoebe! - Bà nói. - Đừng có giả bộ nữa! Mẹ nhìn thấy ánh sáng trong phòng con rồi, con yêu của mẹ!

- Chào mẹ! - Phoebe nói. - Vâng, con không ngủ được. Bố mẹ có vui không?

- Rất vui, - mẹ nói, nhưng thấy rõ là không như vậy. Bà hoàn toàn không ưa đi chơi, làm khách. - Sao con không ngủ, cho phép mẹ biết chứ? Con có lạnh không?

- Không, con ấm mà. Đơn giản là không ngủ được.

- Phoebe, hình như con hút thuốc phải không? Nói thật đi, con thân yêu của mẹ!

- Gì cơ ạ? - Phoebe hỏi.

- Con không nghe thấy mẹ hỏi gì ư?

- A, vâng, con chỉ hút một chút. Thử một lần duy nhất thôi. Sau đó con ném qua cửa sổ.

- Con làm thế để làm gì?

- Con không ngủ được.

- Con làm mẹ buồn, Phoebe ạ, rất buồn! - Cho con chăn nữa nhé?

- Không, cám ơn mẹ! Chúc mẹ ngủ ngon! - Phoebe nói. Rõ ràng nó đang cố thoát khỏi bà càng nhanh càng tốt.

- Thế phim ra sao? - Mẹ hỏi.

- Tuyệt vời. Chỉ có điều, mẹ Alice cứ cản trở hoài. Bác ấy cứ cúi qua người con suốt để hỏi Alice có sốt không. Bọn con đi taxi về nhà.

- Đưa mẹ xem trán con nào.

- Không, con không bị lây đâu. Nó hoàn toàn khỏe mà. Mẹ nó chỉ nghĩ ra thôi.

- Thế thì ngủ đi. Bữa trưa thế nào?

- Kinh tởm! - Phoebe nói.

- Con nhớ là bố đã bảo con: không được nói thức ăn kinh tởm. Mà tại sao lại kinh tởm chứ? Con được dọn món thịt cừu băm viên ngon tuyệt cơ mà. Mẹ đã đích thân đến tận đại lộ Lexington mua.

- Thịt băm viên ngon, nhưng Charlene lúc nào cũng thở vào con, khi đưa đồ ăn. Thở cả vào đồ ăn nữa, vào mọi thứ.

- Thôi được rồi, ngủ đi! Hôn mẹ nào. Con đọc kinh rồi chứ?

- Vâng, con đọc trong nhà tắm rồi. Chúc mẹ ngủ ngon!

- Chúc ngủ ngon! Ngủ nhanh nhé! Mẹ nhức đầu quá! - Mẹ nói. Bà rất hay nhức đầu. Nhức kinh khủng.

- Thế mẹ uống Aspirin đi, - Phoebe nói. - Anh Holden sẽ về vào thứ tư chứ?

- Theo mẹ biết thì đúng vậy. Thôi, con đắp chăn cẩn thận vào. Ừ, thế này này.

Tôi nghe thấy mẹ bước ra khỏi phòng và đóng cửa lại. Tôi chờ thêm một phút rồi chui ra khỏi tủ. Tôi đụng ngay phải con em - nó bật ra khỏi giường đi gọi tôi, mà xung quanh thì tối như địa ngục.

- Anh đừng bỏ đi! - Phoebe thì thầm. - Chờ bố mẹ ngủ đã.

- Không, anh phải đi ngay. Bây giờ là đúng lúc nhất. Mẹ vào buồng tắm, còn bố sẽ bật đài ngay bây giờ, để nghe tin mới nhận. Đúng lúc.

Tôi không thể buộc giày đến nơi đến chốn, tôi mất bình tĩnh quá thể. Dĩ nhiên họ sẽ chẳng giết tôi nếu như có tóm được tôi ở nhà đi nữa, nhưng như thế thì khó chịu kinh khủng.

- Em ở đâu vậy? - Tôi hỏi Phoebe vì không nhìn thấy nó trong bóng tối.

- Em đây. - Nó đứng ngay cạnh tôi. Vậy mà tôi không hề thấy nó.

- Vali anh để ngoài nhà ga, - tôi nói. - Phoebe này, em có chút tiền nào không? Anh chẳng còn quái gì hết.

- Có, tiền mua quà Giáng sinh, em chưa mua gì cả.

- Ồ, chỉ có thế thôi ư! - Tôi không muốn lấy tiền mua quà của nó.

- Em sẽ cho anh mượn một ít! - Rồi tôi nghe thấy nó rút vào bàn anh D.B, mở hết ngăn kéo này đến ngăn kéo khác và lục lọi ở đó. Trong phòng tối như bưng, không trông thấy gì cả. - Nếu anh đi, anh sẽ không thấy em trên sân khẩu, - nó nói, giọng run run.

- Sao lại không? Anh sẽ không đi, chừng nào chưa thấy. Em nghĩ anh có thể bỏ qua một vở kịch như thế sao! - Tôi hỏi.- Em có biết anh sẽ làm gì không? Anh sẽ đến nhà ông Antolini, cứ cho là ở tới thứ hai, đến chiều đi. Sau đó anh sẽ về nhà. Nếu được, anh sẽ gọi điện cho em.

- Anh cầm lấy! - Nó chìa cho tôi tiền, nhưng không tìm được tay tôi. - Anh ở đâu? Tìm thấy tay tôi, nó nhét tiền vào.

- Này, anh không cần nhiều thế đâu! - Tôi nói. - Đưa anh hai đô thôi. Thật đấy, em lấy lại đi! Tôi giúi tiền vào tay nó, nhưng nó không cầm.

- Anh lấy đi, lấy hết đi! Rồi trả em sau! Mang đến hôm xem kịch ấy.

- Thế em có bao nhiêu ở đây, lạy Chúa?

- Tám đô la và 85 xu. Không, 65 xu thôi. Em đã tiêu nhiều rồi.

Tự nhiên tôi bật khóc ngay lúc ấy. Không tài nào ghìm được. Tôi cố để không ai nghe thấy, nhưng cứ khóc, khóc mãi. Phoebe hoảng sợ gần chết khi tôi làm vậy, nó lại gần, an ủi tôi, nhưng không thể dừng ngay tức thì được. Tôi ngồi ở cạnh giường, khóc rống lên, còn nó thì dùng tay ôm cổ tôi, tôi cũng ôm nó và khóc, không sao dừng lại được. Tưởng như cả hai sẽ ngột thở ngay bây giờ vì nước mắt. Phoebe tội nghiệp sợ hết hồn. Cửa sổ mở và tôi cảm thấy nó run rẩy sau lần áo ngủ. Tôi muốn đặt nó xuống giường, đắp chăn, nhưng nó không chịu nằm. Cuối cùng, tôi thôi khóc. Nhưng rất lâu mà tôi vẫn không sao bình tĩnh lại được. Sau đó, tôi cài áo bành tô đến tận cổ, nói là sẽ báo ngay cho nó biết. Nó nói, tốt hơn tôi nên ngủ lại đây, trong phòng nó, nhưng tôi nói: không, mister Antolini đang đợi. Sau đó tôi rút trong túi ra chiếc mũ thợ săn tặng nó. Nó yêu mọi thứ mũ vớ vẩn kinh khủng. Thoạt đầu, nó không muốn nhận, nhưng tôi đã thuyết phục được nó. Tôi thề, có lẽ, nó sẽ ngủ trong cái mũ đó. Nó thích những vật như thế. Tôi còn hứa gọi điện cho nó thêm một lần nữa, nếu được, rồi ra đi.

Ra khỏi nhà, không hiểu sao lại dễ hơn vào nhà nhiều. Thứ nhất, tôi nhổ vào chuyện người ta có tóm được tôi hay không. Tôi nghĩ: tóm được thì tóm. Nói thực ra, thậm chí còn muốn mình bị tóm.

Tôi đi bộ xuống dưới theo cầu thang hậu chứ không đi thang máy. Suýt nữa thì gãy cổ vì ở đó có đến cả chục triệu thùng rác, nhưng cuối cùng tôi cũng ra được. Gã gác thang máy thậm chí cũng không nhìn thấy tôi. Có lẽ, đến giờ gã vẫn nghĩ là tôi vẫn ngồi đợi ở cửa nhà Dickteins.

Chương 24

Vợ chồng thầy Antolini sống trong một căn hộ rất sang ở Setton Blace, trong phòng khách của họ chỉ cần bước xuống hai bậc thang, thậm chí còn có cả bar riêng nữa. Tôi đến nhà họ vài lần vì từ khi tôi rời khỏi Elkton Hills, thầy Antolini hay đến nhà tôi xem tôi sống ra sao và thường ăn trưa ở đó luôn. Khi đó thầy còn độc thân, khi thầy đã lấy vợ, tôi thường chơi quần vợt với cả hai người ở Long Irland, ở câu lạc bộ quần vợt Forest Hills. Cô Antolini là thành viên câu lạc bộ này vì cô rất lắm tiền. Cô ấy già hơn thầy Antolini đến cả trăm tuổi, nhưng dường như họ rất yêu nhau. Thứ nhất, cả hai đều là những người có học thức, nhất là thầy Antolini, mặc dù nói chuyện thông thái tựa như anh D.B của tôi. Cô Antolini thì nghiêm nghị hơn và thường bị lên cơn hen suyễn. Cả hai đều đọc tất cả truyện ngắn của anh D.B- cô ấy cũng đọc, và khi anh sửa soạn đến Hollywood, thầy Antolini gọi điện thuyết phục anh ấy đừng đi. Nhưng D.B. cứ đi. Thầy Antolini nói nếu biết viết như anh D.B. thì chẳng có việc gì để làm ở Hollywood. Cả tôi cũng nói hệt như vậy.

Tôi đã định đi bộ đến nhà họ vì chẳng muốn tiêu tốn vô ích tiền quà của Phoebe, nhưng khi ra khỏi nhà tôi thấy khó ở quá. Đầu óc quay cuồng nên đành phải gọi taxi. Không muốn nhưng buộc phải. Lại còn khó nhọc lắm mới tìm nổi taxi nữa chứ.

Thầy Antolini đích thân mở cửa khi tôi gọi điện, gã gác thang máy đểu cáng nhất định không cho tôi vào. Thầy mặc áo khoác ở nhà và đi giầy, tay cầm chiếc cốc vại. Thầy là người tinh tế sành sỏi, nhưng mỗi tội uống rượu như ngựa nốc nước ao.

- Holden, cậu bé của tôi! - Thầy nói, - lạy Chúa, nó đã cao lên dễ đến nửa mét. Rất hân hạnh gặp cậu!

- Còn thầy ra sao? Cô Antolini thế nào?

- Ồ, chỗ chúng tôi mọi sự đều tuyệt vời! Đưa áo khoác của cậu đây, - thầy cầm áo của tôi rồi treo lên - Vậy mà tôi cứ nghĩ, cậu sẽ đến với đứa trẻ mới đẻ trên tay cơ đấy. Chả còn nơi nào để rúc vào. Tuyết thì đang tan trên mi mắt cậu. Nói chung, thầy rất thích đùa. Sau đó thầy quay về phía bếp và gào lên:

- Lilian! Cà phê sao rồi?- Vợ thầy tên là Lilian.

- Xong rồi! - Cô kêu lên. - Holden phải không? Chào cậu.

- Chào cô Antolini!

Trong nhà họ luôn phải gào lên vì cả hai thường xuyên láng cháng ở các phòng khác nhau. Kỳ quặc thật, dĩ nhiên rồi.

- Ngồi xuống, Holden, - thầy Antolini nói, thấy rõ là thầy đã hơi say. Căn phòng trông giống như vừa có khách. Khắp nơi đầy những cốc và đĩa hồ đào - Cậu thứ lỗi vì cảnh lộn xộn này nhé, - thầy Antolini nói. - Chúng tôi vừa tiếp bạn bè của Lilian từ Barbison đến. Vợ chồng Bison từ Barbison.

Tôi phá lên cười, còn cô Antolini gào lên với tôi gì đó từ trong bếp, nhưng tôi không nghe rõ.

- Cô ấy bảo em gì ạ?

- Bảo đừng có nhìn khi cô bước ra. Cô ấy vừa mới ra khỏi giường. Cậu có muốn làm một điếu xì gà không? Cậu hút thuốc đấy chứ?

- Cám ơn thầy. - Tôi lấy một điếu trong hộp. - Thỉnh thoảng em cũng hút, nhưng vừa thôi.

- Tôi tin, tôi tin. - Thầy đưa cho tôi chiếc bật lửa khổng lồ - Như vậy, có nghĩa là cậu từ giã Pencey như tàu ra biển phải không?

Thầy thích diễn đạt cầu kỳ như vậy. Đôi lúc, tôi thấy nực cười, còn đôi lúc thì không. Thầy thường trích dẫn, vay mượn. Tôi không thể nói thầy kém thông minh, không, thầy rất sắc sảo, nhưng đôi khi tôi thấy bực mình khi mọi người lúc nào cũng nói giống nhau "Từ giã như tàu ra biển!". Anh D.B. thỉnh thoảng cũng vay mượn.

- Thế chuyện gì xảy ra nào? - Thầy Antolini hỏi. - Môn tiếng Anh của cậu ra sao? Nếu cậu trượt nó, tôi sẽ tống cậu ra khỏi cửa ngay. Cậu viết luận hay nhất trong những người giỏi nhất kia mà.

- Không, em thi môn tiếng Anh khá. Thật ra, bọn em học văn học nhiều hơn.

Nhưng em bị trượt môn trần thuyết. Bọn em có một môn, môn nói. Em bị rớt môn đó.

- Sao vậy?

- Chính em cũng không biết. Tôi không muốn kể. Tôi cảm thấy người rất khó chịu, lại còn nhức đầu như búa bổ. Nhức kinh khủng. Nhưng rõ ràng là thầy rất muốn biết tất cả, thế là tôi chậm chạp - Thầy biết không, trong những giờ học đó, ai cũng phải đứng lên nói một bài. Tựa như ngẫu hứng theo đề tài ấy, và đại loại như vậy. Còn nếu ai lạc đề tất cả lập tức hét lên: "Lạc đề rồi!". Mà em thì lại cứ thích lạc đề vì như thế thú vị hơn nhiều.

- Chả lẽ cậu lại không muốn người ta theo đúng vấn đề đang kể cho cậu ư?

- Không, em muốn chứ. Dĩ nhiên là em muốn họ lần lượt kể. Nhưng em không thích khi mọi người lúc nào cũng nói đúng một chuỵên. Tự em cũng không biết nữa. Dĩ nhiên, những đứa lúc nào cũng theo đúng một đề tài thường nhận điểm cao nhất - hợp lý thôi. Nhưng lớp em có thằng Richard Kinsella. Nó không sao nói theo đề tài được và tứ thời nó bị kêu: "Lạc đề rồi!". Cái đó thật khủng khiếp, trước hết là vì thần kinh nó cực yếu, thầy hiểu không, môi nó thậm chí run lên bần bật khi bị gọi lên, và nó nói nhỏ đến mức không thể nghe thấy gì, ngay cả khi ngồi ngay đằng sau nó. Nhưng khi môi đã hết run, nó lại kể hay hơn tất cả. Nhưng nó cũng bị rớt thẳng cẳng. Mà chỉ vì bọn trong lớp cứ gào suốt: "Lạc đề rồi!". Ví dụ như nó đang kể về một trang trại cho nó mua ở Vermont. "Lạc đề rồi!", còn thầy giáo của bọn em, ông Vison, cho nó điểm chót trượt vì nó không kể về gia súc và thế giới thực vật ở trại đó. Còn chính cái thằng Richard Kinsella ấy thì nó bắt đầu từ trang trại, những gì có ở đó, sau đó tự nhiên nó kể đến lá thư mẹ nó nhận được do ông bác gửi và kể về căn bệnh viêm tuỷ hồi năm bốn mươi tư nhưng không cho ai đến bệnh viện thăm nom vì không muốn mọi người thấy mình tàn phế. Dĩ nhiên, chuyện đó chẳng liên quan gì đến trang trại, em đồng ý! Nhưng lại rất thú vị. Thú vị khi người ta kể về bác mình. Nhất là khi nó bắt đầu bày đặt nhảm nhí gì đó về trang trại của cha rồi tự nhiên lại ngoắc sang ông bác. Và gào lên: "Lạc đề rồi!" mới thật đê tiện, khi nó vừa mới bắt đầu kể đến đoạn ông bác hồi phục lại...Em không biết... Em rất khó giải thích điều đó.

Mà tôi cũng không muốn giải thích. Tôi nhức đầu quá chừng và chỉ ước cô Antolini mau chóng mang cà phê lại. Tôi bị kích động gần chết khi họ kêu cà phê xong rồi, mà mãi vẫn chưa có.

- Nghe đây, Holden... Tôi có thể hỏi em một câu lỗi thời, mang tính sư phạm được không? Em có nghĩ rằng cái gì cũng có lúc và có chỗ của nó không. Em có tính đến chuyện, nếu bắt đầu kể về trang trại của cha thì phải theo đúng đề tài đó, còn về căn bệnh của ông bác là đề tài hay thì tại sao diễn giả lại không chọn đúng đề tài này mà lại nói về trang trại?

Tôi không muốn nói, mà cũng chẳng muốn trả lời. Nhức đầu kinh khủng, và tôi cảm thấy rất khó chịu. Nói thật ra, tôi bị đau bụng.

- Vâng, có lẽ vậy. Có lẽ cần phải lấy ông bác chứ không phải trang trại làm đề tài, thầy cũng hiểu đấy, nhiều khi chính ta cũng chưa biết mình hứng kể gì hơn khi còn chưa bắt đầu kể về điều không thú vị. Thường là điều ấy không phụ thuộc vào ta. Nhưng theo em nên để yên cho người ta nói hết một khi anh ta đang tiếp tục rất hay và bị lôi cuốn vào chuyện. Em rất thích khi người khác kể chuyện với một niềm say mê, hào hứng. Cái đó thật tuyệt. Thầy còn chưa biết ông thầy Vison đâu. Ông ấy sẽ làm thầy phát điên, cùng với lũ đê tiện trong lớp. Ông ấy cứ lặp đi, lặp lại suốt, cần phải quy nạp và lược giản. Không lẽ cái gì cũng quy nạp và lược giản được sao? Không, thầy không biết ông thầy Vison này đâu. Dĩ nhiên ông ấy là người có học và vân vân, nhưng óc ông ấy không đủ chất xám.

- Đây cà phê của các ngài đây, những chàng quân tử! - Cô Antolini mang một mâm cà phê cùng bánh bích quy và đồ ăn các loại. - Holden, đừng có nhìn cô đấy! Cô trông rất khiếp!

- Xin chào cô Antolini! - Tôi muốn đứng dậy, nhưng thầy Antolini túm áo khoác tôi kéo xuống. Cô Antolini quấn lô đầy đầu cho quăn tóc, môi không tô, nói chung, trông rất luộm thuộm. Cô đã già rồi.

- Tôi mang tất cả cho các anh đây. Hãy tự thết nhau nhé, - cô nói rồi đặt mâm xuống bàn hút thuốc và đẩy cốc chén sang một bên. - Mẹ em thế nào, Holden?

- Không sao ạ. Cám ơn cô. Lâu rồi em cũng không gặp me, nhưng lần cuối...

- Anh yêu, tất cả những gì Holden cần đến ở tủ ăn ấy. Ngăn trên cùng. Em đi nằm đây. Mệt quá chừng, - cô Antolini nói. Nhìn cũng thấy rõ điều đó. - Này các cậu bé, có biết tự trải giường chiếu không đấy?

- Bọn anh sẽ làm được hết. Em đi nằm đi, nhanh lên! - Thầy hôn vợ, cô tạm biệt tôi rồi bỏ về phòng ngủ. Họ thường hôn nhau trước mặt người khác.

Tôi uống hết nửa chén cà phê rồi ăn món bích quy cứng như đá, còn thầy Antolini lại uống whisky, không pha thêm gì. Thầy có thể trở thành kẻ nát rượu thực thụ nếu không kiềm chế.

- Tôi mới ăn sáng với bố cậu hai tuần trước đây, - bỗng thầy nói. - Cậu biết điều đó chứ?

- Không, em không biết.

- Nhưng, chắc cậu phải biết là ông ấy đặc biệt lo lắng cho số phận cậu chứ?

- Vâng. Dĩ nhiên là em biết.

- Rõ ràng là trước khi gọi điện cho tôi, thầy nhận được một bức thư rất đáng lo ngại của ông hiệu trưởng cũ của cậu, kể rằng cậu không tỏ ra cố gắng chút nào trong tất cả các giờ học. Cậu bỏ giờ nghe giảng, không học bài, tóm lại, tuyệt đối trong mọi...

- Không, em không bỏ giờ nào hết. Bọn em bị cấm nghỉ học. Thỉnh thoảng em không đi học, ví dụ như vào giờ môn nói, nhưng nói chung em không bỏ gì hết.

Tôi rất không muốn kể về việc mình. Nhờ cà phê, tôi bớt đau bụng một chút, nhưng đầu tôi cứ lắc lư thực sự.

Thầy Antolini hút điếu thứ hai. Thầy hút như tàu thuỷ chạy hơi ấy. Sau đó thầy nói.

- Nói thật tình, có quỷ mới biết được cần phải nói gì với cậu, Holden ạ!

- Em hiểu. Trò chuyện với em rất khó. Em biết

- Tôi cảm thấy cậu đang bị trượt xuống vực thẳm khủng khiếp nào đó. Nhưng nói thật, chính tôi cũng không biết... mà cậu có nghe tôi không đấy?

- Có ạ.

Thấy rõ là ông đang rất cố tập trung.

- Có thể, cậu sẽ xuống đến độ: ở tuổi 30, cậu sẽ là khách thường xuyên của quán bar nào đó và sẽ căm thù tất cả những ai thoạt nhìn giống nhà vô địch đội bóng đá của trường tổng hợp. Mà cũng có thể cùng với năm tháng, cậu sẽ trở thành người đủ học thức và sẽ căm ghét ai nói câu: "Chúng ta hình như đã cùng nhau từng trải"... Và cũng có khi, cậu sẽ làm việc trong một văn phòng nào đó và tương kẹp lia lịa vào cô ghi tốc ký không làm vừa lòng cậu, tôi cũng không biết nữa. Cậu hiểu tôi nói gì không?

- Vâng, dĩ nhiên rồi, - tôi nói. Và hiểu thầy rất rõ. - Nhưng thầy không đúng ở chỗ em sẽ căm thù tất cả. Các nhà vô địch bóng đá và những gì đại loại. Em rất ít ghét một ai đó, chẳng hạn như thằng Stradlater sống cùng em ở Pencey, hay thằng Robert Ackley. Dĩ nhiên, cũng có lúc em căm chúng kinh khủng, em tự nhận thức được, nhưng điều đó bao giờ cũng qua nhanh, thầy hiểu em không? Đôi lúc, lâu không nhìn thấy chúng đến phòng mình hoặc không gặp chúng ở nhà ăn, thiếu chúng lại thấy buồn. Em thậm chí còn buồn khi thiếu chúng.

Thầy Antolini im lặng hồi lâu, đứng dậy bỏ một cục đá vào cốc whisky và lại ngồi xuống. Rõ là thầy đang nghĩ ngợi. Giá thầy tiếp tục câu chuyện vào buổi sáng chứ không phải lúc này thì tốt hơn, nhưng thầy đã bị cuốn hút vào chuyện rồi. Mọi người thường bị lôi cuốn vào cuộc tranh cãi khi bạn chả còn tâm trạng nào hết.

- Thôi được. Bây giờ, hãy chăm chú nghe tôi nói hết đây. Có thể, lúc này tôi chưa hình thành được chính xác ý nghĩ của mình, nhưng tôi sẽ viết thư cho cậu sau một vài ngày nữa. Khi đó cậu sẽ hiểu rõ mình tường tận. Nhưng tạm thời cứ nghe đã. Tôi thấy thầy lại đang cố sức tập trung.

- Cái vực thẳm mà cậu đang rơi xuống thật khủng khiếp và tai hại. Ai rơi vào đó sẽ không bao giờ thấy đáy. Cứ rơi, rơi mãi. Điều đó thường xảy ra với những người, ở một thời điểm nào đó trong đời mình, bắt đầu tìm kiếm cái mà môi trường xung quanh quen thuộc không thể đem đến cho họ được. Đúng hơn là họ nghĩ rằng trong môi trường quen thuộc, họ không thể tìm được bất cứ cái gì cho mình. Và họ ngừng tìm kiếm. Ngừng tìm kiếm ngay, thậm chí không buồn tìm thêm lấy một cái gì đó. Cậu có dõi theo ý tôi không đấy?

- Thưa thầy, có ạ.

- Thật không?

- Thật ạ.

Thầy đứng lên rót thêm whisky. Rồi lại ngồi xuống. Và im lặng hồi lâu, rất lâu.

- Tôi không muốn doạ cậu, - cuối cùng thầy tiếp tục - nhưng tôi hoàn toàn hình dung rõ cậu đang hy sinh hữu ích đời mình cho những việc rỗng tuếch và vô dụng nào đó. - Thầy nhìn tôi bằng đôi mắt kỳ quặc - Hãy nói đi, nếu tôi viết thư cho cậu, cậu hứa sẽ đọc thật chăm chú, được không? Và sẽ gìn giữ nữa?

- Vâng, dĩ nhiên rồi, - tôi nói. Thực tế tôi vẫn giữ tờ giấy thầy đưa cho tôi hồi ấy. Nó vẫn còn ở chỗ tôi.

Thầy lại gần bàn viết, đứng viết gì đó lên cọc giấy. Sau đó thầy quay trở lại, ngồi xuống tay giữ một tờ giấy.

- Thật kỳ lạ, chả phải nhà văn, cũng không phải nhà thơ viết câu này. Mà là nhà phân tích tâm lý mang tên Wilhem Stekel. Đây là ông ta... cậu nghe tôi đấy chứ?

- Dĩ nhiên rồi.

- Đây, ông ta nói thế này: "Dấu hiệu thiếu chín chắn của con người là ở chỗ, anh ta muốn chết cho sự nghiệp chính nghĩa, còn dấu hiệu chín chắn là anh ta muốn sống yên bình vì sự nghiệp chính nghĩa".

Thầy cúi người xuống đưa tôi tờ giấy. Tôi đọc lại lần nữa, sau đó cảm ơn thầy và nhét nó vào túi. Dẫu sao, thầy cũng rất tốt bởi đã cố gắng vì tôi đến thế. Tiếc là tôi không sao có thể tập trung được. Tôi mệt quá chừng, thật đấy. Còn thầy thì chẳng mệt chút nào. Cái chính là thầy đang uống rượu rất vào.

- Sẽ đến ngày, - tự nhiên thầy nói, - cả cậu cũng phải quyết định đi đâu. Và ngay lập tức sẽ đến nơi cậu định đến. Không chậm trễ. Cậu không có quyền phí mất một phút. Không được như vậy.

Tôi gật đầu vì thầy nhìn thẳng vào mắt tôi, nhưng tôi không hiểu lắm những gì thầy nói. Tôi chỉ hơi mường tượng ra, nhưng dẫu sao vẫn không tin mình hiểu đúng. Tôi đã quá mệt.

- Không muốn nhắc đi nhắc lại mãi một điều, - thầy nói, - nhưng tôi nghĩ rằng, cậu chỉ vừa mới xác định được cho mình con đường tương lai thì việc đầu tiên là buộc phải có thái độ nghiêm túc đối với những giờ học ở trường. Đúng, buộc phải vậy. Cậu là một ngưòi biết tư duy, chẳng biết cậu có thích tên gọi đó hay không. Cậu ham thích khoa học. Và tôi có cảm tưởng rằng cậu sẽ vượt qua tất cả các thầy Vindsi cùng môn bố cục nói của họ, cậu...

- Vinson - tôi nói. Có lẽ, ông ấy nghĩ về thầy Vinson chứ không phải Vindsi.

Nhưng tôi cũng chỉ hoài công ngắt lời ông ấy.

- Thôi được, tất cả các thầy Vinson. Khi cậu vượt qua được tất cả cậu sẽ bắt đầu tiến ngày càng gần hơn, đúng ra nếu cậu muốn cậu sẽ vươn tới cái đó, mong đợi cái đó đến với những giờ học mà lúc đó chúng sẽ trở nên rất quý giá, đối với cậu. Và khi đó cậu sẽ phát hiện ra rằng, cậu không phải là người đầu tiên mà mọi người, với thái độ của họ đã gây ra sự lúng túng, nỗi sợ hãi hoặc thậm chí cả sự ác cảm. Cậu sẽ hiểu, rằng không chỉ có mình mới cảm thấy như vậy, và điều đó sẽ làm cậu vui sướng, nâng đỡ cậu. Có nhiều, rất nhiều người cùng phải chịu lúng túng trong các vấn đề đạo đức, tinh thần như cậu đang chịu đựng hiện giờ. Thật may, một vài người trong số họ đã ghi chép lại những dằn vặt của mình. Cậu có thể học được nhiều trong đó - dĩ nhiên, nếu muốn. Cũng sẽ như thế đối với người khác, một lúc nào đó họ sẽ học ở cậu, nếu cậu có điều gì đó nói với họ. Sự giúp đỡ lẫn nhau thật tuyệt diệu. Và nó không chỉ có trong kiến thức. Nó có trong cả thơ ca, lịch sử. - Thầy dừng lại, hớp một ngụm trong cốc và lại bắt đầu nói. Thầy bị lôi cuốn đến khủng khiếp. May mà tôi không ngắt lời, không ngăn thầy lại.

- Tôi không muốn gợi cho cậu, rằng chỉ những người uyên bác, có học vấn mới có thể góp phần quý giá cho đời. Không phải vậy. Nhưng tôi khẳng định rằng những người như vậy, trong điều kiện họ cũng là những người tài năng, đầu óc sáng tạo (nhưng đáng tiếc là họ rất hiếm), những con người này để lại cho đời sau di sản quý giá gấp bội so với những người chỉ tài ba và có óc sáng tạo. Họ diễn giải ý nghĩ của mình dễ hiểu hết mức, họ kiên trì và bền bỉ tiến hành ý định của họ đến cùng. Và điều quan trọng nhất là cả mười trường hợp trong số mười người của khoa học bao giờ cũng khiêm tốn gấp bội so với người không có học mặc dù biết tư duy. Cậu có hiểu tôi nói gì không?

- Có, thưa thầy.

Thầy im lặng khá lâu. Tôi không biết bạn có thường gặp phải trường hợp này không, nhưng ngồi chờ người khác suy nghĩ điều gì đó một lúc lâu rồi lại bắt đầu nói thì khó kinh khủng, nói có Chúa chứng giám. Tôi cố hết sức để khỏi ngáp. Và không phải vì tôi chán nghe, tuyệt nhiên không, nhưng tự nhiên bị cơn buồn ngủ khủng khiếp ập đến.

- Còn có một lợi thế nữa mà khoa học đem đến cho cậu. Nếu cậu chuyên tâm đủ trong các giờ học, cậu sẽ nhận được khái niệm về khả năng trí tuệ của mình. Những gì cậu đã rõ, những gì chưa. Và sau một thời gian, cậu sẽ hiểu được cách suy nghĩ nào hợp với cậu, cách nào không. Và cái đó sẽ giúp cậu không phung phí nhiều thời giờ vào việc gán cho mình một cách suy nghĩ nào đó mà cậu hoàn toàn không thấy có lợi hoặc không hợp. Cậu sẽ nhận biết được thước đo chuẩn mực nhất của mình, và sẽ lựa chọn bộ trang phục trí tuệ của cậu theo đúng thước đo đó.

Bỗng tôi ngáp một cái rộng đến tận mang tai. Đồ súc vật thô bỉ, tôi biết vậy, nhưng tôi có thể làm được điều gì? Vậy mà thầy Antolini chỉ phá lên cười.

- Thôi được! - Thầy đứng dậy. - Ta đi dọn giường cho cậu đi.

Tôi theo thầy đến tủ áo, thầy cố với lấy vải trải giường và chăn cho tôi ở ngăn trên cùng, nhưng còn vướng chiếc cốc ở tay. Thế là thầy uống cạn cốc, đặt nó xuống sàn, rồi mới lấy tất cả những đồ cần thiết. Tôi giúp thầy lôi chúng ra đi văng và cùng sắp xếp chỗ ngủ. Không thể nói là thầy tỏ ra khéo léo cực kỳ. Thầy chẳng biết gì trong công việc dọn giường chiếu. Nhưng tôi thì thế nào cũng xong. Tôi sẵn sàng lên giường, dù có phải ngủ đứng đi nữa, tôi mệt quá chừng.

- Thế các sở thích của cậu thế nào rồi?

- Không sao ạ. - Tôi đúng là thằng tiếp chuyện đáng bỏ đi, nhưng tôi đã hết muốn mở miệng.

- Sally sống ra sao? - Thầy biết Sally Hayes. Tôi đã từng giới thiệu nó với thầy.

- Tốt ạ. Em vừa gặp cô ấy trưa hôm nay. Quái quỷ thật, tôi có cảm tưởng như có đến hai chục năm trôi qua từ lúc ấy! - Nhưng em với cô ấy bây giờ ít có điều tâm đầu hợp ý lắm.

- Một cô bé đẹp kì lạ. Thế còn cô kia, cậu đã kể cậu làm quen với cô ta ở Maine không?

- À, - à, Jane Gallagher. Cô ấy cũng chả sao hết. Có lẽ, mai em sẽ gọi điện cho cô ấy, - cuối cùng chúng tôi cũng thu xếp xong chỗ ngủ.

- Nằm xuống đi! Thầy Antolini nói - không biết cậu sẽ nhét đôi cẳng dài thượt của cậu vào đâu!

- Không sao đâu, em quen ngủ giường cộc rồi. Cám ơn thầy nhiều. Thầy và cô thực đã cứu sống em hôm nay!

- Cậu biết buồng tắm đâu rồi chứ. Nếu cần cứ gọi nhé. Tôi còn ngồi thêm chút nữa ở bếp. Đèn không ảnh hưởng đến cậu chứ?

- Không đâu thầy. Cảm ơn thầy nhiều!

- Thôi đi! Chúc cậu ngon giấc, cậu bạn!

- Chúc thầy ngủ ngon! Cám ơn thầy rất nhiều.

Ông bước vào bếp, còn tôi vào buồng tắm, cởi quần áo, tắm rửa. Tôi không đánh răng vì không mang theo bàn chải, cả áo ngủ tôi cũng không có, mà thầy Antolini lại quên lấy cho tôi. Tôi trở về phòng khách, tắt đèn trên đi văng, bò vào chăn, mình mặc độc quần đùi. Đi văng hơi ngắn, khỏi nói, nhưng tôi cũng không hề tỉnh giấc. Tôi nằm khoảng hai giây, nghĩ đến những gì thầy Antolini nói. Về khoảng cách giữa ý thức và tư duy. Thầy rất thông thái, thực tế. Nhưng mắt tôi cứ tự sụp xuống, và tôi thiếp đi. Sau đó xảy ra một chuyện. Nói thực, tôi chẳng muốn kể ra chút nào. Tự nhiên tôi tỉnh giấc, không biết là mấy giờ. Tôi cảm thấy có gì đó trên trán mình. Một bàn tay ai đó. Lạy Chúa, tôi hoảng quá chừng! Hóa ra là tay của thầy Antolini. Thầy ngồi dưới sàn nhà cạnh đi văng và không chỉ vỗ trán tôi mà còn vuốt đầu tôi nữa. Tôi văng ra có đến nghìn cây số, thực thế!

- Thầy làm gì vậy?

- Có gì đâu, chỉ nhìn cậu... ngắm...

- Không, thầy đang làm gì ở đây vậy? - Tôi lại nói. Tôi hoàn toàn không biết nói gì và luýnh quýnh như một thằng ngu.

- Khẽ thôi, cậu sao vậy! Tôi chỉ lại gần.

- Dù sao em cũng phải đi thôi. Lạy Chúa, tôi đã hoảng sợ đến mức nào! Tôi bắt đầu mặc quần dài trong bóng tôi nhưng không sao xỏ vào được, tôi mất bình tĩnh quá chừng. Tôi đã thấy quá nhiều trong cách trường học đã phải gặp số kẻ tâm thần chết dẫm nhiều hơn ai hết, trước mặt tôi chúng như hoàn toàn mất trí.

- Cậu phải đi đâu lúc này? - Thầy Antolini hỏi. - Thầy cố nói thật bình tĩnh, thản nhiên, nhưng thấy rõ là thầy lúng túng. Các bạn có thể tin lời tôi.

- Em để vali ở nhà ga. Có lẽ đã đến lúc phải đến lấy về. Tất cả đồ đạc của em đều để ở đó.

- Từ giờ đến sáng đâu cần đến đồ đạc. Cậu nằm ngủ đi. Tôi cũng đi ngủ đây.

Không hiểu cậu làm sao vậy?

- Không có gì đâu, đơn giản là tất cả đồ đạc và tiền bạc đều ở trong vali. Em sẽ về ngay bây giờ. Em gọi taxi và sẽ về ngay. Quái quỷ, chút nữa thì tôi gãy đầu trong bóng tối - vấn đề là không phải tiền của em. Đó là tiền của mẹ em, và em phải...

- Đừng có ngốc, Holden. Nằm ngủ đi. Tôi cũng đi ngủ đây. Tiền cậu chẳng biến đi đâu được từ giờ đến sáng...

- Không không, em phải đi thật đấy.

Tôi gần như đã mặc xong quần áo, chỉ không tìm được cà vạt. Không tài nào nhớ nổi tôi đã quẳng cái chết dẫm ấy ở đâu, tôi đành mặc áo khoác không đeo cà vạt. Thầy Antolini ngồi xuống ghế bành cách xa, nhìn tôi. Tôi không thấy rõ thầy vì tối, nhưng cảm thấy thầy quan sát tôi và nốc rượu. Thế mà vẫn không rời tay khỏi cái cốc vại trung thành của mình.

- Cậu là thằng bé kì quặc, rất ư kì quặc!

- Em biết, - tôi nói. Thậm chí tôi cũng không thèm tìm cà vạt nữa. - Chào thầy! - Tôi nói - Cảm ơn thầy nhiều, thật đấy.

Thầy theo tôi đến tận cửa, còn khi tôi vào thang máy, thầy dừng lại ở ngưỡng cửa. Và lặp lại rằng tôi là một thằng bé rất ư kì quặc. Phải, kì quặc, còn sao nữa! Ông ấy đợi cho đến khi cái thang máy ngàn đời đáng nguyền rủa ấy đến. Chưa bao giờ trong đời, tôi lại phải đợi thang máy lâu đến thế, quỷ tha ma bắt nó! Cả một thế kỉ, thề có Chúa!

Tôi thậm chí không biết nói gì trong lúc chờ thang máy, còn ông ấy cứ đứng ở cửa, thế là tôi nói:

- Em sẽ bắt đầu đọc sách đứng đắn, thật đấy, em sẽ bắt đầu! - Cần phải nói gì đó. Tóm lại, chẳng tiện chút nào.

- Cậu lấy vali rồi bay ngay về đây nhé. Tôi để cửa ngỏ đấy.

- Cảm ơn thầy nhiều! - Tôi nói, - chào thầy, - cuối cùng thang máy đến. Tôi đóng cửa, đi xuống. Lạy Chúa, tôi bị xáo động quá. Mồ hôi đầm đìa. Khi gặp phải những trò đê tiện, mồ hôi tôi cứ vã ra như tắm. Ở trường tôi đã chạm trán với những trò chết dẫm này đến cả hai chục bận rội. Ngay từ nhỏ. Tôi căm thù nó!

Chương 25

Khi tôi ra ngoài đường, trời bắt đầu rạng. Lạnh dữ dội, nhưng tôi thấy dễ chịu vì mồ hôi đang ướt đẫm. Tôi hoàn toàn không biết đi đâu. Thuê khách sạn bằng tiền của em gái thì tôi không muốn. Cuối cùng tôi đi bộ đến Lexington, xuống tàu điện ngầm đến nhà ga trung tâm. Vali ở nhà ga, tôi quyết định ngủ thêm ở phòng đợi, nơi có đến cả đống ghế băng chết tiệt. Tôi làm đúng như vậy. Thoạt đầu thì không sao, còn ít người và có thể nằm đặt chân lên ghế. Nhưng tôi đâu muốn kể chuyện này. Một cảm giác khá tởm. Tốt hơn là các bạn đừng có đến dó, tôi nói nghiêm chỉnh đấy! Buồn khủng khiếp!

Tôi ngủ đến chín giờ, có đến tỉ người tràn vào nên tôi buộc phải bỏ cẳng xuống. Vốn dĩ không ngủ nổi nếu chân bị buông thõng, tôi đành ngồi dậy. Đầu vẫn nhức như trước. Thậm chí còn hơn. Tâm trạng thì tồi tệ khủng khiếp, chưa bao giờ tôi lại rơi vào một tâm trạng khốn kiếp đến thế trong đời.

Không muốn nghĩ về thầy Antolini, nhưng tôi không thể không nghĩ đến chuyện thầy sẽ nói gì với vợ mình khi cô ấy thấy tôi không ngủ đêm ở nhà họ. Nhưng chẳng phải điều đó làm tôi lo lắng, tôi quá biết thầy Antolini không phải là ngốc, ông ấy sẽ nghĩ ra được điều cần nói với vợ, có thể sẽ nói là tôi vội về nhà. Tôi bị hành hạ bởi chuyện khác kia, đó là chuyện tôi bị tỉnh giấc vì ông ấy xoa đầu tôi. Các bạn hiểu không, tự nhiên tôi uổng công tưởng tượng, rằng ông ấy muốn ám ảnh tôi. Chắc có lẽ, ông ấy thích xoa đầu trẻ ngủ. Không lẽ lại có thể nói chắc chắn? Không thể được! Thậm chí tôi còn nghĩ phải lấy vali rồi về nhà họ như đã hứa. Bạn hiểu không, tôi đã bắt đầu nghĩ, thậm chí có đôi chút kỳ quặc đi nữa thì ông ấy cũng đã đối xử với tôi tuyệt vời. Không hề bực mình khi tôi đánh thức ông dậy giữa đêm, lại còn bảo đến ngay nhà ông nếu cần. Rồi ông ấy tỏ ra rất cố gắng, cho tôi mọi lời khuyên về cách tư duy và vân vân, và cả việc ông ấy là người duy nhất không sợ lại gần thằng bé James Castle, khi nó đã chết, mà tôi đã kể rồi. Tôi ngồi và nghĩ tất tật chuyện này. Và càng nghĩ nhiều, tâm trạng tôi càng tồi tệ hơn. Rồi tự nhiên, mắt tôi lại nhói đỏ ngầu lên như đồ chết giẫm vì ngủ chẳng đẫy giấc. Sau đó, tôi bắt đầu sổ mũi, mà khăn mùi xoa thì không có. Trong vali có mấy cái, nhưng tôi cóc muốn lấy ra khỏi nơi gửi và mở nó ra trước mắt mọi người.

Có ai cạnh tôi bỏ quên cuốn tạp chí, thế là tôi vớ lấy đọc. Có thể, tôi sẽ trút bỏ được ý nghĩ về ông Antolini và mọi chuyện vớ vẩn khác, dẫu chỉ giây lát. Nhưng tôi còn cảm thấy tồi tệ hơn trăm lần vì cái bài báo chết giẫm này. Nó đề cập đến mọi thứ hócmon. Miêu tả bạn sẽ có hình dáng ra sao, mắt mũi thế nào nếu hóc môn của bạn ổn định. Còn tôi thì đúng là ngược lại, tôi có dáng vẻ giống hệt thằng được miêu tả trong bài báo, hóc môn của nó bị hỏng hết. Tôi bắt đầu lo lắng khủng khiếp về hóc môn của tôi. Sau đó, tôi đọc bài thứ hai: cách phát hiện sớm bệnh ung thư. Trong đó nói là nếu ở miệng có những vết lở lâu ngày không lành được thì có nghĩa là bạn chắc chắn bị ung thư. Thế mà phía trong môi tôi có một vết lở đã hai tuần rồi!!! Vậy là tôi nghĩ rõ ràng mình đã chớm nhiễm bệnh. Phải, một cuốn tạp chí rất nhộn, không còn gì để nói! Tôi quẳng nó xuống rồi đi dạo. Tôi tính rằng nếu bị ung thư thì sau vài ba tháng nữa tôi sẽ chết. Tôi nghĩ như vậy, nghiêm chỉnh đấy. Tôi tin chắc là mình sẽ chết. Và tâm trạng tôi chẳng khá lên chút nào bởi ý nghĩ ấy, tự các bạn cũng hiểu.

Hình như trời đã bắt đầu mưa, nhưng tôi vẫn có ý định đi dạo. Thứ nhất, cần phải ăn sáng. Không muốn ăn, nhưng dẫu sao cũng phải lót dạ, ít ra cũng phải nạp món gì có vitamin. Tôi đến khu phố phía Đông, nơi có các nhà hàng rẻ mạt vì tôi chẳng muốn tiêu tiền nhiều.

Trên đường đi, tôi thấy hai người lôi một cành thông khổng lồ ra khỏi xe hơi. Một người cứ gào lên với người kia suốt.

- Giữ lấy nó, cái con búp bê quỷ sứ ấy, giữ chặt lấy! - Lão nói về cây thông Giáng sinh thật bay bướm! Nhưng không hiểu sao tôi lại thấy nực cười, và thế là cười phá lên. Chả còn gì tồi tệ hơn thế, vì tôi lại bắt đầu buồn nôn. Suýt nữa thì tôi chết vì ngộ độc rồi sau đó qua được, tự tôi cũng chẳng biết bằng cách nào. Tôi chẳng ăn gì thiu thối, mà nói chung, dạ dày tôi rất giỏi chịu đựng.

Tóm lại, khi đã qua cơn, tôi quyết định phải ăn. Tôi rẽ vào một quán ăn rẻ tiền, gọi mấy ổ bánh mì tròn và cà phê. Chỉ có điều tôi không động đến bánh mì, không thể nuốt nổi một mẩu nào. Khi bạn đang quá phiền muộn, bạn sẽ rất khó ăn. Nhưng người hầu bàn rất khá. Anh ta mang bánh mì đi, không lấy của tôi xu nào. Tôi chỉ uống cà phê. Sau đó tôi đi về hướng đại lộ số Năm.

Đã là thứ hai, lễ Giáng sinh sắp đến, các cửa hàng buôn bán mở cửa ở khắp nơi. Ở đại lộ số Năm không đến nỗi tồi tệ lắm. Có không khí lễ Giáng sinh. Khắp các góc có những ông già Santa Klaus râu ria rậm rạp đứng rung chuông. Tôi cứ tìm mãi hai cô tu sĩ đã cùng tôi ăn sáng hôm trước, nhưng chẳng thấy họ đâu. Vả lại tôi cũng đã biết, chính họ nói rằng họ chỉ đến New York dạy học, nhưng dẫu sao tôi vẫn tìm họ. Ít ra, tự nhiên tôi cũng có tâm trạng của ngày lễ. Hàng tỉ đứa bé cùng mẹ ra khỏi xe buýt, ra khỏi các cửa hàng. Giá có Phoebe đi cùng tôi thì tuyệt biết bao! Nó không nhỏ lắm để dán mắt đến bất động vào đồ chơi, nhưng nó thích nhìn đám đông và nghĩ ra mọi chuyện vớ vẩn. Lễ Giáng sinh năm ngoái tôi cho nó theo tôi vào Trung tâm thương mại. Chẳng thiếu chuyện gì mà bọn tôi không làm! Theo tôi nhớ, đó là ở Bloomingdale. Bọn tôi rẽ vào quầy giày dép và làm ra vẻ như nó, con em tôi, cần mua một đôi giày đi núi rất cao này, bạn biết không, đôi giày có đến cả tỷ lỗ để xỏ. Chỉ chút nữa là chúng tôi làm gã bán hàng tội nghiệp mất trí. Con bé Phoebe của tôi thử có đến hai chục đôi, và mỗi lẫn thử, gã bán hàng tội nghiệp lại phải luồn dây buộc cho nó đến tận đầu gối. Thật đê tiện, dĩ nhiên, nhưng Phoebe thì suýt chết vì cười. Cuối cùng bọn tôi mua một đôi giày đi trong nhà và yêu cầu mang đến nhà. Gã bán hàng tỏ ra rất khá. Theo tôi, gã hiểu rằng chúng tôi đùa nghịch, vì Phoebe cứ cười nghiêng ngả suốt.

Tôi đi dọc theo đại lộ Số Năm mà không đeo cà vạt, cứ đi hoài. Rồi tự nhiên gặp một chuyện khủng khiếp. Cứ mỗi lần tôi đến cuối phố và phải rời vỉa hè sang đường, tôi lại chợt cảm thấy rằng không sao có thể sang được bên kia. Có cảm giác như tôi sẽ bất thình lình ngã lộn đầu xuống dưới, xuống dưới, xuống dưới mãi và sẽ không ai còn nhìn thấy tôi nữa. Ôi trời, các bạn không thể tưởng tượng nổi tôi hoảng sợ đến mức nào đâu. Mồ hôi túa ra đầm đìa, tất cả áo sống đều ướt đẫm. Rồi tự nhiên tôi nghĩ ra trò này. Mới đến cuối phố, tôi bắt đầu trò chuyện với em trai, thằng Allie của tôi, ngay lập tức. Tôi bảo nó: "Allie, đừng để anh ngã! Allie, anh cầu xin em!". Và khi đã sang đường bình an rồi, tôi vội cảm ơn nó. Và cứ như vậy ở mỗi góc phố, từ lúc sắp sang đường cho đến lúc sang được. Nhưng tôi không dừng lại. Hình như tôi sợ dừng lại, nói thật ra, tôi không còn ngốc lắm. Tôi chỉ biết là đã đến tận phố Sáu mươi, qua vườn bách thú, có trời biết được đi đâu. Rồi tôi ngồi xuống ghế băng. Tôi thở hồng hộc, mồ hôi vã ra như mưa đá. Tôi ngồi trên cái ghế ấy có lẽ đến gần tiếng đồng hồ và cuối cùng quyết định phải làm gì đó. Tôi quyết định ra đi, quyết định sẽ không về nhà và sẽ không nhập học bất cứ trường nào nữa. Tôi quyết định sẽ gặp em gái tôi, trả nó tiền, rồi sau đó ra đường cái giơ tay vẫy xe xin đi nhờ đến miền Tây. Tôi sắp xếp, đầu tiên cứ đến Hollidan Jannel, rồi từ đó vẫy xe xin đi nhờ tiếp, cứ như vậy là sau vài ngày, tôi đã ở xa tít, tận miền Tây, ấm áp và đẹp đẽ, nơi mà không một ai biết tới. Và ở đó tôi sẽ tìm được việc làm. Tôi nghĩ, sẽ dễ dàng tìm được việc ở một trạm tiếp xăng nào đó bên cột xăng, phục vụ người qua lại. Nói chung, tôi thì làm việc nào cũng được, miễn là đừng có ai biết tôi và ngược lại. Tôi định thế này: giả bộ câm điếc. Khi đó sẽ chẳng cần dây vào mọi chuyện ngu xuẩn và chán ngấy với bất cứ ai. Còn nếu có ai đó muốn nói gì với tôi, anh ta sẽ phải viết ra giấy đưa cho tôi đọc. Rồi thì họ sẽ chán ngấy, đến mức tôi được phóng thích suốt đời khỏi phải trò chuyện. Tất tật mọi người sẽ coi tôi là thằng ngốc câm điếc bất hạnh và để tôi yên thân. Tôi sẽ tiếp xăng cho những chiếc xe hơi chết giẫm của họ, nhận chút tiền công, rồi sau đó dựng cho mình một túp lều bằng số tiền ky cóp được và sẽ sống ở đó đến hết đời. Túp lều sẽ dựng ở ven rừng, có điều không phải ở giữa bụi cây, tôi thích có nắng chiếu vào thật nhiều. Tôi sẽ tự nấu ăn lấy, còn sau này khi muốn lập gia đình tôi sẽ gặp được một cô gái đẹp câm điếc nào đó và bọn tôi sẽ cưới nhau. Cô ấy sẽ sống cùng tôi trong lều, còn nếu muốn nói gì thì cứ việc viết ra giấy. Nếu có con, bọn tôi sẽ giấu chúng khỏi tất cả mọi người. Sẽ mua thật nhiều sách vở và sẽ tự dạy chúng đọc, viết.

Tôi thấy nóng rực cả người, thực thế. Dĩ nhiên, thật ngu xuẩn khi nghĩ rằng mình giả bộ câm điếc, nhưng tôi vẫn thích tưởng tượng bộ dạng mình lúc ấy ra sao. Và tôi quyết định chắc chắn sẽ đi về miền Tây. Chỉ cần chia tay với Phoebe. Tôi chồm lên và lao qua phố như một thằng điên, chút nữa thì đâm đầu vào xe hơi, để nói thật ra - là chui thẳng vào một hiệu bán giấy viết, mua ở đó một cuốn sổ tay và cây bút chì. Tôi định sẽ viết mẩu giấy hẹn nơi gặp nhau để có thể từ biệt nó và trả lại nó tiền quà. Tôi sẽ mang mẩu giấy đến trường, nhờ ai đó trong văn phòng chuyển cho Phoebe. Nhưng trong lúc tôi nhét cuốn sổ và bút chì vào túi và gần như chạy đến trường nó, tôi đã quá xúc động để viết mẩu thư tại cửa hiệu. Tôi đi nhanh kinh khủng: cần phải chuyển kịp mẩu giẩy cho con bé, khi nó còn chưa về nhà ăn điểm tâm, chỉ còn lại rất ít thời gian.

Tôi biết ngôi trường này rất rõ vì chính tôi đã từng chạy đi chạy lại đến đó học hồi còn bé. Khi bước vào sân, tôi cảm thấy kỳ quặc làm sao ấy. Tôi không nghĩ rằng mình nhớ tất cả cảnh cũ, nhưng hóa ra tôi vẫn nhớ. Tất cả đều nguyên si như khi tôi còn học. Vẫn gian phòng tập thể dục khổng lồ phía dưới, nơi tứ thời nhập nhoạng tối, vẫn những rọ sắt chụp trên các bóng đèn để khỏi bị vỡ. Ở trên sàn vẫn có những vòng trắng cho một trò chơi. Vẫn những khung bóng rổ trơ trọi không lưới, chỉ có tấm gỗ và các khung tròn.

Chẳng ở đâu thấy có bóng người, có lẽ vì đang là giờ học. Tôi chỉ thấy một thằng nhóc con da màu, chạy vào phòng vệ sinh. Từ trong túi quần nó thò ra tấm thẻ gỗ, bọn tôi cũng từng được nhận những tấm thẻ ấy để chứng nhận được phép ra khỏi lớp.

Tôi vẫn đổ mồ hôi suốt, nhưng không còn nhiều như trước nữa. Tôi bước ra cầu thang, ngồi xuống bậc dưới, lôi cuốn sổ và cây bút ra. Cầu thang vẫn bốc mùi, hệt như khi tôi còn học. Cứ như có đứa nào vãi ra đó. Ở các trường tiểu học, cầu thang tứ thời bốc mùi như vậy. Tóm lại, tôi ngồi xuống rồi viết mẩu thư: "Phoebe yêu quí! Anh không thể đợi đến thứ tư được vì ngay chiều nay anh sẽ đi miền Tây. Hãy chờ anh ở viện bảo tàng, cạnh cửa ra vào, lúc 12 giờ 15, nếu có thể, và anh sẽ trả lại tiền quà của em. Anh tiêu rất ít. Hôn em, Holden." Viện bảo tàng nằm ngay cạnh trường, đằng nào nó cũng phải đi ngang qua đó sau bữa điểm tâm, và tôi biết nó sẽ đợi gặp tôi. Tôi lên thang, vào phòng hiệu trưởng để nhờ mang mẩu thư của tôi vào lớp cho em gái. Tôi gấp tờ giấy đến chục lần để không ai đọc được. Ở những trường phổ thông chết giẫm này thì đừng có hòng tin nổi ai. Nhưng tôi biết, thư của anh trai sẽ được chuyển cho em ngay tức thì.

Khi tôi leo lên cầu thang, tôi lại bắt đầu buồn nôn, nhưng cố vượt qua được. Tôi chỉ ngồi xuống nghỉ một phút đã cảm thấy trong người khá hơn. Nhưng tôi bỗng nhìn thấy một thứ làm tôi phát điên. Ai đó đã viết lên tường một câu tục tĩu. Tôi đúng là điên lên vì giận dữ. Cứ hình dung con Phoebe cùng những đứa trẻ khác nhìn thấy rồi bắt đầu hỏi đó là gì, và một thằng khốn kiếp nào đó bắt đầu giảng giải cho chúng, lại còn giảng giải một cách đê tiện, rồi bọn trẻ bắt đầu nghĩ về những trò đó với thái độ rất thất vọng, ưu phiền. Tôi sẵn lòng giết chết kẻ khốn kiếp nào đã làm điều đó. Tôi hình dung ra một thằng đê tiện đồi bại nào đó đêm khuya lẻn vào trường bậy bạ rồi viết lên tường những từ này. Tôi tưởng tượng là tôi tóm được nó ngay nơi phạm tội, đập đầu nó vào cầu thang đá cho đến lúc nó chết ngoẻo, người đẫm máu mới thôi. Nhưng tôi lại nghĩ rằng mình sẽ không đủ can đảm làm như vậy. Tôi biết mình mà. Và vì chính điều đó, tôi lại thấy tâm hồn u ám hơn. Nói thực ra, tôi thậm chí cũng không dư sức xóa đi những từ đê tiện kia. Tôi sợ nhỡ bỗng nhiên có một thầy cô nào đó nhìn thấy tôi đang xóa dòng chữ và nghĩ là tôi viết ra thì sao. Nhưng sau đó tôi vẫn cứ xóa. Xóa xong, tôi lên phòng hiệu trưởng.

Ông hiệu trưởng không có đó, nhưng có một bà già đến cả trăm tuổi đang ngồi đánh máy. Tôi nói rằng tôi là anh trai của Phoebe Caulfield học lớp 4B và nhờ bà chuyển cho nó mẩu thư này. Tôi nói, việc rất quan trọng vì mẹ tôi bệnh, không chuẩn bị được bữa sáng cho Phoebe và tôi phải gặp Phoebe để cho nó ăn sáng trong quầy điểm tâm. Bà già hóa ra rất dễ chịu. Bà ấy cầm tờ giấy của tôi, gọi một phụ nữ nào đó ở phòng bên và cô kia đi chuyển giấy cho Phoebe ngay. Sau đó, tôi cùng bà già này nói vài ba câu chuyện. Bà ấy rất niềm nở, và tôi kể cho bà ấy rằng tất cả anh em nhà tôi đều học ở trường này. Bà hỏi hiện giờ tôi học ở đâu, tôi nói ở Pencey và bà ấy bảo - Pencey là một trường rất tốt. Nếu như tôi thậm chí có muốn sửa lại đầu óc cho bà ấy đi nữa thì cũng chẳng đủ tinh thần. Bà ấy muốn nghĩ Pencey là trường tốt thì cứ mặc. Thật ngu xuẩn nếu muốn gợi lên những ý nghĩ mới cho người khác, khi người ta đã già gần trăm tuổi rồi. Mà họ đâu có thích điều ấy. Sau đó tôi chào bà rồi đi ra. Bà ấy gào với theo tôi: "Chúc cậu lên đường may mắn!". Hoàn toàn giống hệt ông già Spencer lúc tôi rời Pencey. Lạy Chúa, tôi căm ghét cái thói quen ấy quá chừng, cứ gào với theo "Chúc lên đường may mắn!". Tâm trạng tôi lại xấu đi vì chính câu ấy.

Tôi xuống thang và lại nhìn thấy một hàng chữ tục tĩu trên tường. Lại cố xóa, nhưng lần này chữ được khắc bằng dao hay một vật gì đó rất sắc. Mà cũng uổng công vô ích thôi. Nếu có được sống đến cả triệu tuổi cũng không thể xóa hết những chữ tục tĩu trên tường ở khắp thế giới này. Một việc không thể làm nổi.

Tôi nhìn lên đồng hồ ở gian thể dục, mới 12 giờ kém 20, chờ đến giờ nghỉ còn lâu. Nhưng tôi vẫn đến thẳng viện bảo tàng. Đằng nào thì cũng chả còn chỗ nào để đến nữa. Tôi nghĩ có nên gọi điện cho Jane Gallagher ở trạm điện thoại tự động trước khi bỏ đi miền Tây không, nhưng chả có lòng dạ nào. Mà tôi cũng không tin là nàng đã về nhà nghỉ đông. Tôi ghé vào viện bảo tàng bắt đầu đợi ở đó.

Trong lúc tôi chờ Phoebe ở ngay cửa vào bảo tàng, có hai thằng nhóc lại gần hỏi tôi có biết xác ướp ở đâu không. Thằng hỏi tôi mặc quần chưa cài cúc và tôi ra lệnh nó chỉnh đốn lại ngay. Thế là nó làm ngay trước mắt tôi, chẳng hề ngượng nghịu, thậm chí cũng không buồn rẽ vào sau cột hay xó nào đó. Thật nực cười. Có lẽ, tôi đã phá lên cười, nhưng lại sợ bị buồn nôn nên cố ghìm lại.

- Thế xác ướp ở đâu? - Thằng bé hỏi lại. Anh có biết chúng ở đâu không?

Tôi quyết định trêu chúng.

- Xác ướp ấy à? - Tôi hỏi. - Thế nó là gì vậy?

- Ồ anh biết đấy. Xác ướp người chết ấy. Người ta còn chôn chúng trong các kim tự tháp. Trong các kim tự tháp! Ôi thật nực cười. Đấy là nó nói về các kim tự tháp.

- Thế sao các em không đến trường hả, lũ nhóc? - Tôi hỏi.

- Không có giờ. - Vẫn thằng bé đó nói từ đầu đến giờ. Tôi nhận thấy nó nói dối, thằng đểu. Nhưng đằng nào cũng chả có gì để làm cho tới khi Phoebe đến, thế là tôi dẫn chúng đến nơi có xác ướp. Trước đây tôi biết chính xác chúng nằm ở đâu, chỉ có điều cả trăm năm rồi tôi chưa đến đó.

- Thế bọn em thích nhìn xác ướp lắm à? - Tôi hỏi.

- Vâng.

- Thằng bạn em bị cảm ư?

- Nó không phải là bạn mà là em trai em.

- Chả có lẽ nó không biết nói sao? Thế nào, em không biết nói à?

- Biết, - thằng kia trả lời, - có điều em chẳng muốn.

Cuối cùng, bọn tôi tìm thấy cửa hàng nơi có xác ướp.

- Thế bọn em có biết người Ai Cập chôn người chết của họ thế nào không?

Tôi hỏi thằng bé hay chuyện.

- Khô-ông...

- Cần phải biết. Chuyện đó rất thú vị. Họ cuộn đầu người chết vào những tấm vải có tẩm một hỗn hợp đặc biệt bí mật. Chỉ khi đó mới có thể chôn cất đến cả ngàn năm mà đầu người chết vẫn không rữa ra. Không ai biết làm việc này, ngoài dân Ai Cập. Ngay cả khoa học hiện đại cũng không hề biết phải làm việc ấy thế nào.

Để thấy xác ướp, phải đi qua một hành lang rất hẹp lát bằng đá lấy ra từ mộ Pharaông. Một chỗ khá khiếp đảm, và tôi thấy hai thằng nhóc mà tôi dẫn đi run như cầy sấy. Chúng nép sát vào tôi như lũ mèo con, thằng không hay chuyện thậm chí còn bám chặt vào tay áo tôi.

- Về nhà đi, - bỗng nó nói. - Em đã nhìn thấy hết rồi. Về nhanh lên. - Nó quay lại rồi bỏ chạy.

- Nó nhát lắm, cái gì cũng sợ! - Thằng kia nói. - Chào anh! - Rồi cũng chạy theo thằng em.

Tôi còn lại một mình, giữa đám gạch mộ. Tôi thích ở đây - im lặng, yên bình. Rồi bỗng nhiên tôi thấy trên tường, các bạn đoán được cái gì không? Lại một dòng tục tĩu bằng chì đỏ, ngay dưới tủ kính trên đá.

Mọi điều bất hạnh là ở đấy. Không thể tìm được chỗ nào yên bình, im lặng, không có chỗ đó trên trái đất này. Thỉnh thoảng bạn nghĩ, cũng có thể có, nhưng khi bạn đến được thì một ai đó đã vượt lên trước bạn và viết một dòng bậy bạ ngay trước mũi bạn. Bạn cứ tự kiểm tra xem. Đôi lúc tôi có cảm giác tôi sẽ chết, sẽ rơi vào nghĩa địa, người ta sẽ đặt bia kỷ niệm trên người tôi, và sẽ viết "Holden Caulfield", năm sinh và năm chết, còn dưới tất cả những chữấy một kẻ nào đó sẽ lại khắc vào một hàng tục tĩu. Tôi tin là sẽ như vậy.

Tôi ra khỏi nơi có xác ướp, đi vào buồng vệ sinh. Tôi lại bị đau bụng, nếu đã phải nói toàn bộ sự thật. Nhưng tôi không sợ điều đó, mà hoảng sợ chuyện khác. Khi ra khỏi buồng vệ sinh, tôi ngất ngay tại cửa. Còn may là tôi ngã đẹp. Tôi có thể bị đập đầu xuống sàn nhưng chỉ ngã đập sườn xuống. Cái cảm giác ấy thật kỳ quặc. Nhưng sau cơn ngất, tôi cảm thấy trong người khá hơn. Đúng ra, tay bị đau nhưng chẳng còn nhức đầu kinh khủng như trước nữa.

Đã 12 giờ 10, tôi ra cửa chờ Phoebe của tôi. Tôi nghĩ có lẽ tôi gặp nó lần cuối. Và nói chung sẽ không còn thấy ai trong số người thân nữa. Có nghĩa là dĩ nhiên tôi có lẽ sẽ còn gặp lại họ khi nào đó, nhưng sẽ chẳng mau chóng gì. Có thể, tôi sẽ về nhà khi ba nhăm tuổi, nếu có ai đó trong số họ đau ốm và muốn nhìn thấy tôi trước khi chết, đó là điều duy nhất buộc tôi bỏ lại túp lều của mình để quay về nhà. Tôi thậm chí còn tưởng tượng sẽ trở về thế nào. Tôi biết, mẹ tôi sẽ xúc động kinh khủng, sẽ khóc và van nài tôi ở nhà, đừng trở về túp lều kia nữa, nhưng tôi vẫn cứ ra đi. Tôi sẽ cố cao ngạo, khó gần như quỷ vậy. Sẽ an ủi mẹ rồi đứng lui vào góc khác trong phòng, lôi thuốc ra hút với một sự lãnh đạm băng giá. Tôi sẽ mời bố mẹ đến thăm tôi nếu họ muốn, nhưng nhất quyết không nài nỉ. Nhưng tôi nhất định sẽ thu xếp cho Phoebe đến chỗ tôi mùa hè, và cả lễ Giáng Sinh, cả kỳ nghỉ lễ Phục sinh nữa. Sẽ để cho cả anh D.B đến và sống ở chỗ tôi nếu anh ấy cần một góc yên tĩnh im ắng để làm việc. Nhưng tôi sẽ chẳng cho phép viết bất cứ một kịch bản nào trong túp lều của tôi, chỉ truyện ngắn và sách thôi. Tôi sẽ có quy định thế này: không cho bất cứ một sự giả tạo nào lọt vào nhà tôi. Còn nếu ai muốn mang sự giả tạo, dù chỉ chút ít đến, thì tốt hơn cứ để anh ta đi khỏi nhà tôi ngay.

Bỗng tôi nhìn lên đồng hồ ở phòng gửi áo khoác ngoài, đã một giờ kém 25. Tôi hoảng sợ. Nhỡ bà già trong văn phòng bảo người đàn bà kia đừng chuyển giấy cho Phoebe, nhỡ bà ấy bắt đốt tờ giấy của tôi hoặc quẳng đi. Tôi sợ quá chừng. Tôi rất muốn gặp em gái trước khi cuốn xéo, có trời biết được đi nơi nào. Mà tôi lại còn giữ tiền của nó nữa chứ.

Rồi bỗng nhiên tôi thấy nó. Qua cửa kính, tôi nhận ra ngay vì nó đội cái mũ thợ săn hoang dã của tôi. Có thể nhận ra nó dù cách xa đến mười dặm, cái mũ của tôi ấy mà.

Tôi bước ra phố và đi xuống cầu thang đá đón Phoebe. Có một điều tôi không hiểu được, nó tha theo cái vali to đùng để làm gì. Nó đang đi qua đại lộ Số Năm và tha theo một cách khó nhọc cái vali khổng lồ xấu xí. Lại gần hơn, tôi hiểu đó chính là cái vali cũ của tôi hồi còn học ở trường Whootton. Không tài nào hiểu được, con bé cần quái gì đến cái vali ấy.

- Hú! - Nó nói, khi lại gần hơn. Nó hoàn toàn mệt lử vì cái vali chết giẫm này.

- Anh tưởng là em không đến, - tôi nói, - em tha cái vali này đến đây làm quái gì vậy? Anh cóc cần gì hết. Anh đi nhẹ nhàng thôi. Thậm chí anh cũng sẽ không lấy vaili ở nhà ga. Em nhét những gì vào đó? Nó đặt vali xuống.

- Đồ đạc của em, - nó nói. - Em đi cùng anh. Được không? Anh sẽ cho em đi cùng chứ?

- Gì kia? - Tôi su ýt ngã khi nó nói câu ấy. Thật đấy, đầu óc tôi quay cuồng, tôi đến ngất xỉu mất.

- Em xách va li ra cầu thang phía sau để Charlene không nhìn thấy. Không nặng đâu. Trong này chỉ có hai áo đầm, đôi giầy, đồ lót, tất và những thứ lặt vặt. Anh thử nhấc lên xem. Va li nhẹ lắm, nào, nhấc thử đi. Cho em đi theo anh với, Holden! Được không anh?

- Không, không được. Câm đi!

Tôi cảm thấy sắp ngã khuỵu xuống và ngất đi. Tôi tuyệt nhiên không muốn quát: "Câm đi!", nhưng, ôi, lại thấy mình sắp ngất.

- Sao lại không được? Em xin mà, cho em đi với... Nào, Holden! Em sẽ không quấy rầy anh đâu, em chỉ đi cùng anh, vậy thôi! Nếu anh muốn, em sẽ bỏ lại áo đầm, chỉ mang theo...

- Mày sẽ không mang theo gì hết. Và cũng không đi đâu. Tao đi một mình.

Câm đi!

- Nào, Holden, em xin mà! Em rất, rất, rất ngoan, thậm chí anh sẽ không nhận thấy...

- Mày sẽ chẳng đi đâu hết. Câm đi, nghe thấy không! Đưa vali đây!

Tôi giật vali khỏi tay nó. Tôi muốn phết đít nó một cái quá chừng. Chỉ một chút nữa là tôi đánh nó, thực đấy. Nhưng bỗng nhiên nó òa khóc.

- Thế mà tao lại nghĩ mày sửa soạn đi đóng kịch. Tao nghĩ mày sửa soạn đi đóng Benedict Arnold trong vở đó - tôi nói. Giọng tôi trở nên dữ tợn, ghê tởm. - Mày định giở trò gì thế, hả? Không muốn đóng kịch nữa hay sao?

Thế là nó càng khóc dữ hơn, còn tôi thậm chí lại thấy mừng. Tự nhiên tôi muốn khóc hết nước mắt. Tôi giận nó khủng khiếp, chính vì nó sẵn sàng từ chối vai kịch để đi với tôi.

- Đi, - tôi nói, lại bắt đầu leo thang vào viện bảo tàng. Tôi quyết định gửi ở phòng giữ áo khoác ngoài cái va li chết giẫm mà nó tha đến, nó sẽ lấy lại vào lúc ba giờ trên đường đi học về. Tôi biết, không được mang vali vào trường. - Nào, đi. - Tôi nói.

Nhưng nó không đến viện bảo tàng. Nó không muốn theo tôi. Tôi đi một mình, gửi vali ở phòng giữ áo khoác ngoài và lại ra phố. Nó vẫn đứng trên vỉa hè, nhưng khi tôi lại gần, nó quay lưng lại. Cái đó thì nó làm được lắm. Quay lưng lại bạn, và hết.

- Anh sẽ chẳng đi đâu hết. Anh nghĩ lại rồi. Đừng có gào lên nữa, nghe thấy không? - Nói th ế thật là ngu xuẩn, vì nó chẳng còn gào khóc nữa. Nhưng tôi vẫn cứ nói: "Đừng có gào lên nữa!" phòng mọi trường hợp. - Nào ta đi đi! Anh sẽ đưa em đến trường. Đi nhanh lên. Em sẽ muộn mất.

Nó thậm chí không thèm trả lời tôi. Tôi thử nắm tay nó, nhưng nó giật ra. Và cứ quay lưng lại tôi hoài.

- Em ăn sáng chưa? - Tôi hỏi. - Em đã ăn sáng chưa?

Nó không thèm trả lời. Tự nhiên nó cởi mũ thợ săn của tôi ra, quẳng ra xa, suýt vào mặt tôi. Vẫn đứng quay lưng lại. Tôi bắt đầu buồn cười, nhưng im lặng. Tôi chỉ nhặt mũ lên, nhét vào túi.

- Thôi được, đi thôi. Anh sẽ tiễn em đến trường.

- Em sẽ không đến trường nữa đâu.

Tôi có thể nói gì với nó được? Tôi đứng im lặng một lúc rồi nói:

- Không, em phải đến trường. Em muốn đóng kịch cơ mà, đúng không nào?

Em muốn là Benedict Arnold đúng không?

- Không.

- Không đúng, em muốn mà. Em muốn kinh khủng! Nào, ta cùng đi! Thứ nhất, anh sẽ chẳng đi đâu hết. Anh nói sự thật với em đấy. Anh sẽ về nhà. Đầu tiên ra ga lấy vali, sau đó sẽ đi thẳng...

- Còn em thì nói với anh là em không đến trường nữa. Anh muốn làm gì mặc anh, em sẽ chẳng đi học nữa đâu! Mà nói chung, câm đi!

Lần đầu tiên trong đời, nó nói với tôi như vậy. Thô tục khủng khiếp. Còn tồi tệ hơn là phải nghe những lời chửi rủa đầu đường xó chợ. Nó vẫn không nhìn về phía tôi, còn khi tôi vừa thử động vào vai và nắm tay nó, nó vùng ra ngay.

- Em nghe này, em có muốn đi dạo một lát không? Muốn đi bách thú với anh không? Nếu anh cho phép em không phải đến trường hôm nay và đưa em đến vườn bách thú cùng anh thì em sẽ ngừng ngay trò ngu xuẩn bướng bỉnh đi chứ? - Nó không trả lời, còn tôi cứ nhắc lại lời mình. - Nếu anh cho phép em nghỉ học chiều này và cho đi dạo cùng anh em sẽ thôi ngay trò kỳ quặc này chứ?

- Lúc nào muốn thì đi, không muốn thì thôi! - nó nói rồi tự nhiên nhảy bổ sang bên kia đường, chẳng buồn ngó xem có xe cộ gì không. Đôi lúc nó thật điên rồ.

Tuy nhiên, tôi không theo nó. Tôi biết nó sẽ theo tôi ngoan ngoãn và tôi cứ đủng đỉnh đến vườn bách thú theo bên này đường. Nó làm ra vẻ không nhìn về phía tôi, nhưng vẫn cứ hé con mắt tức giận xem tôi đi đâu. Cứ như vậy, bọn tôi đi suốt chặng đường đến vườn bách thú. Tôi chỉ lo lắng mỗi khi có xe búyt hai tầng chạy qua, che lấp phía bên kia và tôi không nhìn thấy nó bị cuốn đi đâu. Nhưng khi bọn tôi đến gần vườn bách thú, tôi kêu nó:

- Này, Phoebe! Anh vào vườn bách thú đây! Lại đây nào!

Nó vẫn chẳng thèm ngó sang tôi, nhưng tôi đoán nó nghe thấy. Khi bắt đầu xuống thang vào bách thú, tôi ngoảnh lại và thấy nó đang qua đường đi theo tôi. Vườn bách thú vắng người, thời tiết xấu tồi tệ, nhưng bên bể nước, nơi hải cẩu bơi có dăm khán giả vây quanh. Tôi đã đi ngang qua, nhưng con bé dừng lại và cũng bắt đầu xem người ta quẳng cá vào bể cho hải cẩu ăn, thế là tôi cũng quay lại. Tôi nghĩ, bây giờ tôi sẽ lại chỗ nó. Tôi lại gần, đứng sau lưng, đặt cả hai tay lên vai nó, nhưng nó ngồi xuống và trườn khỏi tay tôi. Nó giận mới khiếp chứ, một khi muốn giận! Nó nhìn người ta cho hải cẩu ăn, còn tôi đứng phía sau. Nhưng tôi chẳng đặt tay lên vai nó làm gì, nói chung tôi không động đến nó nữa vì sợ bỗng nhiên nó chuồn khỏi tôi thì sao. Thật kỳ quặc, cái bọn con nít ấy. Với chúng cứ phải đề phòng cẩn thận.

Chúng tôi đã rời bể nước, nó không muốn đi bên cạnh nhưng đi cách tôi không xa lắm. Nó cứ giữ đúng một bên đường, còn tôi bên kia. Cũng chả thú vị gì cho lắm nhưng còn khá hơn là đi cách nhau cả dặm như lúc trước. Bọn tôi đi xem lũ gấu trên đồi nhỏ, nhưng ở đó chả còn gì để xem. Chỉ có đúng một con bò ra ngoài, con gấu trắng Bắc cực. Còn con màu nâu cứ nằm ườn trong cái hang chết giẫm của nó. Cạnh tôi có một thằng nhóc đội mũ cao bồi trùm đến mang tai, nó cứ lặp đi lặp lại suốt:

- Bố, bắt nó ra đi! Bố, bắt nó ra đi!

Tôi nhìn Phoebe, nhưng nó thậm chí cũng chả thèm cười. Các bạn cũng biết con nít giận hờn thế nào. Chúng thậm chí chả thèm cười bất cứ chuyện gì. Rời lũ gấu, bọn tôi tiến ra cửa vườn bách thú qua một lối mòn nhỏ trong vườn, rồi lại qua một con đường ngầm tứ thời bốc mùi. Mọi người thường qua đó để đến chỗ đu quay. Phoebe của tôi vẫn chưa thèm nói chuyện, nhưng đã đi ngay bên tôi. Tôi định cầm dây lưng áo bành tô của nó nhưng nó không chịu.

- Anh bỏ tay ra đi! Nó vẫn còn hờn giận tôi. Nhưng bọn tôi vẫn tiến mỗi lúc một gần hơn đến chỗ đu quay, và đã nghe thấy tiếng nhạc ở đó, tứ thời chơi bài "Ồ, Mary!". Họ chơi bài này đến cả năm chục năm rồi, từ hồi tôi còn nhỏ xíu. Đó là cái hay nhất ở chỗ đu quay, lúc nào cũng đúng bài đó.

- Thế mà em lại nghĩ đu quay đóng cửa! - Bỗng Phoebe cất giọng nói với tôi trước. Có lẽ, nó đã quên là mình đang giận dỗi.

- Có lẽ vì sắp đến lễ Giáng Sinh, - tôi nói.

Nó không đáp. Có lẽ, nó đã nhớ lại là vẫn còn đang giận tôi.

- Em có muốn chơi đu không? - Tôi biết nó rất muốn. Khi nó còn bé xíu, tôi cùng Allie và cả anh D.B. nữa đưa nó đến công viên, nó phát rồ lên với mấy cái đu quay. Có bữa, không tài nào lôi nó ra khỏi đó.

- Em lớn rồi! - Tôi nghĩ, nó sẽ không trả lời.

- Bậy nào! Ngồi vào đi! Anh sẽ chờ em! Nào! Chúng tôi tiến sát đến đu quay.

Trên đó chỉ có vài đứa còn nhỏ xíu, bố mẹ chúng ngồi ở ghế băng đợi. Tôi lại gần ô cửa bán vé mua cho Phoebe một vé. Mua xong tôi đưa cho nó. Nó đã đứng ngay cạnh tôi.

- Này, - tôi nói, - không, hãy chờ một phút, em cầm luôn tiền quà của em đi, cầm hết đi! - Tôi muốn trả hết tiền cho nó.

- Không, anh giữ đi. Anh cứ giữ tiền đi, - nó bỗng nói thêm. - Thật mà, em xin anh!

Thật bất tiện khi người ta cầu xin bạn, nhất là khi đó chính là em gái. Tôi thậm chí sầm cả mặt. Nhưng đành phải nhét tiền vào túi.

- Thế anh sẽ đu chứ! - Nó hỏi và nhìn tôi là lạ thế nào ấy. Rõ ràng nó đã hoàn toàn hết giận.

- Có thể, lần sau. Lần đầu anh xem em đu đã. Em cầm vé rồi chứ?

- Vâng.

- Thế thì lên đi, anh sẽ ngồi kia, trên ghế băng, xem em chơi.

Tôi ngồi xuống ghế, còn nó lại gần đu. Đi vòng một lượt. Có nghĩa là thoạt đầu nó đi vòng quanh bàn đu. Sau đó nó chọn con ngựa lớn nhất đã sờn cũ màu nâu cáu bẩn. Bàn đu bắt đầu quay, và tôi thấy nó ngồi đu thế nào. Bản nhạc "Khói mờ đôi mắt" rất nhộn, rất nực cười. Tất cả lũ trẻ đều cố gắng tóm lấy vòng vàng, cả con Phoebe cũng thế, tôi thậm chí còn sợ nhỡ nó ngã từ con ngựa chết giẫm kia thì sao, nhưng chả thể nói và làm gì được. Với con nít bao giờ cũng vậy, một khi chúng đã định tóm cho được cái vòng vàng thì đừng có cố ngăn cản. Chúng ngã thì ngã nhưng đừng bao giờ nói với theo. Khi vòng đu kết thúc, nó trèo từ trên ngựa xuống, lại gần tôi.

- Bây giờ anh đu đi, - nó nói.

- Không, anh sẽ xem em thì hơn, - tôi nói, - đưa cho nó một ít tiền. - Em đi mua vé nữa đi. - Nó cầm tiền.

- Em không giận anh nữa đâu, - nó nói.

- Anh biết rồi. Chạy đi, đu quay bây giờ đấy.

Tự nhiên nó hôn tôi một cái. Rồi chìa bàn tay ra.

- Mưa! Đang mưa!

- Anh biết.

Các bạn biết nó làm gì ngay lúc ấy không? - Tôi suýt chết vì cảm động! Nó mò vào túi tôi lấy ra cái mũ săn đỏ, úp sụp xuống trán tôi. Thế em không đội sao? - Tôi hỏi.

- Anh đội trước đã! - Nó nói.

- Thôi được. Nào, chạy đi, không đu quay bây giờ. Bọn nó giành ngựa của em mất. Nhưng nó không rời khỏi tôi.

- Anh nói thật với em không đấy. Có thật anh sẽ không đi đâu không? Anh sẽ về nhà thật chứ?

- Ừ. Và anh chẳng nói dối đâu, thực tế anh đã về nhà rồi đấy thôi. - Nào, chạy nhanh lên! - Bắt đầu quay bây giờ!

Nó chạy đi mua vé rồi đến bàn đu vào đúng giây cuối cùng. Và lại chạy vòng quanh cho đến lúc tìm được con ngựa cũ của mình. Nó cưỡi lên ngựa, vẫy tay với tôi, tôi cũng vẫy nó.

Mưa bắt đầu trút xuống sầm sập. Mưa rào thực thụ, lạy Chúa! Tất cả các mẹ, các bà của lũ trẻ, tóm lại, tất tật những ai ở đó đều đứng dưới mái đu để khỏi bị ướt lướt thướt, còn tôi vẫn ngồi nguyên trên băng. Tôi bị ướt khủng khiếp, nhất là cổ áo và quần. Cái mũ thợ săn cũng che được đôi chút, nhưng tôi vẫn ướt như chuột lột. Nhưng tôi thì thế nào cũng xong. Tự nhiên tôi cảm thấy hạnh phúc vì Phoebe đang quay trên đu. Tôi suýt khóc rống lên vì cảm giác đó, nếu đã phải nói thực. Tự tôi cũng chẳng hiểu tại sao. Con bé mới đáng yêu làm sao, nó quay tít trong chiếc váy nhỏ xíu màu xanh nước biển. Tiếc là các bạn không nhìn thấy nó, thật đấy!

Chỉ vậy thôi, tôi sẽ chẳng kể thêm gì nữa đâu. Dĩ nhiên, tôi có thể kể tôi bị ốm ở nhà ra sao, bố mẹ tôi định cho tôi vào học trường nào từ mùa thu, khi người ta cho tôi ra viện, nhưng điều đó chẳng đáng nói. Chẳng có gì thú vị.

Có nhiều người, nhất là nhà phân tích tâm lý hay đến khu an dưỡng này hỏi xem tôi có cố gắng đi học được vào mùa thu này hay không. Theo tôi, đây là một câu hỏi cực kỳ ngu xuẩn. Làm sao mà con người ta có thể biết được? Sẽ làm gì? Chẳng điều gì có thể biết trước được! Tôi cảm thấy là tôi sẽ cố gắng, nhưng làm sao tôi biết được? Và hỏi thế mới ngu làm sao!

Anh D.B không như tất cả mọi người, nhưng anh ấy cũng hỏi một loạt câu khác nhau. Thứ bẩy, anh đến chỗ tôi cùng với ả người Anh sẽ đóng trong phim của anh ấy. Ả õng ẹo kinh khủng, nhưng được cái đẹp. Và lúc ả bỏ vào phòng nữ ở đầu kia hành lang, D.B hỏi tôi nghĩ gì về tất cả những chuyện đã xảy ra, về những gì tôi đã kể cho các bạn. Tôi hoàn toàn không biết trả lời anh ấy ra sao. Nói thực ra, tự bản thân tôi cũng chẳng biết mình nghĩ gì. Tiếc là tôi đã huyên thuyên với nhiều người về chuyện này. Tôi chỉ biết rằng tôi vẫn thấy thiếu những kẻ mà tôi đã kể cho các bạn nghe. Ví như thằng Stradlater, hay thậm chí cả thằng Ackley. Đôi lúc tôi cảm thấy thiếu cả lão Morice đê tiện kia nữa. Thật là kỳ quặc. Và các bạn tốt hơn hết cũng đừng có kể cho ai. Còn không thì cứ kể về tất cả những người, mà cả các bạn cũng cảm thấy buồn khi thấy thiếu họ.

Hết

Loading...

Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!

Chúc các bạn online vui vẻ !

Laptop Tùng Anh

Tour Phú Quốc

Vinhomes Cầu Rào 2

Trang Chủ

Insane