Chỉ ngâm được hai từ đó là đứt, vì không biết tiếp thế nào. Nhìn quanh bốn bề, may mà không có ai.
Tôi quả nhiên không có tài thi hứng, gặp phải cảnh đẹp hiếm có nhường này mà vẫn không sao làm thơ được.
Nhớ ra còn phải gọi điện cho Từ Trì, tôi bèn rút điện thoại ra gọi cho cậu ta.
Từ Trì nói 20 phút nữa sẽ đến, đợi tôi dưới sảnh khách sạn, gặp nhau rồi nói
20 phút sau, tôi xuống sảnh, vừa ra khỏi thang máy đã thấy Từ Trì đang ngồi trên ghế sofa giữa đại sảnh.
“Anh Thái!” Từ Trì đứng lên, dang rộng hai tay. “Nào, ôm anh một cái.”
Ai dà, nếu như câu này do Noãn Noãn nói ra thì tốt biết mấy.
Ôm ấp nồng nhiệt với Từ Trì xong, cậu ta nói: “Trời tối lại có tuyết, có nên làm một chén không nhỉ?”
“Một chén thì được,” tôi cười cười, “hai chén thì say mất.” Từ Trì ra ngoài cửa khách sạn gọi một chiếc taxi chúng tôi chạy thẳng tới chợ Hoa Sen ở Thập Sát Hải.
Năm ngoái giữa trưa hè tôi từng cùng Noãn Noãn tản bộ ven bờ hồ, nhưng giờ là đêm đông, hơn nữa còn là một đêm đông có tuyết rơi.
Từng có bông hoa tuyết chầm chậm rơi trên Thập Sát Hải, lặng thinh không một tiếng động, cũng chẳng lưu lại chút vết tích gì.
Nhớ lại hôm qua lúc đi chơi ở Tây Hồ Hàng Châu nghe người ta nói: Nắng Tây Hồ không bằng mưa Tây Hồ; mưa Tây Hồ chẳng bằng đêm Tây Hồ; đêm Tây Hồ sao bằng tuyết Tây Hồ. Vậy thì tuyết Tây Hồ chắc chắn là đẹp nhất rồi.
Thập Sát Hải liệu có phải cũng vậy không?
Biển hiệu chợ Hoa Sen nhuốm màu xưa cũ, ngạo nghễ đứng giữa những sắc đèn neon sặc sỡ rối mắt; quán bar mang màu sắc ngoại lai mở ở ven hồ đậm phong vị cổ xưa Trung Quốc, tiếng người huyên náo.
Khách khứa quá nửa là người nước ngoài, đến đây trải nghiệm phong vị Trung Quốc, lại có thể thưởng thức cuộc sống về đêm thời thượng.
Bắc Kinh nghìn năm tuổi, gân cốt liệu còn chịu nổi giày vò này chăng ?
Từ Trì vừa ngồi xuống, liền thao thao bất tuyệt kể chuyện của mình.
Chúng tôi vừa uống rượu, vừa nói chuyện quá khứ, hiện tại, rồi cả tương lai.
Tôi nhận ra cả quần áo lẫn cách nói chuyện của Từ Trì đều đã trở nên chín chắn hơn, người nhìn cũng già dặn hơn.
“Suýt nữa thì quên,” Từ Trì đột nhiên nói, “Cao Lượng hôm nay đi Vũ Hán công tác, trước khi đi còn giao em trọng trách xin lỗi anh, đành để lần sau dẫn anh đi leo Trường Thành Tư Mã Đài vậy.”
Nói xong, cậu ta rút từ cặp ra ba tấm ảnh đặt lên bàn, rồi nói: “Cao Lượng gửi anh này.”
Ba bức ảnh này thực chất đều cùng một kiểu, chỉ khác nhau về kích cỡ to, nhỡ, nhỏ.
Tấm to bằng tấm poster; tấm nhỡ rộng chừng 25 xăng ti mét; tấm nhỏ chỉ khoảng nửa bàn tay.
Tất cả chỉ đều là hình Noãn Noãn chụp trên lầu Thất Bắc ở Trường Thành Bát Đạt Lĩnh.
Noãn Noãn đứng thẳng người, hai tay giơ hai chữ V, mặt cười rạng rỡ.
“Cao Lượng nói, cái to để dán tường, cái nhỡ để bày bàn, còn cái nhỏ để bỏ ví.” Từ Trì cười cười.
Máy ảnh và kỹ thuật chụp của Cao Lượng đều rất tốt, vẻ duyên dáng của Noãn Noãn hiện lên sống động trên giấy ảnh.
Tôi vừa vui mừng kinh ngạc, vừa cảm kích vô cùng.
“Nào,” Từ Trì nói, “anh em ta uống vì Cao Lượng một chén.”
“Một chén sao đủ được?” tôi nói. “Ít nhất phải ba chén.”
“Được!” Từ Trì vỗ vỗ ngực. “Ba chén thì ba chén!”
Tôi lập tức nhét tấm ảnh nhỏ vào ví, rồi cẩn thận cuộn tấm to lại, buộc gọn gàng.
Tấm nhỡ thì cứ đặt bên cạnh, cho ngồi cùng tôi cái đã.
Uống với Từ Trì một lúc sau, tôi thấy mặt cậu ta đã đỏ bừng bừng, ánh mắt mơ mơ màng màng, hẳn là say rồi.
Nhớ ra mai cậu ta còn phải đi làm, bèn hỏi: “Trì huynh, nhà cậu ở đâu?”
“Nhà em nơi dốc cao Hoàng Thổ, gió lớn từ sườn dốc thổi qua, dù là gió Tây Bắc hay gió Đông Nam, đều là bài hát của em bài hát của em...” Từ Trì hát lên ông ổng.
Tôi thầm nghĩ hẳn cậu ta say mèm rồi, lại thử hỏi lần nữa: “Cậu ở đâu Bắc Kinh?”
“Nhà em nơi dốc cao Hoàng Thổ, mặt trời đi qua sườn dốc, rọi vào hang em chiếu lên tay em, còn có con trâu theo em...”
Từ Trì vẫn cứ ông ổng hát.
Tôi đỡ Từ Trì, gọi một chiếc taxi đưa chúng tôi trở về khách sạn Đài Loan.
Từ Trì sớm đã ngủ chẳng biết trời trăng gì nữa, đành phải đưa cậu ta lên phòng tôi, quăng xuống giường.
Tôi tắm qua bằng nước nóng, tắm xong ra khỏi phòng tắm, đã thấy Từ Trì ngáy như kéo bễ.
Nhìn đồng hồ, đã gần 1 giờ sáng, lay lay Từ Trì, chẳng thấy cậu ta phản ứng gì.
Dù gì cũng là giường đôi, tối nay đành ngủ cùng Từ Trì vậy.
Tôi gọi điện xuống quầy lễ tân, nhờ họ gọi morning call lúc sáu rưỡi sáng.
Lúc trước ở Đài Loan, nghe nói ở Đại lục gọi morning call là kêu giường, thấy rất thú vị.
Nhớ năm ngoái thầy giáo dạy tiếng Hán đã nói, tiếng Hán đọc xuôi cũng được, đọc ngược cũng xong.
Ở Đại Lục là đọc xuôi, vì vậy kêu giường có nghĩa là “gọi bạn dậy khỏi giường”; nhưng ở Đài Loan là đọc ngược kêu giường lại biến thành “ở trên giường mà gọi”.
Hôm qua đi dạo ở Tây Hồ Hàng Châu, buổi tối trở về Tô Châu, sáng nay đáng ra phải từ Tô Châu tới Thượng Hải rồi về Đài Loan; không ngờ chỉ vì một ý nghĩ nhất thời, mà giờ đã nằm trên giường trong một khách sạn ở Bắc Kinh.
Nhớ đến những vội vàng và tâm trạng thất thường quãng thời gian ấy, cảm giác mệt mỏi nhanh chóng xâm chiếm toàn thân, tôi dần chìm vào giấc ngủ.
Morning call lúc sau rưỡi sáng cùng lúc đánh thức tôi và Từ Trì.
Từ Trì nhận ra đang cùng nằm với tôi trên một chiếc giường, lúc đầu còn thất kinh, sau nhớ lại chuyện đêm qua, bèn bật cười ha hả.
Cậu ta đánh răng rửa mặt qua loa, rồi vội vàng đi làm.
“Vẫn là câu nói cũ,” Từ Trì nói, “lần sau đến Bắc Kinh, nhất định phải báo em đấy.” Nói xong cậu ta lại ôm tôi một cái nồng nhiệt.
Từ Trì vừa mở cửa ra, đã lại quay đầu lại nói: “Anh Thái, cố lên.”
Tôi hiểu ý Từ Trì, liền gật đầu tỏ ý tiếp thu.
Từ Trì đi rồi, tôi lại ngủ tiếp.
Nằm mơ một giấc mơ kỳ lạ, trong mơ hiện ra một quả núi, đại pháo của quân Thanh đang nã xuống chân núi, hai bên khẩu pháo nằm dạt một hàng dân binh, cầm súng ngắm bắn.
Dưới chân núi là mười mấy đội quân Pháp đang tấn công lên.
Tôi và Noãn Noãn đi dạo nơi trên núi, ngang qua đại pháo của quân Thanh, tôi nói với Noãn Noãn: “Chỗ này chính là Noãn Noãn.”
“Cuối cùng anh cũng dẫn em tới Noãn Noãn rồi.” Noãn Noãn cười rất rạng rỡ.
Trong tiếng pháo rền vang, thấp thoáng truyền lại tiếng chuông lanh lảnh.
Như thể giữa phim trường quay cảnh chiến tranh đột nhiên vang lên tiếng chuông di động, thế là đạo diễn tức giận hét lên: “Cut!” Tôi bị tiếng chuông đánh thức, phải mất mấy giây sau mới ý thức nổi đó chắc là chuông cửa.
Tôi mơ mơ màng màng ra mở cửa.
“Vẫn ngủ à?” Noãn Noãn nói. “Sắp trưa rồi kìa.”
Mọi tế bào trên cơ thể tôi lập tức tỉnh táo, quân Pháp cũng bị đánh cho tan tác rồi.
“Hả?” Tôi há hốc miệng. “Ơ…”
“Anh để em đứng đây,” Noãn Noãn bật cười, “hay là xuống dưới sảnh đợi anh?”
Tôi vội vàng mở rộng cửa , Noãn Noãn đi thẳng vào ngồi lên sofa.
Tôi bắt đầu hối hận, giờ đang lúc binh đao loạn lạc, Noãn Noãn sẽ cười cho xem.
“Cứ từ từ,” Noãn Noãn nói, “đừng vội”
Mặt tôi đỏ dần, vội vàng xông thẳng vào nhà tắm, làm xong hết những việc phải làm trong vòng ba phút.
Tối qua vì sợ thú tính của Từ Trì bộc phát, tôi bê luôn cả sơ mi quần dài đi ngủ.
May không bị Noãn Noãn nhìn thấy cơ ngực với bắp chân, thật nguy hiểm quá.
“Đi thôi” tôi nói.
“Anh mặc thế ra đường à?” Noãn Noãn nói. “Bên ngoài 0 độ đấy.”
Ở lâu trong phòng bật lò sưởi, tôi nhất thời quên mất giờ ở Bắc Kinh đang là mùa đông.
Vội vàng mặc thêm áo len, cầm áo khoác, lúc này Noãn Noãn mới đứng dậy.
Vào thang máy, trùng hợp lại gặp đúng đôi vợ chồng ngoại quốc ở Đông Lai Thuận tối qua
Anh Tây chào tôi một tiếng, hỏi: “Honeymoon?”
“Just lover” tôi nói.
“Friend!” Noãn Noãn vội vàng phủ nhận. “We are just friends!”.
Cặp vợ chồng nọ bật cười, tôi cũng cười, chỉ có Noãn Noãn là giậm chân.
Ra khỏi thang máy, Noãn Noãn đưa cho tôi một thứ: “Cho anh.”
Tôi đón lấy, ra là một chiếc khăn quàng màu ghi đậm.
“Bên ngoài lạnh đấy,” Noãn Noãn nói. “Lát đi ra thì quàng vào”
Quàng khăn bước ra khỏi khách sạn, tôi đột nhiên nhớ ra hôm nay là ngày đi làm.
“Noãn Noãn,” tôi nói, “nếu em bận, anh có thể hiểu mà.”
Noãn Noãn dừng lại, quay sang nhìn tôi nói: “Lẽ nào giờ anh đang được nghỉ hả?”
Tôi lặng người, không trả lời.
“Đi thôi.” Noãn Noãn phì cười.
Sánh vai đi cùng Noãn Noãn mấy bước, trong lòng tôi vẫn lo làm nhỡ dở việc đi làm của Noãn Noãn.
“Lương Lương,” Noãn Noãn lại dừng bước, “lúc tâm trạng không tốt, em thường mong có một cái màng lọc khổng lồ, lọc bỏ hết mọi cảm xúc tiêu cực nào là buồn bã, nào là u sầu, chỉ để lại bản thân thuần khiết thôi.”
Nói xong, Noãn Noãn đưa tay vẽ một ô vuông lớn trước mặt, rồi lại vẽ nhiều những đường thẳng đan xen nữa.
“Cái màng lớn thế này, đủ cho hai người dùng đấy,” Noãn Noãn nói. “Chúng ta cùng nhảy thôi.”
Tôi gật gật đầu, Noãn Noãn đếm một, hai, ba, chúng tôi cùng phi người qua chiếc màng lọc Noãn Noãn vẽ.
Noãn Noãn cười rất vui vẻ, tôi cũng cười.
Lên xe của Noãn Noãn, vẫn là chiếc xe màu trắng của công ty hôm qua.
Tuy tuyết đã ngừng rơi, nhưng đường phố như Ngũ Tử Tư qua Chiêu quan, một đêm tóc đã bạc trắng.
Trên những mái ngói xây theo kiểu cổ phủ dày tuyết, trên cành cây, dưới mặt đất, đâu đâu cũng là tuyết.
Bắc Kinh trở nên thật thanh khiết, một vẻ đẹp tươi mới và tĩnh lặng.
Nhưng người đi bộ trên đường cứ hùng hục, chẳng ai dừng lại thưởng thức cảnh đẹp này.
“Noãn Noãn,” cuối cùng tôi cũng không nén nổi, “có thể dừng xe lại không?”
Noãn Noãn vừa đỗ xe vào sát lề đường, tôi lập tức mở cửa xe, chạy ra giữa trời tuyết mênh mông.
Tôi ngồi thụp xuống, hai tay nắm lấy hai vốc tuyết, cảm nhận vai mình run run.
“Làm gì thế?” Noãn Noãn đứng sau tôi hỏi.
Tôi quay lại, xòe hai tay ra trước mặt em, cười nói: “Là tuyết đấy!”
Noãn Noãn tỏ vẻ bất lực.
Tôi bắt đầu lăn lộn trên tuyết, càng lăn càng thấy vui.
“Mất mặt quá, mau đứng dậy đi!” Noãn Noãn nói.
Tôi ngừng lăn, nằm thẳng cẳng, mặt đất phủ tuyết mềm mại dịu dàng, thật dễ chịu.
“Vứt anh ở đây luôn, kệ anh đấy!” Noãn Noãn lại nói.
Mỗi tay nắm một nắm tuyết, tôi đứng dậy bước đến trước mặt Noãn Noãn, xòe tay ra nói: “Là tuyết đấy!”
Noãn Noãn không biết nên tức hay nên khóc, chỉ “này” một tiếng.
“Để anh bơi trong tuyết đã.” Tôi nói xong bèn nằm bò ra.
“Bị cảm lạnh đấy!” Noãn Noãn căng thẳng, đang đưa tay định kéo tôi dậy thì trượt chân một cái, ngã soài ra tuyết.
“Em cũng muốn chơi hả?” Tôi vê một quả cầu tuyết nhỏ, ném về phía Noãn Noãn, hoa tuyết bay tứ tung.
Noãn Noãn cố đứng lên, nhưng lại trượt ngã, mặt đỏ bừng, nói: “Mau kéo em lên.”
“Đợi tí đã,” tôi nói, “anh phải làm thiên thần trên tuyết.”
“Lương Lương!”
Tôi đưa tay phải ra kéo Noãn Noãn đứng dậy, Noãn Noãn đứng lên phủi phủi tuyết trên người, tiện thể trừng mặt với tôi xong, đột nhiên ngồi thụp xuống nặn cầu tuyết ném tôi.
“Chơi không?” Noãn Noãn nói.
“Em là con gái, anh nhường em năm quả,” tôi nói.
“Được.” Noãn Noãn lại ngồi thụp xuống, nặn xong quả nào là lấy hết sức ném bộp vào người tôi.
Bộp bộp bộp bộp bốn tiếng, tôi vẫn giữ vững tư thế, hệt một bức tượng mỉm cười.
Noãn Noãn ngừng nặn cầu tuyết, phủi hết tuyết trên tay, chỉnh lại đầu tóc quần áo.
“Sao dừng lại rồi?” tôi hỏi.
“Vì anh nhường em năm quả,” Noãn Noãn cười nói, “nên em chỉ ném bốn quả thôi.”
“Hả?” Tôi há hốc mồm.
Noãn Noãn cười rất hỉ hả, bước lại giúp tôi phủi tuyết trên áo và tóc.
“Nếu để người khác nhìn thấy, lại tưởng bọn mình là hai đứa điên ấy chứ” Noãn Noãn nói.
“Đối với anh, nhìn thấy tuyết mà không phát điên thì mới thực sự là điên” tôi nói.
“Hả?”
“Em nhất định không hiểu được người sinh ra ở vùng nhiệt đới như anh có cảm giác gì khi nhìn thấy tuyết đâu.”
“Giờ thì hiểu rồi.” Noãn Noãn bật cười khúc khích.
Tôi lại ngồi bệt xuống, Noãn Noãn không ngăn tôi nữa, tôi dứt khoát nằm lăn ra tuyết.
“Năm ngoái anh nói có lẽ vào mùa đông, là vì muốn tới ngắm tuyết hả?” Noãn Noãn hỏi.
“Không,” tôi nói. “Đó là vì những cuộc hẹn lớn thì nên vào mùa đông.”
“Hả?”
“Ý là thế đấy*.”
* Trong tiếng Trung: “cuộc hẹn lớn” và “có lẽ viết” đọc giống nhau.
Noãn Noãn thần người, rồi lập tức hiểu ra, nói: “Thế nên hẹn nhỏ vào mùa hè, hẹn nhỡ vào mùa thu phải không?”
“Anh rất hân hạnh,” tôi bật cười, “cuối cùng em cũng theo kịp tính hài hước của anh rồi.”
“Nói nhảm.” Noãn Noãn khẽ hừ một tiếng.
Tôi nhìn lên trời một lúc, quay sang liếc thấy Noãn Noãn đang đứng nhìn tôi.
“Đừng nằm nữa, cảm lạnh đấy,” Noãn Noãn giục, “mau đứng lên đi”
“Không nằm ra đất, sao có thể thấy bầu trời trong xanh của Bắc Kinh?” tôi nói.
“Ồ, miệng cún mọc ra ngà voi rồi kìa” Noãn Noãn bật cười.
“He he” tôi cũng cười.
“Trận tuyết đầu mùa năm nay lớn thật, bao nhiêu cây đều bị đè rắn rồi” Noãn Noãn nói.
“Dưới cây có rắn hả?” tôi rất tò mò, “không thì sao lại đè rắn?”
Noãn Noãn nhặt một cành cây nhỏ, ngồi xuống viết chữ “gãy” lên mặt đất tuyết.
Tôi nhìn chữ “gãy”, bèn hỏi: “Chữ này có thể đọc thành rắn hả?”
“Ở Bắc Kinh đều nói thế.” Noãn Noãn nhún vai. “Rắn thì không sao, chỉ có xe đỗ dưới cây là hứng đủ.”
“Suýt chút nữa thì quên một chuyện quan trọng.” Tôi vội vàng đứng dậy, cầm cành cây Noãn Noãn vừa dùng để viết chữ.
“Quên gì cơ?” Noãn Noãn hỏi.
Tôi lấy cành cây vẽ một hình thiên thần dang cánh bên cạnh chữ “gãy”.
“Này.” Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi.
Tôi còn chưa thỏa, lại viết tiếp bên dưới: Lương Lương. Viết xong bèn đưa lại cành cây cho Noãn Noãn.
“Anh cũng tới cầm cành cây đi,” Noãn Noãn nói. “Chúng ta cùng nhắm mắt, viết ra bốn chữ
Tay phải tôi và Noãn Noãn cùng nắm lấy cành cây nhỏ, chúng tôi nhắm chặt mắt, viết từng nét trên tuyết.
Có lúc cảm thấy như Noãn Noãn đang dẫn tôi, có lúc dường như lại là tôi đang dẫn em, nhưng nét bút không hề vì thế mà ngắt quãng.
Viết xong mở mắt ra nhìn, trên tuyết hiện lên bốn chữ rõ ràng: Đều ở Bắc Kinh.
“Cũng may bốn chữ này phồn thể và giản thể không có gì khác biệt” tôi nói.
“Đúng thế” Noãn Noãn nói.
“Ban đầu anh còn tưởng em định viết thiên trường địa cửu chứ” tôi nói.
“Anh mơ vừa thôi.” Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi.
“Lẽ nào là đời đời kiếp kiếp?”
“Lương Lương.”
“Ừ,” tôi nói, “anh im miệng.”
Tôi lại nằm soài ra, Noãn Noãn cũng im lặng ngồi bên tôi.
“Noãn Noãn,” tôi nói, “được gặp em thật là tốt.”
Noãn Noãn cười, không nói gì.
“Nếu anh cứ lặp lại câu này mãi, em lượng thứ cho anh nhé.”
“Được,” Noãn Noãn nói, “em sẽ lượng thứ cho anh.”
“Anh đói chưa?” Noãn Noãn nói.
“Ừ,” tôi nói.
“Đi ăn trưa thôi,” Noãn Noãn nói.
Tôi đang định đứng dậy, thì đột nhiên mặt bỗng lạnh buốt, hóa ra Noãn Noãn nắm một vốc tuyết ném vào mặt tôi.
Nhổ phì phì tuyết trong miệng ra, lau lau mắt kính, đứng lên, đã thấy Noãn Noãn vào xe rồi.
Lên xe, Noãn Noãn vẫn cười khanh khách không dứt.
Tôi nói mặt tôi đông cứng lại rồi, Noãn Noãn nói như vậy tốt quá, để tôi đỡ tiếp tục nói nhảm.
Chẳng bao lâu sau, chúng tôi xuống xe, đi mấy bước liền nhìn thấy biển hiệu “Toàn Tụ Đức”.
Tôi nhớ lại năm ngoái lúc đi dạo xong phố Đại Sách Lan, đứng đợi xe, Noãn Noãn nói lần sau tôi tới Bắc Kinh sẽ đãi tôi ăn vịt quay.
“Noãn Noãn,” tôi nói, “em vẫn còn nhớ à”.
“Đương nhiên rồi” Noãn Noãn nhướn lông mày.
Tới Toàn Tụ Đức đương nhiên phải ăn vịt quay, lẽ nào lại gọi gà rán.
Ngoài vịt quay ra, chúng tôi gọi thêm vài món vịt đặc sắc khác, ngoài ra để tránh dầu mỡ nhiều bị ngấy, còn gọi cả ít rau xanh.
Món vịt quay được đưa lên, đầu bếp còn đặc biệt đến tận bàn cắt từng lát thịt vịt, thật là quá đã.
Tôi gộp chung phần bữa sáng với bữa trưa lại ăn, Noãn Noãn thấy tôi ăn ngon miệng, nói ở Toàn Tập Đức là vịt quay treo bếp, ngoài ra còn có loại vịt quay trong lò ở các cửa hàng rẻ hơn, có cơ hội cũng nên đi nếm thử, mùi vị hoàn toàn không giống nhau.
Bữa này cũng hệt bữa tối qua, tôi ăn no căng bụng.
Lấy cớ vào nhà vệ sinh, tôi lén đi thanh toán.
“Lương Lương,” Noãn Noãn nói giọng trách cứ, “sao anh lại tranh trả tiền nữa?”
“Noãn Noãn,” tôi nói, “Đài Loan có một truyền thống, nếu lần thứ hai cùng con gái đi ăn mà để con gái trả tiền, người con trai sẽ bị đen đủi suốt hai tháng.”
Noãn Noãn sững người, rồi lập tức bật cười, nói: “Hóa ra tối qua cũng là anh nói bừa.”
Ra khỏi Toàn Tụ Đức, Đại Sách Lan ở chếch ngay đối diện.
“Đi dạo chút đi.” Noãn Noãn lên tiếng.
“Ừ.” Tôi gật đầu.
Đại Sách Lan vẫn chẳng thay đổi gì, chỉ thêm vài cửa hàng bán quần áo giá rẻ.
Nét thuần khiết tôi và Noãn Noãn từng có ở đây năm trước hẵng còn, điều này khiến chúng tôi dường như đều thở phào nhẹ nhõm.
Vòng đi vòng lại một lượt, chúng tôi lại ngồi trước Đồng Nhân Đường nghỉ chân.
Điện thoại Noãn Noãn đổ chuông, tôi đứng lên đi ra phía khác cách mười bước, Noãn Noãn nói chuyện điện thoại, chốc chốc lại ngẩng đầu nhìn tôi.
Ngắt máy xong, tôi nhận ra Noãn Noãn nhíu mày.
“Sao thế?” Tôi bước lại bên Noãn Noãn.
“Sếp kêu em đi phỏng vấn mấy người,” giọng Noãn Noãn nghe có vẻ hờn trách. “Em đã nói trước ông ấy rồi, mấy ngày này đừng gọi em, có việc thì kêu người khác ấy.”
“Sếp em nói sao?”
“Sếp nói, cô là người khác, người khác chính là cô.”
“Thâm thúy thật.”
“Đúng thế.”
Noãn Noãn im lặng, dường như rất khó xử.
“Noãn Noãn,” tôi nói, “nếu không cản trở công việc của em, anh đi cùng em có được không?”
Noãn Noãn có vẻ kinh ngạc, quay sang nhìn tôi.
“Anh nghĩ em hẳn cảm thấy nếu không đi cùng anh thì không phải lắm, nhưng lỡ dở công việc thì cũng phiền, vì vậy nếu anh đi cùng em thì chẳng phải nhất cử lưỡng tiện còn gì,” tôi nói. “Đương nhiên là nếu không cản trở gì việc của em.”
“Em biết ngay anh sẽ nói thế mà.” Noãn Noãn nhìn nhẹ nhõm hẳn. “Đương nhiên là không cản trở gì rồi.”
“Vậy thì cứ coi anh là con bọ chét đi.” Tôi cười cười.
“Tốt quá rồi,” Noãn Noãn cười, “nhưng em phải nhờ người mua thêm vé tàu hỏa.”
“Vé tàu hỏa?” Tôi rất hiếu kỳ. “Không phải là ở Bắc Kinh à? Chúng ta sẽ đi đâu?”
“Cáp Nhĩ Tân,” Noãn Noãn nói.
“Cáp… Cáp…” tôi lắp bắp, “Cáp Nhĩ Tân?”
“Là Cáp Nhĩ Tân, không phải là Cáp Cáp Cáp Nhĩ Tân.” Noãn Noãn cười rất vui vẻ. “Chỉ một chữ Cáp thôi.”
Tôi đứng sững như trời trồng, mãi lâu sau vẫn chẳng nói nổi nên lời.
Từ Bắc Kinh tới Cáp Nhĩ Tân gần 1248 cây số, tám rưỡi tối có một chuyến tàu tốc hành chạy thẳng đến đó, 7 giờ 5 phút ngày hôm sau đến Cáp Nhĩ Tân, phải ngồi 10 tiếng 35 phút đồng hồ.
Đầu tiên, Noãn Noãn nhờ người mua hai vé giường nằm mềm tầng dưới, rồi chúng tôi trở về khách sạn, lên phòng chuẩn bị hành lý.
Trả phòng trước hai đêm, đổi sang đặt phòng vào ngày kia, đem va li xuống ký gửi dưới tầng một của khách sạn.
Ra khỏi khách sạn, Noãn Noãn nhìn tôi, nói: “Phải mua cho anh một đôi găng tay.”
“Không cần đâu,” tôi nói, “anh đút tay vào túi áo là được rồi.”
Ngắt máy xong, tôi và Noãn Noãn nhìn nhau, cùng lúc bật cười ha hả.
“Noãn Noãn,” tôi nói, “được gặp em thật là tốt.”
“Em lượng thứ cho anh.” Noãn Noãn lại bật cười.
Ngồi lên xe taxi, tôi và Noãn Noãn chạy thẳng tới ga tàu hỏa Bắc Kinh.
Ga rất lớn, dòng người chen chúc tấp nập, Noãn Noãn dẫn tôi đi loanh quanh một hồi mới vào được sân ga.
Đường ray tàu hỏa ở Đài Loan là đường ray hẹp, đường ở đây rộng hơn một chút, chắc là đường ray tiêu chuẩn.
Lên tàu hỏa, tìm đến cabin của chúng tôi, mở cửa ra xem, hai bên trái phải mỗi bên có hai tầng giường.
Đối diện với cửa là khung cửa sổ bằng kính, trước cửa sổ có một cái bàn nhỏ.
Bên trên cửa có một chỗ trống để đặt va li lớn.
Tôi và Noãn Noãn ngồi xuống hai chiếc giường tầng bên dưới, khoảng cách giữa đầu gối hai bên còn chưa đủ cho một người lách qua.
Một cặp vợ chồng trung niên kéo một cái va li cồng k bước vào, người chồng leo lên giường trên trước, tôi ở phía dưới nâng cao va li, để ông đỡ lấy, đặt vào khoang hành lý.
“Cảm ơn chú nhé” ông chồng nói.
“Không có gì ạ” tôi nói.
Nhân viên phục vụ cũng bước vào, chào hỏi, đưa cho mỗi người chúng tôi một túi đồ rồi đi ra.
Bên trong có dép lê giấy, xà phòng bàn chải đánh răng, kem đánh răng, một cục tròn tròn sau khi ngâm nước có thể mở thành khăn mặt, có cả một gói đậu phộng.
Tôi và Noãn Noãn cởi giày ra, xỏ chân vào chiếc dép giấy, ngồi trên giường ăn đậu phộng.
Đầu giường có một màn hình tinh thể lỏng 10 inch, có thể phát ra vài kênh, nhưng chất lượng thu sóng đều chẳng ra sao.
Vất vả cả một buổi chiều, giờ cuối cùng cũng có thể nghỉ ngơi rồi, thậm chí còn bắt đầu có cảm giác đang đi du lịch.
Một tiếng động trầm đục vang lên, tàu hỏa đã khởi hành, tôi và Noãn Noãn đều nhoẻn miệng cười.
Hỏi Noãn Noãn giường cứng với giường mềm khác nhau thế nào, có phải là ở đệm cứng với đệm mềm không?
Noãn Noãn nói đệm không khác nhau là mấy, nhưng bên trong cabin giường cứng có ba tầng giường, một cabin có tới sáu người.
“Chúng ta đi ăn gì đi.” Noãn Noãn đứng dậy.
“Ừ.” Tôi cũng đứng dậy.
Chúng tôi đi xuyên qua mấy toa tàu tới khoang ăn, tàu đi êm ru, cả đường đi chẳng hề nghiêng lắc gì.
Trong khoang ăn rất đông người, tôi Noãn Noãn tìm một chỗ ngồi xuống, gọi hai bát mì.
Chỗ ngồi rất hẹp, tôi và Noãn Noãn ngồi đối diện ăn mì, giữa chừng không cẩn thận đụng ngay vào đầu nhau, làm chúng tôi bật cười ha hả.
“Lúc này ở Đài Loan có truyền thống gì không?” ăn mì xong, Noãn Noãn hỏi.
“Ở Đài Loan có truyền thống, nếu đi ăn với con gái lần thứ ba mà để con gái trả tiền, người con trai sẽ xui xẻo một tháng,” tôi nói.
“Thế lần thứ tư thì sao?”
“Lần thứ tư thì đổi sang con gái bị xui xẻo.”
Noãn Noãn nói chỉ ba lần này thôi đấy, lần sau đừng có giành trả tiền nữa.
Tôi gật gật đầu, trả tiền mì.
Quay lại cabin, ngoài cửa sổ tối đen như mực, một chút ánh sáng le lói cũng không thấy.
Thường hay nghe nói đất đen Đông Bắc, nhưng giờ xem ra cái gì cũng đen cả.
Noãn Noãn lôi ra một bộ bài poker, cười cười nói: “Làm ván xì tố *.”
*Một kiểu chơi bài poker.
Tôi quá đỗi kinh ngạc, chăm chú quan sát vẻ mặt Noãn Noãn mà không ra chút gì bất thường.
“Sao nào?” Noãn Noãn nghi hoặc.
“Không sao,” tôi nói, “chơi thôi.”
Chơi xì tố hai người còn gọi là xì tố trăng mật, tôi chắc hẳn cái này mọi người đều biết rồi.
Vốn dĩ đây là trò chơi giết thời gian của đôi vợ chồng mới cưới trong tuần trăng mật.
Hơn nữa còn có một quy định, ai thua phải cởi một phần quần áo.
Cứ vậy đánh xong mấy ván, quần áo đôi bên đều đã cởi ra hòm hòm, lên giường ngủ cũng tiện hơn nhiều.
Cũng là để tránh cho vợ chồng mới cưới khỏi thấy ngượng ngùng lúc cởi quần áo lên giường đi ngủ.
Noãn Noãn chắc không hiểu luật lệ này, tôi vừa đánh bài vừa băn khoăn không biết có nên nói cho em biết không?
Không ngờ trình chơi bài của Noãn Noãn quá đỉnh, tôi liên tiếp thua hơn mười ván, bị em cho tắt điện.
Nếu phải cởi thật, hẳn tôi đã trần như nhộng từ lâu, ngay đến tự trọng cũng phải cởi nốt rồi.
May mà không nói, may quá.
Cặp vợ chồng trung niên giường trên đã ngủ, Noãn Noãn cũng tắt đèn trong cabin.
Cả không gian toàn một màu đen, ngoài cửa sổ cũng vậy.
Chỉ có tiếng bánh tàu hỏa nghiến xuống đường ray, đều đều, đều đều.
Trong bóng tối, tôi nhìn khuôn mặt Noãn Noãn, đôi chút mơ ảo, đôi chút mơ màng.
Chúng tôi thì thào nói chuyện, tiếng Noãn Noãn vừa khẽ vừa mảnh, như truyền lại từ nơi nào đó xa xôi.
Noãn Noãn nói ngày mai phải bận cả ngày, mau ngủ thôi.
Tôi đặt chuông báo thức điện thoại, sợ ngủ một giấc tỉnh lại đã đến Siberia rồi.
Noãn Noãn nói chuyến tàu này chạy thẳng đến Cáp Nhĩ Tân, tàu dừng nghĩa là đến Cáp Nhĩ Tân rồi, không đi tiếp đến phương Bắc đâu.
“Nhỡ may đến Siberia thật thì vẫn còn có em mà” Noãn Noãn nói.
“Ừ,” tôi nói, “như thế Siberia sẽ có mùa xuân rồi.”
Noãn Noãn mím môi cười khe khẽ, mắt sáng long lanh, như vì sao trên bầu trời đêm.
Tôi nằm xuống giường, nhắm mắt lại, Noãn Noãn chắc cũng nằm xuống rồi.
“Lương Lương,” Noãn Noãn nói.
“Ừ?”
“Xin lỗi anh nhé, kéo anh tới tận Cáp Nhĩ Tân xa lắc lơ.”
“Cáp Nhĩ Tân có xa đâu, khoảng cách giữa trái tim mới xa.”
“Thế anh đoán xem em đang nghĩ gì?”
“Chắc chắn em đang nghĩ ngày mai nhanh nhanh chóng chóng làm xong việc, rồi còn dẫn anh đi chơi.”
“Còn gì nữa?”
“Em cũng đang nghĩ xem nên dẫn anh đi chơi đâu.”
“Còn gì nữa?”
“Anh mặc ít quần áo, em lo anh sẽ bị cảm lạnh.”
“Đều bị anh đoán trúng rồi.” Noãn Noãn lại cười.
“Vậy em đoán xem anh đang nghĩ gì?” tôi nói.
“Chắc chắn anh đang nghĩ, tới Siberia rồi làm sao nói chuyện được với mấy cô gái Nga.”
“Có lẽ anh cảm thấy như đang nằm mơ” Noãn Noãn nói.
Tôi quá đỗi kinh ngạc, bất giác mở bừng mắt, như nửa đêm đột nhiên tỉnh dậy chỉ nhìn thấy toàn một màu đen.
“Lương Lương.”
“Ừ?”
“Anh không mơ đâu, em là thật đấy, mà còn ở ngay bên anh nữa,” Noãn Noãn nói. “Không tin anh đưa tay ra sờ mà xem.”
Tôi giơ tay phải ra, cánh tay chậm chạp rờ rẫm trong bóng đêm, cuối cùng cũng chạm vào bàn tay Noãn Noãn.
Noãn Noãn nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi.
“Ấm không?” Noãn Noãn hỏi.
“Ừ.” Sau đó mu bàn tay bỗng thấy hơi đau nhói, tôi đoán là Noãn Noãn đã lấy móng tay cấu vào mu bàn tay tôi.
“Đau không?” Noãn Noãn hỏi.
“Ừ.”
“Thế nên anh không nằm mơ đâu, em là thật đây, mà còn ở ngay bên anh nữa,” Noãn Noãn lại lặp lại lần nữa.
Trái tim dao động của tôi, từ từ ổn định lại, như vừa cập cảng buông
“Noãn Noãn,” trong bóng đêm, tôi nói, “được gặp em thật tốt.”
“Em lượng thứ cho anh” Noãn Noãn đáp lại trong bóng đêm.
Chương 14
Tiếng chuông inh tai kéo tôi khỏi giấc mơ, nhưng tôi vẫn không muốn rời mặt đất phủ đầy tuyết trong mơ.
“Lương Lương, dậy đi.” Cảm giác như cánh tay phải bị rung lắc dữ dội, mở mắt ra liền trông thấy Noãn Noãn, tôi giật mình ngồi bật dậy.
“Sao thế?” Noãn Noãn hỏi.
Trong đầu trống rỗng mất mấy giây, cuối cùng cũng nhớ ra mình đang trên tàu hỏa, mà lại còn đi cùng Noãn Noãn nữa.
“He he,” tôi cười.
Cầm lấy bàn chải kem đánh răng khăn mặt, vừa bước khỏi cửa cabin, gió lạnh thấu xương khiến tôi hoàn toàn tỉnh táo.
Cũng may phòng vệ sinh trên tàu có nước nóng, nếu chỉ có nước lạnh, rửa mặt xong chắc mặt tôi biến thành băng điêu khắc mất.
Đánh răng rửa mặt xong quay về cabin, đi giày vào, kiểm tra xem còn bỏ quên thứ gì không.
Chỉnh lại quần áo, đeo ba lô, tôi và Noãn Noãn xuống tàu.
“Cuối cùng cũng đến Cáp Cáp Cáp Nhĩ Tân của anh rồi,” Noãn Noãn nói. “Có cảm tưởng gì không?”
“Bắc Kinh lạnh, Cáp Nhĩ Tân lại càng lạnh, ngay đến câu nói đùa của Noãn Noãn cũng lạnh hơn Đài Loan.” Răng lợi va lập cập, tôi nói: “Tóm lại chỉ có một chữ lạnh.”
“Còn không mau đeo khăn đội mũ vào.” Tôi quàng khăn quanh cổ, nhưng mũ len thì chưa đội bao giờ, nên có đội thế nào cũng vẫn thấy kỳ kỳ.
Noãn Noãn giúp tôi chụp mũ len, lại chỉnh chỉnh một chút rồi vỗ nhẹ lên đầu tôi.
“Được rồi.” Noãn Noãn nhoẻn miệng cười.
Đang chuẩn bị lên xe taxi, tay vừa chạm vào tay nắm cửa kim loại, đã nghe tách một tiếng, ngón tay tôi lập tức rụt lại.
“Trời lạnh,” Noãn Noãn cười nói, “tĩnh điện cũng mạnh hơn.”
“Những ngày này không đến nỗi phải sống nguy hiểm vậy chứ” tôi nói.
“Bị giật nhiều rồi cũng quen thôi” Noãn Noãn nói.
Noãn Noãn nói trước đây để tóc dài, có lần đi taxi sợi tóc vô tình quẹt qua tay nắm cửa, kêu lép bép một trận ầm ĩ.
“Còn thấy cả tia lửa điện nữa cơ” Noãn Noãn nhoẻn cười.
Tôi nói như thế thật là hay, tóc bị giật nhiều sẽ thành xoăn, đỡ tốn tiền đi uốn tóc.
Ngồi lên taxi, chiêm ngưỡng buổi sớm Cáp Nhĩ Tân qua cửa kính xe, bầu trời xanh trong không một gợn mây.
Cáp Nhĩ Tân quả không hổ với tên gọi “Mátxcơva phương Đông”, thành phố mang đậm phong vị Nga, đi trên phố cũng thường thấy những kiến trúc mái nhọn kiểu Nga.Tôi và Noãn Noãn ăn sáng ở một tiệm bánh bao Goubuli, thuộc chuỗi cửa hàng nhượng quyền của bánh bao Goubuli Thiên Tân.
Bánh bao nóng hôi hổi, vỏ mỏng vị thơm ngon, lại thêm hương thơm của cháo đậu xanh, khiến toàn thân tôi bắt đầu thấy ấm áp.
Hàng quán ở Cáp Nhĩ Tân hầu như đều sáng 8 giờ mở hàng, tối 7 giờ đóng cửa, việc này thật khó tưởng tượng nổi ở Đài Loan.
Tôi và Noãn Noãn đến một cửa tiệm có vẻ như trà quán, trước khi vào cửa, Noãn Noãn dặn: “Người lát nữa sẽ gặp họ Tề, chúng ta phải gọi ông ấy là…”
“Bác sĩ Tề Ngõa Ca *”, tôi cắt ngang lời em.
* Bác sĩ Zhivago, một tiểu thuyết của nhà văn Liên Xô Boris Pastemak từng được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn học năm 1958, đã được chuyển thể thành phim.
“Cáp Nhĩ Tân đã đủ lạnh rồi, tuyệt đối không được nói mấy câu đùa lạnh tanh ấy nữa.” Noãn Noãn bật cười. “Hơn nữa bác sĩ Tề Ngõa Ca vào Đại lục đã đổi tên rồi, gọi là bác sĩ Nhật Ngõa Qua.” “Em cũng nói đùa lạnh tanh đấy thôi,” tôi nói.
“Tóm lại phải gọi ông ấy là thầy Tề, chứ không phải bác sĩ Tề.”
Tôi gật đầu, định mở cửa bước vào, nhưng vừa chạm vào tay nắm cửa đã lại bị điện giật kêu tanh tách.
Tôi đã tới chỗ Noãn Noãn làm việc, biết là nhà xuất bản hay tòa soạn tạp chí gì đấy, nhưng không hỏi kỹ.
Vì vậy ngôn ngữ và nội dung Noãn Noãn nói chuyện với thầy Tề, chẳng hề khiến tôi buồn chán.
Nếu như tôi và Noãn Noãn đổi vai cho nhau, tôi bàn chuyện công việc, em đi cùng tôi, đoán chắc em nghe chưa được mười phút là đã gật gù rồi.
Để không chỉ đơn thuần là một thứ đồ trang trí, tôi cũng lôi sổ tay ta vẽ nhăng vẽ cuội, giả vờ bận bịu; thỉnh thoảng cũng gật đầu nói mấy câu đại để như ngài nói đúng lắm, nói rất hay, rất có lý, vân vân.
Cuộc phỏng vấn với thầy Lý kết thúc, chúng tôi tới một tòa nhà như được xây dựng từ những năm 60.
Người gặp lần này là một thím tầm 50 tuổi, “họ An,” Noãn Noãn nói.
“Chẳng nhẽ là Anna Karenina*?” tôi nói. “Cáp Nhĩ Tân thật là quá Nga.”
* Tên nhân vật chính trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nga Lev Nikolayevich Tolstoy.
“Lương Lương.” Noãn Noãn lạnh tanh nói.
“Dạ,” tôi nói, “phải gọi thím ấy là cô An.”
“Ừ.” Noãn Noãn lại nhoẻn cười, “Hơn nữa Anna Karenina đáng nhẽ phải họ Ka mới đúng.”
Rời khỏi nhà cô An thì cũng vừa 12 giờ trưa. Noãn Noãn có vẻ hơi cuống, vì hình như cuộc hẹn tiếp theo sắp muộn rồi.
Gọi một chiếc taxi, tôi vội vàng mở cửa xe, lại bị giật phát nữa.
Xuống xe, ngẩng đầu nhìn, trên tấm biển viết: “Nhà hàng Âu Portman”.
Cũng may tay nắm cửa làm bằng gỗ, không lại bị giật tiếp thì tôi chắc sẽ giống Châu Tinh Trì, học được thần quyền Điện giác mất.
“Đeo găng tay vào đi,” Noãn Noãn nói, “sẽ không bị điện giật nữa.”
“Sao giờ em mới nói?”
“Vì em muốn thấy anh bị giật chứ sao” Noãn Noãn cười cười nói.
Tôi ngẫm nghĩ mình cũng ngốc thật, quyết định về sau lúc nào cũng sẽ đeo găng tay, vào trong phòng mới tháo ra.
Noãn Noãn rất nhanh đã bước tới bên bàn một người đàn ông trung niên tầm 40 tuổi, nói: “Thành thực xin lỗi, cháu đến muộn rồi.”
Người đàn ông cười nói không sao, ra ý cho chúng tôi ngồi xuống hẵng nói.
“Từ thời đi học cháu đã rất thích tác phẩm của chú, hôm nay được gặp chú thế này thật vinh hạnh quá,” Noãn Noãn nói.
“Tiền Trung Thư nói không sai, thích ăn trứng gà, nhưng không cần phải đi xem con gà đẻ trứng trông thế nào.” Người đàn ông cười ha hả. “Có những người không gặp thì hơn.” Ừm, người này hẳn rất giỏi giao tiếp đây.
Quan sát nhà hàng kiểu Nga này một chút, trần nhà có các bức vẽ theo phong cách châu Âu cổ, còn treo cả đèn trùm pha lê.
Ánh đèn màu vàng thiên nga không hề chói mắt, ngược lại còn khiến người ta cảm thấy thoải mái, ấm áp.
Khung bàn khắc hoa, cửa sổ kính màu sặc sỡ, quầy bar và hành lang bằng gỗ hồng, chân nến mang dấu vết thời gian; những bom bia to tướng nằm trong góc, trên tường bày vô vàn bình rượu, xen kẽ là mấy tấm ảnh cũ.
Không gian tràn ngập giai điệu của vĩ cầm và dương cầm, mềm mại uyển chuyển.
Đây là một góc ấm áp giữa thành phố lạnh giá này.
Noãn Noãn gọi mấy món Nga gồm bánh thịt lợn kiểu Nga, thịt cừu nướng lò, xúp củ cải đỏ, trứng cá muối Big Mahathir, còn thêm cả ba ly vang đỏ.
“Vang đỏ?” tôi thì thào bên tai Noãn Noãn. “Không giống phong cách của em nhỉ?”
“Để anh uống đấy” Noãn Noãn cũng thì thào bên tai tôi. “Uống chút rượu cho ấm người.”
“Tên em còn có thể dùng làm động từ được à,” tôi nói, “thật đáng ngưỡng mộ.”
Noãn Noãn lườm tôi một cái, tôi bèn biết ý ngậm miệng.
Món Nga ở đây có chính cống không tôi không biết, nhưng rất ngon, giá cả cũng không đắt.
Vang đỏ nghe nói do nhà hàng tự ủ, vị rượu khá nhẹ, hương thơm ngọt chứ không đắng chát, rất đặc biệt.
Trong nhà hàng tràn đầy không khí ấm áp, trên gương mặt mỗi vị khách đều thoáng mang một nụ cười hạnh phúc.
Noãn Noãn và người đàn ông trung niên kia vừa ăn vừa nói chuyện, tôi chuyên tâm ăn uống, ba người ai cũng có việc để làm.
Đúng lúc tôi đang định cầm khăn giấy lên lau khóe miệng đã thỏa thuê, thì nhận ra trên gói giấy ăn có in một bài thơ.
Mùa thu, ta trở về Portman
Trong khúc cuối bản tình ca cũ
Nhớ người bướng bỉnh ngang tàng.
Từ khi ta tin rằng người là chiếc áo gió
Đến khi người thu nhỏ thành một dãy số
xa xăm trong cuốn sổ điện thoại,
Lúc này đây
Sự kiên cường của ta, đêm đêm bị nhớ nhung tập kí>
Thư người nhàu nhĩ
Như trán người luôn che lấp bởi nụ cười
Ta trải ra dưới ánh nến
Nhẹ nhàng lần mở
Như một chiếc nhẫn rơi vào ly vang đỏ
Hạnh phúc của ta
Trào ra trong mắt.
“Như một chiếc nhẫn rơi vào ly vang đỏ, hạnh phúc của ta trào ra trong mắt” người đàn ông trung niên nói.
Tôi ngẩng đầu lên nhìn ông, đoán rằng hẳn ông đang nói với mình, bèn gật đầu.
“Bài thơ này đem đến cho cậu cảm giác gì?” ông hỏi.
“Ừm…” tôi ngẫm nghĩ một lát, “tuy có vẻ đã đạt được hạnh phúc, nhưng lại có một cảm giác buồn thương.”
“Thật sao?” Người đàn ông lại hỏi: “Vậy cậu nghĩ người viết bài thơ này là nam hay nữ?”
“Về mặt con chữ, giống đang miêu tả một người phụ nữ cuối cùng cũng có được hạnh phúc, nhưng tôi cho rằng người viết là một người đàn ông, không chừng còn chính là ông chủ nhà hàng này nữa, hơn nữa chắc chắn ông ấy đã mất đi người mình thương yêu” tôi nói.
“Rất thú vị,” người đàn ông bật cười, “cậu nói nghe xem nào.”
“Có lẽ ông chủ nhà hàng sau khi mất đi tình yêu, đã viết thơ tình, tự rượu vang, để khi khách đến uống một ly rượu, trong lòng sẽ mong chờ có được hạnh phúc,” tôi nói, “chỉ có đàn ông mới có được tấm lòng ấy.”
“Phụ nữ thì sao?”
“Phụ nữ sau khi mất đi tình yêu, sẽ vẫn vui vẻ cưới người khác” tôi nói.
“Nói nhảm!” Noãn Noãn lên tiếng.
Nhất thời quên mất Noãn Noãn đang ở bên cạnh, tôi quay sang em cười ha ha.
“Trí tưởng tượng của cậu rất phong phú” người đàn ông nói.
Tôi hơi ngại ngùng, chỉ cười cười.
Noãn Noãn đứng dậy đi rửa tay, người đàn ông đợi Noãn Noãn đi rồi mới nói: “Rất nhiều cô gái dẫn chàng trai trong lòng mình tới đây uống vang đỏ.”
“Chính vì bài thơ này sao?” tôi nói.
“Đúng vậy.” Người đàn ông gật đầu. “Cậu biết không? Cô Tần vốn không hẹn tôi ở đây đâu.”
“Dạ?” Tôi hơi hiếu kỳ.
“Tôi đoán cô ấy vì cậu, nên mới đổi hẹn sang đây đấy.”
“Trí tưởng tượng của chú phong phú thật” tôi nói.
Noãn Noãn từ buồng rửa tay đi ra, người đàn ông nói: “Có mang hợp đồng không?”
“Có ạ.” Noãn Noãn khá kinh ngạc, lấy bản hợp đồng khỏi túi xách.
“Tôi phải ký nhanh nhanh,” người đàn ông cười nói, “để hai cô cậu còn có thời gian đi thăm thú Cáp Nhĩ Tân chứ”
Noãn Noãn đưa bản hợp đồng cho người đàn ông, ông chỉ xem lướt qua, liền đặt bút ký.
“Cảm xúc bài thơ này đem lại cho tôi, cũng là buồn thương.”
Người đàn ông đứng dậy, giũ giũ vạt áo, nói: “Chiếc nhẫn liệu chưa chắc được giấu trong lá thư, mà được cầm trong tay. Khi thả chiếc nhẫn vào ly vang đỏ, thứ trào lên trong mắt không phải hạnh phúc, mà là nước mắt của chính mình.”
Người đàn ông chào tạm biệt xong, liền rời khỏi Portman.
“Lúc em không có mặt, hai người nói gì thế?” Noãn Noãn hỏi.
“Đây là bí mật giữa đàn ông với nhau,” tôi lắc đầu, “không thể nói cho phụ nữ được.”
Ra khỏi Portman, gió lạnh táp vào mặt, tôi thở ra một làn hơi trắng dài, toàn thân cảm thấy thư thái.
Đi qua một bức tượng ngựa điêu khắc bằng đồng, nhìn thấy một con phố lớn vừa dài vừa rộng, đây là phố Trung Ương.
Phố Trung Ương bắt đầu được xây dựng từ năm 1898, trước gọi là phố Trung Quốc, nhưng kỳ thực chẳng hề giống Trung Quốc một chút nào.
Phố dài 1450 mét, rộng hơn 20 mét, hai bên đều là những tòa nhà xây theo kiến trúc châu Âu, tập hợp đầy đủ các trường phái kiến trúc nghệ thuật Phục hưng, Baroque, Gothic, Byzantine, Eclectic, Art Nouveau.
Cả con phố lớn như một hành lang dài trưng bày các tác phẩm kiến trúc nghệ thuật, mang khí chất cao ngạo cùng không khí lãng mạn.
Mặt đường lát đá hoa cương, bởi tuổi thọ đã hơn 100m, trên mặt đường đôi chỗ cũng xuất hiện những vết lồi lõm.
Đá hoa cương dài 18 xăng ti mét, rộng 10 xăng ti mét, cao gần nửa mét, từng phiến từng phiến gắn sâu vào mặt đất, lát thành một con đường đá dài tăm tắp. Mỗi phiến đá hoa cương đáng giá chừng một tháng sinh hoạt phí của người dân Trung Quốc hồi ấy.
Những cột đèn đường đen sì được dựng theo hình đế nến, trên đế nến không cắm nến mà dùng bóng đèn mờ.
Giống như hầu hết các cột đèn trên đường phố châu Âu vào thế kỷ XIX.
Lờ mờ nghe tiếng vó ngựa lách cách, bất giác ngoảnh đầu lại nhìn, cứ ngỡ từ đâu đột nhiên xuất hiện một chiếc xe ngựa.
Trong đầu lập tức hiện lên một cảnh phim “Chiến tranh và hòa bình”, khi Audrey Hepburn bước từ trên xe ngựa xuống.
Hôm nay là thứ Bảy, đây là phố đi bộ, ô tô không được đi vào, không biết xe ngựa liệu có được không?
Trên phố nô nức những dòng người, gót giày các cô gái gõ nhịp lên mặt đá hoa, phát ra những tiếng trong vắt.
Con gái Cáp Nhĩ Tân dáng người cao, sống lưng thẳng, khuôn mặt ngời sáng thông minh, cảm giác rất cool.
Nếu như cưa cẩm các cô mà ăn nói không đứng đắn, chắc hẳn sẽ bị đánh cho trọng thương.
Những cô gái Nga tuổi đôi mươi cũng không ít, hầu hết bọn họ đều mặc áo da bó sát người, để lộ đường cong quyến rũ.
Khuôn mặt trắng như tuyết ửng hồng, từng lọn tóc vàng tràn ra khỏi mũ len, cả đoạn đường ríu rít nói cười chạy nhảy, hệt những tinh linh trong tuyết trắng.
Nhưng mấy cô gái Nga duyên dáng xinh đẹp trước mắt thường là đến chừng 30 tuổi, người đã bắt đầu sồ sề chỉ có sồ ra chứ không có sồ vào.
Chẳng trách nước Nga lại sản sinh ra bao đại văn hào là vậy, bởi so với những con người ở các nơi khác trên thế giới, bọn họ càng dễ dàng lĩnh ngộ được đạo lý nét đẹp chỉ tồn tại trong thoáng chốc.
“Nói gì thế” Noãn Noãn nói.
“Hì hì” tôi bật cười.
“Anh thấy con gái Đông Bắc so với con gái Giang Nam thế nào?” Noãn Noãn hỏi.
“Anh còn chưa tới Giang Nam mà,” tôi nói.
“Chẳng phải anh từng ở Tô Châu còn gì?”
“Tô Châu được tính là Giang Nam à?”
“Linh tinh” Noãn Noãn nói.
Con gái Giang Nam lúc nói chuyện sóng mắt đong đưa, nhẹ nhàng duyên dáng, con người thanh nhã giống cây liễu rủ bóng bên hồ; con gái Đông Bắc đứng thẳng tự tin, da trắng, nét đẹp như vẽ, giống cây bạch dương bên đường cao tốc từ sân bay Thủ đô.
“Nhưng bọn họ đều rất xinh đẹp” tôi nói. “Con gái Giang Nam thanh tú, con gái Đông Bắc tươi tắn.”
“Vì thế em là bạch dương?” Noãn Noãn nói.
“Hả?”
“Anh quên rồi à?” Noãn Noãn nói. “Em cũng là con gái Đông Bắc đấy.”
“Em là đẳng cấp nữ thần, không thể đem so sánh với những thứ phàm trần được.”
“Em lại cứ muốn anh so sánh cơ” Noãn Noãn nói.
“Nếu như buộc phải hình dung, vậy thì em giống bạch dương liễu” tôi nói.
Năm cô gái Nga tiến lại phía chúng tôi, nói mấy câu tiếng Anh đơn giản, nhờ tôi giúp họ chụp kiểu ảnh.
Tôi đón lấy máy ảnh của các cô, quay sang thở dài với Noãn Noãn, nói: “Đẹp trai phiền thế đấy.”
Bối cảnh là tượng bốn cô gái kéo vĩ cầm, một người đứng, ba người ngồi, dáng người cao ráo, sinh động duyên dáng.
Tôi chụp xong, bèn nhờ một cô trong số họ chụp giúp tôi và Noãn Noãn bằng máy ảnh của Noãn Noãn.
Tôi và Noãn Noãn giơ hai tay làm hình chữ V.
Cầm tấm ảnh chụp trên con phố này, bạn có thể đi huênh hoang với mọi người là đã từng tới châu Âu, đảm bảo bọn họ không thể phân biệt nổi.
Chỉ duy có một sơ hở nhỏ, đó là mấy chữ tiếng Trung trên các biển hiệu cửa hàng.
“Anh được đấy” chụp ảnh xong, Noãn Noãn nói. “Còn chọn cô xinh nhất để nhờ nữa.”
“Anh tốn bao tâm huyết đấy” tôi nói.
“Tốn nhiều tâm huyết thế nào?”
“Cô gái Nga đó e rằng là cô xinh nhất trên phố này, cô ấy chắc cũng nghĩ như thế” tôi nói. “Nhưng đây là Trung Quốc, sao có thể để mấy cô tóc vàng mắt xanh huênh hoang tự đắc được. Vậy nên anh nhờ cô ấy chụp ảnh em, để cô ấy nhận thức được rằng núi cao còn có núi cao hơn. Em không thấy tay cô ấy bấm nút chụp còn run run vì xấu hổ à?”
“Nói luyên thuyên.” Noãn Noãn hứ một tiếng.
Khuôn mặt trắng ngần của Noãn Noãn ửng đỏ lên lạnh, lọn tóc đen dưới mũ len khẽ lướt qua mặt.
Trong mắt tôi, Noãn Noãn là cô gái đẹp nhất con phố này.
Noãn Noãn mới là tinh linh của tuyết trắng.
Tới nhà thờ Thánh Sophia, đây là giáo đường Chính thống giáo lớn nhất ở khu vực Viễn Đông.
Nhà thờ được xây bằng gạch nung đỏ, cửa sổ vòm gắn kính thạch anh màu.
Được xây theo hình chữ thập không đều, chính giữa là mái vòm kiểu Byzantine mang dáng củ hành tây màu lục đậm; trước sau trái phải là những ngọn tháp màu lục đậm theo kiến trúc Nga, trên mái vòm và tháp đều có thánh giá vàng.
Dưới bầu trời xanh trong vắt, từng đàn bồ câu trắng bay lượn trên quảng trường trước nhà thờ.
Noãn Noãn dang hai tay ra, quả thực có hai chú bồ câu đậu lên cánh tay em, Noãn Noãn cười khanh khách.
Tôi nói mùa đông đừng chơi trò này, Noãn Noãn hỏi vì sao?
“Phân chim bồ câu giống hệt tuyết, đều là màu trắng, không phân biệt nổi” tôi nói.
Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi, rồi hạ tay xuống.
Đi qua một tòa nhà ba tầng màu hồng phấn, trên tấm biển viết Khách sạn Modern.
Noãn Noãn nói đừng thấy tòa nhà này không bắt mắt, mấy trăm năm trước đây đã từng là khách sạn bậc nhất nhì Đông Bắc, đã tiếp đãi những người nổi tiếng như Phổ Nghi *, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV, hay Tống Khánh Linh.
* Phổ Nghi: Vị hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh.
“Lạnh không?” Noãn Noãn đột nhiên hỏi
“Một chút,” tôi nói, “nhưng không sao.”
“Thế thì ăn một que kem nhé.”
“Này,” tôi nói, “đùa đấy à?”
“Cái này gọi là lấy độc trị độc.” Noãn Noãn bật cười khanh khách. “Ăn vào có khi lại không thấy lạnh nữa.”
“Cái đấy gọi là thêm sương trên tuyết thì có” tôi nói.
Noãn Noãn bỏ ngoài tai, kéo tôi lại gần khách sạn Modern, trên đất bày mấy chiếc thùng giấy.
Tôi vừa nhìn qua đã thấy giật thót mình, đây đều là kem que.
Về sau mới bàng hoàng nhận ra, giờ ngoài trời đang dưới âm độ, chưa biết chừng còn lạnh hơn cả ngăn đá tủ lạnh, kem que cứ để hẳn ra bên ngoài cũng chẳng sao.
Noãn Noãn mua hai que kem, đưa cho tôi một que.
Cắn một miếng, toàn thân không những không lạnh buốt như tưởng tượng, mà thậm chí còn có cảm giác sảng khoái.
Nhưng khi ăn được một nửa, người bất giác run lên cầm cập.
“Chủ ý của em là muốn thấy anh lập cập thế này đấy.” Noãn Noãn cười rất thích thú.
Ăn xong kem, Noãn Noãn nói vào đâu đó cho ấm, chúng tôi bèn đi vào Trung tâm Thương mại Nga.
Bên trong bày bán đủ mọi mặt hàng của Nga, nhân viên bán hàng cũng mặc giống người Nga.
Nhưng nhạc phát lại là bài “Ca Thập Ca Nhĩ Hồ Dương” của Đao Lang, khiến người ta có chút rối loạn.
Tôi mua một con búp bê Nga, mấy năm trước thứ đồ chơi này từng rất thịnh hành ở Đài Loan.
Ra khỏi Trung tâm Thương mại Nga, thấp thoáng xa xa thấy một đài phun nước.
Vốn nghĩ chẳng có gì, nhưng đến gần xem, từng hạt nước phun ra lập tức bị kết thành băng trong hồ nước, tạo nên một kỳ quan phun nước thành băng tuyệt đẹp.
Chếch đối diện khách sạn Modern là nhà sách Giáo Dục, được xây hai mặt tiền, với cửa lớn mở ngay giữa góc giao nhau.
Nhà sách cao năm tầng, bên ngoài sơn màu trắng giản dị, mái vòm đỏ đậm theo trường phái nghệ thuật Phục hưng.
Trên cửa có hai bức tượng cẩm thạch cao bằng một tầng nhà, cột trụ corinth * cao hai tầng nhà bắt từ tầng ba lên tầng tư, những bức phù điêu tinh xảo trên bệ cửa sổ, ban công hình bán nguyệt và đài hoa, điển hình cho kiến trúc Baroque.
* Corinth: Một kiểu cột trụ trong kiến trúc cổ Hy Lạp.
Tôi và Noãn Noãn bước vào nhà sách, có thể hình dung về nơi đây bằng một chữ nhã, kiến trúc điển nhã, phù điêu cổ nhã, không khí cao nhã, vậy nên tôi chỉ có thể học đòi phong nhã, ưu nhã lật sách.
“Có phải anh ôn văn nho nhã lắm không?” tôi hỏi Noãn Noãn.
Noãn Noãn cười nắc nẻ như vừa được nghe chuyện cười siêu hài hước.
Rời khỏi nhà sách Giáo Dục, tôi và Noãn Noãn tiếp tục thả bộ trên phố.
Những tác phẩm điêu khắc thỉnh thoảng lại bắt gặp trên phố trở thành điểm dừng chân nghỉ ngơi của chúng tôi.
Tôi hỏi Noãn Noãn sao lại thông thạo Cáp Nhĩ Tân thế.
“Vì hay đến đây chứ sao” Noãn Noãn nói.
“Vì sao lại hay đến?”
“Quê em ở Tuy Hóa, chỉ cách Cáp Nhĩ Tân hơn 100 cây số về phía Đông Bắc, ngồi tàu hỏa chỉ mất hơn một tiếng.”
“Ra là vậy,” tôi nói.
“Đúng rồi,” Noãn Noãn nói, “tối qua em gọi điện cho bố, bố em bảo nếu có thời gian thì về qua nhà.”
“Đúng là nên về qua nhà” tôi nói.
“Bố em định ra oai phủ đầu, đã chuẩn bị hai vò rượu rồi, mỗi người một vò.”
“Hai bố con em lâu rồi không gặp, cũng nên mỗi người một vò lắm.”
“Là anh với bố em mỗi người một vò!”
“Hả?” Tôi há hốc miệng.
“Dọa anh sợ chết khiếp rồi phải không.” Noãn Noãn bật cười. “Anh yên tâm, buổi tối vẫn còn phải quay về Bắc Kinh mà.”
Noãn Noãn dẫn tôi vào một tiệm bánh mì, vừa vào cửa đã ngửi thấy một hương thơm ngào ngạt.
Một đống bánh mì cỡ bằng cái bồn rửa mặt bày chật kín kệ, nhìn giống bánh mì nướng, nghe nói mỗi cái nặng tới hai cân.
Noãn Noãn nói bánh mì trong tiếng Nga phát âm gần giống với liệt ba, vì vậy người Cáp Nhĩ Tân gọi loại bánh mì này là đại liệt ba.
Đại liệt ba được làm bằng cách cho lên men houblon, vì vậy hương thơm rất nồng, hơn nữa khi ngửi còn thấy hơi chua chu
Tôi mua một cái đại liệt ba, hết bảy tệ.
Noãn Noãn nói, đại liệt ba vào mùa đông có thể giữ được một tháng.
“Từ Bắc Kinh đến Tuy Hóa cách bao xa?” tôi hỏi Noãn Noãn.
“Tầm 1400 cây số.”
“Thế thì mỗi ngày đi bộ bốn mươi mấy cây, đi trong một tháng là có thể tới Tuy Hóa.”
“Sao mà phải đi bộ?”
“Nếu gặp một trận tuyết cực lớn, máy bay không bay được, tàu hỏa không chạy được, thì anh phải đi bộ thôi.’
“Nói gì thế.”
“Đi tìm em chứ sao” tôi nói. “Anh có thể mang theo vài cái đại liệt ba, đi trong trời đông giá rét một tháng liền.”
“Anh không sợ hổ Đông Bắc với gấu đen nữa à?”
“Có sợ vẫn cứ phải đi thôi.”
Noãn Noãn bật cười, dường như cũng nhớ lại lúc ở bên bờ Thập Sát Hải hè năm ngoái.
“Tuy Hóa có mấy di tích cổ đời Kim, nếu anh đến, em sẽ dẫn anh đi xem” Noãn Noãn nói.
“Đời Kim?”
“Ừ,” Noãn Noãn nói, “có di chỉ tường thành đời Kim, kho lương Kim Ngột Thuật Đồn, lăng mộ Kim Ngột Thuật Muội.”
“Thế anh không đi đâu” tôi nói.
“Hả?”
“Anh đã thề trước linh cữu Nhạc Phi, kiếp này không đội trời chung với Ki Ngột Thuật.”
“Nói linh tinh.” Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi. “Lăng mộ Nhạc Phi ở bên bờ Tây Hồ Hàng Châu, anh còn chưa đến đó nữa là.”
“Anh đến rồi,” tôi nói. “Trước hôm rời Tô Châu một ngày, anh ở bên bờ Tây Hồ mà.”
Noãn Noãn trợn tròn mắt, dường như vẫn không tin.
“Lúc đó đọc ‘Trả lại ta sơn hà’ của Nhạc Phi, thật sự rất rất xúc động” tôi nói.
“Hóa ra anh tới đó thật rồi à.”
“Tuy Hóa đã là địa bàn của Kim Ngột Thuật, vậy thì…” tôi thở dài, “thật khó xử quá.”
“Anh khỏi lắm chuyện” Noãn Noãn nói.
“Noãn Noãn,” tôi nói, “con người tận trung báo quốc như anh, liệu có thể xin em trả lại anh sơn hà được không?”
“Như vậy anh có thể đi thăm Tuy Hóa rồi.” Tôi bật cười
Noãn Noãn không biết rằng, dù đứng trước đền thờ Nhạc Vương, tôi vẫn nhớ đến em.
“Tây Hồ có đẹp không?” bẵng đi một lúc, Noãn Noãn hỏi.
“Rất đẹp” tôi nói.
“Đẹp chừng nào?
“Xứng tầm chị em với em” tôi nói. “Có điều Tây Hồ quá nổi tiếng rồi, nên em phải chịu thiệt thòi một chút, để Tây Hồ làm chị, em làm em.”
“Anh không nói nhảm thì chết à?”
“Ừ,” tôi nói. “Anh bị bệnh không nói nhảm là chết.”
Nói nói cười cười một hồi, tôi và Noãn Noãn đã đi đến điểm cuối phía Bắc của con phố Trung Ương, quảng trường đài tưởng niệm chống lũ sông Tùng Hoa.
Quảng trường này được xây để kỷ niệm năm 1957 nhân dân Cáp Nhĩ Tân đã vượt qua cơn lũ lịch sử.
Đài tưởng niệm chống lũ cao 13 mét, là một cột trụ, xung quanh có các hành lang bán nguyệt kiểu Roman.
Dưới đài tưởng niệm có 11 hồ nước bán nguyệt, với mực nước bằng mực nước cao nhất của cơn lũ năm 1957.
Đứng dưới đài tưởng niệm nhìn ra sông Tùng Hoa, hai bờ sông tuy đã bị băng tuyết phủ kín, nhưng trên sông nước vẫn chảy theo dòng.
Noãn Noãn nói có lẽ qua vài ngày nữa, mặt sông Tùng Hoa mới hoàn toàn đóng băng.
“Bờ bên kia chính là đảo Thái Dương, triển lãm băng tuyết nghệ thuật mỗi năm một lần được tổ chức tại đây,” Noãn Noãn nói, “dùng chính băng ở sông Tùng Hoa, chạm khắc nên cả một thế giới băng tuyết muôn hình muôn vẻ.”
Chúng tôi ngồi xuống bên hành lang, nơi đây là bờ sông, lại là nơi trống trải, hơn nữa còn có gió. Mới ngồi được năm phút, cuối cùng tôi cũng đã cảm nhận được sâu sắc mùa đông Cáp Nhĩ Tân.
Chỉ một từ thôi, lạnh.
“Chỗ này… hình như…” Răng tôi va lập cập.
“Đi tiếp thôi.” Noãn Noãn nhoẻn cười.
Noãn Noãn nói bên cạnh chính là công viên Stalin, có thể vào dạo bộ.
“Stalin trong tiếng Đài Loan phiên âm khác cơ,” tôi nói.
Noãn Noãn chỉ ừ một tiếng, dường như đã quá quen với cách nói khác nhau về cùng một người một việc giữa hai bờ.
“Nhưng bất kể phiên âm thế nào, thì cũng đều mang nghĩa người tình đã mất.”
“Người tình đã mất?” Noãn Noãn nghi hoặc.
“Ừ.” Tôi gật đầu. “Người tình đã mất, tử darling.”
Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!