Khi chuyến tàu điện ngầm rốt cuộc cũng rít lên chói tai tiến vào ga phố Franklin, Brooke lo lắng đến nôn nao. Cô nhìn đồng hồ cả chục lần mỗi phút và cố tự nhủ rằng đó chưa phải là cơn bĩ cực; Nola, cô bạn thân nhất của cô, sẽ thứ lỗi cho cô, phải thứ lỗi cho cô, dù rằng cô trễ hẹn đến mức không thể tha thứ được. Cô len lách tìm đường trong dòng hành khách đông nghẹt giờ cao điểm đang tiến ra cửa, nín thở bản năng khi chen chúc giữa đám người đó và để mình cuốn theo về phía cầu thang. Như được lên dây cót, Brooke và những người đồng hành cùng lúc rút điện thoại di động từ túi xách hoặc túi áo khoác ra, lặng lẽ đứng thành một hàng thẳng, và chẳng khác nào những xác chết nhập tràng, họ vừa bước đều như duyệt binh lên phía bên phải những bậc thang xi măng vừa vô cảm dán mắt vào màn hình điện thoại bé tẹo
“Chết tiệt!” cô nghe một phụ nữ to béo phía trên kêu lên, và ngay khắc sau cô liền biết tại sao. Không một dấu hiệu báo trước, cơn mưa quất mạnh vào người cô ngay khi cô vừa nhô người lên khỏi cầu thang. Tiết trời tối tháng Ba vừa mới hai mươi phút trước còn hơi lạnh nhưng vẫn ôn hòa bỗng chốc trở nên lạnh giá và cực kỳ u ám, những trận gió táp cơn mưa xuống làm cho việc giữ mình khô ráo trở nên bất khả thi.
“Khốn thật!” cô góp giọng vào dàn hòa âm lộn xộn của những người đang chửi thề láo nháo xung quanh trong lúc cố lôi ô từ cặp xách ra hoặc lấy báo che lên đầu mình. Vì sau giờ làm việc cô đã chạy về nhà thay quần áo nên Brooke chẳng có gì ngoài một chiếc xắc màu ngân nhũ bé xíu (và phải nói là rất xinh) để che cho mình khỏi dòng mưa xối xả.Tóc ơi, từ biệt nhé, cô thầm nghĩ trong lúc băng mình chạy qua ba dãy phố để đến nhà hàng.Ta sẽ nhớ tiếc mi, phấn mắt ạ. Rất vui khi được quen biết ngươi, đôi bốt da lộn cao cổ mới tinh lộng lẫy đã ngốn mất nửa tuần lương của ta.
Brooke ướt như chuột lột khi cô đến Sotto, một nhà hàng nhỏ khiêm tốn trong vùng, nơi cô và Nola gặp nhau vài ba lần mỗi tháng. Món mì pasta ở đây chẳng phải loại ngon nhất thành phố – thậm chí chắc còn chưa phải loại ngon nhất ở dãy phố này – mà không gian cũng chẳng có gì đặc sắc cả, nhưng Sotto có những điểm hấp dẫn khác còn quan trọng hơn: rượu vang đầy bình với giá phải chăng, bánh tiramisu ngon đến chết người, và tay chủ nhà hàng người Ý cực kỳ gợi cảm, người luôn dành chỗ bàn kín đáo nhất ở phía sau cho Brooke và Nola chỉ vì họ thường đến ăn ở đây đã từ lâu rồi.
“Chào Luca.” Brooke chào chủ nhà hàng trong lúc cô rũ chiếc áo khoác len ra khỏi vai, cố tránh vẩy nước mưa tứ phía. “Cô ấy đến chưa vậy?”.
Luca lập tức đặt tay lên điện thoại và chỉ cái bút qua vai. “Như thường lệ. Nhân dịp gì mà diện chiếc đầm gợi cảm thế cara mia (1)? Cô có muốn hong khô trước không?”
(1) Tiếng Ý: em yêu, em cưng, cưng.>
Bằng cả hai bàn tay, cô vuốt cho phẳng chiếc đầm dệt kim màu đen ngắn tay ôm khít thân hình và cầu mong Luca nói thật, rằng chiếc đầm rất gợi cảm và cô trông rất ổn. Cô đã đến mức coi chiếc đầm đó là bộ trang phục duy nhất để đi xem ca nhạc; kết hợp với giày cao gót, xăng đan hay bốt tùy thời tiết, cô diện nó đi dự hầu hết mọi buổi biểu diễn của Julian.
“Thôi, tôi đã trễ quá rồi. Cô ấy có ca cẩm giận dỗi gì không?” Brooke vừa hỏi vừa ép những lọn tóc trên đầu với một nỗ lực hầu như vô vọng để giữ chúng khỏi nguy cơ bị xoăn tít lại tức thì.
“Cô ấy uống hết nửa bình rồi và vẫn chưa rời điện thoại di động. Cô đến đó ngay thì hơn.”
Họ hôn lên má nhau ba lần – trước đây Brooke đã phản đối hôn đủ ba cái nhưng Luca cứ một mực đòi – rồi Brooke hít một hơi sâu và cất bước về phía bàn của họ. Nola ngồi thu mình trên chiếc tràng kỷ, áo vest của cô vắt qua lưng ghế, chiếc áo len cashmere không tay màu nước biển vừa khoe ra đôi cánh tay chắc nịch vừa làm nước da màu ô liu lộng lẫy của cô nổi bật lên một cách hài hòa. Mái tóc tỉa dài đến vai của cô thật thời trang và gợi cảm, những lọn tóc nhuộm highlight vàng sáng óng dưới ánh đèn dịu của nhà hàng, và khuôn mặt trang điểm của cô trông trẻ trung tươi mát. Nhìn Nola, không ai có thể biết rằng cô vừa mới ngồi làm việc mười hai giờ đồng hồ liền tại sàn giao dịch chứng khoán, luôn miệng hò hét vào tai nghe điện đàm.
Mãi đến học kỳ hai năm cuối ở Đại học Cornell, Brooke và Nola mới quen nhau, mặc dù Brooke – giống như tất cả những người khác trong hội sinh viên – biết Nola và cảm thấy vừa sợ lại vừa bị cô nàng mê hoặc. So với những sinh viên cùng trang lứa mặc áo có mũ và đi bốt bệt, cô nàng Nola mảnh dẻ như người mẫu lại thích những đôi bốt cao gót, áo giả vest và không bao giờ buộc tóc đuôi ngựa. Cô trưởng thành từ các trường tư thục tốt nhất ở New York, London, Hong Kong và Dubai – những nơi ông bố giám đốc ngân hàng đầu tư của cô làm việc – và được hưởng sự tự do tất yếu vì là đứa con duy nhất của những bậc cha mẹ quá đỗi bận bịu.
Người ta đoán già đoán non tại sao cô đi học ở Cornell mà không phải Cambridge, Georgetown hay Sorbonne, nhưng dễ nhận thấy là cô chẳng m ấn tượng về điều đó. Trong khi những người khác còn bận đổ xô đi tham gia các hội nữ sinh, họp mặt ăn trưa tại Phòng Ivy và say sưa ở các quán bar trong khuôn viên trường đại học thì Nola lại khép kín. Cũng có những ý niệm lờ mờ về cuộc sống riêng của cô – cuộc tình nổi tiếng với giáo sư khảo cổ học, sự hiện diện thường xuyên, rồi sau đó nhanh chóng bốc hơi, của những anh chàng bí ẩn và gợi cảm trong khu học xá – nhưng chủ yếu thì Nola đến lớp, đứng đầu tất cả những môn cô học và chuồn thật nhanh về Manhattan ngay khi vừa đến chiều thứ Sáu. Khi hai cô gái thấy mình được giao đọc truyện ngắn của nhau trong môn viết sáng tác tự chọn năm cuối đại học, Brooke hoảng đến nỗi không nói nên lời. Nola, như thường lệ, không tỏ ra đặc biệt hài lòng hay khó chịu, nhưng một tuần sau đó, khi cô trả lại bài tập viết truyện ngắn đầu tiên của Brooke – tác phẩm hư cấu về một nhân vật nỗ lực thích nghi với nhiệm vụ được Tổ chức Hòa bình Mỹ giao phó tại Congo – thì bản thảo đã đầy những bình luận và gợi ý rất thâm thúy, sắc sảo. Rồi ở trang cuối cùng, sau khi nguệch ngoạc ý kiến phản hồi dài dòng và nghiêm túc của mình, Nola viết, “Tái bút: Nên chăng cân nhắc cảnh sex ở Congo?” và Brooke đã cười lăn cười lộn đến mức cô phải xin phép chạy ra khỏi lớp.
Sau giờ học Nola mời Brooke tới quán cà phê nhỏ xíu xiu ở tầng hầm của một trong các tòa học đường, nơi bạn bè Brooke chưa bao giờ lai vãng, và chỉ vài tuần sau đó Brooke đã đi New York với Nola vào các dịp nghỉ cuối tuần. Thậm chí sau chừng ấy năm ròng Nola vẫn tuyệt vời không lời nào tả xiết, song nhờ những cuối tuần đó mà Brooke biết rằng cô bạn mình nức nở khóc khi xem bản tin về những người lính trở về sau cuộc chiến, thầm bị ám ảnh rằng một ngày kia phải có một hàng rào cọc trắng hoàn hảo ở vùng ngoại ô mặc dù ngoài mặt tỏ ra nhạo báng điều đó, và có một nỗi sợ vô lý đối với những con chó xù nhỏ (Walter, con chó của Brooke, không nằm trong diện này).
“Tuyệt, tuyệt lắm. Không, tôi nghĩ rằng ngồi ở quán bar cũng ổn rồi,” Nola vừa nói chuyện điện thoại vừa đảo mắt nhìn Brooke. “Thôi, khỏi cần đặt chỗ ăn tối trước, cứ để tùy cơ ứng biến. Đồng ý, nghe hay đấy. Hẹn gặp anh lúc đó nhé.” Cô gập điện thoại đánh tách và lập tức chộp lấy bình rượu vang đỏ, rót một ly nữa cho mình trước khi nhớ ra Brooke và cũng rót một ly cho bạn.
“Cậu có giận tớ không?” Brooke hỏi trong lúc xếp áo khoác lên ghế sát chỗ ngồi và ném cây dù ướt nhẹp xuống gầm bàn. Cô uống rượu vang một hơi thật dài và thích thú cảm nhận vị rượu trôi qua
“Vì sao? Chỉ vì tớ ngồi đây một mình đã ba mươi phút rồi á?”
“Tớ biết, tớ biết, thành thực xin lỗi nhé. Một ngày làm việc cực nhọc khủng khiếp. Hai nhân viên nghiên cứu dinh dưỡng chính thức cáo ốm hôm nay – mà nếu cậu hỏi thì tớ cho là rất đáng ngờ – và những người còn lại chúng tớ phải cáng đáng cả phần việc của họ. Dĩ nhiên nếu chúng mình gặp nhau ở gần khu nhà tớ thì có lẽ tớ đã đến được đúng giờ…”
Nola giơ tay lên chặn lại. “Hiểu rồi. Tớ cảm kích vì cậu lặn lội đến tận đây. Ăn tối ở Midtown West thật chẳng thích thú gì.”
“Cậu vừa nói chuyện với ai vậy? Daniel phải không?”
“Daniel á?” Nola có vẻ rối trí. Cô nhìn chằm chằm lên trần nhà vẻ như cố vắt óc ra. “Daniel, Daniel… Ồ! Không phải, tớ thôi hắn rồi. Đầu tuần trước tớ đưa hắn đến dự một sự kiện ở chỗ làm và hắn kỳ cục lắm. Cực chuối. Không, đó là chuyện sắp xếp kế hoạch buổi hẹn hò qua trang hẹn hò Match.com ngày mai. Buổi hẹn thứ hai trong tuần này. Sao mà tớ lại thành kẻ thảm hại đến thế nhỉ?” Cô thở dài.
“Thôi xin đi. Cậu làm gì đến nỗi…”
“Không, thật đấy mà. Thật thảm hại khi tớ đã gần ba chục cái xuân xanh mà vẫn coi cậu bạn trai thời đại học là mối tình ‘có thực’ duy nhất. Còn thảm hại hơn nữa khi tớ là thành viên của một loạt trang web hẹn hò và đi chơi với bọn đàn ông trên tất cả mấy trang đó. Nhưng thảm nhất – gần như không thể tha thứ được – là tớ mới háo hức làm sao khi thú nhận điều này với bất kỳ ai lắng nghe.
Brooke hớp một ngụm nữa. “Tớ đâu phải là ‘bất kỳ ai lắng nghe’.”
“Cậu biết tớ ngụ ý gì,” Nola nói. “Nếu cậu là người duy nhất chia sẻ bí mật về sự bẽ bàng của tớ, thì tớ còn có thể chịu được. Đằng này cứ như là tớ trở nên chai sạn với…”
“Dùng từ đắt đấy.”
“Cảm ơn. Từ này sáng nay ở trên cuốn lịch mỗi-ngày- một-từ (2) của tớ. Thế đây, quả thật là tớ đã chai sạn với nỗi nhục ấy đến mức tớ chẳng màng giấu giếm gì thêm nữa. Mới hôm qua đây thôi tớ đã bỏ ra mười lăm phút ròng gắng giải thích cho một trong những ông phó tổng giám đốc quan trọng nhất của tập đoàn Goldman Sachs về sự khác nhau giữa đàn ông trên trang Match và đàn ông trên trang Nerve. Thật không thể thương được.”
(2) Cuốn lịch mỗi ngày có viết một từ với đầy đủ ngữ nghĩa, cách phát âm, v.v.
“Thế câu chuyện với anh chàng ngày mai thế nào?” Brooke hỏi, cố thay đổi chủ đề. Theo dõi tình trạng bạn trai của Nola từ tuần này sang tuần khác là việc bất khả thi. Không chỉ vì chẳng biết tuần này cô đi với anh nào – tự nó đã là một câu hỏi khó – mà còn vì không hiểu giờ cô đang tha thiết muốn có một anh bạn trai để sống ổn định hay cô đã lạicăm ghét gắn kết với người khác mà chỉ muốn sống độc thân, xả láng và ngủ lang chạ. Tình hình thay đổi thường xuyên, không có gì báo trước, làm cho Brooke phải cố gắng liên tục để nhớ xem anh chàng tuần này “mới tuyệt làm sao” hay “là cả một thảm họa”.
Nola cụp hàng mi xuống và bĩu đôi môi tô son bóng theo cái cách nũng nịu đặc trưng của cô, vẻ như muốn nói, “Em nhạy cảm,” “Em ngọt ngào,” và “Em muốn được yêu mê đắm” cùng một lúc. Rõ là cô đang chuẩn bị trả lời tràng giang đại hải cho câu hỏi
“Hãy dùng mánh đó với bọn đàn ông. Với tớ thì chả nhằm nhò gì đâu,” Brooke nói dối. Nola không đẹp theo kiểu truyền thống, nhưng điều đó chẳng mấy quan trọng. Cô kết hợp mọi thứ ở mình mới kiều mị làm sao, và ở cô toát ra một vẻ tự tin đến mức cả đàn ông lẫn đàn bà đều bị mê hoặc.
“Chàng này có vẻ hứa hẹn,” cô trầm ngâm nói. “Tớ chắc rằng từ giờ đến lúc anh chàng bộc lộ cái tính nào đó không thể thương nổi chỉ là vấn đề thời gian, nhưng hiện giờ tớ nghĩ là chàng hoàn hảo.”
“Vậy chàng là người thế nào?” Brooke hối thúc.
“Hừm, xem nào. Chàng từng tham gia đội đua trượt tuyết ở trường đại học, vì vậy mà lúc đầu tớ mới click vào xem thông tin của chàng trên mạng, và chàng còn làm huấn luyện viên hai mùa nữa cơ đấy, đầu tiên là ở Park City và sau đó ở Zermatt.”
“Đoạn này thì hết sảy.”
Nola gật đầu. “Ừ. Chàng chỉ cao chừng mét tám, dáng khỏe mạnh – chí ít thì chàng tự nhận là thế – tóc vàng màu cát và đôi mắt xanh màu lá cây. Chàng mới chuyển về thành phố này vài tháng trước và chưa quen biết ai mấy.”
“Cậu sẽ làm tình trạng đó thay đổi thôi.”
“Ừ, tớ tin là thế…” Nola bĩu môi. “Nhưng…”
“Có vấn đề gì vậy?” Brooke rót rượu vào cả hai chiếc ly rồi gật đầu với bồi bàn khi anh ta hỏi họ có muốn gọi những m họ thường ăn không.
“Ờ, vấn đề là công ăn việc làm. Chàng nói nghề nghiệp của chàng là ‘nghệ sĩ’.” Cô phát âm từ này nghe cứ như đang nói “kẻ làm phim khiêu dâm” vậy.
“Thế thì sao?”
“Sao với trăng gì nữa? Đó là cái quái gì mới được chứ.Nghệ sĩ?”
“Ừm, tớ nghĩ là nó có nhiều nghĩa lắm. Họa sĩ, điêu khắc gia, nhạc sĩ, diễn viên, văn…”
Nola đưa tay lên trán. “Xin cậu. Nó chỉ có một nghĩa duy nhất và cả hai chúng ta đều biết nghĩa đó: thất nghiệp.”
“Thời này ai mà chả thất nghiệp. Khá là hợp mốt đấy chứ.”
“Ồ, thôi đi. Tớ có thể chấp nhận chuyện thất nghiệp vì suy thoái kinh tế. Nhưng mà một nghệ sĩ à? Khó tiêu hóa lắm.”
“Nola! Thật vớ vẩn. Có ối người – đầy ra đây, hàng vạn, chắc phải đến hàng triệu – những người kiếm sống bằng nghệ thuật. Ý tớ là, xem Julian kìa. Anh ấy là một nhạc sĩ. Chả lẽ tớ lại tuyệt đối không nên giao du với anh ấy?”
Nola mở miệng định nói gì đó rồi lại thôi. Một khoảng lặng đầy lúng túng.
“Cậu định nói gì?” Brooke hỏi.
“Có gì đâu, chẳng có gì cả. Cậu nói đúng đó.”
“Không phải. Cậu đã định nói gì đó? Cứ nói toạc ra đi.”
Nola xoay xoay cuống đế ly rượu vang, trông cô có vẻ như chỉ muốn độn thổ khỏi đây cho rồi. “Tớ không có ý bảo Julian không thực sự tài năng, nhưng…”
“Nhưng sao?” Brooke nghiêng người lại gần đến nỗi Nola buộc phải nhìn vào mắt cô.
“Nhưng tớ không dám chắc rằng tớ có thể gọi anh ấy là một ‘nhạc sĩ’. Hồi mới gặp cậu anh ấy chỉ là phụ tá cho ai đó. Và đến giờ thì cậu vẫn đang phải nuôi anh ấy.”
“Ừ thì đúng anh ấy mới chỉ là thực tập sinh khi bọn tớ mới gặp nhau,” Brooke nói mà chẳng buồn che giấu sự bực bội. “Anh ấy thực tập tại hãng Sony để học hỏi về ngành công nghiệp âm nhạc, tìm hiểu xem nó hoạt động ra sao. Và cậu biết gì không? Chính nhờ những mối quan hệ anh ấy đã gây dựng ở đó mà ban đầu người ta mới chú ý đến anh ấy. Nếu anh ấy không đến đây hằng ngày và cố gắng làm cho mình thành người không thể thiếu được thì cậu nghĩ là ông trưởng Ban Phát triển Tài năng có thể bỏ ra những hai giờ đồng hồ quý giá để xem anh ấy biểu diễn ư?”
“Tớ biết. Chỉ là…”
“Sao cậu có thể nói rằng anh ấy ăn không ngồi rồi được? Có phải đó chính là điều cậu nghĩ không? Không biết cậu có nhận thấy điều này không, nhưng anh ấy đã dành cả tám tháng vừa qua nhốt mình trong một phòng thu âm tại Midtown để làm một album. Nhân tiện, phải nói là đó không phải một việc phù phiếm đâu nhé; hãng Sony đã ký hợp đồng với anh ấy với tư cách một nghệ sĩ – cũng chính là cái từ nghệ sĩ đó đó – và tạm ứng trước cho anh ấy hẳn hoi nhé. Nếu cậu không coi đó là một công việc đích thực thì tớ còn biết nói gì hơn với cậu nữa.”
Nola giơ hai tay lên đầu hàng và cúi đầu xuống. “Phải, tất nhiên rồi. Cậu nói rất phải.”
“Nghe giọng cậu không mấy tin tưởng.” Brooke bắt đầu cắn móng ngón tay cái. Mọi niềm khuây khỏa mà cô cảm nhận nhờ rượu vang đã hoàn toàn tan bi
Nola dùng nĩa gảy gót món xa lát. “Ừ thì chẳng phải là họ vẫn mời mọc ký kết, ờ, hàng đống hợp đồng thu âm với bất kỳ người nào hé lộ một chút xíu tài năng đó sao, vì biết rằng chỉ cần một người thành công lớn là đủ để trang trải chi phí cho tất cả những kẻ thất bại tầm thường kia phải không?”
Brooke ngạc nhiên vì sự hiểu biết của cô bạn về ngành âm nhạc. Julian luôn diễn giải chính cái lý thuyết đó khi anh khiêm tốn nói về hợp đồng thu âm của mình và cố gắng, theo như lời anh nói, “kiềm chế ảo tưởng” về ý nghĩa đích thực của hợp đồng đó. Dù sao chăng nữa, những lời này theo một cách nào đó nghe lại cay nghiệt hơn khi qua miệng Nola.
“Một ‘chút xíu tài năng’ ư?” Brooke chỉ có thể thì thào những lòi này. “Có phải cậu nghĩ rằng anh ấy chỉ là thế không?”
“Tất nhiên không phải là tớ nghĩ rằng anh ấy chỉ là thế. Đừng có vận vào mình như thế chứ. Là bạn của cậu nên tớ khó mà ngồi nhìn cậu tự giết mình khi làm quần quật để hỗ trợ anh ấy đã bao nhiêu năm nay. Đặc biệt là khi cơ hội mong manh đến nỗi chẳng biết có nên cơm nên cháo gì không.”
“Thôi được, tớ cảm kích vì cậu quan tâm tới hạnh phúc của tớ, nhưng cậu nên biết rằng đó là tớ tự nguyện nhận thêm công việc tư vấn ở trường tư thục để trang trải cho cuộc sống của bọn tớ. Tớ không phung phí lòng tốt của mình đâu, tớ làm như vậy vì tớ thực sự tin tưởng vào bản thân anh ấy cũng như tài năng của anh ấy, và tớ biết – thậm chí ngay cả khi dường như không ai tin điều này – rằng anh ấy có một sự nghiệp rạng rỡ ở phía trước.”
Brooke đã sung sướng ngây ngất đến khó tả – thậm chí có thể còn hơn cả Julian nữa – khi mà tám tháng trước, anh gọi cho cô báo tin về lời mời đầu tiên của hãng Sony. Hai trăm năm mươi ngàn đô la là khoản tiền lớn hơn thu nhập cả hai kiếm được suốt năm năm trước đó, và Julian có thể thoải mái dùng số tiền đó làm những gì anh muốn. Khi ấy làm sao cô tiên đoán được rằng dòng tiền ồ ạt bơm về đó sẽ làm họ ngập trong nợ nần sâu, hơn cả mức nợ của họ lúc bây giờ? Từ khoản tạm ứng này, Julian phải thanh toán chi phí phòng thu, thuê các nhà sản xuất và kỹ thuật viên âm thanh cao giá cũng như trang trải toàn bộ chi phí trang thiết bị, chi phí đi lại và chi phí cho ban nhạc trợ diễn. Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi khoản tiền đã tiêu tan, khi họ còn chưa kịp tiêu dù chỉ một đồng đô la lẻ để trả tiền thuê nhà, tiền điện nước sinh hoạt, hoặc thậm chí một bữa ăn nhân ngày kỷ niệm nào đó. Và một khi toàn bộ khoản kinh phí đó đã được dùng để giúp Julian tạo danh tiếng cho mình, thì thật vô nghĩa nếu không theo đuổi kế hoạch này đến cùng. Họ đã tiêu thêm ba mươi ngàn đô la tiền túi – là toàn bộ số tiền họ dành dụm được, dự tính là khoản đặt cọc để mua một căn hộ – và mỗi ngày họ càng đốt nhiều tiền hơn. Phần đáng sợ nhất trong toàn bộ câu chuyện này chính là điều mà Nola vừa thốt ra một cách tàn nhẫn: cơ hội để Julian thành công sau khi tiêu tốn chừng ấy thời gian và tiền bạc – dù là có tên tuổi của hãng Sony làm chỗ dựa – hầu như chỉ là con số không.
“Tớ đủ hy vọng anh ấy biết rằng anh ấy may mắn biết bao khi có được người vợ như cậu,” lúc này Nola nói với giọng mềm mỏng hơn. “Tớ có thể đoan chắc với cậu rằng tớ sẽ chẳng thể giúp đỡ cảm thông được đến mức đó. Hẳn là vì thế mà số tớ cứ độc thân suốt đời…”
May sao món mì của họ đã tới và câu chuyện chuyển sang những chủ đề an toàn hơn: nước xốt thịt gây béo ra sao, Nola có nên yêu cầu tăng lương ở chỗ làm hay không, Brooke ghét bố mẹ chồng đến mức nào. Khi Brooke ra hiệu thanh toán mà không gọi thêm món bánh tiramisu tráng miệng hoặc thậm chí chỉ một cốc cà phê, Nola có vẻ lo lắng.
Chương 2
“Cậu không giận tớ đấy chứ?” cô vừa hỏi vừa cài tấm thẻ tín dụng của mình vào tập bìa da.
“Đâu có,” Brooke nói dối. “Tớ vừa có một ngày dài vất vả quá.”
“Thế cậu định đi đâu bây giờ? Không đi uống một chầu sau bữa tối ư?”
“Thực ra là Julian có một… anh ấy đang biểu diễn,” Brooke nói sau khi đổi ý vào giây cuối cùng. Cô không muốn đả động gì về sô diễn của anh, nhưng nói dối Nola thì có vẻ kỳ cục thế nào
“Ồ, hay quá!” Nola vừa vui vẻ nói vừa uống nốt cốc rượu vang của mình. “Có muốn tớ đi cùng không?”
Cả hai cùng biết rằng Nola không thực lòng muốn đi, mà cũng chẳng sao vì Brooke cũng không thực lòng muốn Nola đi cùng. Bạn cô và chồng cô khá hòa hợp với nhau, và thế là ổn rồi. Cô trân trọng sự che chở của Nola và biết rằng đó là vì lòng tốt, nhưng thật khó chịu khi thấy bạn thân nhất thường xuyên phán xét chồng mình – và lúc nào anh cũng là người không thành công dù nỗ lực đến mấy.
“Thực ra Trent đang ở trong thành phố,” Brooke trả lời. “Cậu ấy luân chuyển công tác về đây thì phải, thế nên tớ sẽ gặp cậu ấy ở buổi biểu diễn.”
“A, Trent già tốt bụng. Hắn vẫn thích trường y đấy chứ?”
“Cậu ấy học xong rồi; hiện giờ cậu ấy đang làm bác sĩ nội trú. Julian bảo là cậu ấy thích Los Angeles, ngạc nhiên thật đấy – những kẻ sinh ra và lớn lên ở New York chẳng khi nàothích Los Angeles cả.”
Nola đứng dậy khoác áo vest lên người. “Hắn có đang hẹn hò ai không? Nếu tớ nhớ không nhầm thì hắn tẻ ngắt như cơm nguội nhưng được cái rất điển trai…”
“Thực ra thì cậu ấy đính hôn rồi. Với một cô bạn bác sĩ nội trú khoa tiêu hóa, một cô gái tên là Fern. Bác sĩ Fern, chuyên gia về dạ dày. Tớ đến rùng mình khi tưởng tượng ra những gì họ chuyện trò với nhau.”
Nola nhăn mặt vì kinh tởm. “Cảm ơn vì hình ảnh đó nhé. Mà nghĩ cho cùng, hắn đã có thể hoàn toàn là của cậu
“Hừmmmm.”
“Tớ chỉ muốn đảm bảo rằng mình vẫn được công nhận thích đáng vì đã giới thiệu cậu với chồng cậu thôi. Nếu đêm đó cậu không đi chơi với gã Trent này thì có lẽ cậu vẫn chỉ đơn thuần là cô gái hâm mộ đi cổ động cho Julian.”
Brooke phá lên cười rồi hôn lên má cô bạn. Cô móc ví lấy hai tờ hai chục đô đưa cho Nola. “Tớ phải chạy đây. Nếu ba mươi giây nữa mà không lên được tàu thì tớ trễ mất. Mai nói chuyện sau nhé?” Cô giật lấy áo khoác và xắc, vẫy tay nhanh về phía Luca trên lối đi ra, rồi lao ra khỏi cửa.
***
Thậm chí sau chừng ấy năm trời, Brooke vẫn rùng mình khi nghĩ đến chuyện thiếu chút nữa thì cô và Julian đã bỏ lỡ cơ hội gặp nhau. Đó là vào tháng Sáu năm 2001, tháng đầu tiên sau khi cô vừa tốt nghiệp đại học, và Brooke thấy hầu như không thể thích nghi được với chế độ làm việc sáu mươi giờ một tuần, chia đều giữa những bài khóa luận cao học ngành dinh dưỡng, những giờ thực tập nặng nề và ca làm việc bận bịu của một nhân viên chạy bàn trong tiệm cà phê gần nhà. Một khi cô còn chưa hình dung ra được những nhọc nhằn vất vả khi làm việc mười hai tiếng mỗi ngày để kiếm được hai mươi hai ngàn đô la một năm – ấy là cô nghĩ thế – thì cô cũng chẳng thể tiên đoán được toàn bộ áp lực căng thẳng của những ngày làm việc dài, tiền lương không đủ xài, quá thiếu ngủ, và hiện thực của việc thuê chung căn hộ một phòng ngủ chỉ nhỉnh hơn sáu mươi lăm mét vuông ở khu Murray Hill với Nola và một người bạn nữa của họ. Tất cả những điều đó chính là lý do vì sao Brooke đã từ chối thẳng thừng khi Nola nài nỉ cô cùng đi xem biểu diễn nhạc sống vào một tối thứ Bảy.
“Đi nào, Brookie, cậu phải ra khỏi nhà đi chứ,” Nola tranh biện trong lúc tròng chiếc áo bó hai dây màu đen vào người. “Có một nhóm tứ tấu nhạc jazz và nghe nói họ chơi hay cực, với lại Benny và Simon nói là họ giữ chỗ cho chúng mình. Năm đô la tiền bàn và đồ uống mua một tặng một. Cậu còn chê cái nỗi gì nữa cơ chứ?”
“Chỉ mệt đứt cả hơi rồi.” Brooke thở dài, uể oải nhấn điều khiển lướt qua các kênh từ trên chiếc phô tơi trong phòng khách. “Tớ vẫn còn bài phải viết, mà mười một tiếng nữa tớ lại còn phải đi làm nữa chứ.”
“Ôi, đừng bi kịch quá thế. Vì Chúa, cậu hăm hai rồi. Đừng lải nhải nữa và lên thay đồ đi. Mười phút nữa chúng mình khởi hành.”
“Mưa như trút ngoài kia, vả lại…”
“Đúng mười phút thôi, không thêm một giây nào nữa, hoặc chúng mình sẽ chẳng còn bạn bè với nhau gì sất.”
Lúc hai cô đến được quán bar Rue B ở khu East Village và ngồi ép mình bên một chiếc bàn bé tẹo cùng với các bạn học, Brooke thấy ân hận vì sự yếu đuối của mình. Sao mà cô cứ luôn nhượng bộ Nola thế nhỉ? Việc quái gì mà cô phải lèn mình trong cái quán bar đông nghẹt đầy khói thuốc, uống rượu vodka pha tonic loãng thếch và chờ xem một nhóm tứ tấu chơi nhạc jazz mà cô chưa hề nghe nói đến? Thậm chí cô còn chẳng đặc biệt thích nhạc jazz nữa kia. Mà xét cho cùng, cô chẳng đặc biệt thích bất kỳ buổi biểu diễn nhạc sống nào, trừ phi đó là buổi hòa nhạc của Dave Matthews hay Bruce Springsteen mà cô có thể vui vẻ hòa giọng hát theo tất cả mọi bài hát. Đêm biểu diễn này hiển nhiên không phải là một đêm như vậy. Chính vì thế mà cô có cảm giác bực bội pha lẫn với nhẹ nhõm khi cô nhân viên chân dài tóc vàng ở quầy bar gõ mạnh chiếc thìa lên ly rượu.
“Này, các bạn ơi! Này, mọi người ơi, các bạn có thể chú ý cho tôi một phút được không?” Cô lau bàn tay rảnh rỗi của mình vào quần jean và kiên nhẫn đợi đám đông lắng xuống. “Tôi biết tất cả các bạn đều đang nôn nóng được nghe Tribesmen hát đêm nay, nhưng chúng tôi vừa nghe tin họ bị kẹt xe ở đường cao tốc Long Island và chắc sẽ không đến được đúng giờ.”
Tiếng la ó và chế nhạo tức thì nổi lên ầm ĩ.
“Tôi biết, tôi biết, tệ hết chỗ nói. Xe rơ-moóc bị lật, đường nghẽn toàn bộ, vân vân và vân vâ
“Thế thì tặng một chầu miễn phí để xin lỗi nhé?” một người đàn ông trung niên ngồi phía sau giơ cốc của mình và hỏi vọng lên.
Cô nhân viên quầy bar bật cười. “Xin lỗi nhé. Nhưng nếu bất kỳ ai muốn lên đây tiêu khiển cho chúng ta…” Cô nhìn thẳng vào người đàn ông đó, anh ta lập tức lắc đầu.
“Nói thật đấy, chúng tôi có một chiếc dương cầm rất tuyệt. Có ai chơi được không?”
Căn phòng im phắc trong lúc mọi người đưa mắt nhìn nhau.
“Này, Brookie, cậu chơi được đấy chứ?” Nola nói thầm đủ to để cả bàn họ nghe thấy.
Brooke đảo mắt. “Tớ bị loại khỏi ban nhạc từ năm lớp sáu vì không thể học để đọc nổi bản nhạc. Có ai bị loại khỏi ban nhạc ở trường trung học nữa không đây?”
Cô nhân viên quầy bar không dễ gì đầu hàng. “Nào, mọi người ơi! Ngoài đường trời đang mưa ào ào khiếp lắm, mà chúng ta thì đang có tâm trạng để nghe nhạc nhẽo một chút. Tôi sẽ nhân nhượng thêm bia miễn phí cho cả phòng nếu ai đó có thể tiêu khiển cho chúng ta vui vài phút.”
“Tôi chơi được chút ít.”
Brooke dõi theo giọng nói về phía một anh chàng có vẻ luộm thuộm ngồi một mình cạnh quầy bar. Anh ta mặc quần jean và áo phông màu trắng, đầu đội một chiếc mũ len mặc dù lúc đó đang là mùa hè. Trước đó cô không để ý đến anh nhưng giờ cô cả quyết rằng anh có thể – có thế thôi nhé – khá bảnh nếu anh tắm rửa, cạo râu và bỏ chiếc mũ đi.
“Vâng, xin mời…” Cô nhân viên quầy bar vung cả hai tay về phía chiếc đàn dương cầm. “Tên anh là gì?
“Julian.”
“Hay quá, Julian, cô nàng là của anh đây.” Cô trở về chỗ của mình phía sau quầy bar và Julian ngồi lên chiếc ghế chơi dương cầm. Anh chơi vài nốt, nghịch ngợm với nhịp phách và giai điệu, và cử tọa nhanh chóng mất hứng quay lại những câu chuyện đang dở của họ. Thậm chí ngay cả khi anh lặng lẽ chơi trọn một bài hát (một bản ballad nào đó mà cô không nhận ra) thì tiếng nhạc lại giống như âm thanh nền hơn. Nhưng mười phút sau anh chơi những nốt dạo đầu bản “Hallelujah” và cất tiếng hát bằng một giọng đẹp và khỏe đến kinh ngạc. Cả phòng lặng đi.
Trước đây Brooke đã nghe bài hát này, đã từng bị ám ảnh bởi Leonard Cohen một thời, và rất thích bài hát đó, nhưng cái cảm giác gai hết cả người lên thế này là hoàn toàn mới lạ. Cô nhìn khắp phòng. Không hiểu những người khác có cùng cảm giác như mình không nhỉ? Đôi tay Julian dạo trên những phím đàn một cách tự nhiên trong khi anh truyền cảm xúc mãnh liệt vào từng lời hát.
Tận đến khi anh thì thầm ngân dài câu cuối “hallelujah” xong thì đám đông mới hưởng ứng: họ vỗ tay, huýt sáo, gào thét và hầu như cùng lúc nhảy ra khỏi ghế ngồi. Julian có vẻ lúng túng, ngượng nghịu, và sau một cử chỉ cúi chào hầu như không nhận thấy, anh trở về chỗ của mình trên chiếc ghế cao bên quầy bar.
“Quỷ thần ơi, anh ta tuyệt quá,” một cô gái trẻ thốt lên với người bạn hẹn hò của mình ở bàn phía sau họ, mắt cô dán vào chàng trai chơi dương cầm.
“Hát lại đi!” một phụ nữ duyên dáng kêu lên, tay nắm chặt tay chồng. Người chồng gật đầu phụ họa với chị. Trong chốc lát, tiếng vỗ tay hoan hô mạnh lên gấp đôi và cả phòng đòi nghe bài hát thứ hai.
Cô nhân viên quầy bar chộp lấy tay Julian kéo anh tới micro. “Anh ấy hát hay đến sửng sốt, phải không các bạn?” cô kêu lên, cười rạng rỡ tự hào với phát hiện mới của mình. “Các bạn bảo sao nếu chúng tôi thuyết phục Julian đây hát thêm bài nữa cho mọi người cùng nghe
Brooke quay về phía Nola, đã nhiều năm nay cô chưa bao giờ cảm thấy phấn khích đến thế. “Cậu nghĩ anh ta có hát thêm không? Cậu có bao giờ tin rằng một người vô danh ngồi trong một quán bar ngẫu nhiên vào một tối thứ Bảy ngẫu nhiên – cái anh chàng đến đây để nghe người khác biểu diễn – lại có thể hát hay đến thế được không?”
Nola nhoẻn cười và nghiêng người để Brooke nghe thấy giọng cô trong đám đông. “Anh ta thực sự có tài đấy. Tệ nỗi là bộ dạng anh ta như thế.”
Brooke cảm thấy như chính cô bị sỉ nhục. “Bộ dạng anh ta như thế nào kia? Tớ lại thích tổng thể cái vẻ luộm thuộm trong phong cách của anh ta đấy. Và với giọng hát như thế thì tớ tin một ngày kia anh ta sẽ thành ngôi sao.”
“Chả có cơ đâu. Anh ta có tài, nhưng cả triệu người khác cũng tài như thế mà còn dễ gần hơn và trông khả dĩ hơn anh ta nhiều ấy chứ.”
“Anh ta hấp dẫn,” Brooke nói với vẻ hơi phẫn nộ.
“Anh ta hấp dẫn kiểu ca sĩ quán bar ở East Village. Không hấp dẫn kiểu ngôi sao nhạc rock quốc tế.”
Cô chưa kịp chồm lên biện hộ cho Julian thì anh đã quay lại ghế dương cầm và bắt đầu chơi lần nữa. Lần này là bài “Let’s Get It On”, và một lần nữa, bằng cách nào đó anh đã khiến cho giọng mình hay hơn cả Marvin Gaye – giọng sâu và gợi cảm hơn, tiết tấu chậm hơn một chút, và sự tập trung căng thẳng biểu cảm trên gương mặt anh. Brooke đắm mình vào trải nghiệm này đến mức không nhận thấy các bạn mình đã tiếp tục tán gẫu khi những bình bia miễn phí được đưa đến bàn họ. Họ rót và uống và lại rót tiếp, nhưng Brooke không thể rời mắt khỏi anh chàng tóc rối bên chiếc dương cầm. Hai mươi phút sau, khi anh ra khỏi quán bar, cúi chào những khán giả đang tán thưởng mình với vẻ mặt chỉ hơi thoáng bóng nụ cười, thì quả thật Brooke đã nghĩ tới việc đi theo anh. Cô chưa bao giờ làm điều gì tương tự trong đời, nhưng cô có cảm giác đó là điều nên là
“Tớ có nên đến làm quen không nhỉ?” cô hỏi mọi người cùng bàn, nhoài người về phía trước đủ xa để cắt ngang câu chuyện của họ.
“Với ai cơ?” Nola hỏi.
“Với Julian ấy!” Thật bực hết chỗ nói. Chẳng lẽ không ai nhận thấy anh ấy đã ra khỏi quán và sắp vĩnh viễn biến mất ư?
“Julian, gã chơi dương cầm ấy hả?” Benny hỏi.
Nola đảo mắt và hớp một ngụm bia đầy. “Thế cậu định làm gì đây? Đuổi theo anh ta và bảo anh ta rằng cậu có thể phớt lờ khả năng vô gia cư tiềm ẩn của anh ta miễn sao anh ta làm tình với cậu thật say đắm trên chiếc dương cầm của anh ta ư?”
Benny bắt đầu hát. “Ô đã chín giờ tối thứ Bảy… Chủ nhật, đám đông thường lệ lại kéo đến (3)…”
(3) Nhại lời bài hát Piano Man rất nổi tiếng của Billy Joel.
“Có một gã nhếch nhác ngồi bên cạnh tôi, tình tự với cô bạn Brooke của chúng ta,” Nola vừa hát nốt vừa cười lớn. Họ cụng những vại bia.
“Cả hai cậu phát rồ rồi đây,” Brooke nói trong lúc
“Không đời nào! Cậu không chạy theo anh ta đây chứ? Benny, hãy đi cùng cô ấy. Gã chơi dương cầm có thể là sát thủ hàng loạt đấy,” Nola nói.
“Tớ không chạy theo anhấy,” Brooke trả lời. Nhưng cô len tới quầy bar và, sau khi đã bấm móng vào lòng bàn tay và thay đổi ý định đến năm lần bảy lượt, cuối cùng cô cũng lấy hết dũng khí hỏi cô nhân viên quầy bar xem cô này có biết gì hơn về người trình diễn bí ẩn nọ không.
Người phụ nữ đó không nhìn lên cô vì đang mải pha chế một mẻ mojitos. “Trước đây tôi đã gặp anh ta ở đây, thường là khi chúng tôi có ban nhạc blue hoặc rock cổ điển trình diễn, nhưng anh ta chả bao giờ trò chuyện với ai cả. Lúc nào cũng chỉ một mình, nếu đó là điều cô định hỏi…”
“Không, không, tôi, à… không, không phải thế đâu. Chỉ là tò mò thôi,” cô lắp bắp, cảm thấy mình như một con ngố.
Brooke quay trở lại bàn mình thì nhân viên quầy bar nói với theo, “Anh ta bảo là có diễn thường xuyên ở một quán bar trên Khu Thượng Đông, một nơi tên là Trick hay Rick gì đó. Vào các ngày thứ Ba. Hy vọng thông tin đó có ích.”
Brooke có thể đếm trên đầu ngón tay những lần cô đi xem biểu diễn nghệ thuật. Cô chưa bao giờ dõi theo hoặc bám theo một người lạ; và ngoại trừ mươi mười lăm phút chờ bạn bè hoặc bạn hẹn hò đến, cô hiếm khi lãng phí thì giờ một mình trong các quán bar. Nhưng tất cả những điều đó chẳng cản được cô gọi không biết bao nhiêu cú điện thoại để tìm cho ra đúng chỗ đó và, sau ba tuần lễ ròng lấy can đảm, cuối cùng vào một tối thứ Ba tháng Sáu oi nồng cô cũng lên tàu điện ngầm rồi sau đó đi bộ đến cửa trước quán Nick’s Bar and Lounge.
Ngồi xuống sau khi tìm được một trong những chỗ cuối cùng tít nơi góc hậu, cô thấy cũng bõ công. Quán bar này cũng giống như cả trăm quán tương tự dàn hàng trên ộ 2, nhưng đám đông ở đây hỗn tạp lạ thường. Thay vì đám sinh viên vừa mới tốt nghiệp như thường lệ ở Khu Thượng Đông – những kẻ thích nốc bia sau khi nới lỏng chiếc cà vạt hiệu Brookes Brothers mới tinh – đám đông tối nay có vẻ là một sự pha trộn kỳ quặc giữa những sinh viên Đại học New York đã phải lặn lội cả quãng đường dài tới khu phố trên với các đôi ở lứa tuổi ba mươi tay trong tay nhắp rượu martini và những đám hippi đi giày Converse hiếm khi thấy tụ tập đông như vậy bên ngoài East Village hoặc Brooklyn. Quán Nick nhanh chóng chật như nêm, ghế nào cũng có người và chắc phải đến năm sáu chục người nữa đứng đằng sau dãy bàn, tất cả đến đây chỉ vì một lý do duy nhất. Brooke bị sốc khi nhận thấy cái cảm giác mà cô đã trải nghiệm khi nghe Julian đàn hát một tháng trước ở Rue B lúc này chẳng còn là độc nhất vô nhị. Nhiều người biết đến anh và sẵn sàng đi từ khắp mọi ngả trong thành phố tới xem anh biểu diễn.
Khi Julian ngồi vào ghế của anh bên cạnh chiếc dương cầm và bắt đầu thử vài nốt để chắc chắn tiếng đàn chuẩn, đám đông nhao nhao vì háo hức. Khi anh bắt đầu chơi, cả phòng dường như lắng đọng vào nhịp điệu, một vài người đung đưa nhè nhẹ, số khác thì nhắm mắt lại, và tất cả nhoài người về phía sân khấu. Brooke, người chưa từng biết thế nào là đắm chìm trong âm nhạc, cảm thấy toàn thân mình thư thái. Cho dù đó là rượu vang đỏ hay tiếng ngân đầy mê đắm hoặc cảm giác lạ lẫm khi ở trong một đám đông rặt những người xa lạ thì Brooke cũng đâm ra nghiện mất rồi.
Suốt những ngày hè còn lại, tối thứ Ba nào cô cũng đến quán Nick. Cô chẳng bao giờ mời ai khác đi cùng; khi các bạn cùng phòng ép cô phải khai xem tuần nào cô cũng đi đâu thì cô bịa ra một câu chuyện đáng tin về một câu lạc bộ sách và những người bạn cùng trường. Chỉ cần đến đó, xem anh biểu diễn và nghe nhạc là cô bắt đầu cảm thấy như mình đã quen biết anh. Trước đó âm nhạc chỉ là một nốt phụ, chẳng hơn gì một trò tiêu khiển trong lúc chạy trên máy tập, một bài hát để nhảy vui vui trong bữa tiệc, một cách giết thời gian khi lái xe đường trường. Nhưng thứ này thì sao? Thứ này thật kỳ diệu. Thậm chí dù không một lời chào hỏi, âm nhạc của Julian có thể ảnh hưởng đến tâm trạng của cô và thay đổi suy nghĩ của cô, làm cho cô cảm nhận được những điều hoàn toàn mới lạ khác xa với nếp sống đơn điệu hằng ngày của cô.
Trước khi có những tối một mình trong quán Nick đó, thời gian của cô tuần nào cũng giống tuần nào: trước hết là công việc, rồi mới đến những giờ vui vẻ rất hiếm hoi với cùng một nhóm bạn đại học và cùng một đám bạn chung phòng hay thóc mách kia. Cô cũng khá vui, nhưng thỉnh thoảng cũng cảm thấy nặng ngột ngạt. Giờ đây Julian choán toàn bộ tâm trí cô, và cái thực tế là hai bên chỉ mới thoáng nhìn nhau cũng chẳng làm cô mảy may bận tâm. Chỉ cần xem anh biểu diễn là cô mãn nguyện rồi. Anh cũng đi vòng quanh – cô thấy có vẻ hơi miễn cưỡng một chút – sau mỗi lần biểu diễn, bắt tay và khiêm tốn nhận những lời khen mà mọi người không ngớt tuôn ra với anh, nhưng Brooke chưa lần nào nghĩ đến việc tới gần anh.
Hai tuần sau sự kiện 11 tháng Chín năm 2001, khi Nola thuyết phục cô đến buổi hẹn hò mai mối với một người cô nàng gặp ở một buổi họp mặt tại nơi làm việc. Tất cả bạn bè của họ hoặc đã rời thành phố New York về với gia đình hoặc nhen nhóm lại quan hệ với người yêu cũ, và thành phố vẫn bị phong tỏa bởi làn khói cay sè và bầu không khí rất đỗi tang thương. Nola lẩn đi với gã bồ mới nào đó, hầu như đêm nào cũng qua đêm ở nhà gã, còn Brooke cảm thấy bất an và cô đơn.
“Một buổi hẹn hò mai mối ư? Thật hả?” Brooke hỏi, không rời mắt khỏi máy tính.
Một tối lúc họ cùng ngồi trên sofa xem chương trình SNU (4), Nola bảo, “Hắn rất ngọt ngào nhé. Hắn sẽ không phải là người chồng tương lai của cậu, nhưng hắn siêu tốt bụng, và cũng khá điển trai, và hắn sẽ đưa cậu đến chỗ nào đó vui vẻ. Nếu cậu thôi cái kiểu bà cô lãnh cảm ấy đi thì có khi hắn sẽ tình tự với cậu không biết chừng.”
(4) Tức ‘Saturday Night Live’: chương trình tạp kỹ và hài kịch ngắn tối thứ Bảy trên kênh NBC.
“Nola!”
“Tớ chỉ nói vậy thôi. Cậu biết là cậu có thể tận dụng cơ hội đó. Và nhân tiện nói luôn là tắm rửa và sửa móng tay cũng đâu có làm cậu chết được.”
Brooke xòe tay ra, và lần đầu tiên cô nhận thấy những móng tay bị cắn cùn và những lớp da xơ xác. Trông chúng thật thô thiển. “Anh ta là thế nào, một trong những chàng đã bị cậu đá hả?” cô hỏi bạn.
Nola khịt mũi.
“Biết ngay mà! Cậu ngủ nghê với anh ta và giờ cậu đẩy anh ta sang cho tớ chứ gì. Tởm thế, Nola. Và phải nói rằng tớ ngạc nhiên đấy. Tớ tưởng ngay cả cậu cũng không đến nỗi tồi như vậy.”
“Im cái mồm cậu đi,” Nola nói mà mắt long lên. “Tớ mới gặp hắn vài tuần trước trong một buổi gây quỹ ở chỗ làm; hắn đến đó cùng với một đồng nghiệp của tớ.”
“Thế mà cậu đã ngủ với anh ta.”
“Không! Có lẽ tớ đã ngủ với tay đồng nghiệp của tớ…”
Brooke rên lên và che mắt lại.
“… nhưng đó đâu phải vấn đề chính yếu. Tớ nhớ ra rằng bạn của tay đó điển trai và chưa vợ. Một sinh viên trường y, tớ nghĩ thế, nhưng nói thật nhé, cậu không ở vào vị thế để mà kỳ thị phân biệt những thứ như thế đâu. Chỉ cần hắn còn thở được…”
“Cảm ơn bạn nhé.”
“Tức là cậu sẽ đi chứ?”
Brooke giật lại chiếc điều khiển từ xa. “Nếu đi mà làm cậu im miệng ngay bây giờ thì tớ sẽ xem xét,” cô nói.
Bốn ngày sau Brooke đã thấy mình ngồi ở một quán cà phê kiểu Ý ngoài trời trên phố MacDougal. Trent, đúng như Nola đã hứa hẹn, là một anh chàng rất dễ thương. Khá điển trai, cực kỳ lịch sự, diện bảnh, và tẻ như cơm nguội. Cuộc chuyện trò của họ còn tẻ nhạt hơn món mì ống với xốt cà chua và rau thơm mà anh ta gọi cho cả hai, và sự sốt sắng của anh ta làm cô những muốn chọc cái nĩa. Nhưng vì lý do gì mà cô không biết, khi anh ta ngỏ lời rủ đi quán bar gần đó thì cô lại đồng ý.
“Thật chứ?” anh ta hỏi lại, cô cảm thấy giọng anh ta có vẻ hơi ngạc nhiên.
“Thật đấy, tại sao lại không?” Và cô thực lòng nghĩ sao lại không kia chứ? Dường như cô chẳng có kế hoạch nào khác, thậm chí cũng không mong gì sẽ xem phim với Nola vào khuya hôm đó. Ngày hôm sau cô phải bắt đầu thảo bài luận dài mười lăm trang sẽ đến hạn phải nộp trong hai tuần nữa; ngoài việc đó ra, kế hoạch thú vị nhất của cô là giặt giũ, đến phòng tập thể dục và làm việc bốn tiếng ở tiệm cà phê. Vậy cô phải vội về nhà làm chi?
“Hay quá, tôi đã có ý sẵn một nơi rồi.” Trent khăng khăng lịch sự đòi trả tiền và cuối cùng họ lên đường.
Họ mới đi bộ được hai dãy phố thì Trent cắt ngang đường cô và mở một cánh cửa dẫn vào quán bar NYU nổi tiếng phóng túng. Có lẽ đó là nơi mà bất kỳ người đàn ông nào không âm mưu cho bạn hẹn hò sử dụng thuốc kích thích đều không nên chọn lựa, nhưng Brooke hài lòng vì họ đến một nơi đủ ồn ào để khỏi phải chuyện trò. Cô sẽ uống một cốc bia, có lẽ là hai cốc, nghe vài bản nhạc hay từ thập kỷ 90 trên máy hát tự động, và ngồi dưới tấm màn che phủ của bóng đêm – một mình.
Mất mấy giây mắt cô mới thích nghi được, mặc dù cô nhận ngay ra giọng Julian. Cuối cùng khi cô chú mục lên sân khấu phía trước, cô nhìn mà không tin vào mắt mình: anh ngồi đó trong tư thế quen thuộc bên cạnh chiếc dương cầm, những ngón tay đang lướt và miệng kề sát vào micro, hát bài hát cô thích nhất trong các sáng tác của anh:
… Người mẹ ngồi trong căn phòng, đơn độc
Đơn độc trong ngôi nhà như bia mộ lặng câm
Trên vương miện, người cha kiểm từng viên ngọcNỗi đau mất mát được đong đếm bằng tiền bạc…
Cô không biết chắc mình đã đứng chôn chân bao lâu ở cửa, ngay lập tức và hoàn toàn mê mải chăm chú vào tiết mục của anh, nhưng cũng đủ lâu để Trent đưa ra lời nhận xét.
“Anh ta chơi khá hay phải không? Đi nào, tôi thấy đôi ghế trống ở đằng kia.”
Anh ta dắt tay cô và Brooke để mình bị kéo đi qua đám đông. Cô ngồi lên chiếc ghế mà Trent chỉ cho và chỉ vừa kịp đặt chiếc xắc của mình lên bàn thì bài hát kết thúc và Julian thông báo anh sẽ nghỉ giải lao. Cô láng máng nhận ra là Trent đang nói với mình, nhưng giữa tiếng ồn trong quán bar và lòng vọng tưởng mà cô hướng về nơi có Julian, cô chẳng nghe thấy những gì Trent đang nói.
Việc đó xảy ra nhanh đến nỗi cô chưa kịp hiểu ra. Một giây trước Julian còn đang tháo móc chiếc harmonica từ cái giá phía trên đàn dương cầm, giây sau đó anh đã đứng ngay trước bàn của họ, tươi cười. Như mọi khi, anh mặc áo phông trắng giản dị, quần jean cùng với chiếc mũ len, chiếc này màu cà tím. Mặt và trán anh lấp loáng ánh mồ hôi.
“Này cậu, mừng là cậu tới được,” Julian vừa nói vừa đập lên vai Trent.
“Ừ, em cũng thế. Có vẻ như bọn này lỡ mất hiệp đầu rồi.” Một người nào đó vừa rời khỏi chiếc ghế ở bàn bên, và Trent kéo nó cho Julian. “Ngồi tí đã.”
Julian ngập ngừng, liếc nhìn sang Brooke với nụ cười phơn phớt, rồi ngồi xuống.“Julian Alter,” anh tự giới thiệu và chìa tay ra bắt.
Brooke định đáp lời thì Trent đã cướp lời cô. “Chúa ơi, tôi ngớ ngẩn tệ! Ai dạy tôi cách cư xử thế không biết? Julian, đây là…, à ờ, đây là Brooke. Brooke
“Greene,” cô đế vào, lấy làm mừng vì Trent đã bộc lộ cho Julian thấy họ quen nhau sơ sài đến mức nào.
Chương 3
Cô và Julian bắt tay nhau, một cử chỉ dường như lúng túng vụng về trong một quán bar sinh viên đông nghẹt, nhưng Brooke chỉ cảm thấy háo hức. Cô săm soi Julian cận cảnh hơn trong khi anh và Trent đang kể chuyện tếu về một anh chàng nào đó mà cả hai cùng biết. Chắc hẳn Julian chỉ hơn cô vài tuổi, nhưng có gì đó làm anh trông hiểu biết hơn, trải đời hơn, dù Brooke không thể gọi rõ ra đó là cái gì. Mũi anh quá cao và cằm anh hơi lẹm một chút, và nước da nhợt nhạt của anh lúc này càng dễ nhận thấy hơn vào cuối mùa hè khi ai nấy đều đã có đủ lượng vitamin D. Đôi mắt anh, dù xanh màu lá cây nhưng không có gì nổi bật, thậm chí còn u uẩn, và những nếp nhăn hiện mờ mờ quanh quầng mắt khi anh mỉm cười. Nếu trước đó cô chưa nghe anh hát nhiều lần đến thế, chưa thấy anh hất đầu ra phía sau và cất tiếng hát bằng chất giọng khỏe và truyền cảm đến thế – nếu cô chỉ tình cờ gặp anh như thế này, đội mũ len và cầm cốc bia trong một quán bar ồn ào không tên tuổi – thì có lẽ cô chẳng thèm nhìn thêm lần nữa mà cũng chẳng thấy anh hấp dẫn một mảy may nào. Nhưng tối nay cô gần như nghẹn thở.
Hai người đàn ông nói chuyện với nhau vài phút trong lúc Brooke ngồi ngả ra sau quan sát. Chính Julian, chứ không phải Trent, là người nhận ra Brooke chưa có đồ uống.
“Tôi mời các bạn một cốc bia nhé?” anh đề nghị rồi nhìn quanh tìm cô phục vụ.
Trent đứng phắt dậy. “Để em đi lấy. Chúng em vừa mới đến đây và chưa có ai đến phục vụ cả. Brooke, cô muốn uống gì nào?”
Cô lẩm nhẩm nói tên một loại bia đầu tiên vừa nhớ ra, còn Julian thì giơ một vật trông giống như một cốc nước đã cạn lên. “Cậu lấy cho mình một Sprite được không?”
Khi Trent rời chỗ, Brooke hoảng cuống cả lên. Họ sẽ nói chuyện gì mới được chứ? Nói gì cũng được, cô tự nhủ, gì cũng được trừ chuyện cô đã lẽo đẽo theo anh khắp thành phố này.
Julian quay về phía cô. “Trent là anh chàng tốt bụng đấy chứ?”
Brooke nhún vai. “Ờ, anh ấy có vẻ tử tế. Chúng tôi vừa mới quen nhau tối nay. Tôi chả biết gì mấy về anh ấy.”
“À, ra là một cuộc hẹn hò qua mai mối đầy thú vị. Cô nghĩ cô có đi chơi với cậu ấy nữa không?”
“Không,” Brooke nói thẳng băng. Cô chắc rằng cô đang choáng; cô hầu như chẳng biết mình đang nói những gì nữa.
Julian bật cười và Brooke cũng cười phụ họa anh. “Tại sao không?” anh hỏi.
Brooke nhún vai. “Chẳng có lý do gì đặc biệt cả. Anh ấy có vẻ cực kỳ dễ mến. Phải cái hơi tẻ nhạt một chút.” Cô không định nói vậy, nhưng cô chả còn nghĩ ngợi được gì nữa.
Khuôn mặt Julian rạng lên một nụ cười, nụ cười tươi tắn và sáng rỡ đến mức Brooke quên cả cảm giác lúng túng ngượng ngập. “Người mà cô kêu là buồn tẻ chính là cậu em họ tôi đấy.” Anh cười lớn.
“Ôi Chúa ơi, tôi không định nói thế. Anh ấy có vẻ hết sức, ờ, tuyệt lắm. Chỉ là…” Cô càng lắp bắp thì anh càng tỏ ra khoái chí hơn.
“Ồ, thôi mà.” Anh ngắt lời cô, đặt bàn tay rộng ấm áp lên cánh tay cô. “Cô nói đúng, hoàn toàn, tuyệt đối đúng. Cậu ấy thật dễ mến… thực tình mà nói, tốt bụng hết mực… nhưng chưa ai coi cậu ấy là linh hồn của bữa tiệc cả.”
Có một khoảng lặng trong lúc Brooke cố vắt óc nghĩ ra điều gì hợp cảnh để nói tiếp. Nói gì cũng chả mấy quan trọng, chỉ cógiấu kín được tình trạng mình là người hâm mộ anh.
“Trước đây tôi đã xem anh biểu diễn,” cô tuyên bố, rồi vội đưa tay lên che miệng vì ngạc nhiên với chính mình.
Anh săm soi nhìn cô. “Ô thế à? Ở đâu vậy?”
“Tối thứ Ba hằng tuần ở Nick.” Mọi cơ hội để đừng tỏ rõ mình là kẻ đeo bám đã tan tành mây khói.
“Thật hả?” Anh có vẻ bối rối nhưng hài lòng.
Cô gật đầu.
“Tại sao?”
Brooke nhanh chóng cân nhắc việc nói dối và bảo anh rằng bạn thân của cô sống ở gần đó hoặc tuần nào cô cũng đến đó cùng một nhóm bạn vào giờ khuyến mãi, nhưng vì lý do gì đó mà chính cô không hiểu nổi, cô thành thật một cách tuyệt đối. “Tôi đã ngồi ở Rue B vào cái đêm nhóm tứ tấu jazz hủy lịch diễn và anh đã biểu diễn thay mà không định trước. Tôi nghĩ anh, ờ, tôi nghĩ sô diễn đó quá tuyệt, nên tôi đã hỏi nhân viên quầy bar để biết tên anh và phát hiện ra là anh có sô diễn thường xuyên. Giờ tôi cố gắng đến xem bất cứ lúc nào tôi có thể.” Cô tự bắt mình nhìn lên, tin chắc anh đang nhìn cô kinh hoàng, có thể còn khiếp hãi là khác, nhưng Julian chẳng lộ vẻ gì, và sự yên lặng của anh đã làm cô càng thấy quyết tâm phải lấp đầy nó.
“Chính vì thế mà thật kỳ lạ là Trent lại đưa tôi tới đây tối nay… thật là một sự trùng hợp kỳ lạ…” Cô để lời mình chìm dần trong lúng túng và lòng tràn ngập nỗi tiếc nuối tức thì về tất cả những gì cô vừa tiết lộ.
Khi cô lấy đủ dũng khí để nhìn anh một lần nữa, Julian đang lắc lắc đầu.
“Hẳn là anh sởn tóc gáy lên rồi,” cô nói với điệu cười căng thẳng. “Tôi hứa là tôi sẽ không bao giờ xuất hiện ở căn hộ của anh cũng như nơi anh làm việc chính. Tôi không có ý nói là tôi biết căn hộ của anh ở đâu hoặc giả anh có một công việc chính đâu đấy nhé. Dĩ nhiên, tôi chắc chắn rằng âm nhạc là công việc chính của anh, công việc thực thụ của anh, vì nó hẳn…”
Bàn tay anh đặt lại lên cánh tay cô, và Julian nhìn vào mắt cô. “Tuần nào tôi cũng thấy cô ở đó,” anh nói.
“Hử?”
Anh gật đầu và một lần nữa mỉm cười, lần này lắc đầu nhè nhẹ như muốn nói, Không thể tin được là tôi lại thú nhận điều này. “Ờ. Cô luôn ngồi ở góc xa tít trong cùng, gần bàn bi-a, và lúc nào cô cũng chỉ một mình. Tuần trước cô mặc chiếc đầm xanh nước biển có họa tiết thêu kiểu như hoa hoặc gì đó màu trắng ở gấu, và cô đang đọc một cuốn tạp chí nhưng cô gạt nó sang bên ngay khi tôi vừa tới.”
Brooke nhớ lại chiếc đầm mùa hè, món quà mẹ cô tặng vào bữa liên hoan tốt nghiệp của cô. Mới bốn tháng trước đây trông nó còn rất thời trang; vậy mà giờ đây mặc nó đi đây đi đó trên phố đã làm cô cảm thấy mình trông quá mộc mạc trẻ con. Màu xanh biển làm mái tóc đỏ của cô thêm bốc lửa, thế cũng hay, nhưng nó chẳng tôn gì thêm cho đôi hông hoặc cặp chân của cô cả. Mải cố gắng nhớ xem dáng vẻ mình đêm đó ra sao, cô không nhận thấy Trent đã trở lại bàn tận đến lúc anh ta đẩy chai Bud Light về phía cô.
“Tôi bỏ lỡ mất những gì rồi?” anh ta hỏi rồi thả người xuống ghế của mình. “Đêm nay đông nghẹt. Julian ạ, anh thật biết cách kéo họ tới chật kín.”
Julian cụng cốc của anh vào chai của Trent và uống một hơi dài. “Cảm ơn, bạn thân. Tôi sẽ quay lại với các bạn sau sô diễn.” Anh gật đầu với Brooke với cái nhìn mà cô cả quyết – và cầu mong – là đầy ngụ ý rồi đi về phía sân khấu.
Khi đó cô không biết rằng anh sẽ xin phép Trent được gọi điện cho cô, hoặc cuộc chuyện trò đầu tiên qua điện thoại của họ làm cô cảm thấy mình bay bổng, hay buổi hẹn hò đầu tiên của họ là đêm quyết trong cuộc đời cô. Cô không bao giờ đoán trước được rằng chưa đến ba tuần sau họ sẽ cùng nhau lên giường sau những cuộc hẹn hò dài kỷ lục mà cô những muốn chẳng bao giờ dứt, hoặc họ sẽ tích cóp tiền bạc trong gần hai năm trời để cùng nhau lái xe đi khắp các miền đất nước hay đính hôn trong lúc nghe nhạc sống tại một quán bar nhỏ rẻ tiền ở West Village với một chiếc nhẫn vàng trơn mà anh đã tự trả tiền mua, hay là làm đám cưới ở ngôi nhà lộng lẫy bên bờ biển Hamptons của cha mẹ anh vì thực ra họ chứng tỏ được điều gì nếu từ chối một chỗ như vậy? Tất thảy những gì cô biết chắc chắn tối hôm đó là cô muốn gặp lại anh đến chết đi được, rằng dù có phải xuống vực sâu hay vào địa ngục đi chăng nữa thì tối ngày kia cô cũng sẽ đến quán Nick, và rằng dù có cố gắng đến thế nào chăng nữa cô cũng không thể tắt được nụ cười.
2
Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ
Brooke bước vào hành lang khoa sản ở Trung tâm Y tếLangone thuộc Đại học New York và kéo rèm che lại. Tám bệnh nhân đã xong, còn ba bệnh nhân nữa phải kiểm tra. Cô lướt nhanh qua những bệnh án còn lại: một cô bé vị thành niên có bầu, một phụ nữ có thai bị tiểu đường trong thời kỳ thai nghén, và một phụ nữ lần đầu làm mẹ đang vất vả cố cho bú hai đứa trẻ sinh đôi mới sinh bú. Cô nhìn đồng hồ và nhẩm tính: nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ như dự kiến thì cô có thể ra về đúng giờ đã định.
“Chị Alter à?” Giọng bệnh nhân của cô cất lên từ sau tấm rèm.
Brooke bước trở vào trong
“Gì thế, Alisha?” Brooke quấn cho chiếc áo blu trắng của mình chặt quanh ngực và tự hỏi làm sao mà người phụ nữ này lại không run lẩy bẩy trong chiếc váy mỏng như giấy của bệnh viện.
Alisha vặn vẹo đôi tay, nhìn chăm chăm vào vạt áo bệnh nhân của mình và nói, “Chị nhớ là chị đã bảo rằng dùng các loại vitamin trước khi sinh quan trọng đến mức nào không? Đại loại thế, cho dù là từ đầu đến giờ em đã không dùng?”
Brooke gật đầu. “Chị biết chẳng thể thấy mặt tốt của bệnh cúm nặng,” cô vừa nói vừa đi tới giường của cô gái, “nhưng ít nhất chứng bệnh đó cũng đưa em vào đây và cho chúng ta cơ hội khiến em bắt đầu dùng các loại vitamin và thảo luận kế hoạch cho những ngày còn lại trong thai kỳ của em.”
“Ờ, vậy về việc đó thì… thế có, ừm, đại loại là chị có mẫu thuốc miễn phí nào có thể cho em dùng thử không?” Alisha tránh nhìn vào mắt cô.
“Ồ, chị nghĩ việc đó không thành vấn đề,” Brooke trả lời, mỉm cười trấn an bệnh nhân nhưng tự giận mình vì đã bỏ qua không hỏi xem Alisha có thể trả nổi tiền mua thuốc không. “Xem nào, em còn mười sáu tuần nữa… Chị sẽ để đủ liều dùng cho em ở phòng y tá, được không?”
Alisha có vẻ yên tâm. “Cảm ơn,” cô khẽ nói.
Brooke siết chặt cánh tay cô gái rồi bước ra ngoài tấm rèm. Sau khi lấy vitamin cho Alisha, cô đi như chạy về căn phòng nghỉ ảm đạm của các bác sĩ dinh dưỡng ở tầng năm, một khối lập phương không cửa sổ với một chiếc bàn mica bốn chỗ ngồi, một tủ lạnh mini và một bức tường đặt những ngăn tủ khóa. Nếu vội thì cô có thể ngốn một bữa qua loa và một tách cà phê mà vẫn có thể về kịp giờ hẹn ca khám tiếp theo. Thở phào vì thấy căn buồng không có ai và bình cà phê đầy ắp, Brooke kéo một hộp nhựa đựng những miếng táo cắt sẵn từ ngăn tủ của mình ra rồi bắt đầu phết những gói nhỏ bơ lạc chiết xuất hoàn toàn tự nhiên lên đó. Đúng lúc cô đang nhồm nhoàm đầy miệng thì chuông điện thoại di động của cô r
“Mọi việc ổn cả chứ ạ?” cô hỏi mà không chào. Giọng cô nghèn nghẹt vì thức ăn.
Mẹ cô ngập ngừng. “Tất nhiên rồi, con yêu. Sao lại không ổn được?”
“Là vì, mẹ à, ở đây bận lắm, và mẹ biết là con không thích nói chuyện khi làm việc rồi đây.” Đường dây làm lãng đi mất nửa cuối câu nói của cô.
“Gì thế? Mẹ không nghe được con.”
Brooke thở dài. “Không có gì đâu, mẹ đừng bận tâm. Có việc gì thế ạ?” Cô mường tượng ra mẹ mình mặc quần kaki và đi đôi giày bệt hiệu Naturalizer đặc trưng, những thứ mà bà đã vận suốt cả cuộc đời, đang đi tới đi lui trong phòng bếp tại căn hộ của bà ở Philadelphia. Mặc dù đã lấp đầy ngày tháng của mình bằng một loạt những câu lạc bộ sách, câu lạc bộ sân khấu và những công việc tình nguyện khác, nhưng dường như mẹ cô vẫn có thừa thãi thời gian, mà phần lớn là dành cho việc gọi điện hỏi con cái xem tại sao họ không gọi cho bà. Tuy rằng mẹ cô hưởng thời gian hưu trí là điều hay, nhưng trước đó khi còn đi dạy học từ bảy giờ sáng đến ba giờ chiều hằng ngày thì bà đỡ ngầy ngà với Brooke hơn nhiều.
“Chờ một phút thôi nhé…” Giọng mẹ cô chìm xuống và trong giây lát giọng Oprah trước đó vẫn đang vọng đến át cả giọng bà cũng đột ngột im bặt. “Được rồi đây.”
“Chà, mẹ tắt cả Oprah (1) đi cơ à. Hẳn là việc quan trọng lắm đây.”
(1) Tức ‘Oprah Wingrey Show’, chương trình trò chuyện trên truyền hình nổi tiếng của Mỹ. Người dẫn Oprah Wingrey (1954) là một nữ diễn viên, đạo diễn và nhà từ thiện.
“Chấy lại đang phỏng vấn Jennifer Aniston lần nữa. Mẹ không thể nghe thêm được nữa. Cô ta đã quên Brad rồi. Cô ta thích thú vì sắp sang tuổi bốn mươi gì gì đó. Cô ta chưa bao giờ thấy vui như thế. Biết rồi, khổ lắm. Tại sao chúng ta cứ phải nói mãi về chuyện đó thế?”
Brooke phì cười. “Nghe này, mẹ ơi, con gọi lại cho mẹ tối nay được không? Con chỉ có mười lăm phút nghỉ giữa giờ thôi.”
“Được chứ, con yêu à. Lúc đó nhắc mẹ kể với con về anh trai con nhé.”
“Có chuyện gì không hay với Randy ạ?”
“Làm gì có gì không hay với Randy… cuối cùng thì cũng có cái gì đó hay với nó ấy chứ. Nhưng mẹ biết là con đang bận, thôi để nói sau vậy.”
“Kìa mẹ…”
“Mẹ thật vô ý khi gọi cho con giữa ca trực. Thậm chí mẹ không…”
Brooke thở dài đánh sượt và cười thầm. “Mẹ muốn con van xin mẹ đấy à?”
“Con yêu ơi, nếu đã không đúng lúc tức là không đúng lúc. Hãy nói chuyện này khi con có nhiều thời gian hơn.”
“Thôi được, mẹ ạ. Con van mẹ hãy kể cho con về Randy. Đúng hơn là nài nỉ đấy. Hãy kể cho con xem có chuyện gì với anh ấy thế. Đi mẹ.”
“Được rồi, nếu con cứ khăng khăng muốn vậy… thì đây, mẹ sẽ kể cho con. Randy và Michelle đang có thai. Đó, là con buộc mẹ phải nói ra đây
“Họ đang cái gì?”
“Có thai, con yêu ạ. Sắp có con. Chị Michelle mới ở giai đoạn đầu – mới có bảy tuần, mẹ nghĩ thế – mà bác sĩ của chúng nó nói rằng mọi cái có vẻ đều ổn. Có tuyệt không cơ chứ?”
Brooke lại nghe tiếng vô tuyến vọng đến từ đầu dây đằng kia, lần này khẽ hơn, nhưng cô vẫn nghe được tiếng cười không lẫn vào đâu được của Oprah.
“Tuyệt á?” Brooke vừa hỏi vừa đặt con dao nhựa xuống. “Con không chắc đó là từ ngữ con định dùng. Họ vừa mới hẹn hò được sáu tháng thôi mà. Họ còn chưa kết hôn. Thậm chí họ còn chưa chung sống với nhau.”
“Con trở nên đoan trang như thế từ khi nào vậy, con yêu của mẹ?” bà Green vừa hỏi vừa tặc lưỡi. “Nếu con có nói với mẹ rằng đứa con gái ba mươi tuổi, lịch sự, được học hành tử tế của mẹ lại là một người cổ hủ như vậy thì mẹ cũng chẳng thể tin vào điều đó được.”
“Mẹ à, con không chắc từ ‘cổ hủ’ là chính xác để chỉ những người cố gắng hạn chế sinh con cái trong những mối quan hệ tiền hôn nhân đâu nhé.”
“Ôi, Brooke, hãy bớt căng thẳng đi một chút. Không phải ai cũng có thể – hoặc nên – kết hôn khi hai mươi lăm tuổi. Randy ba mươi tám và Michelle gần bốn mươi rồi. Có thật con nghĩ rằng thời này vẫn còn có người quan tâm đến mấy thứ giấy tờ hôn thú vớ vẩn đó không đấy? Bây giờ tất cả chúng ta đều phải biết quá rõ rằng điều đó hầu như chẳng nghĩa lý gì nữa.”
Đầu óc Brooke xoay quanh một loạt ý nghĩ: vụ ly dị của cha mẹ cô gần mười năm trước đây, khi cha bỏ mẹ để đi theo cô y tá của trường trung học nơi họ cùng dạy học; cái cách mà mẹ ấn cô ngồi xuống sau khi cô đính hôn với Julian và nói vói cô rằng phụ nữ ngày nay có thể hoàn toàn hạnh phúc mà không cần kết hôn; nỗi niềm mong mỏi thiết thaẹ cô rằng Brooke nên chờ đến khi cô có sự nghiệp vững vàng rồi hãy bắt đầu cuộc sống gia đình. Thật thú vị khi thấy dường như Randy hành động theo những đường lối chỉ đạo khác hẳn.
“Con có biết mẹ thấy buồn cười nhất là gì không?” mẹ cô hỏi không bỏ lỡ lấy một giây. “Ý nghĩ rằng có thể, chỉ là có thể thôi nhé, cha con và Cynthia cũng sẽ có một đứa con. Con thấy đấy, xét ra thì cô ta hãy còn trẻ thế. Vậy thì con sẽ có một người anh trai và một ông bố đang chờ sinh con. Thật đấy, Brooke, có bao nhiêu cô gái có thể nói thế được nhỉ?”
“Mẹ…”
“Nghiêm túc mà nói, con yêu ạ, con không nghĩ khá là trớ trêu sao – ờ, mẹ không chắc từ ‘trớ trêu’ là thích hợp, nhưng chuyện này thật trùng hợp một cách ngẫu nhiên – khi vợ của cha con còn trẻ hơn Michelle một tuổi.”
“Mẹ. Xin mẹ thôi đi. Mẹ biết thừa rằng bố và Cynthia không định có con cái gì cả – bố sắp sáu mươi lăm tuổi rổi, vì Chúa, và dì ấy thậm chí còn không muốn…” Brooke ngừng lời, cười thầm và lắc đầu. “Mẹ biết không, có thể mẹ nói đúng đấy, bố và Cynthia sẽ theo cái mốt đó. Rồi Randy và bố có thể sẽ bị trói buộc với thời gian biểu bú mớm và thay tã. Thế mới hay chứ.”
Cô chờ mẹ phản ứng như mong đợi, và cô không phải thất vọng.
Mẹ cô khịt mũi. “Thôi nào. Hồi hai con còn ẵm ngửa, con người ấy đến gần nhất với một chiếc tã là khi ông ấy xem quảng cáo tã Pampers. Đàn ông không thay đổi đâu, Brooke à. Cha con sẽ chẳng bao giờ động tay động chân làm gì với đứa trẻ đó cho đến khi nó đủ tuổi bộc lộ quan điểm chính trị. Nhưng mẹ nghĩ anh trai con thì còn hy vọng.”
“Vâng, thì cứ hy vọng là thế. Tối nay con sẽ gọi cho anh ấy để chúc mừng, nhưng con phải…”
“Đừng!” bà Green kêu thất thanh. “Mẹ con mình chưa hề nói chuyện này đấy nhé. Mẹ đã hứa là sẽ không kể với con, vậy con hãy làm ra vẻ ngạc nhiên khi anh con gọi cho con đi.”
Brooke thở dài và cười. “Mẹ ơi, mẹ mới đáng tín cậy làm sao! Thế nghĩa là mẹ cũng kể cho Randy mọi chuyện mặc dù con đã nói dứt khoát với mẹ rằng đó là bí mật phải không?”
“Tất nhiên là không. Chỉ chuyện gì hay mẹ mới nói với nó thôi.”
“Cảm ơn mẹ.”
“Mẹ yêu con, cưng à. Và nhớ phải giữ bí mật chuyện này đấy nhẹ.”
“Con hứa. Mẹ hãy tin lời con đi.”
Brooke cúp máy và nhìn đồng hồ: năm giờ kém năm. Chỉ còn bốn phút là đến ca khám tư vấn sắp tới của cô. Cô biết rằng mình không nên gọi điện ngay lúc đó, nhưng quả thật cô không thể đợi được.
Ngay khi vừa bấm số, cô sực nhớ ra rằng Randy có thể ở lại trường sau giờ học để huấn luyện đội bóng đá nam, nhưng anh nhấc máy ngay hồi chuông đầu tiên. “Kìa, Brookie. Có chuyện gì thế?”
“Có chuyện gì với em á? Chả có cái quái gì hết. Có chuyện gì với anh thì đúng hơn.”
“Chúa ơi. Anh chỉ vừa mới bảo mẹ khoảng tám phút trước, và mẹ đã thề là sẽ để anh tự kể với em cơ đấy.”
“Thế à, thì em cũng đã thề rằng em sẽ không nói với anh là mẹ nói với em, thôi kệ. Chúc mừng, anh cả ơi!”
“Cảm ơn. bọn anh đều khá hào hứng. Cũng hơi hoảng – điều đó xảy ra nhanh hơn dự kiến của cả hai đứa bọn anh nhiều – nhưng mà vui lắm.”
Brooke cảm thấy mình nín thở. “Anh nói ‘nhanh hơn’ là sao? Anh đã trù tính trước chuyện này hả?”
Randy cười to. Cô nghe thấy anh nói, “Chờ tôi một phút,” với ai đó ở đầu dây đằng kia, chắc là với một học sinh, và rồi anh nói, “Ừ, cô ấy ngưng thuốc ngừa thai tháng trước. Bác sĩ nói rằng phải mất ít nhất vài tháng để chu kỳ của cô ấy trở lại bình thường rồi mới có thể nói rằng liệu có khả năng mang thai được hay không do tuổi tác của cô ấy. Bọn anh không hề nghĩ rằng nó lại xảy ra ngay tức thì…”
Thật kỳ cục khi nghe anh trai cô – một người tự nhận mình là trai độc thân, trang hoàng nhà mình bằng những chiếc cúp bóng đá cũ và dành nhiều diện tích cho bàn bi-a hơn là cho căn bếp – nói về chu kỳ kinh nguyệt và thuốc ngừa thai và những ý kiến của bác sĩ. Đặc biệt là khi mọi lời dự đoán đều dồn về phía Brooke và Julian là những ứng cử viên nặng ký nhất có thể đưa ra một tuyên bố quan trọng…
“Chà. Em biết nói gì thêm nữa? Hết sảy.” Đó quả thật là tất cả những gì cô có thể nói; cô những lo rằng Randy có thể nghe thấy giọng cô nghèn nghẹn và sẽ hiểu sai đi.
Cô mừng cho Randy đến nỗi cô cảm thấy nghẹn ngào trong cổ. Tất nhiên, anh đã xoay xở để tự chăm sóc mình rất tốt, và anh luôn có vẻ khá hạnh phúc, nhưng Brooke cứ lo rằng anh quá cô đơn. Anh sống ở vùng ngoại ô, xung quanh là các gia đình, và tất cả bạn bè thời đại học của anh đã có con cái từ đời nào rồi. Cô và Randy chưa thật gần gũi đủ để tâm sự những chuyện này, nhưng cô đã luôn băn khoăn không hiểu anh có thích sống như thế không, anh có hạnh phúc với cuộc sống độc thân của mình không. Giờ đây khi thấy sự hào hứng của anh khẳng định chắc chắn rằng anh hẳn đã mong mỏi điều này biết bao, cô nghĩ mình muốn khóc.
“Ừ, khá là tuyệt. Em có tưởng tượng được cảnh anh dạy thằng bé cách ném bóng không? Anh sẽ kiếm cho nó một quả bóng cỡ nhỏ bằng da lợn ngay khi bắt đầu – không phải loại Nerf vớ vẩn cho con anh đâu nhé – và khi tay nó đủ to, nó sẽ sẵn sàng cho những trận đấu đích thực.”
Brooke bật cười. “Rõ là anh chưa nghĩ đến khả năng dễ thấy rằng anh có thể có một đứa con gái, hử?”
“Có ba cô giáo ở trường đang mang thai, và cả ba người bọn họ đều sẽ sinh con trai,” anh nói.
“Hay thật. Nhưng anh cũng biết rằng dù anh cùng chung một môi trường công tác với họ thì đứa con tương lai của anh và của họ không bị luật pháp hoặc y học bắt buộc phải mang cùng một giới tính, phải không nào?”
“Anh không chắc lắm về điều đó…”
Cô lại cười. “Thế thì hai anh chị sẽ hỏi cho biết chứ? Hay là quá sớm để đặt ra câu hỏi đó? Em thật chẳng hiểu mấy thứ đó vận hành ra sao.”
“À. Vì anh biết chắc như đinh đóng cột là bọn anh sẽ có con trai nên anh thực sự không thấy cần thiết phải hỏi, mà Michelle lại muốn được bất ngờ. Thế nên bọn anh sẽ đợi.”
“Ồ, vui thật. Khi nào thì đến kỳ sinh em bé?”
“Hai mươi lăm tháng Mười. Một bé con mùa lễ Halloween. Anh cho rằng đó là điềm may.”
“Em cũng nghĩ thế,”Brooke nói. “Ngay bây giờ em sẽ đánh dấu ngày này trên lịch. Ngày hai mươi lăm tháng Mười: em sẽ lên chức cô.”
“Này Brookie, thế> hai em thì sao? Có anh em họ gần tuổi mình cũng khá hay đấy chứ. Có cơ may nào không?”
Cô biết rằng quả thật không dễ gì đối với Randy khi hỏi một câu riêng tư thế này nên cô cố nén không chặn họng anh, nhưng anh đã động đến nỗi đau. Khi cô và Julian lấy nhau, cô hai mươi lăm và anh hai mươi bảy tuổi, cô cứ nghĩ rằng khoảng chừng sinh nhật lần thứ ba mươi của cô họ sẽ có con. Nhưng giờ họ đã đến tuổi này, đã qua cái mốc đó mà thậm chí còn khuya mới bắt đầu thử. Cô đề cập đến chuyện này với Julian một vài lần, một cách ngẫu nhiên để không tạo quá nhiều áp lực cho cả đôi bên, nhưng anh đã hờ hững y như câu trả lời của anh vậy. Rằng thì, “một ngày nào đó” một đứa con có thể sẽ là điều tuyệt vời, nhưng hiện tại họ đang hành động đúng đắn khi tập trung vào sự nghiệp. Vì vậy cho dù cô muốn có một đứa con – thực ra là không muốn gì hơn thế, đặc biệt là lúc này đây, khi nghe tin mừng của Randy – cô vẫn áp dụng chiến thuật của Julian.
“Ồ, tất nhiên là sẽ có ngày,” cô trả lời, cố gắng để giọng nghe bình thường, hoàn toàn ngược lại với cảm xúc thật của cô. “Nhưng hiện giờ không đúng lúc đối với bọn em. Tập trung cho công việc, anh biết đấy.”
“Hẳn rồi,” Randy nói, và Brooke băn khoăn liệu anh có biết sự thật không. “Các em nên làm những gì thích hợp với mình.”
“Vâng, vậy thì… anh này, em xin lỗi phải chạy đi nhưng giờ nghỉ của em đã hết và em trễ ca khám tư vấn rồi đây.”
“Không sao, Brookie. Cảm ơn em đã gọi điện. Và lòng nhiệt tình của em nữa.”
“Anh trêu em đấy à? Cảm ơn anh về tin vui sửng sốt ấy nhé. Anh làm em vui cả ngày – à, cả tháng đấy. Chúc mừng thêm một lần nữa nhé, anh Randy. Em cực kỳ mừng cho anh chị! Tối nay em sẽ gọi cho Michelle để chúc mừng sau nhé, được không?”
Họ cúp máy và Brooke bắt đầu quãng đường dài quay về tầng năm. Vẫn còn mang tâm trạng hồ nghi, cô không ngừng lắc lắc đầu trong lúc đi. Trông cô hẳn là giống một người điên, nhưng trạng thái đó trong bệnh viện chẳng làm ai để ý. Randy. Một người cha!
Brooke những muốn gọi điện kể với Julian tin này, nhưng lúc trước giọng anh nghe đã căng thẳng, vả lại thật ra chẳng còn chút thời gian nào trước ca tư vấn của cô nữa. Một bác sĩ dinh dưỡng đang nghỉ phép và hàng loạt ca sinh đổ đến đông không thể hiểu được vào sáng hôm đó – gần gấp đôi bình thường – thành thử ngày làm việc của cô cứ như đang chạy với tốc độ tên lửa. Thế cũng hay: càng hoạt động nhiều cô càng ít phải đắm mình trong trạng thái mệt lử. Với lại, cô thấy vừa thích thú vừa như được thử thách khi họ bị dồn việc như vậy, và mặc dù ca cẩm với Julian và mẹ nhưng cô thầm yêu thích điều này: tất cả những bệnh nhân thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội, mỗi người đến bệnh viện vì những nguyên nhân hoàn toàn khác biệt nhưng đều cần một ai đó điều chỉnh chế độ ăn uống cho hợp với thể trạng riêng của mình.
Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!