Pair of Vintage Old School Fru
Tiểu thuyết tình yêu

Tiểu Thuyết Tình Yêu

Đọc truyện tại Tiểu Thuyết Tình Yêu

Loading...

Tiểu thuyết - Đêm qua anh ở đâu? - Trang 7

Full | Lùi trang 6 | Tiếp trang 8

Chương 19

Họ gác máy và cô nghĩ trước hết nên gọi điện cho Nola rồi đến mẹ cô, nhưng rồi quyết định rằng cách tốt nhất để đối phó với nó là mặc kệ nó. Cô gọi để kiểm tra tình hình thuê bàn ghế, ướp muối con gà tây, rửa khoai tây để mai nghiền, làm nước xốt việt quất và gọt măng tây. Sau đó là lúc phải cọ rửa lau chùi toàn bộ căn hộ và kê dọn lại, việc này cô xử lý cùng với tiếng nhạc hip-hop giòn giã từ đĩa CD cũ thời trung học. Cô đã định đi làm móng vào khoảng năm giờ chiều, nhưng khi nhòm qua cửa sổ cô thấy ít nhất có hai và có lẽ có đến bốn người đàn ông cùng những chiếc xe Cadillac Escalade và máy ảnh đang lấp ló dưới phố. Brooke nhìn những lớp da chết trên ngón tay ngón chân và nhìn lại những người đàn ông đó: chả đáng phải mạo hiểm.

Đêm đó lúc cô lê vào giường với con Walter, cô thành công khi tự dối mình tin rằng toàn bộ chuyện này sẽ tự nhiên biến mất. Mặc dù đó là thứ đầu tiên thình lình xuất hiện trong đầu cô khi cô thức dậy buổi sáng ngày lễ Tạ ơn, cô vẫn cố gắng đẩy lui ý nghĩ ấy. Còn rất nhiều việc phải làm để chuẩn bị sẵn sàng, và mọi người sẽ đến vào lúc năm giờ. Hơn chín giờ một chút khi Julian về đến nhà, cô khăng khăng đòi nói về chuyện khác.

“Nhưng Rook này, anh nghĩ rằng nếu không đả động đến chuyện này chưa chắc đã là hay đâu,” anh nói trong lúc giúp cô đẩy hết đồ đạc trong phòng khách vào sát vào tường để lấy chỗ kê chiếc bàn thuê về.

“Đơn giản là em không biết có cái gì để mà nói. Cả bài đó là một núi những lời bịa đặt, và đúng vậy, đọc những thứ như thế về bản thân em hay cuộc hôn nhân của em là việc rất phiền lòng – bẽ bàng – nhưng trừ phi có bất kỳ câu nào trong đó là sự thật thì em thấy cứ lật đi lật lại vấn đề này đâu có ích gì…” Cô nhìn lên anh dò hỏi.

“Không có lấy một chữ nào trong đó là sự thật cả. Cả cái chuyện tào lao về cha mẹ anh, hay chuyện anh không nghĩ rằng em là ‘người vợ lý tưởng’ nữa – chẳng một lời nào trong bài đó là sự thật hết.”

“Vậy mình hãy tập trung vào ngày hôm nay, được không anh? Bố mẹ anh bảo mấy giờ thì sẽ ra về ấy nhỉ? Em sẽ không bảo Neha và Rohan đến chơi khi họ chưa về đâu. Vì em nghĩ rằng chúng mình khó có thể tiếp tất cả mọi người cùng một lúc được.”

“Ông bà sẽ đến vào lúc một giờ chỉ để uống một ly thôi, và anh đã bảo rằng ông bà nên ra về lúc hai giờ. Thế có được không em?”

Brooke vơ đống tạp chí giấu vào phòng chứa đồ ở hành lang. “Rất được anh ạ. Những người khác sẽ đến lúc hai giờ. Hãy nói lại với em lần nữa là em không phải áy náy rằng chúng mình đuổi họ đi đấy chứ.”

Julian khịt mũi. “Chẳng phải chúng mình đuổi họ. Họ sẽ đến nhà Kamen chơi. Tin anh đi, họ chả muốn ở thêm một phút nào đâu.”

Lẽ ra cô không cần phải lo lắng. Ông bà Alter đến rất đúng giờ, chỉ đồng ý uống chai rượu vang mà họ mua đến (“Ồ, các con ơi, hãy tiết kiệm rượu của các con để mời những vị khách khác – sao chúng ta lại không uống thứ rượu ngon này bây giờ nhỉ?”), chê bai một câu duy nhất về căn hộ (“Nó thật là đẹp mê hồn,phải không? Chỉ băn khoăn một nỗi làm sao các con có thể sống ở đây mãi thế”), và rời khỏi đó mười lăm phút trước giờ dự kiến. Ba mươi giây sau khi ông bà đi khỏi, chuông cửa nhà họ lại kêu.

“Xin mời lên,” cô nói vào điện đàm.

Julian siết chặt tay cô. “Sẽ hết sảy đấy.”

Brooke mở cửa hành lang và mẹ cô lao vào với một câu chẳng ra là chào hỏi. “Em bé đang ngủ,” bà tuyên bố cứ như đang thông báo rằng tổng thống và đệ nhất phu nhân đã đến vậy. “Chúng ta đặt con bé vào đâu được?”

“À, để xem nào. Vì toàn thể chúng ta ngồi ăn trong phòng khách, và con đoán là mẹ không muốn đặt nó trong phòng tắm, vậy chỉ còn lại một khả năng duy nhất thôi. Mẹ có thể đặt bé lên giường chúng con được không?” Brooke hỏi.

Randy và Michelle xuất hiện bồng bé Ella trên chiếc ghế di động dành cho trẻ nhỏ. “Nó còn bé quá chưa lẫy được nên chắc là ổn thôi,” Michelle vừa nói vừa nghiêng người hôn chào Julian.

“Không được!” Randy nói và lôi ra một thứ trông giống chiếc lều được gấp lại. “Đóchính là lý do tại sao tôi mua cái cũi gấp Pack’n Play này đấy. Các người đừng có mà đặt con bé lên giường.”

Michelle đưa mắt cho Brooke ý nói, Vâng, ai mà cãi được cái ông bô’quá là gà mẹ xù lông ấy chứ? và cả hai cùng phá lên cười. Randy và bà Greene bế Ella trở vào buồng ngủ và Julian bắt đầu rót rượu vang vào ly.

“Thế… hai người ổn cả chứ?” Michelle hỏi.

Brooke đóng cửa bếp lò, đặt gà tây quay xuống và quay lại phía Michelle. “Vâng, em ổn. Sao vậy?”

Chị dâu cô ngay tức thì có vẻ áy náy. “Ôi, xin lỗi, chắc là lẽ ra tôi không nên đả động đến việc này, nhưng cái bài báo ấy thật là… quá ác ý.”

Brooke hít hơi thật mạnh. “À vâng, em cứ nghĩ là chưa ai kịp đọc bài đó cả. Vì báo vẫn chưa ra mà, chị biết đấy.”

“Ừ, tôi chắc chắn là chưa có ai khác đọc được đâu!” Michelle nói. “Một người bạn của tôi gửi nó trên mạng cho tôi, nhưng cô ta là người rất mê những trang web lượm lặt chuyện tầm phào. Chẳng ai đọc nhiều như cô ta cả.”

“Rõ rồi. Này, chị có thể mang giùm cái này vào phòng khách được không?” Brooke vừa hỏi vừa đưa cho Michelle một đĩa pho mát với những chiếc bát nhỏ đựng mứt quả và và những chiếc bánh quy giòn đủ loại.

“Tất nhiên là được chứ,” Michelle nói. Brooke nghĩ rằng chị đã hiểu ra ẩn ý của cô, nhưng Michelle vừa bước được hai bước ra khỏi bếp thì quay lại nói “Cô biết không, có người nào đó cứ gọi suốt và hỏi tôi đủ điều về cô cậu đấy, nhưng chúng tôi không nói một lời.”

“Là ai thế?” Brooke hỏi, giọng cô đầy ắp nỗi kinh hoàng mà cô đã kìm nén được cho đến phút này. “Nhớ là em đã dặn anh chị đừng có nói chuyện với bất kỳ phóng viên nào về chúng em cả đấy nhé. Không điện thoại, không gặp trực tiếp, không bao giờ.”

“Ồ, chúng tôi biết điều đó chứ. Và chúng tôi sẽ không đời nào làm thế. Tôi chỉ nghĩ rằng cô cậu nên biết là ngoài kia có những người đang sục sạo đó.”

“Vâng, à, xét đến tính chính xác của họ thì họ vẫn còn chưa khai thác hết những nguồn tin đâu.” Brooke nói trong lúc rót thêm cho mình một ly rượu vang trắng nữa.

Giọng mẹ cô phá vỡ sự im lặng lúng túng và Michelle chạy vội khỏi đó với đĩa pho mát. “Đang nói chuyện gì ở đây thế con?” bà vừa hỏi vừa hôn lên tóc Brooke. “Mẹ nhẹ cả người vì con đã tiếp quản cái vụ mời khách này! Năm này qua năm khác càng ngày càng cô đơn khi tất cả các con chỉ toàn đến nhà bố.”

Brooke không nói với mẹ cô rằng lý do duy nhất mà cô tình nguyện nấu bữa tối lễ Tạ ơn năm nay là vì cha cô và Cynthia đến nhà Cynthia ở bang Arizona. Hơn nữa, cũng hay khi cảm thấy mình đã là một người lớn thực thụ, dù rằng chỉ trong một buổi chiều.

“Vâng, à, để xem sau khi mẹ nếm món gà tây thì mẹ còn nói thế được không nhé,” Brooke bảo.

Chuông cửa reo, và Ella bắt đầu khóc thét trong phòng ngủ.

Tất cả mọi người tản mát: Randy và Michelle vào coi Ella, Julian đi mở chai rượu vang nữa, và bà Green điheo Brooke ra cửa.

“Nhắc lại cho mẹ những người bạn này là ai được không?” bà yêu cầu. “Mẹ biết rằng con đã nói trước cho mẹ rồi, nhưng mẹ không thể nhớ được.”

“Neha và con cùng học cao học với nhau và bạn ấy bây giờ làm bác sĩ dinh dưỡng cho sản phụ trước khi sinh tại một phòng khám phụ khoa ở Brookline. Rohan chồng bạn ấy là kế toán, và họ sống ở Boston khoảng ba năm nay rồi. Gia đình cả hai bên đều ở Ấn Độ, vì vậy họ không ăn mừng lễ Tạ ơn, nhưng con nghĩ mời thêm họ sẽ vui hơn,” Brooke thì thầm trong lúc họ đứng ở tiền sảnh.

Mẹ cô gật gật đầu. Brooke biết rằng bà chẳng nhớ nổi lấy một nửa những điều cô nói và thể nào cũng sẽ hỏi lại Neha và Rohan toàn bộ câu chuyện đó.

Brooke mở cửa và Neha lập tức chuồi vào để ôm một cái thắm thiết. “Mình không thể tưởng tượng được đã bao nhiêu thời gian trôi qua rồi! Sao mà chúng mình lại không gặp nhau thường xuyên hơn nhỉ?”

Brooke ôm lại cô và nhón gót chân hôn lên má Rohan. “Vào thôi, các bạn ơi. Neha, Rohan, đây là mẹ tớ. Mẹ ơi, đây là những người bạn thời xa xưa.”

Neha cười to. “Xưa là khi ta hai mươi và vẫn còn nóng bỏng phải không?”

“Ừ, chúng mình mặc áo blu và đi guốc của phòng thí nghiệm đẹp hơn ai hết. Nào, đưa mình treo áo cho cậu,” Brooke nói trong lúc dẫn họ vào phòng.

Julian từ căn bếp nhỏ hẹp nhô ra. “Chào cậu,” anh vừa nói vừa bắt tay Rohan và vỗ vào vai anh này. “Rất vui được gặp cậu. Mọi việc ra sao?” Trông Julian thật bảnh trong chiếc quần jean đen và áo len cashmere xám dệt trơn cùng đôi giày thể thao cổ điển. Da anh ửng màu nắng L.A. và mặc dù rất mệt mỏi nhưng ánh mắt anh lanh lợi và anh đi lại với sự tự tin thoải mái mà Brooke chỉ mới nhận thấy gần đây.

Roh liếc nhìn chiếc quần vải chéo thô màu xanh đen của mình, cái sơ mi cắm thùng với cà vạt và mặt đỏ lên. Anh ta và Julian chưa bao giờ thân thiết – Julian thấy kiểu cách của Rohan quá kín đáo và bảo thủ – nhưng họ luôn cố chuyện phiếm với nhau một chút trước mặt các cô vợ. Lúc này Rohan khó lòng nhìn thẳng vào mắt Julian được, và anh ta lẩm bẩm, “À, bọn mình vẫn thế. Chẳng được thú vị như các cậu. Hôm trước chúng mình đã thấy ảnh cậu trên bảng xếp hạng đấy.”

Có một khoảng lặng lúng túng cho đến khi Ella – đã thôi khóc và diện chiếc áo cài ở đũng in hình con bê dễ thương nhất mà Brooke từng thấy – xuất hiện, và mọi người ồ à nựng bé một lúc.

“Này, Neha, cháu thấy Boston thế nào?” mẹ Brooke hỏi. Bà phết một miếng pho mát xanh lên chiếc bánh quy ròn rồi đút tỏm vào miệng.

Neha tủm tỉm cười. “À, khu vực chúng cháu ở rất thích, và chúng cháu đã gặp những người tử tế. Cháu thích căn hộ của chúng cháu lắm. Thành phố ấy có chất lượng cuộc sống rất tốt.”

“Ý bạn ấy là nó buồn chán không thể tả được đấy,” Brooke vừa nói vừa lấy tăm xiên một quả ô liu.

Neha gật đầu. “Brooke nói đúng đấy. Nó nặng nề lắm.”

Bà Greene cười phá và Brooke có thể nói là mẹ mình rất duyên dáng. “Thế sao hai cháu không chuyển về New York sống? Ta biết Brooke sẽ sướng mê.”

“Sang năm Rohan sẽ hoàn thành bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh của anh ấy, và nếu cháu có quyền quyết định thì chúng cháu sẽ bán ô tô – cháu ghét lái xe lắm – từ bỏ căn hộ rất đáng yêu của chúng cháu, chào tạm biệt những người hàng xóm rất chi là lịch sự, và chuồn cho lẹ về đây, nơi chúng cháu chỉ có khả năng căn hộ không thang máy trong khu dân cư thiếu tiện nghi và xung quanh là những người thô lỗ và hung hăng. Và cháu sẽ yêu mến nơi đó đến từng giây phút.”

“Neha…” Rohan nghe thấy phần cuối câu chuyện và đưa mắt nhìn vợ.

“Sao cơ? Anh mong em sống ở đó đến hết đời ư?” Cô quay về phía Brooke và bà Greene và hạ thấp giọng xuống. “Anh ấy cũng ghét thành phố đó, nhưng anh ấy cảm thấy có lỗi vì ghét bỏ nó. Mọi người biết đấy, ai mà lại ghét Boston cơ chứ.”

Lúc mọi người tụ họp quanh bàn ăn trải khăn và bắt đầu dùng bữa, Brooke đã quên bẵng bài báo ghê tởm kia. Rượu vang tràn trề, con gà tây bóng bẩy được nướng rất ngon, và mặc dù món khoai tây nghiền hơi nhạt nhẽo, các vị khách của cô vẫn thề thốt rằng đó là ngón khoai tây nghiền ngon nhất mà họ từng ăn. Họ tán gẫu thoải mái về cuốn phim mới của Hugh Grant và chuyến đi Mumbai và Goa sắp tới mà Neha và Rohan đang dự kiến cho những ngày nghỉ để thăm gia đình họ. Mọi chuyện đang rất thoải mái tự nhiên, thật thế, thì mẹ Brooke nghiêng sang bên hỏi thầm cô rằng cô chống chọi ra sao, cô suýt nữa làm rơi chiếc nĩa.

“Mẹ đã đọc nó rồi à?” Brooke thốt lên và nhìn chằm chằm vào mẹ mình.

“Ồ, con yêu ơi, tất nhiên là mẹ đã đọc rồi. Bốn người phụ nữ khác nhau đã chuyển nó cho mẹ hồi sáng. Những con chó săn chuyện ngồi lê đôi mách, tất cả bọn họ là thế. Mẹ thậm chí còn không thể tưởng tượng được phải choáng đến mức nào khi đọc…”

“Mẹ, con không muốn nói đến chuyện đó.”

“… cái thứ như thế về bản thân mình, nhưng ai đã từng gặp hai con đều biết rằng thứ đó hoàn toàn là – xin lỗi vì mẹ dùng từ không được nhã nhặn lắm – cứt đái.”

Neha ắt hẳn đã nghe lỏm được đoạn cuối câu này, vì cô cũng châu vào và nói, “Nghiêm túc mà nói, Brooke à, hiển nhiên toàn bộ chuyện đó là bịa đặtÝ mình là không một từ nào trong đó là đúng cả. Đừng có nghĩ đến nó dù chỉ là một giây.”

Cô cảm thấy như bị tát thêm cái nữa. Sao mà cô có thể nghĩ được rằng chưa một ai đọc bài báo đó cơ chứ? Sao mà cô có thể cố bắt mình tin rằng tất cả chuyện này đã qua rồi nhỉ?

“Mình đang cố gắng không nghĩ đến nó đây,” cô nói.

Neha gật đầu và Brooke nghĩ rằng cô bạn đã hiểu. Giá mà cô có thể nói rằng mẹ mình cũng thế.

“Các cháu có trông thấy mấy tay phó nháy ở bên ngoài khi các cháu vào nhà không?” bà Greene hỏi Neha và Rohan. “Bọn họ chẳng khác gì lũ chim kền kền cả.”

Julian hẳn phải trông thấy mặt cô đanh lại, vì anh hắng giọng, nhưng Brooke muốn giải thích một lần với tất cả mọi người để họ còn đổi sang chủ đề khác. “Đâu có tệ đến thế,” cô vừa nói vừa chuyền đĩa măng tây nướng sang cho Randy. “Chẳng phải lúc nào họ cũng ở đó đâu, và chúng tôi đã thuê người treo những chiếc rèm kín như bưng rồi, nên họ chẳng thể chụp được bức ảnh nào. Việc xóa số điện thoại nhà chúng tôi ra khỏi danh sách chỉ dẫn cũng có ích. Tôi chắc rằng đó chỉ là sự háo hức ban đầu khi album mới ra mà thôi. Chỉ cần đến năm mới là họ sẽ chán phè ra vì chúng tôi ngay ấy mà.”

“Anh hy vọng là không nhé,” Julian nói với nụ cười lúm đồng tiền. “Leo vừa mới bảo anh rằng cậu ta đang vận động để anh xuất hiện ở lễ trao giải Grammy đấy. Cậu ta nghĩ rằng nhiều khả năng anh sẽ được chọn biểu diễn.”

“Chúc mừng!” Michelle nói với vẻ nồng nhiệt hơn bất cứ lúc nào chị thể hiện trong suốt ngày hôm đó. “Đó có phải là tin mật không?”

Julian liếc sang Brooke, mắt cô gặp mắt anh và cô nhìn lại đầy ẩn ý.

Anh húng hắng. “À, em không biết đó là tin hay không nữa, nhưng đến tận sau năm mới họ mới tuyên bố các nghệ sĩ biểu diễn trong buổi lễ, vì vậy chắc hẳn chưa đến lúc để nói bất kỳ điều gì cả.”

“Đỉnh quá ta, cậu ơi,” Randy nói và cười ngoác. “Cả nhà sẽ đi nếu cậu đi. Cậu biết rồi đây, phải không? Gia đình này đoàn kết mà.”

Trước đó Julian đã nói với cô về khả năng này khi họ nói chuyện qua điện thoại, nhưng nghe anh kể cho mọi người có vẻ làm điều đó trở nên hiện thực hơn. Cô khó có thể hình dung trong đầu điều này: chồng cô biểu diễn ở lễ trao giải Grammy cho cả thế giới xem.

Ella kêu thét lên từ chiếc ghế nôi di động đặt cạnh bàn ăn cắt đứt dòng mộng tưởng. Brooke nhân lúc đó đặt bánh trái nhà làm lên đĩa: hai chiếc bánh nướng mẹ cô mang đến, một nhân bí ngô và một nhân đại hoàng; một tá bánh sô cô la hạnh nhân bạc hà của Michelle; và một đĩa bánh đặc sản của Neha, bánh Ấn Độburfi dừa, trông giống như những chiếc bánh bỏng gạo hiệu Rice Krispie nhưng vị giông bánh pho mát nhỏ hơn.

“Brooke này, công việc của cô ra sao rồi?” Rohan hỏi trong lúc đang nhồm nhoàm nhai bánh sô cô la.

Brooke nhấp ngụm cà phê rồi nói, “Công việc trôi chảy cả. Tôi rất thích bệnh viện đó, nhưng tôi hy vọng vài năm nữa sẽ mở phòng khám của riêng mình.”

“Cô và Neha nên cân nhắc cùng nhau làm việc đó. Gần đây cô ấy chỉ rặt nói về điều đó thôi.”

Brooke nhìn Neha. “Thật hả? Cậu đang nghĩ đến việc mở phòng khám tư hả?”

Neha gật đầu cả quyết đến nỗi mớ tóc đuôi ngựa đen huyền của cô nhún nhảy lên xuống. “Chắc chắn rồi. Bố mẹ mình đã ngỏ ý cho mình vay một phần số tiền vốn khởi đầu, nhưng mình vẫn cần một đối tác để có thể thực hiện việc này. Tất nhiên, mãi đến lúc quay về thành phố mình mới nghĩ đến điều

“Thế mà mình không biết!” Brooke nói, niềm háo hức của cô dâng lên rất nhanh.

“Mình không thể cứ làm mãi ở một văn phòng khoa sản được. Hy vọng một ngày nào đó chúng mình sẽ có một gia đình thực thụ” – có gì đó trong cách Neha liếc nhìn Rohan, anh này lập tức đỏ mặt lên nhìn sang chỗ khác, làm Brooke nghĩ rằng Neha mới có thai – “và mình sẽ cần giờ giấc linh hoạt hơn. Lý tưởng nhất là một phòng khám tư tập trung duy nhất vào tư vấn dinh dưỡng trước và sau khi sinh cho mẹ và bé. Có thể đưa thêm tư vấn về sữa mẹ vào nữa, mình cũng chưa chắc lắm.”

“Đó chính là điều mà mình cũng đang nghĩ đến đấy!” Brooke tuyên bố. “Mình cần thêm chín tháng hoặc một năm kinh nghiệm thực hành ở bệnh viện nữa, còn sau đó…”

Neha duyên dáng cắn một miếng burfi và tủm tỉm cười. Cô quay sang phía bên kia bàn. “Này, Julian, anh có nghĩ rằng anh sẽ nhả ra một ít tiền để vợ anh khởi sự không?” cô hỏi, và mọi người ai cũng cười ồ.

Sau đó, khi mọi người đã ai về nhà nấy rồi và họ đã rửa dọn xong bát đĩa và gấp ghế, Brooke nằm cuộn tròn ngay cạnh Julian trên đi văng.

“Thật thú vị là Neha cũng đang dự kiến chính xác cùng một việc như thế, phải không anh?” cô hỏi một cách phấn khởi. Mặc dù trong lúc ăn tráng miệng thì câu chuyện đã chuyển hướng sang những chủ đề khác nhưng Brooke vẫn không thôi nghĩ đến việc đó.

“Dự định đó nghe thật tuyệt vời,” Julian vừa nói vừa hôn lên đỉnh đầu cô. Điện thoại của anh đổ chuông suốt tối và mặc dù anh liên tục bấm nút từ chối trả lời và ra vẻ rằng không có vấn đề gì, nhưng rõ ràng là anh bị sao nhãng.

“Còn trên cả tuyệt vời ấy chứ, vì ngay khi em có thể ra ngoài làm riêng là em sẽ có nhiều thời gian rỗi hơn để đi cùng với anh, linh hoạt hơn rất nhiều so với bây giờ. Thế không tuyệt h

“Ừmm. Tuyệt quá đi chứ.”

“Ý em là, thời gian và công sức mình bỏ ra để tự mình làm việc gì đó như thế – đừng quan tâm đến vấn đề tiền bạc – đã quá hay rồi, nhưng nếu hai đứa bọn em cùng hợp tác mới thật là hoàn hảo. Bọn em có thể người nọ làm bù cho người kia mà vẫn tiếp được sổ bệnh nhân nhiều gấp đôi. Đó là một viễn cảnh lý tưởng,” Brooke sung sướng nói.

Đó chính là tin vui mà cô đang cần. Sự thiếu vắng Julian, bọn phóng viên tò mò, bài báo khủng khiếp đó vẫn còn nhức nhối, nhưng có cái gì đó để trông đợi đã làm tất cả mọi việc khác trở nên nhẹ nhõm hơn rất nhiều.

Điện thoại của anh lại đổ chuông một lần nữa. “Thôi thì nghe đi cho xong,” cô nói mà giọng nghe bực bội hơn chủ định.

Julian nhìn chằm chằm vào tên người gọi trên màn hình điện thoại, hiện lên chữ “Leo”, và bấm phím nhận cuộc gọi. “Này cậu, chúc mừng lễ Tạ ơn.” Anh gật đầu vài lần, cười to rồi nói, “Chắc rồi, được đấy. Ừ, tôi sẽ hỏi cô ấy, nhưng tôi chắc cô ấy đến được. Ừ. Thêm chúng tôi vào. Gặp lại sau.”

Anh quay lại đối diện cô với và cười ngoác. “Đoán xem chúng mình sẽ đi đâu?”

“Đi đâu cơ?”

“Chúng mình, em thân mến ơi, được mời đến bữa tiệc trưa và cocktail ngày lễ đặc biệt chỉ dành riêng cho khách VIP của Sony. Leo bảo rằng tất cả mọi người sẽ đổ dồn về bữa dạ tiệc trong thành phố, nhưng vào ban ngày thì chỉ những nghệ sĩ đỉnh cao của họ mới được mời cùng với tất cả các lãnh đạo cấp cao nhất của ngành âm nhạc đến một ngôi nhà rất khủng trị giá hàng tỉ đô la ở Hamptons. Các tiết mục biểu diễn là do các vị khách bất ngờ được mời lên sân khấu. Bọn mình sẽ đi về bằng trực thăng nhé. Trước giờ chưa hề có thông tin báo chí gì về bữa tiệc này vì nó rất bí mật và chỉ rành riêng cho khách đẳng cấp. Và chúng mình sẽ đến dự!

“Ôi, nghe cứ như trong mơ. Tiệc hôm nào hả anh?” Brooke hỏi, óc cô đã bắt đầu quay cuồng với việc lựa chọn trang phục rồi.

Julian bật dậy đi vào bếp. “Thứ Sáu trước lễ Giáng sinh. Anh cũng chưa biết hôm đó là ngày mấy.”

Cô chộp lấy điện thoại của anh để xem lịch. “Ngày hai mươi tháng Mười hai à? Julian, đó là ngày làm việc cuối cùng của em ở Huntley trước khi trường đóng cửa nghỉ lễ Giáng sinh.”

“Thì sao?” Anh lấy một chai bia từ tủ lạnh ra.

“Thì, đó là buổi tiệc ngày lễcủa chúng em. Ở trường Huntley. Họ đã nhờ em lên cho họ một thực đơn có lợi cho sức khỏe lần đầu tiên của họ, với đồ ăn tiệc vui nhộn dành cho các nữ sinh. Em cũng đã hứa với Kaylie rằng em sẽ gặp bố và bà cô bé. Phụ huynh cũng được mời đến dự tiệc và cô bé rất háo hức được giới thiệu em với họ.”

Brooke tự hào về tiến bộ vượt bậc của cô với cô bé trong vài tháng gần đây. Bằng cách tăng cường số lượng những buổi tư vấn thường xuyên hơn và hỏi cô bé những câu hỏi sắc bén về Whitney Weiss, Brooke đã có thể khẳng định rằng Kaylie đang mấp mé ý định tẩy ruột, nhưng đồng thời giờ cô cũng chắc chắn một điều rằng cô bé không phải là người đang bị chứng rối loạn ăn uống ngày càng trầm trọng. Với nhiều lần nói chuyện và lắng nghe cùng sự quan tâm đặc biệt của cô, Kaylie đã lấy lại được phần trọng lượng có lợi cho sức khỏe mà cô bé đã giảm nhanh đến thế, và cô bé có vẻ ngày càng tự tin hơn với trọng lượng của mình. Điều quan trọng hơn cả chắc hẳn là việc cô bé tham gia vào câu lạc bộ kịch và đã kiêm được vai phụ mà ai cũng thèm muốn trong tác phẩm Câu chuyện Miền Tây của năm nay. Cuối cùng thì cô bé cũng có bạn bè.

Julian ngồi lại xuống đi văng với cô và bật vô tuyến. Tiếng ồn tràn ngập trong phòng

“Anh có thể vặn bé đi được không?” cô hỏi mà cố giấu sự bực bội trong giọng nói của mình.

Anh làm theo, nhưng chỉ sau khi đã nhìn cô với vẻ lạ lùng. “Anh không định tỏ ra thiếu thông cảm trong việc này,” anh nói, “nhưng em không thể báo ốm à? Chúng mình đang nói đến việc đi bằng trực thăng và gặp lãnh đạo của công ty Âm nhạc Sony đấy. Em không nghĩ là người khác cũng có thể giải quyết được chuyện mấy cái bánh nướng sao?”

Trong suốt năm năm cuộc sống vợ chồng, cô nhớ là chưa bao giờ thấy anh trịch thượng đến thế, kẻ cả đến kinh ngạc như thế. Cái làm cho câu nói đó tệ hại hơn là cách anh nhìn săm soi vào cô mà không biết rằng giọng anh mới cay độc và ích kỷ làm sao.

“Anh biết không, em tin rằng người khác cũng có thể ‘giải quyết được chuyện mấy cái bánh nướng,’ như anh đã mỉa mai một cách thiếu suy nghĩ. Cái công việc ngu ngốc và phù phiếm của em là cái thá gì so với công việc có tầm quan trọng quốc tế của anh phải không? Nhưng anh quên mất một điều. Em thực lòng yêu thích những gì em làm. Em giúp đỡ những cô bé đó. Em đã tốn cả đống thời gian và công sức vào Kaylie, và đoán được không? Việc đó đang thành công đấy. Cả một năm giời qua cô bé chưa từng vui hơn và khỏe hơn lúc này. Cô bé không còn tự làm hại thân mình hoặc khóc lóc mỗi ngày nữa. Em biết điều này chẳng thể so sánh được với xếp thứ tư trên bảng xếp hạngBillboard trong giới của anh, nhưng trong giới của em thì điều này khá là đỉnh rồi. Vậy nên, không đâu Julian, em không cùng anh tham dự bữa tiệc VIP mừng ngày lễ cực kỳ mê ly của anh được. Vì em còn phải tham dự bữa tiệc của chính em.”

Cô đứng dậy nhìn trân trối vào anh, chờ đợi một lời xin lỗi, một phản ứng, bất kỳ cái gì ngoại trừ điều anh đang làm: nhìn thất thần vào màn hình vô tuyến tắt tiếng, sửng sốt lắc đầu với vẻ mặt dường như muốn nói, Tôi đã lấy phải một kẻ mất trí.

“Thôi được, em mừng là chúng mình đã hiểu rõ ý nhau,” cô ôn tồn nói trong lúc đi về phòng ngủ.

Cô chờ đợi anh vào trò việc đó, ôm lấy cô, nhắc cô rằng họ không bao giờ đi ngủ mà còn ôm cục tức giận, nhưng một tiếng sau, khi cô rón rén quay lại phòng khách thì anh đã cuộn tròn trên đi văng dưới tấm chăn len màu tím và ngáy nhè nhẹ. Cô quay về giường ngủ một mình.

11

Đắm trong rượu nồng với gái tơ

Julian cười lớn khi con tôm hùm bự phóng nhanh về phía trước. “Con sáu lạng đã lên dẫn đầu. Chúng đang vòng qua góc, thưa quý vị,” anh nói giả giọng tường thuật thể thao rất điệu nghệ. “Anh nghĩ là anh đã xí phần con này.”

Đối thủ của nó, một con tôm hùm nhỏ hơn có vỏ đen bóng và đôi mắt mà Brooke khẳng định là rất biểu cảm, hối hả phi lên trước để rút ngắn khoảng cách. “Không nhanh thế đâu,” cô nói.

Chương 20

Họ đang ngồi trên sàn bếp, lưng tựa vào bàn bếp, người nào cổ vũ cho đấu thủ của người ấy. Brooke cảm thấy hơi có lỗi vì cố đua con tôm hùm của mình trước khi thả nó vào nồi nước sôi, nhưng chúng có vẻ chẳng bận tâm. Chỉ đến khi Walter gí mũi vào một trong hai con tôm và con đó từ chối không tiến thêm một phân nào nữa thì Brooke mới nhảy bổ vào cứu con tôm của cô khỏi cuộc tra tấn tiếp theo.

“Chiến thắng vì có kẻ bỏ cuộc! Anh sẽ lấy nó,” Julian kêu, với cánh tay co lên và bàn tay nắm lại thể hiện niềm vui chiến thắng. Rồi anh tiến đến đập tay chúc mừng với cái càng dẻo dai của con tôm hùm thuộc về anh. Walter sủa gâu gâu.

“Người thắng cuộc sẽ cho chúng vào nước,” cô vừa bảo vừa chỉ cái nồi nấu tôm hùm mà họ moi ra được từ phòng để đồ bếp núc của nhà Alter. “Em không chắc em có thể xử lý được nó đâu.”

Julian đứng dậy chìa tay ra để giúp Brooke. “Em đi xem lò sưởi đi, để anh xử lý mấy gã này cho.”

Cô chấp nhận đề nghị của anh và đi về phía phòng khách, nơi vài giờ trước đó Julian đã dạy cô cách nhóm lửa. Đó là việc mà cha cô và Randy luôn làm, và cô đã rất vui khi phát hiện ra rằng thật thích thú biết bao khi sắp xếp những khúc củi một cách khéo léo và dùng que cời đảo chúng qua lại như vậy. Cô vớ lấy một khúc củi cỡ trung từ chiếc giỏ đựng rồi nhẹ nhàng gác chéo nó lên trên cùng; cô ngồi xuống đi văng, quan sát ngọn lửa như bị thôi miên. Cô nghe thấy tiếng chuông điện thoại di động của Julian văng vẳng từ phòng bên.

Anh từ bếp đi sang cùng hai ly rượu vang đỏ trên tay và ngồi xuống đi văng với cô. “Mười phút nữa thì chín. Anh thề là chúng không hề cảm thấy gì hết.”

“À há. Em chắc rằng chúng thích nữa là khác. Ai vừa gọi đấy anh?” cô hỏi.

“Gọi gì cơ? Ồ, anh không biết, chả quan trọng gì.”

“Chúc sức khỏe,” Brooke nói và cụng ly với anh.

Julian thở dài, hơi thở dài thật sâu, thật thỏa mãn như muốn nói rằng tất thảy mọi thứ trên đời đều ổn cả. “Thế này có dễ chịu không nào?” anh hỏi. Đó là cái thở dài đúng chỗ, cái tình cảm thích hợp, nhưng ở nó có cái gì đó làm Brooke sững sờ kinh ngạc. Anh quá đỗi ngọt ngào.

Mọi việc giữa hai người đã căng thẳng trông thấy trong những tuần gần đến bữa tiệc của Sony; Julian không ngừng trông đợi Brooke rũ bỏ trách nhiệm của cô tại trường Huntley, và khi cô không làm như vậy – là khi anh bay đến Hamptons không hẹn ngày về – anh có vẻ thực sự bị sốc vì việc đó. Trong mười ngày kể từ bữa tiệc đó, họ đã bàn bạc về nó với cố gắng cao nhất, nhưng Brooke không thể gạt bỏ cái cảm giác rằng Julian vẫn không hiểu được quan điểm của cô, và bất chấp nỗ lực ghê gớm của cả hai bên để cho qua chuyện này và hành động như thể mọi việc vẫn mọi việc dường như vẫn không ổn.

Cô nhấp một ngụm rượu vang và cảm thấy hơi ấm quen thuộc thường lệ khi rượu trôi xuống bụng. “Dễ chịu là nói nhẹ đi đấy. Thật đáng yêu,” cô nói với vẻ hơi trang trọng thiếu tự nhiên.

“Anh không hiểu tại sao cha mẹ anh không bao giờ đến đây vào mùa đông. Thật lộng lẫy khi tuyết xuống, họ có cái lò sưởi đẹp lạ lùng này, và chẳng có một ai ở xung quanh.”

Brooke cười nụ. “Chẳng có một ai ở xung quanh – đó chính là điều mà họ không chịu nổi. Đi ăn ở tiệm Nick & Toni mà làm gì nếu chẳng có một ai ở đó chứng kiến ta lấy được bàn đẹp nhất?”

“Ừ, vậy thì đảo Anguilla hẳn phải hoàn hảo cho mục đích đó. Anh chắc chắn họ đang vui vẻ chiến đấu với những đám đông đi nghỉ lễ ở đó. Thêm nữa, lúc này mọi thứ đắt gấp đôi gấp ba ngày thường, mà họ thì thích thế lắm. Làm họ cảm thấy mình đặc biệt mà. Anh cá là họ đang sướng hết ý.”

Mặc dù không ai trong hai người bọn họ muốn thừa nhận, nhưng cả hai đều rất biết ơn vì ông bà Alter sở hữu ngôi nhà ở Đông Hampton này. Họ chưa bao giờ nghỉ cuối tuần với cha mẹ Julian hay dám đến chơi trong mùa hè – thậm chí lễ cưới của họ là vào đầu tháng Ba, khi tuyết hãy còn trên mặt đất – nhưng suốt sáu tháng mỗi năm nó cho họ một nơi chốn miễn phí và sang trọng để trốn khỏi thành phố. Vài năm đầu họ thường xuyên tận dụng nó, đến đó để ngắm hoa xuân hoặc đi thăm vườn nho hay tản bộ trên bờ biển vào tháng Mười khi thời tiết bắt đầu chuyển mùa, nhưng vì lịch làm việc của cả hai đều bận rộn đến điên cuồng nên đã hơn một năm nay họ không đến nơi này. Chính Julian đã nảy ra ý tưởng đón năm mới ở đó, chỉ hai người bọn họ, và dù cô ngờ rằng đó là một đề nghị dàn hòa hơn là mong muốn thật lòng được cùng nhau chạy trốn, nhưng Brooke vẫn sẵn sàng nhận lời.

“Em đi làm món xa lát đây,” cô vừa nói vừa đứng lên. “Anh có cần gì không?”

“Anh sẽ giúp

“Anh đã làm gì với ông chồng của em thế nhỉ?”

Điện thoại của anh lại reo chuông. Anh liếc nhìn rồi đút nó trở lại túi.

“Ai gọi thế?”

“Anh không biết. Số cá nhân. Anh không biết ai có thể gọi vào lúc này cả,” anh vừa nói vừa theo cô đi vào bếp, và chẳng cần được nhờ anh đã chắt nước nồi khoai luộc rồi bắt đầu nghiền khoai.

Câu chuyện trong bữa ăn tối của họ dễ chịu và thoải mái hơn, chắc hẳn là nhờ rượu vang. Dường như ngầm hiểu ý nhau thế nào đó nên họ không đả động đến công việc một tẹo nào, cả công việc của anh lẫn của cô; thay vì thế họ chuyện vãn về Nola và việc cô nàng vừa mới được đề bạt, về Randy sung sướng thế nào khi quanh quẩn với bé Ella, và việc liệu họ có thể cùng nhau lẻn đi một chuyến cuối tuần đến nơi nào đó ấm áp trước khi lịch lưu diễn của Julian nóng lên vào dịp đầu năm mới.

Những chiếc bánh sô cô la hạnh nhân mà Brooke làm để tráng miệng dẻo dính hơn cô muốn, phủ đầy kem tươi đánh bông, kem lạnh vani và sô cô la bào, trông giống như món bò hầm màu nâu nóng sốt, nhưng ăn rất ngon. Julian mặc nguyên cả bộ đồ trượt tuyết để dẫn Walter ra ngoài đi vệ sinh lần cuối trong lúc Brooke rửa dọn và pha cà phê. Họ gặp lại nhau bên lò sưởi. Điện thoại di động của anh đổ chuông, nhưng thêm một lần nữa anh tắt chuông mà không hề nhìn vào màn hình.

“Anh có cảm giác thế nào khi tối nay không biểu diễn? Hẳn là kỳ lắm khi từ bỏ buổi diễn,” Brooke hỏi và gối đầu lên lòng anh.

Julian được mời biểu diễn trong chương trình đêm giao thừa của MTV trên quảng trường Thời Đại rồi từ nửa đêm trở đi sẽ chủ trì một bữa tiệc với toàn những người nổi tiếng ở Khách Sạn Phố Rivington. Từ đầu mùa thu khi nghe Leo bảo với anh về chương trình này anh đã thích mê, nhưng đêm giao thừa càng đến gần thì lòng nhiệt tình của Julian càng giảm dần. Rốt cuộc tuần trướcchỉ thị cho Leo hủy toàn bộ, và không ai choáng hơn – hoặc mừng hơn – là Brooke. Đặc biệt là khi anh quay lại nhìn cô và hỏi xem cô có muốn đi cùng anh đến Hamptons hưởng một đêm hẹn hò tại gia hay không.

“Chúng mình không buộc phải nói những chuyện như thế vào đêm nay,” Julian nói. Cô có thể nói rằng anh đang cố gắng đồng cảm với cô, nhưng hiển nhiên có gì đó đang làm anh bứt rứt.

“Em biết thế,” Brooke trả lời. “Em chỉ muốn biết chắc là anh không hối tiếc chuyện đó.”

Julian vuốt tóc cô. “Cái cô này, cô có điên không đấy? Với tấn kịch xảy ra trong chương trình Today và tất cả những chuyến đi đi lại lại đó, mà nhìn đến năm tới sẽ bận kinh khủng hơn đến mức nào thì anh cũng cần nghỉ ngơi một chút chứ. Chúng mình cần nghỉ ngơi một chút.”

“Chúng mình quả thực rất cần đấy,” cô lẩm nhẩm mà cảm thấy đã nhiều tháng nay mình mới được hài lòng đến thế. “Em đoán Leo chẳng thích thú gì, nhưng em thì chắc chắn là rất thích rồi.”

“Leo đã lên chuyến bay đầu tiên tới Punta del Este.Chắc chắn giờ gã đang đắm trong rượu tequilla với gái mười tám. Đừng tiếc cho Leo.”

Họ uống nốt rượu. Julian cẩn thận kéo lớp màn chắn rồi đến những cánh cửa kính trên lò sưởi đang tàn dần, và tay trong tay họ lên cầu thang. Lần này thì điện thoại cố định đổ chuông, và trước khi Julian kịp nói lời nào Brooke đã nhấc máy lẻ trong phòng dành cho khách mà cô và Julian thường ở.

“Brooke phải không? Samara đây. Nghe này, xin lỗi vì gọi vào đêm nay, nhưng tôi cứ cố gọi cho Julian mãi. Cậu ấy bảo sẽ tới đó, nhưng mãi cho đến giờ cậu ấy vẫn không nghe điện thoại của tôi.

“Ồ, chào Samara. Vâng, anh ấy ở ngay đây rồi. Xin chờ máy một giây nhé.”

“Chờ chút đã, Brooke. Nghe này, tôi biết cô không đến dự lễ trao giải Grammy vì bận công việc, và tôi chỉ muốn khẳng định với cô rằng sẽ có những bữa tiệc rất hoành tráng ở New York mà tôi sẽ đưa hai người đến đấy nhé.”

Brooke nghĩ rằng cô nghe nhầm. “Gì cơ ạ?”

“Lễ trao giải Grammy. Julian biểu diễn ở đó.”

“Samara, chị chờ máy chỉ một phút thôi được không?” Cô nhấn phím tắt tiếng rồi đi vào phòng tắm, nơi Julian đang mở nước cho đầy bồn.

“Lúc nào thì anh mới nói cho em biết về lễ trao giải Grammy?” cô hỏi mà phải cố kiềm chế nỗi kích động trong giọng nói.

Anh nhìn lên cô. “Anh định đợi đến mai. Anh không muốn nó ảnh hưởng đến một đêm trọn vẹn mình ở bên nhau.”

“Ồ thôi nào, Julian! Anh không muốn em đi, thế nên anh chẳng nói một lời.”

Nghe câu này Julian trông thật sự hoảng. “Sao mà em lại nghĩ thế được? Tất nhiên là anh muốn em đi chứ!”

“Ờ, nghe không giống như Samara nghĩ nhỉ. Chị ta vừa bảo em rằng chị ta hoàn toàn thông cảm vì em quá bận công việc nên không thể đến được. Anh có đùa không đấy? Chồng em sẽ biểu diễn ở lễ trao giải Grammy mà chị ta lại nghĩ rằng em không thể rờicông việc để dự à?”

“Brooke à, anh đoán rằng chị ấy nghĩ thế chỉ vì em đã không thể, ờ, xin nghỉ để dự bữa tiệc ngày lễ của Sony, hiểu không? Nhưng anh thề rằng lý do tại sao anh chưa nói với em là vì anh nghĩ chúng mình có thể hưởng một đêm hoàn toàn không nói về công việc. Anh sẽ nói với chị ấy rằng em sẽ đến.”

Brooke quay lưng đi về phòng ngủ. “Em sẽ tự mình nói với chị ta.”

Cô nhấn phím mở tiếng và nói, “Chị Samara à, hẳn là đã có sự hiểu nhầm nào đó, vì tôi chắc chắn sẽ đi cùng với Julian.”

Một khoảng im lặng dài trước khi Samara lên tiếng, “Cô biết rằng đó là một tiết mục biểu diễn, không phải tiết mục được đề cử giải, phải không?”

“Tôi hiểu.”

Một khoảng lặng nữa. “Và cô chắc chắn rằng lần này những nghĩa vụ riêng của cô không cản trở gì đấy chứ?”

Brooke những muốn hét lên với chị ta rằng chị ta thì biết cái gì, nhưng cô buộc mình phải giữ im lặng.

“Ờ, thế thì được. Chúng tôi sẽ lo việc đó,” Samara nói.

Brooke cố gắng phớt lờ sự ngần ngại – hay là sự thất vọng? – trong giọng nói của chị ta. Sao mà cô lại phải quan tâm Samara nghĩ gì cơ chứ? “Vâng, tuyệt lắm. Vậy tôi nên mặc cái gì nhỉ? Ý tôi là tôi chẳng có bộ nào diện đẹp cả. Chị có nghĩ rằng tôi nên đi thuê thứ gì đó không?”

“Đừng! Cứ để chúng tôi xử lý tuốt, được không? Chúng tôi chỉ cần cô đến trước buổi diễn sáu tiếng và chúng ta sẽ có váy đầm, giày, đồ lót, túi xách, đồ trang sức, tóc tai và trang điểm. Trước đó hai mươi tư giờ đừng gội đầu, đừng tắm nắng bằng đèn cực tím trừ phi chuyên gia tạo mẫu của chúng tôi giới thiệu một nhà thẩm mỹ chuyên nghiệp, hãy làm móng thật đẹp và dùng sơn loại Allure của hãng Essie hoặc Bubble Bath của hãng OPI ấy nhé, hãy tẩy lông chân tay trước khoảng năm đến bảy ngày, và dưỡng tóc kỹ trước bảy mươi hai giờ. Về màu tócôi sẽ giới thiệu cho cô một mỹ viện mà chúng tôi hợp tác ở New York. Tuần tới cô sẽ bắt đầu một quy trình highlight tóc.”

“Ối chà chà. Thôi được, chị có thể…”

“Đừng lo, tôi sẽ viết tất cả những việc này vào một email và chúng ta sẽ điểm lại từng mục. Nghe này, cô biết là các máy quay sẽ toàn quay Julian, và tôi biết là Leo đã gợi ý một người tập huấn cho cả hai người – cô cậu đã có thời gian cân nhắc điều đó chưa? – vậy hãy để tôi đặt lịch hẹn cho cô ở chỗ chúng tôi làm răng cho Julian nhé. Ông đó là thiên tài luôn, cô không thể nhận ra đó là răng bọc, trông tự nhiên lắm. Cô sẽ kinh ngạc khi thấy hiệu quả của việc đó cho mà xem.”

“Ừm, được ạ. Chỉ cần chị cho tôi biết cái…”

“Chúng tôi đã yêu cầu họ lo xong việc đó rồi. Tôi sẽ sớm gọi lại cho cô, Brooke ạ. Chúng ta sẽ giải quyết hết những vấn đề này. Tôi có thể nói chuyện với Julian được không? Tôi hứa chỉ hỏi nhanh một câu thôi.”

Brooke gật đầu một cách ngớ ngẩn, hoàn toàn không nhớ rằng Samara chẳng thể nhìn thấy cô, và đưa máy cho Julian, anh đã vào phòng ngủ để cởi quần áo. Anh nói, “Có”,“Không” và “Nghe được đấy, mai tôi sẽ gọi lại cho chị,” rồi anh quay sang cô.

“Em đi tắm bồn được chưa? Đi mà em!”

Cặp mắt anh van nài, và cô buộc mình gạt Grammy ra khỏi đầu. Họ đang có một đêm đẹp đến thế; cô quyết định không thể để bất cứ chuyện vớ vẩn nào kéo dài phá hỏng nó. Cô theo anh vào phòng tắm và trút bỏ áo quần.

Họ không bao giờ ngủ trên giường của cha mẹ Julian – quá sởn gáy nhưng họ rất thích dùng nhà tắm của phòng ngủ chính. Đó là thiên đường dưới hạ giới, rất mực xa xỉ. Nền nhà được sưởi ấm, bồn sục ngâm mình khổng lồ với buồng tắm hơi riêng, và tuyệt nhất là một lò sưởi ga nhỏ. Mặc dù Julian không thể bắt mình trèo vào bồn nước nóng bỏng đó, anh luôn mở nước đầy bho Brooke và sau khi tắm vòi sen xong anh bật lò sưởi rồi trèo lên bệ bồn sục, mình quấn độc chiếc khăn tắm, để bầu bạn với cô.

Brooke xúc thêm muối oải hương vào bồn nước và nằm gối đầu lên chiếc gối vải bông xù trên bồn. Julian đang hồi tưởng lại lần đầu tiên họ tắm bồn cùng nhau, trong một chuyến đi cuối tuần khi mới yêu. Anh nhớ lại vụ anh khổ sở với bồn nước nóng bỏng nhưng vẫn âm thầm chịu đựng để cố gây ấn tượng, và Brooke chỉ đăm đắm nhìn anh lúc anh nói, lòng tràn ngập trạng thái vừa cực kỳ thư giãn vừa mệt mỏi cực độ do bồn nước nóng giãy gây nên.

Sau đó, quấn mình bằng một chiếc khăn nhung lông to tướng, Brooke cùng Julian đi về phòng ngủ của họ, nơi anh đã thắp sẵn trên mỗi bên tủ đầu giường một ngọn nến và mở một bản nhạc êm đềm nào đó. Họ làm tình dịu dàng, từ tốn, như những đôi đã ở bên nhau nhiều năm và biết nhau đến chân tơ kẽ tóc, và lần đầu tiên sau hàng năm ròng họ ôm chặt nhau ngủ thiếp đi.

Họ ngủ đến xế trưa và thức giấc khi tuyết đã rơi dày đến mười lăm phân, báo hiệu chắc chắn họ sẽ phải ở Hamptons thêm một đêm nữa. Lòng hân hoan, Brooke quấn những lọn tóc xòa ra thành một búi, xỏ đôi bốt bánh mì, khoác chiếc áo ấm chần múi phồng và trèo lên phía cửa bên của chiếc xe Jeep mà ông bà Alter để đó suốt cả năm. Julian trông ngồ ngộ trong chiếc mũ ấm của cha anh mà anh tìm thấy trong tủ áo; trên đỉnh nó có một quả bông, và có hai sợi dây đính ở tai mũ để buộc dưới cằm. Anh dừng ở quán cà phê Starbucks ở Đông Hampton để Brooke có thể chạy vào mua một tờTimes, nhưng họ đi đến tiệm Golden Pear Café để ăn sáng.

Ngồi thu lu với cả hai tay bọc lấy cốc cà phê nóng, Brooke thở dài mãn nguyện. Nếu cô có thể lên kịch bản một đêm Giao thừa hạnh phúc nhất đời, thì nó sẽ y chang như hai mươi tư giờ vừa qua của họ. Julian đang đọc cho cô nghe bài báo về một người bị tù hai mươi tư năm thì được minh oan nhờ bằng chứng ADN thì điện thoại của cô đổ chuông.

Anh nhìn lên.

“Nola đấy,” Brooke nói trong lúc nhìn chằm chằm vào màn hình

“Em không định trả lời à?”

“Anh có phản đối không? Em đoán là cô nàng sẽ dốc bầu tâm sự với em về đêm giao thừa của cô nàng đấy.”

Julian lắc đầu. “Ngồi đây đọc báo là anh vui rồi. Anh chẳng thấy phiền gì cả.”

“Chào, Nol,” Brooke nói khẽ hết sức. Cô không thể chịu được khi người ta nói như hét vào điện thoại di động.

“Brooke à, các cậu đang ở đâu thế?”

“Cậu hỏi chúng tớ đang ở đâu là sao? Chúng tớ đang ở Hamptons, cậu biết rồi mà. Thậm chí tớ nghĩ rằng trời tuyết như thế này thì chúng tớ sẽ phải ở lại cho đến…”

“Cậu đã đọc số mới Last night trên mạng chưa?” Nola ngắt lời.

“Last night á? Chưa, mạng Wi-Fi ở ngôi nhà ấy không hoạt động. Tớ có tờ Timesđây…”

“Nghe này, tớ nói với cậu điều này chỉ vì tớ không muốn cậu nghe được từ ai khác. Sáng nay tạp chí Last night ra cả một bài khủng khiếp đưa ra mọi giả thiết về những nguyên nhân có thể làm Julian hủy sô diễn năm mới của anh ấy đêm qua.”

“Họ làm gì cơ?”

Julian nhìn cô và nhướng mắt lên có ý hỏi.

“Tất nhiên tất cả những giả thiết đó thật nhố nhăng. Nhưng tớ nhớ ra rằng cậu bảo Leo đang nghỉ đâu đó ở Nam Mỹ, và, ờ, tớ chỉ nghĩ là các cậu có thể muốn biết nếu như các cậu vẫn chưa biết thôi.”

Brooke hít một hơi sâu. “Tốt quá. Thật hết sảy. Cậu có thể kể cho tớ nghe bài báo nói gì không?”

“Cậu hãy lướt web trên điện thoại của Julian, được không? Tớ thực lòng xin lỗi vì phá hỏng buổi sáng của cậu, nhưng bài báo đó còn nói rằng bọn cậu chắc hẳn đang ‘trốn lánh’ ở Hamptons, vì thế tớ muốn báo trước cho các cậu biết rằng các cậu có thể có khách đến thăm đấy.”

“Ôi không,” Brooke rên lên.

“Tớ rất tiếc, bồ ạ. Hãy cho tớ biết nếu tớ có thể giúp được gì, nhé?”

Họ chào tạm biệt và lúc họ cúp máy rồi Brooke mới nhớ ra rằng cô còn chưa hỏi gì về đêm giao thừa của Nola cả.

Julian bắt đầu tìm bài báo của Last night trên điện thoại di động của anh thậm chí trước khi cô kể tóm tắt xong với anh. “Đây, anh thấy nó rồi.”

“Anh đọc to lên nào.”

Mắt Julian lướt tới lướt lui. “Chà,” anh lẩm bẩm và gõ nhẹ ngón tay trỏ lên màn hình. “Bọn họ moi những thứ này ở đâu ra mới được chứ?”

“Julian! Anh đọc ngay đi không thì đưa nó đây!”

Một cô gái trẻ chỉ mười sáu tuổi là cùng bê hai chiếc đĩa rụt rè đến bên bàn họ. Cô bé nhìn Julian, nhưng Brooke không chắc cô bé có nhận ra anh hay không. “Lòng trắng trứng cuộn rau tráng và bánh mì của ai ạ?” cô bé hỏi gần như là thầm thì.

“Bên này đây,” Brooke vừa nói vừa giơ một tay lên.

“Em đoán thế có nghĩa là anh sẽ ăn suất ăn sáng hỗn hợp phải không ạ?” cô bé nói với Julian mà miệng nhoẻn cười tươi rói đến mức chẳng còn phải ngờ gì nữa. “Bánh mì nướng kiểu Pháp với đường bột, hai trứng ốp la lòng đào và thịt muối xông khói chín kỹ đây ạ. Em có thể phục vụ gì thêm cho anh chị không?”

“Cảm ơn, chúng tôi đủ rồi,” Julian nói và ngay lập tức chọc nĩa của anh vào miếng bánh mì phồng xốp nướng kiểu Pháp. Cô thì mất hết cả sự ngon miệng rồi.

Anh chiêu một ngụm cà phê sau khi ngốn hết mọi thứ và cầm điện thoại của mình lên. “Em sẵn sàng chưa?”

Brooke gật đầu.

“Được rồi. Tít báo là ‘Julian Alter đang ở đâu?’ và ngay dưới tít đó là bức ảnh chụp anh trông nhễ nhại và phê phê mà có Chúa mới biết là ở đâu ra.” Anh chìa cho cô xem màn hình.

Brooke nhai miếng bánh mì nướng khô của cô, thầm nghĩ giá mình chọn bánh lúa mạch thì hơn. “Em nhận ra bức ảnh ấy. Nó được chụp ba mươi giây sau khi anh rời sân khấu sau tiết mục biểu diễn ở bữa tiệc của Kristen Stewart ở Miami. Trời hôm đó nóng đến ba mươi lăm độ và anh đã hát đến gần tiếng đồng hồ.”

Julian bắt đầu đọc. “ ‘Mặc dầu các nguồn tin cho chúng tôi biết chàng ca sĩ nổi tiếng đang lánh mặt tại ngôi nhà của cha mẹ anh ở Đông Hampton sau khi hủy lịch diễn tại chương trình đêm giao thừa của MTV đêm qua, nhưng điều mà dường như không ai có thể được là vì sao. Nhiều người ngờ rằng có trục trặc trên đỉnh cao đối với chàng ca sĩ nhạc nhẹ gợi tình đã đột nhiên trở nên nổi tiếng với album đầu tay For the Lost của anh. Một nguồn tin am hiểu ngành âm nhạc khẳng định rằng bây giờ là ‘thời cám dỗ’ khi rất nhiều những ngôi sao lên nhanh đầu hàng trước sự cám dỗ của ma túy. Mặc dù không có báo cáo cụ thể nào về việc lạm dụng ma túy, nhưng nguồn tin trong ngành âm nhạc đó nói ‘trung tâm phục hồi chức năng là một trong những nơi đầu tiên mà tôi tìm kiếm nếu một nghệ sĩ mới biệt tăm’.”

Julian nhìn lên cô, miệng anh há hốc vì kinh ngạc, chiếc điện thoại đung đưa hờ trên tay anh. “Họ ám chỉ rằng anh đang ở trong trung tâm hồi phục chức năng ư?” anh hỏi.

“Em không nghĩ rằng họ ám chỉ anh đang ở trong một trung tâm thực thụ,” Brooke nói dằn từng tiếng. “Thật ra em cũng không biết chắc họ định nói gì. Đọc tiếp đi anh.”

“‘Một nguồn tin am hiểu ngành âm nhạc à’?” Julian nhắc lại. “Họ có đùa không đấy?”

“Thôi đọc tiếp đi anh,” Brooke xúc một nĩa đầy trứng tráng ăn và cố giữ vẻ không lo lắng.

“ ‘Những người khác cả quyết rằng Julian và Brooke, người vợ là bác sĩ dinh dưỡng mà anh yêu chung thủy, đã và đang cảm thấy căng thẳng vì danh tiếng. ‘Tôi không thể tưởng tượng ra đôi nào còn thắm thiết được trong những hoàn cảnh căng thẳng như thế cả,’ bác sĩ tâm lý nổi tiếng Ira Melnick ở Beverly Hills phát biểu, cá nhân ông không điều trị cho gia đình Alter nhưng ông có nhiều kinh nghiệm với “những cặp bán-nổi-danh” như vậy (tức là một trong hai người nổi tiếng và người kia vô danh). ‘Nếu quả thực là ngay lúc này họ đang được tư vấn hôn nhân,’ bác sĩ Melnick nói tiếp, ‘thì chí ít họ còn có một cơ hội ngàn vàng’.”

“ ‘Một cơ hội ngàn vàng’ ư?” Brooke kêu lên. “Lão bác sĩ Melnick đó là lão chết tiệt nào và tại sao lão lại nhận xét về chúng mình khi mà chúng mình còn chưa gặp lão bao giờ?”

Julian chỉ lắc đầu. “Mà ai nói rằng chúng mình đang ‘cảm thấy căng thẳng vì danh tiếng’ thế nhỉ?” anh hỏi.

“Em không biết. Có thể họ ám chỉ toàn bộ chương trìnhToday và chuyện bầu bí chăng? Đọc tiếp đi anh.”

“Chà chà,” Julian nói, hiển nhiên anh đang tiếp tục đọc. “Anh vẫn luôn biết rằng những bài báo lá cải này toàn chuyện nhảm nhí rồi, nhưng bài này càng ngày càng kinh khủng hơn. ‘Khi mà trung tâm phục hồi chức năng hoặc tư vấn hôn nhân rất có khả năng là nguyên do Julian biến mất’” – Julian xổ ra từ cuối một cách đầy châm biếm – “‘hãy còn một khả năng thứ ba nữa. Theo một nguồn tin gần gũi với gia đình họ, chàng ca sĩ đang bị các tín đồ nổi tiếng của Khoa Luận giáo (1) ve vãn, nhất là John Travolta. ‘Tôi không rõ đó chỉ là một cử chỉ bè bạn hay là sự liên lạc để chiêu mộ, nhưng tôi có thể nói chắc chắn rang họ vẫn đang giữ liên lạc vói nhau,” nguồn tin gia đình cho biết. Những điều này làm tất cả chúng ta không khỏi băn khoăn: Liệu JBro có noi gương TomKat (2)và giữ vững niềm tin hay không? Hãy tiếp tục theo dõi…”

(1) Tức Scientology, một tổ chức tôn giáo tín ngưỡng sáng lập năm 1952 bởi nhà văn viết truyện huyền ảo và khoa học viễn tưởng L. Ron Hubbard, dựa trên hệ thống các quan điểm về sự tự cứu ông viết năm 1950. Rất nhiều người nổi tiếng gia nhập giáo phái này.

(2) JBro và TomKat: viết tắt kết hợp tên Julian và Brooke cùng đôi vợ chồng diễn viên điện ảnh Mỹ nổi tiếng Tom Cruise và Katie Holmes. Cặp vợ chồng diễn viên này cũng là tín đồ Khoa Luận giáo.

“Không hiểu em nghe anh có đúng không đấy? Có phải anh vừa nói ‘Jbro’ không?” Brooke hỏi mà tin rằng anh đã bịa ra chỗ đó.

“Khoa Luận giáo!” Julian nói như thét lên trước khi Brooke suỵt anh. “Họ nghĩ chúng mình là tín đồ Khoa Luận giáo!”

Đầu óc Brooke hoạt động hết tốc lực để tiếp thu tất cả những điều này. Trung tâm phục hồi chức năng ư? Tư vấn hôn nhân ư? Khoa Luận giáo ư? JBro ư? Việc tất cả những điều đó là bịa đặt cũng chả đáng bực lắm, thế nhưng những sự thật nhỏ nhoi làm nên cốt lõi của bài báo thì sao? “Nguồn tin gia đình” nào đã đề cập đến John Travolta, một người mà đúng là Julian có liên lạc, mặc dù việc đó chẳng hề dính dáng gì đến Khoa Luận giáo? Và ai đã nói bóng gió – lần thứ hai trong chính tạp chí này – rằng cô và Julian đang trục trặc trong quan hệ? Brooke lăm le chực hỏi điều đó, nhưng nhìn thấy mặt Julian đầy vẻ tức giận nên cô buộc mình xoa dịu tình hình.

“Nghe này, em không biết anh thế nào, nhưng đằng sau tất cả những Khoa Luận giáo, lão bác sĩ tâm thần lừng danh thế giới chưa từng gặp chúng ta và JBro đó, em thấy là anh đã cực kỳ thành công. Em muốn nói rằng nếu đó không phải là những dấu hiệu của sự nổi tiếng thì không hiểu nó là cái gì.” Cô cười tươi rói nhưng Julian vẫn nguyên vẻ buồn nản.

Chương 21

Brooke thấy ánh sáng chớp lên qua khóe mắt và một ý nghĩ vụt thoáng qua trong đầu cô rằng thật quái lạ sao giữa cơn bão tuyết thế này mà lại thấy ánh chớp lòe được. Trước khi cô kịp nói lên nhận xét đó thì cô phục vụ trẻ tuổi lại xuất hiện bên bàn của họ.

“Tôi, ờ, chà,” cô bé lẩm bẩm, tỏ ra vừa lúng túng vừa háo hức. “Tôi xin lỗi về những tay thợ ảnh ở ngoài kia…” giọng cô bé nhỏ dần đúng lúc Brooke quay ra và thấy bốn người tì máy ảnh lên bậu cửa sổ quán cà phê. Julian chắc hẳn đã nhìn thấy họ trước cô, vì anh chìa tay qua bàn nắm lấy tay cô và nói, “Chúng mình phải đi ngay thôi.”

“Người, ờ, quản lý bảo họ rằng họ không được vào bên trong, nhưng chúng tôi không thể bắt họ rời khỏi vỉa hè được,” cô bé phục vụ nói. Cô bé có cái vẻ Chỉ hai giây nữa tôi sẽ hỏi xin chữ ký của anh trên mặt, và Brooke biết rằng họ phải đi ngay lập tức.

Cô lôi trong ví ra hai tờ hai mươi đô la, dúi vào tay cô bé và hỏi, “Ở kia có cửa sau không?” Khi cô bé gật đầu, Brooke nắm chặt tay Julian và nói, “Đi thôi.”

Họ chộp lấy áo khoác, găng tay, khăn rồi tiến thẳng tới phía sau tiệm cà phê. Brooke cố gắng không nghĩ trông cô tệ hại đến mức nào, rằng cô cực kỳ mong cả thế giới đừng thấy những bức ảnh chụp cô trong chiếc quần thụng và tóc buộc đuôi ngựa biết bao, nhưng cô còn mong muốn bảo vệ Julian hơn thế nhiều. Do phép mầu may mắn nào đó chiếc Jeep của họ đỗ ở bãi sau, và họ đã lên được xe, nổ máy và quay xe ngay ra khỏi bãi đỗ xe trước khi những tay săn ảnh nhìn thấy họ.

“Chúng mình làm gì đây?” Julian thảng thốt hỏi. “Mình không thể về nhà vì họ sẽ theo mình. Họ sẽ đóng đô ở đấy mất.”

“Thế anh không nghĩ rằng có khi họ đã biết nó ở đâu rồi à? Chẳng phải vì thế mà họ ở đây ư?”

“Anh không biết nữa. Chúng mình đang ở giữa làng Đông Hampton. Nếu muốn tìm ai đó ta biết chắc rằng đang ở Hampton giữa mùa đông tháng giá này, thì đây chính là nơi thích hợp để bắt đầu. Anh nghĩ rằng họ chỉ ăn may thôi.” Julian lái xe trên xa lộ 27 về phía Đông, xa khỏi ngôi nhà của cha mẹ anh. Ít nhất có hai chiếc xe theo sau họ.

“Chúng mình có thể chạy thẳng về thành phố…”

Julian vỗ tay lên vô lăng. “Tất cả đồ đạc của mình còn để trong ngôi nhà đó. Hơn nữa, thời tiết thay đổi thế này – chúng ta sẽ tự giết mình mất.”

Họ im lặng một thoáng trước khi Julian bảo, “Hãyquay số trực không khẩn cấp của cảnh sát địa phương vàbật loa lên em.”

Brooke không rõ Julian định làm gì, nhưng cô không muốn tranh luận. Cô quay số và Julian bắt đầu nói khi nghe một nữ điều vận trả lợi điện thoại.

“Xin chào, tên tôi là Julian Alter và tôi đang lái xe về hướng Đông trên xa lộ 27, vừa mới đi qua làng Đông Hampton xong. Có một số ô tô -người săn ảnh – đang đuổi theo xe tôi với tốc độ không an toàn. Tôi sợ rằng nếu tôi về nhà họ sẽ xông vào nhà tôi. Có cách nào để một sĩ quan cảnh sát có thể đến gặp tôi tại nhà để nhắc nhở họ rằng họ đang xâm phạm tư gia không?”

Người phụ nữ đồng ý cử người đến trong hai mươi phút nữa và sau khi cung cấp địa chỉ nhà cha mẹ anh cho chị ta, anh cúp máy.

“Thế là thông minh đấy,” Brooke nhận xét. “Sao anh lại nghĩ ra cách ấy?”

“Anh không nghĩ ra. Đó là điều Leo đã bảo anh làm nếuchúng mình ở bất kỳ đâu ngoài Manhattan và bị đeobám. Xem nó có hiệu quả thực sự không nhé.”

Họ tiếp tục lái lòng vòng trong suốt hai mươi phút, rồi Julian nhìn đồng hồ và rẽ vào một đường làng nhỏ hẹp dẫn tới đồng cỏ rộng nơi ngôi nhà của ông bà Alter tọa lạc trên một mẫu rưỡi đất. Sân trước rộng rãi và cảnh quan được kiến tạo khá đẹp, nhưng ngôi nhà không đủ xa để tránh ống kính viễn vọng của máy ảnh. Cả hai người đều cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy một chiếc xe canh sát đỗ ở giao lộ giữa con đường trang trại và đường xe chạy. Julian đỗ xe ngay cạnh rồi hạ kính thấp xuống; hai chiếc xe đi theo họ giờ đã thành bốn chiếc, và tất cả đều đỗ ngay sau họ. Họ có thể nghe thấy tiếng máy ảnh bấm tanh tách trong lúc viên sĩ quan cảnh sát tiến đến chiếc Jeep.

“Chào ngài sĩ quan. Tôi là Julian Alter và đây là Brooke vợ tôi. Chúng tôi chỉ cố gắng về nhà một cách yên lành mà thôi. Anh có thể giúp chúng tôi được không?”

Viên sĩ quan cảnh sát còn trẻ tuổi, chắc hẳn mới gần ba mươi, và trông anh ta chẳng có vẻ gì bực bội khi bị quấy rầy vào sáng mùng một Tết cả. Brooke thầm tạ ơn trời và thấy mình chỉ mong viên cảnh sát nhận ra Julian.

Anh ta không làm cô thất vọng.

“Julian Alter hả? Người yêu tôi rất hâm mộ anh đấy. Một số người chúng tôi có nghe đồn rằng gia đình anh sống ởchúng tôi không chắc lắm. Đây là nhà của cha mẹ anh phải không?”

Julian liếc nhìn tấm thẻ tên của anh ta. “Chính thế, thưa ngài sĩ quan O’Malley,” anh trả lời. “Tôi rất vui khi biết bạn gái anh là một người hâm mộ. Anh có nghĩ rằng cô ấy sẽ thích một album được ký tặng không?”

Tiếng tanh tách từ các máy ảnh tiếp diễn, và Brooke lăn tăn không biết những bức ảnh đó sẽ giật cái tít như thế nào. “Julian Alter bị bắt trong một cuộc đua xe của những kẻ phê ma túy” chăng? Hay là “Sĩ quan cảnh sát nói với Alter: Chúng tôi không muốn thấy loại người như anh ở đây”. Hoặc giả là cái tít khiến mọi người thích thú “Alter cố gắng cải đạo cho sĩ quan cảnh sát thành tín đồ Khoa Luận giáo”.

Mặt O’Malley sáng lên khi nghe lời gợi ý đó. “Tôi chắc cô ấy sẽ thích lắm,” anh ta vừa nói vừa thổi phù phù vào tay mình, đôi tay trông đỏ ửng và nứt nẻ. “Tôi nghĩ cô ấy sẽ thích mê.”

Trước khi Julian kịp thốt ra lời nào, Brooke mở ngăn đựng găng tay trên xe và đưa cho Julian một chiếc đĩa For the Lost. Họ để một chiếc mới tinh ở đó để xem cha mẹ Julian có nghe nó trước khi mùa hè tới thật hay không, nhưng cô nhận thấy dùng nó vào việc này còn tốt hơn nhiều. Cô lục lọi trong túi và moi ra một chiếc bút.

“Tên cô ấy là Kristy,” viên sĩ quan nói và cẩn thận đánh vần cái tên này đến hai lần.

Julian xé vỏ bao ni lông khỏi đĩa CD, bỏ những tờ lót album ra, và ngoáy bút, “Tặng Kristy, thân ái, Julian Alter.”

“Này, cảm ơn nhé. Cô ấy sẽ sướng điên,” O’Malley nói và cẩn thận đút đĩa CD vào túi áo khoác. “Nào, tôi có thể làm được gì cho anh chị đây?”

“Bắt mấy anh chàng đó chăng?” Julian nói và cười nửa miệng.

“Sợ rằng tôi không thể, nhưng tôi chắc chắn có thể bảo họ rút lui và nhắc nhở họ các quy định về bất động sản sở hữu tư nhân. Anh chị cứ đi đi. Tôi sẽ chỉ dẫn tường tận cho những người bạn này của anh chị ở đây. Cứ gọi cho tôi nếu có vấn đề gì nữa nhé.”

“Cảm ơn!” cả Brooke và Julian đồng thanh nói. Họ chào tạm biệt O’Malley và không ngoái đầu nhìn, họ đánh xe vào ga ra rồi đóng cửa lại.

“Anh ta thật tốt bụng,” Brooke nói trong lúc họ bước vào sảnh và đá văng đôi bốt ra.

“Anh sẽ gọi cho Leo ngay bây giờ,” Julian nói trong lúc đã đi được nửa chừng đến phòng đọc của cha anh phía sau nhà. “Chúng mình đang bị bao vây mà gã thì nằm ườn trên bãi biển nào đó.”

Brooke nhìn theo anh rồi đi từ phòng này sang phòng khác để kéo rèm che cửa. Xế chiều trời đã bắt đầu xám xịt lại, và cô thấy những ánh đèn flash bắn thẳng vào cô trong lúc cô đi từ cửa sổ này sang cửa sổ khác. Từ phía sau một trong những tấm mành che phòng dành cho khách trên tầng hai, cô hé nhìn ra ngoài và suýt nữa thì thét lên khi thấy một người đàn ông với ống kính phóng cỡ bằng quả bóng đá chĩa thẳng vào cô. Chỉ có một phòng không có màn che cửa sổ – một phòng vệ sinh của phòng nhỏ chưa bao giờ có người sử dụng trên tầng ba – nhưng Brooke không dám bỏ liều. Cô dùng băng keo dán một túi ni lông đựng rác công nghiệp to và chắc che nó đi rồi quay trở lại tầng dưới để xem Julian thế nào.

“Anh ổn chứ?” cô hỏi và đẩy cửa phòng đọc ra sau khi không nghe tiếng trả lời khi cô gõ cửa.

Julian từ laptop ngước lên. “Ừ, ổn cả. Còn em? Xin lỗi vì tất cả những phiền phức này,” anh nói mà Brooke chẳng thể nhận ra sắc thái trong giọng anh. “Anh biết nó phá hỏng hết mọi thứ.”

“Nó đâu có phá hỏng thứ gì,” cô nói dối.

Lại không có câu trả lời. Anh tiếp tục nhìn chằm chằm

“Em đi nhóm lò sưởi rồi chúng mình cùng xem phim nhé? Anh thấy thế nào?”

“Được. Tốt lắm. Vài phút nữa anh sẽ ra, được không?”

“Tuyệt,” cô nói với vẻ hân hoan gượng gạo. Cô nhẹ nhàng khép cửa đằng sau mình và rủa thầm cái bọn săn ảnh trời đánh thánh vật đó, cả cái bài báo khốn nạn trên tờLast night nữa, và – một phần thôi nhé – đầu tội là sự nổi tiếng của chồng cô. Cô sẽ cố gắng hết sức vững vàng vì Julian, nhưng anh đã đúng một điều: nơi ẩn náu thanh bình, hạnh phúc và rất đỗi cần thiết của họ đã không còn. Không một ai lái xe vào đường xe chạy hoặc đi bộ qua bãi cỏ, nhưng đám đông bên ngoài càng lúc càng đông thêm. Đêm hôm đó họ ngủ trong văng vẳng tiếng người chuyện trò cười nói, tiếng máy ô tô nổ rồi tắt, và mặc dù họ cố hết mức để phớt lờ nhưng cả hai đều không thể. Hôm sau, lúc tuyết đã tan đủ để khởi hành được, họ mới chỉ chợp mắt được một hai tiếng đồng hồ và cảm thấy như vừa chạy việt dã hai cua liền, và họ hầu như chẳng nói một lời trên đường về thành phố. Họ bị đeo bám suốt đường về nhà.

12

Khá hơn hay tệ hơn những bức ảnh chụp Sienna

“A lô?” Brooke nói vào điện thoại.

“Tớ đây mà. Cậu mặc đồ chưa đấy? Cậu chọn bộ nào?” Giọng Nola hổn hển, háo hức.

Brooke nhìn trộm người đàn bà trạc ba mươi gì đó đứng bên cạnh mình và thấy chị ta cũng đang lén nhìn lại cô. Nhân viên bảo vệ của khách sạn Beverly Wilshire đang nỗ lực giữ không cho những tay săn ảnh vào, nhưng đầy những phóng viên và nhiếp ảnh gia đã lách quy định bằng cách đặt phòng ở chính khách sạn này. Cô đã bắt gặp chính người phụ nữ này theo dõi mình trong hành lang khi cô chạy xuống dưới sảnh xem cửa hàng bán tặng phẩm có viên ngậm bạc hà Altoids không, và đúng như cô đã nghi ngờ, chị ta trườn vào thang máy cùng cô ngay khi cửa sắp đóng. Xem bề ngoài của chị ta – áo lụa không taycắm thùng trong chiếc quầnmay đo rất khéo, giày cao gót đắt tiền và đồ trang sức đơn giản mà thanh lịch – Brookesuy ra rằng chị ta không phải là một blogger, một nhà báo phụ trách chuyên mục lượm lặt, hoặc một tay săn ảnh bí mật giống kiểu cái gã ngồi bên ngoài tòa nhà của họ và cái gã lén theo trong siêu thị. Điều đó khiến chị ta có thể là một thứ đáng sợ hơn: một phóng viên thực thụ, năng nổ, thông minh và tình ý.

“Một phút nữa tớ sẽ về đến phòng. Lúc đó tớ sẽ gọi lại cậu nhé.” Brooke gập điện thoại trước khi Nola có cơ hội nói thêm một lời.

Người phụ nữ nhoẻn cười với cô khoe hàm răng đẹp trắng bóng như ngọc trai. Nụ cười đó dịu dàng như muốn nói, Tôi hiểu cảm giác đó! Tôi cũng bị bạn bè gọi điện quấy rầy suốt, nhưng trong vài tháng vừa qua Brooke đã rèn luyện bản năng của mình đến độ hoàn hảo rồi: bất chấp bề ngoài không có gì đe dọa và biểu lộ sự thông cảm, người phụ nữ này là một kẻ lợi dụng, một kẻ săn tin nóng, một ma cà rồng luôn mưu mô đem phơi bày những chuyện riêng tư. Đứng yên là ta sẽ bị cắn ngay. Brooke mong sao thoát ra khỏi thang máy.

“Cô đến đây dự lễ trao giải Grammy phải không?” người phụ nữ đó ân cần hỏi, cứ như thể chị ta quá quen thuộc với những cam go trong việc chuẩn bị cho một sự kiện như thế.

“Ừmm,” Brooke ậm ừ, không muốn nói ra thêm một điều gì cả. Cô biết, biết chính xác là khác, rằng người phụ nữ này sắp sửa bung ra cả đống câu hỏi dồn dập về cô – trước đó cô đã từng chứng kiến một cuộc trình diễn kiểu giải-giáp-rồi-tấn-công của một blogger đặc biệt xông xáo, ả đã tiếp cận cô sau buổi biểu diễn của Julian ở chương trìnhToday, giả bộ là một người hâm mộ vô hại – nhưng cô cũng không thể để mình tỏ ra quá ư thô lỗ.

Thang máy dừng ở tầng mười và Brooke phải chịu đựng câu đối thoại “Ồ, thang này đang đi lên à? Ôi, tôi đang đi xuống cơ mà” giữa người phụ nữ đó và có vẻ đặc sệt dân Âu (cả hai đều mặc quần lửng, quần ông chật hơn quần bà, và mỗi người đeo một chiếc ba lô Invicta màu chói kiểu khác nhau). Cô nín thở và mong sao thang máy tiếp tục đi.

“Hẳn là phải háo hức lắm khi đến dự buổi biểu diễn lần của chồng ở lễ trao giải Grammy, đặc biệt là khi tiết mục của chồng cô được chờ đón nhiều đến thế.”

Đó. Brooke thở hắt ra và cảm thấy, kỳ lạ sao, tức thì nhẹ nhõm hơn. Đó là sự nhẹ nhõm khi những mối nghi ngờ của cô được khẳng định; bây giờ thì không ai trong hai người còn phải giả vờ giả vịt nữa. Cô thầm nguyền rủa mình đã không để cho trợ lý của Leo chạy việc vặt hộ, nhưng ít nhất giờ đây cô cũng biết người ta chờ đợi điều gì ở cô. Cô dán mắt lên bảng đèn hiệu thang máy bên trên cánh cửa và cố hết mức giả bộ như cô chưa nghe thấy một lời nào của người phụ nữ kia.

“Tôi cứ băn khoăn, Brooke à,” – nghe tên mình được gọi lên, đầu Brooke ngẩng phắt lên theo bản năng – “không biết cô có nhận xét gì về những bức ảnh gần đây không?”

Những bức ảnh gần đây. Chị ta đang nói về cái gì ấy nhỉ? Brooke lại một lần nữa nhìn chằm chằm vào cửa thang máy và tự nhắc mình rằng loại người như thế sẽ nói bất cứ điều gì để moi lấy của mình dù chỉ là một câu thôi – một câu nói mà rồi họ sẽ bóp méo và lồng vào bất cứ thứ rác rưởi nào họ bịa đặt ra. Cô tự hứa sẽ không rơi vào cái bẫy đó.

“Chắc hẳn khó mà chịu đựng được tất cả những lời ong tiếng ve về chồng mình với người đàn bà khác – thậm chí tôi không hình dung được điều đó nữa. Cô có nghĩ rằng điều đó sẽ làm cô mất vui với lễ hội đêm nay không?”

Cánh cửa thang máy rốt cuộc cũng mở ra ở dãy phòng áp mái trên tầng thượng. Brooke bước ra khỏi thang máy vào sảnh dẫn đến dãy phòng suite ba buồng ngủ của họ, giờ đây là bãi chiến trường của cuộc chuẩn bị điên cuồng cho lễ trao giải Grammy. Cô chỉ muốn trợn mắt lên mà nói rằng nếu Julian quả thật đã ngủ với hết thảy số đàn bà như những tờ báo lá cải ám chỉ, thì không những anh đã vượt xa Tiger (1) mà còn chẳng thể có lấy một giây đồng hồ để biểu diễn dù chỉ là một bài. Cô muốn nói rằng sau khi ta đã đọc vô số những thông tin chi tiết từ những nguồn tin vô danh nói rằng chồng ta có thói hứng tình với tất cả kể từ các cô vũ nữ thoát y xăm mình đến những người đàn ông béo phì thì những lời tuyên bố về tính bội bạc thường xuyên cũ rích đó thậm chí còn không được để ý đến. Trên hết, cô những muốn nói với người phụ nữ đó rằng cô biết mười mươi chồng cô tuy là người tài năng xuất chúng và hiện giờ hiển nhiên là đã nổi tiếng nhưng vẫn ói mửa trước mỗi buổi biểu diễn, toát mồ hôi trước những cô gái trẻ hò reo khi anh xuất hiện, và có một niềm say mê không thể giải thích được với việc cắt móng chân trên bồn cầu. Rànhlà anh không phải loại người không chung thủy, và những ai thực sự hiểu anh đều biết rõ điều đó.

(1) Tiger Woods (1975): tay golf huyền thoại của Mỹ, nổi tiếng đào hoa.

Nhưng tất nhiên cô không thể nói bất cứ điều gì như thế, vì vậy, cũng như mọi khi, cô chẳng nói một lời mà chỉ nhìn cửa thang máy đóng lại.

Tốì nay mình sẽ không nghĩ gì về chuyện đó hết, Brooke tự ra lệnh cho mình trong lúc cô mở khóa cửa bằng tấm thẻ từ. Tối nay chỉ nghĩ đến Julian thôi. Không hơn không kém. Đêm nay là đêm khiến tất cả những sự xâm phạm đời tư và những nỗi kinh hoàng đối với kế hoạch làm việc và giai đoạn lộn xộn trong cuộc đời họ đều trở nên xứng đáng. Có hề gì những cái đã xảy ra – một tin đồn mới đồi bại về Julian vàngười đàn bà khác, một kiểu ảnh chụp trộm gây bẽ bàng, một nhận xét độc địa mà ai đó trong ê kíp của Julian phát ngôn khi cố tỏ ra “hữu ích” – vì cô đã quyết chí hưởng thụ từng giây của buổi tối đầy ý nghĩa đó. Chỉ vài giờ trước thôi mẹ cô đã thi vị hóa buổi tối này rằng đó là “sự kiện cả đời mới có một”, và rằng nhiệm vụ của cô là trải nghiệm nó đến nơi đến chốn. Brooke thề sẽ làm đúng như thế.

Cô sải bước vào phòng và nở nụ cười với một trong các trợ lý – lúc này ai mà phân biệt được họ nhỉ? – cô ta dẫn ngay cô vào chiếc ghế trang điểm mà thậm chí không chào hỏi lấy một tiếng. Mối lo âu tràn ngập trong phòng không có nghĩa là đêm diễn sẽ không tuyệt vời. Cô sẽ không để việc sửa sang chuẩn bị này làm cô tinh thần.

“Kiểm tra thời gian!” một trợ lý kêu lên the thé đến chói tai, và cái giọng đặc sệt New York còn làm cho tiếng rít tệ thêm.

“Một giờ mười phút!” “Hơn một giờ chút xíu!” “Một giờ mười!” Ba người khác trả lời cùng một lúc, giọng đều hơi hốt hoảng.

“Được rồi, mọi người, hãyđẩy nhanh công việc lên! Chúng ta còn một tiếng năm mươi phút nữa, có nghĩa là, áng chừng mọi việc thì” – cô ta ngừng nói và ngó khắp phòng với đôi mắt đảo lia đảo lịa và nhìn xoáy vào mắt Brooke rồi giữ nguyên cái nhìn đó cho đến khi cô ta nói hết câu – “chúng ta thậm chí còn chưađạt mức độ có thể trình diễn được.”

Brooke rón rén giơ tay lên, thận trọng để khỏi làm gián đoạn hai người đang trang điểm mắt cho cô, và ra dấu cho người trợ lý đó lại gần.

“Gì thế ạ?” Natalya hỏi, cố gắng giấu vẻ bực bội.

“Cô nghĩ bao giờ thì Julian về? Có việc này tôi cần phải…”

Natalya ngúng nguẩy cặp hông gần như phẳng lỳ và tra cứu trên chiếc bìa kẹp tài liệu Lucite. “Xem nào, anh ấy vừa làm mát xa thư giãn xong và đang trên đường đi xông hơi cạo mặt. Đúng hai giờ anh ấy phải về đến đây, nhưng anh ấy còn phải gặp thợ may để kiểm tra lại vị trí của cái ve áo xem đã ổn chưa.”

Brooke tươi cười ngọt ngào với cô gái bị quấy nhiễu đó và quyết định dùng một chiến thuật khác. “Hẳn là cô phải rất mong ngày hôm nay qua đi cho suôn sẻ. Cứ nhìn là biết ngay cô không ngừng hoạt động lấy một giây.”

“Có phải đấy là cái cách chị nói rằng trông tôi như cứt ấy không?” Natalya phản pháo, tay cô ta đưa lên tóc một cách vô thức. “Vì nếu đúng thì chị cứ nói thẳng tuột cho xo

Brooke thở dài. Sao mà phát biểu một câu đúng đắn với cái đám người này lại khó thế kia chứ? Mới mười lăm phút trước khi cô mạo hiểm hỏi Leo xem khách sạn Beverly Hills mà họ đang ở có phải chính là nơi người ta đã quay phim Pretty Women hay không, gã đã sủa lại rằng cô hãy dùng thời gian của mình mà tự xem lấy.

“Tôi đâu có định nói thế. Chỉ là vì tôi biết hôm nay là một ngày vất vả khủng khiếp, và tôi nghĩ rằng cô đang xử lý mọi việc một cách tuyệt vời.”

“Ừ thì cũng phải có ai đó làm chứ,” Natalya nói rồi bỏ đi.

Brooke thèm được gọi cô ta quay lại nói chuyện xã giao một chút, nhưng rồi cô nghĩ lại khi nhớ ra rằng một phóng viên cách đó có mấy bước chân đang quan sát tất cả mọi việc. Rủi thay, phóng viên này lại được phép theo họ trong những giờ trước thềm lễ trao giải Grammy để phục vụ cho bài báo tiêu điểm mà tạp chí đó đang làm về Julian. Leo đã thương lượng một vụ trong đó cho phép tiếp cận Julian thoải mái trong một tuần nếu tạp chíNew York đảm bảo dành cho anh trang bìa, và vì thế giờ đây đã bốn ngày ròng rã trong tuần này cả ê kíp làm việc củaJulian phải rất nhọc nhằn để luôn giữ cái vẻ tươi cười nhưmuốn nói “chúng tôi rất yêu công việc của chúng tôi” – và thất bại một cách thảm hại. Mỗi lần Brooke thoáng thấy bóng tay phóng viên – có vẻ là một gã khá dễ chịu – là cô lại mơ được giết gã.

Cô bị ấn tượng khi thấy một phóng viên giỏi có thể trà trộn vào đám đông mới khéo làm sao. Trước kia lúc cuộc sống còn bình lặng, cô luôn thấy việc một đôi vợ chồng cãi nhau hay khiển trách một nhân viên hoặc thậm chí là trả lời điện thoại trước mặt một phóng viên săn tin nóng thật là lố bịch; giờ đây cô chỉ thấy thông cảm với những người đó mà thôi. Phóng viên của tạp chí Nem York theo dõi họ đã bốn ngày nay, nhưng do giả bộ mù câm điếc, anh ta tạo cảm giác thật mờ nhạt. Cái trạng thái mà Brooke biết rằng chính là lúc anh ta nguy hiểm nhất.

Cô nghe thấy tiếng chuông cửa nhưng không thể quay lại mà không mạo hiểm làm hỏng kẹp uốn tóc nóng. “Liệu đó có thể là bữaỉ?” Brooke hỏi.

Một trong hai chuyên gia trang điểm khịt mũi. “Không thể nào. Có vẻ con mụ ác ôn sắp xếp chương trình kia chẳng coi ăn uống là việc được ưu tiên gì cả. Bây giờ thì đừng nói chuyện nữa trong lúc tôi đang che những nếp nhăn của cô đi nhé.”

Những nhận xét kiểu đó thậm chí còn chẳng được để ý nữa; Brooke mừng vì cô gái kia không hỏi xem cô có nghĩ đến liệu pháp làm trắng da để xóa những vết tàn nhang đi không, một việc mà hiện thời dường như đã thành chủ đề thường xuyên được thảo luận. Cô cố gắng lái sự chú ý của mình sang tờ Los Angeles Times, nhưng cô không thể tập trung đầu óc khi xung quanh mình náo nhiệt như vậy. Brooke quan sát dãy phòng áp mái sang trọng trên tầng thượng rộng gần hai trăm mét vuông và nhận ra hai chuyên gia trang điểm, hai nhà tạo mẫu tóc, một nghệ nhân làm móng, một nhà tạo mẫu, mộtngười phụ trách PR, một người đại diện, một nhà quản lý, tay phóng viên của tạp chíNew York, một nhân viên thử quần áo từ hiệu Valentino, và một số kha khá trợ lý đủ để cung cấp cho cả Nhà Trắng.

Dù quang cảnh đó hiển nhiên là tức cười, nhưng Brooke không thể kiềm chế nỗi háo hức với tất tật mọi thứ. Cô đang có mặt tại lễ trao giải Grammy – Grammy cơ đấy! – và sắp sửa cùng chồng đi trên thảm đỏ trước mắt cả thế giới. Nói rằng điều này nghe có vẻ phi thực tế còn là nhẹ; một sự kiện tầm cỡ này có bao giờ cho ta cảm giác có thực hay không? Từ lần đầu tiên cô nghe Julian hát tại quán bar Rue B gần chín năm trước đây, cô đã bảo với tất cả những ai chịu nghe rằng anh sẽ là một ngôi sao. Điều mà cô chưa bao giờ mường tượng ra được là hiện thực của cái từ đó – “ngôi sao”. Ngôi sao nhạc rock. Siêu sao. Chồng cô, chính cái người vẫn mua thuần một loại quần đùi Hanes mỗi hộp ba chiếc và thích bánh mì dài ở tiệm Olive Garden và cậy gỉ mũi mỗi khi anh nghĩ cô không nhìn thấy, lại là một ngôi sao nhạc rock lừng danh quốc tế với hàng triệu người hâm mộ nhiệt tình, tung hô, tôn thờ anh. Cô chẳng thể tưởng tượng ra cái lúc đầu óc cô dung nạp được sự thật ấy, dù là bây giờ hay mãi về sau.

Chuông cửa reo vang đến hồi thứ hai thì một trợ lý trẻ đến mức khó tin mới nhảy bổ ra mở cửa – và ngay lập tức kêu rú lên.

“Ai thế?” Brooke hỏi mà không thể mở mắt ra trong khi đang kẻ viền mí mắt.

“Nhân viên bảo vệ của hiệu Nail Lane,” cô nghe thấy Natalya đáp. “Ông ấy mang đồ trang sức của chị đến.”

“Đồ trang sức của tôi á?” Brooke hỏi lại. Cô sợ rằng mình cũng sẽ kêu rú lên như thế, vì vậy cô mím chặt miệng lại và cố nín cười.

Rốt cuộc cũng đến lúc mặc váy xống, Brooke tưởng mình có thể ngất lịm vì háo hức (và thiếu dinh dưỡng nữa, nhưng dù có cả đội quân trợ giúp trong phòng khách sạn này, dường như chẳng một ai lo đến chuyện ăn uống cả). Hai người trợ lý nâng chiếc đầm Valentino lộng lẫy mở sẵn và một trợ lý khác đỡ tay cô trong lúc cô bước vào trong lòng nó. Phéc mơ tuya sau lưng kéo lên trơn tru và ôm lấy đôi hông gần đây đã trở nên thon nhỏ của cô và nâng bộ ngực của cô lên vừa khéo cứ như nó được thửa riêng cho cô vậy – mà, hiển nhiên là thế. Cái dáng tiên cá của bộ đầm làm nổi bật eo lưng thon nhỏ đồng thời che bớt “cặp đèn hậu” căng tròn của cô, vai trần khoét rãnh ngực kiểu vỏ sò úp làm nổi bật khe ngực cô vừa khéo. Ngoài màu sắc ra (màu vàng sậm, không ánh kim mà giống như cô mang một nước da rám nắng óng ánh tuyệt hảo vậy) thì nó còn là bài học rằng lụa là lộng lẫy và kiểu dáng hoàn mỹ có thể vượt xa những thứ bèo xếp, cườm đính, tay váy, ruy băng, kim sa, vải canh hay hạt pha lê khi đưa một chiếc đầm chỉ từ đẹp đến độ hút hồn. Cả nhân viên thử đồ từ Valentino lẫn nhà tạo mẫu của Brooke đều gật đầu tán thưởng, và Brooke sung sướng vì vài tháng qua cô đã tăng cường tập luyện gấp đôi. Rốt cuộc cũng đã được bù đắp.

Tiếp theo đó là đồ trang sức, và thật quá sức tưởng tượng. Nhân viên bảo vệ, một người đàn ông thấp lùn có đôi vai như vai một hậu vệ đội bóng bầu dục, giao ba hộp bọc nhung cho nhà tạo mẫu, cô này mở chúng ra ngay.

“Tuyệt hảo,” cô ta nói trong lúc rút những món trang sức ra khỏi hộp nhung.

“Ôi Chúa ơi,” Brooke thốt lên khi vừa nhìn thấy đôi hoa tai. Đó là đôi hoa tai giọt lệ mặt kim cương hình trái lê được viền bằng những viên kim cương nhỏ tinh tế và có cái vẻ huyền hoặc của Hollywood thời x

“Cô quay lại đi,” nhà tạo mẫu ra lệnh. Cô ta đeo đôi hoa tai vào dái tai Brooke một cạch điệu nghệ và lồng chiếc vòng tay cùng kiểu vào cổ tay phải của cô.

“Chúng lộng lẫy quá,” Brooke vừa hào hển vừa nhìn chằm chằm vào đống kim cương lấp lánh trên cườm tay. Cô quay sang nhân viên bảo vệ. “Tối nay anh nên theo tôi vào nhà vệ sinh thì hơn. Tôi có cái thói lúc nào cũng ‘đánh mất’ đồ trang sức đấy!” Cô cười to tỏ ra mình đang đùa nhưng nhân viên bảo vệ chẳng buồn nhếch mép.

“Tay trái,” nhà tạo mẫu quát.

Brooke chìa tay trái của mình ra, và trước khi cô kịp hiểu điều gì đang xảy ra thì cô ta đã tháo chiếc nhẫn cưới bằng vàng trơn của cô ra, chiếc nhẫn mà Julian đã khắc ngày cưới của họ lên đó, và thay nó bằng một chiếc nhẫn kim cương cỡ bằng chiếc bánh hạnh nhân.

Brooke rụt phắt tay lại ngay khi nhận ra. “Không, thế không được đâu, vì cô biết đây, ờ, thế là, ừm…”

“Julian sẽ thông cảm thôi,” cô ta bảo, và nhấn mạnh quyết định của mình bằng cách đóng sập nắp hộp nhẫn lại. “Tôi sẽ đi lấy máy chụp ảnh lấy ngay để chụp thử vài kiểu cho chắc rằng mọi thứ lên hình sẽ đẹp. Đứng yên đây nhé.”

Cuối cùng cũng được một mình, Brooke quay một vòng trước tấm gương soi toàn thân được đưa đến phòng dành riêng cho dịp này. Trong suốt đời mình, cô không thể nhớ được là đã bao giờ thấy mình xinh đẹp dù chỉ gần bằng lúc này chưa. Lớp trang điểm tôn cô lên nhưng vẫn rất thật mặt, và làn da cô ánh lên sắc tươi nhuận. Kim cương lóng lánh đầy mình, tóc cô trông rất mốt nhưng vẫn được túm lại thật tự nhiên và búi trễ sau gáy, và trang phục của cô còn trên cả tuyệt vời. Cô cười tươi với bóng mình trong gương và chộp lấy máy điện thoại trên bàn đầu giường với niềm háo hức chia sẻ giây phút này.

Full | Lùi trang 6 | Tiếp trang 8

Loading...

Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!

Chúc các bạn online vui vẻ !

Laptop Tùng Anh

Tour Phú Quốc

Vinhomes Cầu Rào 2

Trang Chủ