Chương 2: Xin lỗi con, Hyong-chol (1)
Nhận tờ rơi Hyong-chol vừa đưa cho, người phụ nữ dừng bước một lát lặng lẽ nhìn tấm ảnh mẹ anh. Ngay dưới chân tháp đồng hồ ở ga Seoul nơi mẹ thường đứng đợi anh.
Ngay sau khi anh tìm được một căn phòng trên thành phố, mẹ đã lên thăm anh. Lúc đến ga Seoul, bộ dạng của mẹ anh chẳng khác gì một người đi sơ tán chiến tranh. Mẹ bước lên bậc thềm nhà ga với bao nhiêu gói bọc đội trên đầu, vác trên vai, cầm trên tay, với vô khối thứ không xách vào đâu được nữa đành buộc lại quanh hông. Thật kỳ lạ khi mẹ vẫn có thể bước đi với ngần ấy thứ trên người. Nếu làm được, chắc mẹ còn treo cả những quả cà tím và bí ngô vào chân khi lên thăm anh. Cái túi của mẹ anh căng phồng lên với nào là ớt tươi, nào là hạt dẻ, hoặc tỏi bóc sẵn bọc trong giấy báo. Mỗi khi đi đón mẹ, anh lại không tin nổi vào mắt mình khi thấy những bó to bó nhỏ chất thành đống xung quanh mẹ, thật ngạc nhiên vì một mình mẹ mà có thể mang được nhiều thứ đến vậy. Đứng giữa đống đồ đạc, mẹ ngó nghiêng nhìn quanh, gò má đỏ bừng lên, ngóng đợi anh đến đón.
Người phụ nữ ngập ngừng tiến về phía anh, chỉ vào ảnh mẹ trong tờ rơi mà nói, “Hình như tôi đã nhìn thấy bà ấy trước ủy ban phường số Hai khu Yongsan.” Trong tờ rơi do cô em anh làm, mẹ anh mặc hanbok màu xanh nhạt, đang cười rạng rỡ. Người phụ nữ nói tiếp, “Lúc đó bà ấy không mặc bộ hanbok này nhưng đôi mắt thì giống hệt, tôi còn nhớ đôi mắt ấy vì trông nó rất thật thà, giống như đôi mắt của con bê vậy.” Người phụ nữ nhìn lại một lần nữa đôi mắt của mẹ anh trong bức ảnh được in trên tờ rơi và nói thêm, “Bà ấy bị thương ở mu bàn chân. Bà ấy đi đôi dép lê màu xanh, một bên dép cứa vào bàn chân chỗ gần ngón cái sâu đến nỗi một miếng thịt long ra tạo thành vết rách sâu hoắm, có lẽ vì bà ấy đã đi bộ quá xa. Ruồi muỗi bu đầy quanh vết thương đang rỉ mủ, chắc là cảm thấy khó chịu nên bà ấy cứ đưa tay phe phẩy đuổi chúng đi. Mặc dù trông có vẻ đau lắm, nhưng bà ấy cứ ngó nghiêng nhìn vào ủy ban phường như thể chẳng đau đớn gì. Chuyện này là từ một tuần trước rồi.”
Một tuần trước sao?
Chẳng biết phải làm gì với những điều người phụ nữ kia nói - rằng bà ấy nghĩ là đã nhìn thấy mẹ anh trước ủy ban phường một tuần trước, chứ thậm chí không phải sáng nay, rằng đôi mắt mẹ trong bức ảnh trên tờ rơi gợi cho bà ấy nghĩ đến đôi mắt của người phụ nữ bà ấy gặp - anh vẫn tiếp tục phát tờ rơi ngay cả khi bà ấy đã đi rồi. Mọi thành viên trong nhà đều được huy động đi phân phát và dán tờ rơi ở khắp nơi, từ ga Seoul đến Namyong-dong, từ các nhà hàng, cửa hàng quần áo, hiệu sách và quán café Internet. Khi có những tờ rơi bị bóc ra vì đã dán vào những chỗ không được phép, họ lại tới dán vào đúng chỗ đó. Mà cũng không chỉ dán ở loanh quanh khu vực ấy. Mọi người trong gia đình còn đến tận Nam Dea Moon, Chong Lim Dong, thậm chí cả Seo Dea Moon để phân phát và dán tờ rơi. Họ chẳng nhận được lấy một cuộc điện thoại từ mẩu quảng cáo họ đã đăng trên báo, nhưng có một số người gọi điện đến sau khi xem tờ rơi. Có lần nghe mách rằng có người giống mẹ anh ở một nhà hàng nọ, họ vội vàng lao đến đó xem, nhưng người đó không phải là mẹ mà chỉ là một phụ nữ trạc tuổi mẹ đang làm việc cho nhà hàng đó. Một lần, có người gọi đến bảo với anh rằng ông ta đã mời mẹ vào nhà ông ta rồi đọc địa chỉ nhà ông ta một cách rõ ràng, thế là lòng đầy khấp khởi mấy anh chị em vội vã tới đó, nhưng khi đến nơi mới hay địa chỉ đó không tồn tại. Thậm chí còn có người gọi đến bảo rằng anh ta sẽ tìm mẹ cho họ nếu họ đưa trước năm triệu uôn tiền thưởng cho anh ta. Nhưng rồi sau hai tuần những cuộc gọi cũng thưa thớt dần. Gia đình anh, vốn lúc trước tất tả chạy ngược chạy xuôi ngập tràn hy vọng, giờ đây thường thấy nhau ngồi phệt trước tháp đồng hồ ở ga Seoul, não nề tuyệt vọng. Khi có người vò nát tờ rơi vứt xuống đất ngay sau khi nhận nó, chính em gái anh, một nhà văn, đã nhặt nó lên, vuốt lại phẳng phiu và phát cho người khác.
Cô em anh vừa đi vào ga Seoul với một tập tờ rơi trên tay liền chạy lại đứng bên cạnh anh. Ánh mắt mệt mỏi của cô liếc nhìn đôi mắt anh. Anh kể với cô về những lời của người phụ nữ nọ, rồi hỏi cô, “Chúng ta có nên đến tìm kiếm quanh ủy ban phường số Hai khu Yong San không?” Cô em với vẻ ủ rũ trả lời ngắn gọn, “Sao mẹ lại đến đó chứ? Chúng ta có thể qua đó sau.” Rồi cô đưa tờ rơi ra trước mặt những người đang hối hả đi ngang qua mà nói to, “Đây là mẹ chúng tôi, xin mọi người đừng vứt đi, làm ơn hãy cầm lấy tờ rơi xem dù chỉ một lần thôi.” Không ai nhận ra cô em anh mặc dù thỉnh thoảng, khi xuất bản một cuốn sách mới, hình của cô lại xuất hiện trên mục văn hóa của tờ nhật báo. Nhưng xem ra, vừa nói thật to lên vừa đưa tờ rơi ra như cô em gái có vẻ mang lại hiệu quả hơn là chỉ phát tờ rơi như anh. Không còn ai quăng tờ rơi đi ngay khi quay bước như trước đây nữa. Chẳng có nhiều nơi mẹ có thể đến ngoài nhà của mấy anh em. Điều này thực sự là căn nguyên đau khổ của anh và cả gia đình. Nếu có nơi nào có thể mẹ sẽ tìm đến thì mấy anh em sẽ tập trung tìm kiếm mẹ xung quanh đó, nhưng vì chẳng có nơi nào nên họ đành phải lùng sục khắp mọi nơi trong thành phố này. Khi cô em hỏi, “Sao mẹ lại đến đó chứ?” anh đã không nghĩ ra ngay rằng ủy ban phường số Hai khu Yong San chính là nơi đầu tiên anh làm việc khi đặt chân lên thành phố. Bởi vì đã ba mươi năm trôi qua kể từ ngày đó.
Gió mùa này đã trở lạnh, thế nhưng những giọt mồ hôi vẫn lấm tấm trên mặt anh. Anh đã ngoài năm mươi tuổi, là giám đốc tiếp thị của một công ty chuyên xây dựng nhà chung cư. Mặc dù hôm nay, thứ Bảy, là ngày nghỉ, nhưng nếu mẹ không bị lạc thì giờ này chắc anh đang có mặt tại ngôi nhà mẫu ở Song Do. Công ty anh đang tìm kiếm khách hàng đợt cuối cho các căn hộ của một tòa phức hợp rộng lớn sắp sửa hoàn thành ở đó. Anh đã làm việc không kể ngày đêm để bán được hết toàn bộ căn hộ trong tòa nhà ấy. Suốt cả mùa xuân, anh phụ trách chiến dịch quảng cáo trong đó phải chọn một bà nội trợ bình thường làm người mẫu thay vì tìm kiếm những siêu mẫu nổi tiếng như trước đây. Anh chẳng nhớ nổi lần cuối cùng mình về nhà trước nửa đêm là khi nào, bởi vì anh quá bận bịu với việc xây căn nhà mẫu, rồi còn phải đón tiếp và ăn tối với cánh phóng viên. Vào Chủ nhật, anh thường phải hộ tống Tổng giám đốc và các cán bộ cấp cao khác tới chơi golf ở Sokcho hoặc Hoengsong.
“Anh ơi! Mẹ bị lạc rồi!” Giọng nói bàng hoàng của cậu em trai truyền đến anh trong một buổi chiều mùa hè oi bức đã cắt đứt chuỗi ngày thông thường đó của anh, làm vỡ tan cuộc sống ấy như thể anh đã giẫm lên lớp băng mỏng mảnh. Ngay cả khi nghe kể rằng bố mẹ lên tàu điện đi tới nhà anh, nhưng lúc đoàn tàu khởi hành thì chỉ có một mình bố lên được tàu, còn mẹ một mình rớt lại ở sân ga và sau đó không tìm thấy mẹ nữa, anh vẫn không thể nghĩ được rằng chuyện đó lại dẫn đến việc mẹ anh mất tích. Khi cậu em trai nói rằng cậu ấy đi báo cho cảnh sát, anh chỉ nghĩ không biết làm vậy có hơi quá đà không. Phải một tuần sau, anh mới đăng quảng cáo trên báo và liên hệ với phòng cấp cứu của các bệnh viện. Hằng đêm, mọi người chia nhau ra các hướng tìm đến các trung tâm bảo trợ dành cho người vô gia cư, nhưng đều không kết quả gì. Mẹ anh, rớt lại ở ga tàu điện ngầm Seoul, đã biến mất như thể một giấc mơ. Mẹ không để lại dấu vết gì, đến mức anh còn muốn hỏi bố liệu mẹ có lên Seoul cùng bố thật không. Mười ngày trôi qua kể từ khi mẹ mất tích, rồi nửa tháng, và khi sắp hết một tháng, anh và cả gia đình vẫn dò dẫm khắp nơi trong nỗi hoảng loạn cứ như thể tất cả mọi người đều bị tổn thương ở vùng não.
Anh đưa chỗ tờ rơi cho cô em gái. “Anh phải đi kiểm tra mới được.”
“Anh đi Yong San à?”
“Ừ.”
“Anh có linh cảm gì à?”
“Đó là nơi đầu tiên anh sống khi lên Seoul.” Anh dặn cô em kiểm tra điện thoại thường xuyên, nếu phát hiện được gì anh sẽ gọi cho cô ấy ngay. Lúc này những lời nói ấy của anh không còn cần thiết nữa. Cô em anh trước đây thường chẳng khi nào nghe điện thoại, nhưng giờ luôn mở máy trước tiếng chuông đổ lần thứ ba. Anh rảo bước đến bãi đậu taxi. Mẹ rất lo cho cô em Chi-hon của anh, quá ba lăm tuổi rồi mà vẫn chưa xây dựng gia đình. Có khi mới sáng sớm mẹ đã gọi điện thoại cho anh và nói với giọng buồn bã, “Hyong-chol à! Con thử sang chỗ Chi-hon xem nó thế nào, vừa nãy mẹ gọi điện nhưng không thấy nó nghe máy, mẹ thấy lo lắm. Nó không nghe máy, cũng không gọi điện... Đã một tháng nay mẹ không nghe thấy giọng của nó rồi.” Khi anh nói với mẹ rằng Chi-hon chắc là đang tự giam mình trong nhà viết sách, hoặc là cô phải đi đâu đó, thể nào mẹ cũng nài nỉ anh đến căn hộ của cô em gái xem tình hình thế nào. Mẹ nói với anh rằng, “Em nó sống một mình, có thể nó bị đau ốm nằm liệt giường hay bị ngã trong nhà tắm rồi không dậy được nữa…” Nghe mẹ liệt kê ra hàng loạt những điều không may có thể xảy ra với người sống một mình, anh sốt ruột nghĩ biết đâu chừng một trong số đó thực sự đã xảy ra với cô em gái cũng nên. Nhận sự ủy thác của mẹ, trước khi đi làm hoặc trong giờ nghỉ trưa, anh tạt qua nhà cô em gái và thấy một đống báo chí để trước cửa, bằng chứng cho thấy cô không có nhà. Anh thu dọn đống báo chí bỏ vào thùng rác rồi quay về. Khi không thấy những thứ như báo chí hay sữa để ngoài cửa, anh sẽ ấn chuông liên tục vì biết chắc cô em đang ở trong nhà, và cô sẽ ló khuôn mặt tóc tai bù xù ra hỏi giọng cộc lốc, “Sao thế?” Một lần, đúng lúc anh đang đứng bấm chuông ngoài cửa thì gặp một thanh niên có vẻ như cũng đang đến tìm Chi-hon. “Chào anh,” người thanh niên cất giọng bối rối. Anh chưa kịp hỏi xem cậu ta là ai, cậu ta đã nói, “Không cần hỏi em cũng biết anh là ai vì trông anh rất giống Chi-hon.” Cậu ta nói cậu ta qua đây vì tự nhiên cậu ta không thể liên lạc được với cô. Khi anh nói với mẹ rằng có vẻ như cô em đã đi du lịch hoặc cô đang ở nhà và vẫn ổn, mẹ anh sẽ thở dài nói, “Nó cứ đi như thế, nếu có chết chắc chúng ta cũng không biết.” Rồi mẹ anh còn hỏi thêm, “Mà thật ra nó làm cái gì vậy nhỉ?” Lý do cô em anh cứ nửa tháng, thậm chí có khi cả tháng không có tin tức gì là vì cô ấy bận viết tiểu thuyết. Khi anh hỏi, “Em có cần phải làm như vậy mỗi khi em viết không?” cô sẽ lẩm bẩm một mình, “Từ lần sau, em sẽ liên lạc với mẹ.” Là cô nói thế thôi. Mặc dù mẹ lo lắng như thế, sự gián đoạn trong liên lạc giữa Chi-hon với mẹ cũng như với cả gia đình vẫn tiếp tục tái diễn. Sau mấy lần anh bỏ qua yêu cầu đến kiểm tra tình hình Chi-hon của mẹ, mẹ thôi không nhờ anh làm thế nữa. Chỉ có duy nhất một lần mẹ nhắc đến chuyện đó, “Mẹ đoán là con không có thời gian để nghe lời mẹ.” Bởi vì những lần bất ngờ mất tăm mất dạng của cô em vẫn tiếp diễn, anh nghĩ phải là một ai đó khác trong gia đình không nghe lời mẹ mới đúng. Sau khi mẹ bị lạc, em gái anh cứ lẩm bẩm với anh, “Có lẽ em đang bị trừng phạt...”
Giao thông vô cùng đông đúc giữa ga Seoul và Đại học Nữ sinh Sukmyong. Anh nhìn ra ngoài cửa xe, cẩn thận quan sát từng người lướt ngang qua. Trong đám đông đó, biết đâu lại có mẹ anh.
“Quý khách! Có phải quý khách định đi tới ủy ban phường số Hai khu Yong San không ạ?” người tài xế hỏi anh, rẽ sang trước trường đại học rồi chạy về phía trường trung học Yong San, nhưng anh chẳng nghe thấy gì.
“Quý khách?”
“Vâng?”
“Quý khách đến ủy ban phường số Hai khu Yong San phải không ạ?”
“Vâng.”
Hồi hai mươi tuổi ngày nào anh cũng bước đi trên con đường này thế mà khung cảnh bên ngoài cửa xe lúc này mới lạ lẫm làm sao. Anh tự hỏi không biết xe đi có đúng đường không. Thực ra sẽ là phi lý hơn nhiều nếu trong ba mươi năm mà cảnh sắc chẳng có gì thay đổi.
“Vì hôm nay là thứ Bảy nên chắc ủy ban phường không mở cửa đâu.”
“Chắc là thế.”
Người tài xế định nói thêm với anh câu gì đó nhưng anh đã lấy một tờ rơi trong túi ra đưa cho người tài xế. “Nếu trong khi lái xe mà nhìn thấy người nào như thế này, làm ơn hãy báo cho tôi nhé.”
Người tài xế nhìn thoáng qua tờ rơi. “Mẹ anh à?”
“Vâng.”
“Khổ quá...”
Mùa thu năm ngoái, dù cô em gọi điện bảo rằng dạo này mẹ hành động kỳ lạ lắm, anh đã không làm gì cả. Anh nghĩ rằng ở tuổi của mẹ, đau ốm cũng là chuyện thường tình. Cô em rầu rĩ nói với anh rằng, hình như vì hay đau đầu nên mẹ suy nghĩ không còn sáng rõ, nhưng khi anh gọi điện về nhà, mẹ anh cất giọng ấm áp, “Hyong-chol à con!” Khi anh hỏi, “Có chuyện gì xảy ra à mẹ?” Mẹ cười lớn và nói, “Mẹ đang mong có chuyện gì lắm đây! Đừng lo cho bố mẹ. Có chuyện gì xảy ra với hai ông bà già này được chứ? Các con hãy chăm sóc cho bản thân.”
“Mẹ lên Seoul một chuyến đi.”
“Ừ, thôi được rồi...” mẹ anh ậm ừ rồi không nói gì nữa.
Bực mình trước sự thờ ơ của anh, cô em gái anh đến công ty anh và giúi vào tay anh tấm phim chụp não của mẹ. Cô em kể lại lời bác sĩ rằng mẹ anh đã bị tai biến mạch máu não một lần mà bản thân mẹ không hay biết. Thấy anh có vẻ điềm nhiên, cô em quát to lên, “Anh cả! Có phải là anh Yun Hyong-chol không?” và nhìn chằm chằm vào mắt anh.
“Mẹ bảo không có chuyện gì xảy ra, thế tất cả những điều này là gì vậy?”
“Anh tin những lời như vậy của mẹ à? Mẹ luôn nói như thế mà. Đó là câu cửa miệng của mẹ. Anh biết đúng là thế mà. Anh thừa biết mẹ chỉ nói thế vì mẹ cảm thấy có lỗi khi trở thành gánh nặng cho anh.”
“Tại sao mẹ lại cảm thấy có lỗi với anh?”
“Cái đó làm sao em biết được? Sao anh lại khiến mẹ luôn thấy có lỗi?”
“Anh đã làm gì chứ?”
“Mẹ đã nói câu đó từ rất lâu rồi. Anh biết rõ thế còn gì. Để em hỏi anh, tại làm sao mà mẹ lại luôn cảm thấy có lỗi mỗi khi phải làm phiền anh chuyện gì đó?”
Ba mươi năm trước, sau khi vượt qua kỳ thi công chức bậc năm, anh nhận được công việc đầu tiên tại ủy ban phường số Hai ở khu Yong San. Khi anh học xong trung học và không đỗ được vào đại học, mẹ đã không tin nổi. Đó cũng là phản ứng tự nhiên đối với mẹ thôi. Từ khi học tiểu học cho đến trung học, anh chưa một lần đánh mất ngôi vị số một trong lớp. Trước khi trượt đại học, anh luôn đứng đầu trong bất cứ kỳ thi nào anh tham dự. Năm học lớp sáu, anh không phải nộp học phí vì là học sinh thủ khoa trong kỳ thi vào trung học. Trong suốt ba năm sau đó cũng vậy, anh không phải nộp một đồng học phí vì luôn là học sinh xuất sắc nhất. Tốt nghiệp trung học, anh được khen thưởng là học sinh tiêu biểu của lớp. “Chao ôi, giá như thằng Hyong-chol nhà chúng tôi phải nộp học phí dù chỉ một lần thôi nhỉ,” mẹ thường tự hào khoe khéo như vậy. Mẹ chẳng tài nào hiểu nổi vì sao một người luôn là số một trong suốt thời trung học lại không vượt qua được kỳ thi đại học. Khi nghe tin không những anh không đỗ đầu mà còn trượt đại học, mẹ đã thắc mắc trong nỗi hoang mang, “Con mà không đậu thì còn ai đậu được chứ?” Anh đã lên kế hoạch học cật lực ở đại học để duy trì vị trí số một trong lớp của mình. Đó thật ra không phải là một kế hoạch mà là lựa chọn duy nhất của anh. Con đường duy nhất để anh có thể bước chân vào đại học chính là học bổng. Nhưng vì chẳng đậu, anh đành phải tìm con đường khác. Anh chẳng có cái ý nghĩ xa xỉ là thi lại vào năm sau. Và chẳng bao lâu anh đã tìm ra con đường phải đi cho chính bản thân mình. Anh tham dự hai vòng thi công chức và đỗ cả hai kỳ thi đó. Anh xa nhà, chọn công việc đầu tiên anh nhận được. Mấy tháng sau, anh được biết có một trường đại học luật ở Seoul học vào buổi tối nên quyết định đăng ký vào đó. Anh nhận ra rằng anh cần bằng tốt nghiệp trung học. Nhưng nếu gửi thư về nhà bảo bố mẹ sao bằng tốt nghiệp trung học để gửi qua đường bưu điện từ quê lên thì chắc chắn sẽ quá thời hạn nộp hồ sơ. Vì vậy, anh đã viết thư cho bố dặn ông ra bến xe buýt nhờ ai đó lên Seoul mang hộ tấm bằng tốt nghiệp cho anh. Anh còn dặn bố sau khi nhờ được họ thì ra bưu điện gọi điện đến ủy ban phường cho anh. Nếu bố thông báo cho anh biết chính xác thời gian chuyến xe đến bến, anh sẽ đi ra bến xe buýt chờ để lấy tấm bằng. Nhưng anh đợi cả ngày hôm ấy mà không có cuộc điện thoại nào gọi đến. Nhà anh thời đó chưa có điện thoại nên anh thậm chí không thể gọi về xem có chuyện gì xảy ra. Nửa đêm hôm đó, anh đang băn khoăn không biết phải làm gì với bộ hồ sơ hết hạn nộp vào ngày mai thì có ai đó đập rầm rầm vào cánh cửa ủy ban phường. Hồi đó anh ở trong ủy ban phường. Nhân viên ủy ban phải thay phiên nhau trực đêm, nhưng vì anh không có chỗ ở nên người ta quyết định cho anh sống luôn trong phòng trực. Thành ra ngày nào anh cũng trực đêm. Nghe thấy tiếng đập cửa thình thình tưởng như có thể khiến cánh cửa ủy ban phường vỡ tan, anh chạy ra ngoài xem thì thấy có một thanh niên đang đứng trong bóng tối.
“Người này có phải mẹ anh không?”
Mẹ anh đang đứng sau người thanh niên, người run bần bật vì lạnh. Anh chưa kịp nói gì, mẹ anh đã cất tiếng, “Hyong-chol à! Mẹ đây! Là mẹ đây!” Người thanh niên liếc nhìn đồng hồ và nói, “Chỉ còn bảy phút nữa là đến giờ giới nghiêm,” rồi quay lại chào mẹ anh và lao vút vào bóng đêm để tránh giờ giới nghiêm chính phủ quy định.
Bố anh đang đi vắng. Khi cô em anh đọc thư xong, mẹ cứ đứng ngồi không yên, rồi tìm đến trường lấy tấm bằng tốt nghiệp trung học của anh về và ra bắt tàu hỏa lên Seoul. Đây là lần đầu tiên trong đời mẹ anh đi tàu. Người thanh niên đó nhìn thấy mẹ ở ga Seoul đang hỏi thăm mọi người đường đến khu Yong San. Nghe mẹ anh nói rằng ngay trong đêm hôm nay phải chuyển cho người con trai một thứ gì đó rất quan trọng, người thanh niên cảm thương nên đã đưa mẹ đến ủy ban phường. Mẹ đi đôi dép lê màu xanh giữa mùa đông lạnh giá. Trong vụ thu hoạch mùa thu, mẹ bị thương khi xoẹt cái liềm vào ngón chân cái, vì vết thương đến giờ vẫn chưa lành hẳn nên đôi dép lê là thứ duy nhất phù hợp với chân mẹ lúc này. Mẹ cởi đôi dép lê để ở trước cửa phòng trực rồi bước vào trong và nói, “Mẹ không biết là có lỡ việc của con hay không nữa,” và đưa tấm bằng tốt nghiệp trung học ra cho anh. Bàn tay mẹ anh đã lạnh cóng. Anh nắm lấy bàn tay đã lạnh như băng của mẹ. Anh đã hứa với bản thân rằng, nhất định mình sẽ làm cho đôi bàn tay này, cho người phụ nữ này được hạnh phúc. Nhưng miệng anh lại khẽ lầm bầm trách mẹ sao lại đi theo người lạ chỉ vì anh ta bảo mẹ đi theo. Mẹ rầy la, “Sao con có thể sống nổi mà không tin con người chứ? Trên thế gian này chắc chắn người tốt nhiều hơn kẻ xấu rất nhiều. Đó là đạo lý.” Rồi mẹ nở nụ cười lạc quan quen thuộc của mình.
Anh đứng trước ủy ban phường cửa đóng im ỉm và đưa mắt nhìn khắp tòa nhà. Anh nghĩ chắc mẹ không thể đến đây. Vì nếu mẹ biết cách đến đây, chắc chắn mẹ đã tìm được nhà một trong mấy đứa con. Người phụ nữ nói đã nhìn thấy mẹ anh ở đây nhớ ra mẹ là nhờ đôi mắt. Bà ấy nói mẹ anh đi đôi dép lê màu xanh. Đôi dép lê màu xanh. Giờ thì anh nhớ ra rồi, người mẹ mất tích của anh đi đôi xăng đan đế thấp màu be. Bố anh nói rằng mẹ anh không đi đôi dép lê màu xanh mà đi đôi xăng đan đế thấp màu be. Trong khi đó người phụ nữ bảo mẹ anh mang đôi dép lê mà đi xa tới mức ngón chân cái bị thương sâu hoắm kia lại khẳng định rõ ràng là đôi dép màu xanh. Anh nhìn vào trong ủy ban phường một lát rồi đi lang thang xuống những con đường dẫn đến nhà thờ Eunsong và trường Trung học Nữ sinh Bosung, nhìn ngắm vòng quanh.
Căn phòng trực đêm ấy có còn trong ủy ban phường không nhỉ?
Căn phòng trực đó là nơi mà chừng ấy năm về trước anh đắp chung chăn ngủ bên cạnh người mẹ đã vội vội vàng vàng bắt chuyến tàu hỏa lên Seoul để mang tấm bằng tốt nghiệp trung học cho cậu con trai hai mươi tuổi của mình. Đó chắc hẳn là lần cuối cùng anh ngủ bên cạnh mẹ như thế. Cơn gió lạnh ào ạt lùa vào phòng qua bức tường sát đường phố. Anh nằm sát tường nhưng mẹ nói, “Nằm sát tường mẹ ngủ ngon hơn,” rồi đổi chỗ cho anh. “Gió lắm mẹ ạ,” anh bảo, rồi dậy xếp cặp và đống sách vở nép vào tường để chắn gió. Anh còn chất quần áo mặc hôm qua vào bên tường. “Được rồi con,” mẹ bảo, giữ tay anh lại. “Ngủ thôi, sáng mai con còn phải làm việc nữa mà.”
“Lần đầu tiên lên Seoul mẹ thấy thế nào?” anh hỏi mẹ, ngước nhìn lên trần nhà, nằm bên cạnh mẹ.
“Không có gì đặc biệt,” mẹ trả lời rồi bật cười. “Con là đứa con đầu tiên của mẹ. Đây không phải là việc duy nhất con khiến mẹ được làm lần đầu tiên. Tất cả những điều con làm đều là một thế giới mới đầy mới mẻ với mẹ. Con đã khiến mẹ được làm mọi việc lần đầu tiên. Con là đứa con đầu tiên làm bụng mẹ căng tròn lên, cũng là đứa con đầu tiên mẹ cho bú. Lúc sinh con ra, mẹ cũng trạc tuổi con bây giờ. Khi mẹ nhìn thấy khuôn mặt đỏ hỏn đẫm mồ hôi với đôi mắt con nhắm tịt của con, lần đầu tiên... người ta thường nói rằng khi có đứa con đầu tiên họ thấy vừa ngạc nhiên vừa hạnh phúc, nhưng mẹ không nghĩ thế, mẹ lại thấy buồn. Mình vừa mới sinh một đứa con thật sao? Mình sẽ phải làm gì đây? Mẹ thấy lo sợ đến mức ban đầu mẹ thậm chí không dám chạm vào những ngón tay nhỏ xíu cuộn lại của con. Con cứ nắm chặt mấy ngón tay nhỏ nhắn ấy lại thành nắm đấm. Nếu mẹ mở nắm đấm ấy ra từng ngón từng ngón một, con sẽ mỉm cười... Chúng nhỏ bé đến nỗi mẹ nghĩ rằng nếu cứ nắm lấy chúng thì chúng có thể sẽ biến mất. Bởi vì khi đó mẹ chưa hề có kinh nghiệm nuôi con. Mẹ lấy chồng năm mười bảy tuổi nhưng đến tận năm mười chín tuổi mới mang bầu, suốt thời gian đó bà bác cứ mỉa mai là có lẽ mẹ không thể có con, thế nên khi biết đang mang thai con thì điều đầu tiên mẹ nghĩ là, Giờ mình không phải nghe bà bác nói thế nữa rồi, đó là điều khiến mẹ vui sướng nhất. Về sau, mẹ rất vui khi thấy ngón tay ngón chân của con dài ra từng ngày. Những khi mệt mỏi, mẹ thường vào trong buồng để ngắm nhìn những ngón tay ngón chân nhỏ nhắn của con, xòe từng ngón tay ra, sờ sờ nắn nắn ngón chân. Khi làm như thế, mẹ cảm thấy cơn mệt mỏi trong người tan biến hết. Mẹ còn nhớ, lần đầu tiên khi đi đôi dép vào chân con, mẹ đã rất phấn khích. Khi con chập chững bước về phía mẹ, mẹ đã cười sung sướng mãi không thôi, dù có ai chất đầy ngọc ngà châu báu trước mặt thì mẹ cũng không thể cười giòn được như lúc ấy. Mẹ cảm thấy như thế nào khi đưa con đến trường nhỉ? Khi gài biển tên cùng chiếc khăn tay vào ngực con, mẹ thấy mình đã trưởng thành lên bao nhiêu. Không hạnh phúc nào sánh bằng khi được nhìn bắp chân con ngày càng chắc nịch. Ngày nào mẹ cũng hát, Mau lớn lớn mau con của mẹ, hãy vui chơi thật vui vẻ nhé! Rồi một ngày con sẽ cao lớn hơn mẹ.”
Chương 2: Xin lỗi con, Hyong-chol (2)
Mẹ trở người nằm nghiêng đối diện với anh và vuốt ve mái tóc anh. “Dù mẹ cứ nói mong sao con mau khôn lớn trưởng thành, nhưng khi con cao to hơn cả mẹ thì mẹ lại thấy lo sợ, cho dù con vẫn là con của mẹ.”
Anh không nói gì.
“Không như những đứa trẻ khác, con không bao giờ để mẹ phải nhắc nhở điều gì. Con tự mình làm mọi việc. Con sáng ngời lại học giỏi. Mẹ rất tự hào về con, đôi khi mẹ thấy thật ngạc nhiên vì mình đã sinh được một cậu con trai như con... Thì đấy, nếu không phải nhờ có con, không biết đến khi nào mẹ mới có cơ hội đặt chân đến thành phố Seoul này.”
Anh tự hạ quyết tâm kiếm thật nhiều tiền để khi trở lại thành phố này mẹ sẽ được ngủ trong một nơi ấm áp. Anh sẽ không phải để mẹ ngủ trong giá lạnh nữa. Một khoảng im lặng trôi qua. Mẹ hạ giọng gọi, “Hyong-chol à!” Trong giấc mơ màng, anh nghe thấy giọng mẹ văng vẳng như từ rất xa. Mẹ đưa tay vuốt tóc anh. Mẹ ngồi dậy ngắm nhìn anh đang chìm vào giấc ngủ và vuốt nhẹ lên vầng trán anh. “Mẹ xin lỗi.” Mẹ vội vã đưa tay lau nước mắt, nhưng những giọt lệ đã rơi lã chã trên khuôn mặt anh.
Buổi sáng hôm ấy, khi anh thức giấc, mẹ đang quét dọn sân thềm của ủy ban phường. Anh cố ngăn cản, nhưng mẹ bảo, “Mẹ đang buồn chân buồn tay, phải làm việc gì đó chứ? Để chân tay rảnh rỗi sao được,” rồi nhúng ướt giẻ để lau sàn và dọn dẹp bàn của tất cả các nhân viên như thể nếu không làm gì thì mẹ sẽ bị phạt vậy. Hơi thở của mẹ hiện rõ như làn khói và ngón chân cái sưng vù ấn cả vào đôi dép lê màu xanh mẹ đang đi. Trong khi anh chờ quán cháo đậu cạnh trụ sở ủy ban mở cửa để đưa mẹ sang ăn sáng, cả ủy ban phường đã sạch bóng nhờ đôi bàn tay của mẹ.
Ngôi nhà vẫn còn ở đó, anh căng mắt ra để nhìn. Trong khi đi khắp hang cùng ngõ hẻm để tìm mẹ, anh thấy mình đang đứng trước ngôi nhà mà ba mươi năm trước anh đã thuê một phòng để sống. Những thanh rào sắt nhọn như mũi tên trên nóc cổng vẫn ở đó y như ba mươi năm về trước. Người con gái từng rất yêu anh nhưng cuối cùng không thể chờ đợi anh trước đây thỉnh thoảng vẫn treo cái túi nhựa đựng mấy chiếc bánh màn thầu trên cổng mỗi khi anh không có nhà. Ngoại trừ ngôi nhà ấy, tất cả những ngôi nhà khác xung quanh đều đã biến thành nhà liên kế hoặc căn hộ đơn.
Anh đọc tờ quảng cáo dán trên cổng:
100.000 uôn một tháng, đặt cọc 10 triệu uôn. 150.000 uôn một tháng, nếu đặt cọc 5 triệu uôn.
Rộng 25m2. Có bồn rửa bát đầy đủ. Có vòi sen trong phòng tắm.
Gần Namsan, đi lại thuận tiện. Có thể đến Kangnam trong 20 phút. Đến Chongno mất 10 phút.
Điểm hạn chế: nhà tắm hẹp. Tuy nhiên bạn đâu có sống ở trong đó. Có lẽ khó mà tìm được một nơi có giá cả rẻ như vậy ở Yongsan.
Điều kiện ở đây rất tốt, nhưng tôi phải chuyển nhà vì tôi mới mua một chiếc ô tô nên cần một chỗ đỗ xe. Xin hãy email hoặc gửi tin nhắn cho tôi. Tôi cho thuê chính chủ căn phòng này để tiết kiệm phí môi giới.
Sau khi đọc số điện thoại di động và địa chỉ email, anh nhẹ nhàng đẩy cánh cổng chính. Cánh cổng mở vẫn giống y như ba mươi năm trước. Anh ngó nhìn vào trong. Ngôi nhà hình chữ U, không khác gì ba mươi năm trước, cửa các phòng hướng vào sân giữa. Căn phòng anh đã từng sống lúc này khóa chặt.
“Có ai trong nhà không?” Anh gọi to, và hai ba cánh cửa bật mở. Hai cô gái để tóc ngắn và hai chàng trai trạc mười bảy tuổi ngó mặt ra nhìn anh. Anh bước vào sân giữa.
“Các cô đã từng nhìn thấy người này chưa?” Anh lấy tờ rơi ra đưa cho hai cô gái trước. Rồi anh nhanh tay đưa tờ rơi cho hai cậu con trai đang định đóng cửa lại. Có hai cô bé cũng trạc tuổi mấy cậu con trai này đang ở trong phòng đó. Nghĩ rằng anh đang nhòm ngó vào phòng nên hai cậu bé đóng sầm cửa lại. Bên ngoài trông vẫn y như cũ những hóa ra bên trong đã trở thành một căn hộ đơn thân. Chủ nhà chắc hẳn đã sửa sang lại, tạo ra một không gian rộng rãi, kết hợp cả nhà bếp vào căn phòng. Anh có thể thấy một chiếc bồn rửa bát ở trong góc.
“Không đâu,” hai cô gái trả lời rồi đưa lại tờ rơi cho anh. Chắc hẳn khi đó hai cô đang ngủ, ghèn còn đọng trên mắt họ. Hai cô quan sát anh quay người bước ra cổng. Anh sắp bước ra ngoài thì cánh cửa phòng của mấy cậu con trai bật mở và một cậu gọi to, “Chờ đã! Hình như mấy ngày trước bà cụ này đã đến ngồi trước cửa ngôi nhà này.”
Khi anh tiến lại gần, cậu kia ngó đầu ra nói, “Không phải. Tớ đã bảo cậu là không phải bà ấy mà! Bà này trẻ. Bà kia trông già hơn nhiều. Mái tóc cũng không giống thế này... Bà ấy là ăn mày.”
“Nhưng đôi mắt bà ấy giống hệt còn gì. Hãy nhìn đôi mắt thôi, đôi mắt của bà ấy giống y như đôi mắt này... Nếu chúng tôi tìm được bà ấy thì ông sẽ trả chúng tôi năm triệu uôn thật chứ?”
“Chắc chắn rồi, kể cả khi không tìm được, chỉ cần các cậu nói chính xác chuyện gì đã xảy ra, tôi sẽ hậu tạ.” Anh đề nghị hai cậu thanh niên ra bên ngoài căn phòng. Hai cô gái đã đóng cửa vừa nãy lại mở cửa nhìn ra chỗ họ.
“Bà ấy chính là bà già ở quán rượu dưới phố đấy. Bà ấy bị mắc chứng mất trí nhớ, suốt ngày bị nhốt trong nhà, rồi hình như bà ấy trốn ra được và đi lạc. Ông chủ quán rượu đến tìm bà ấy đưa về nhà rồi.”
“Không phải bà ấy, tôi đã thấy bà này cơ. Bà bị thương ở chân và mưng đầy mủ. Bà ấy cứ đưa tay đuổi ruồi liên hồi... nhưng bà ấy bẩn thỉu và mùi khó chịu lắm nên tôi không nhìn gần.”
“Rồi sao nữa? Cậu có biết bà ấy đi đâu không?” Anh hỏi cậu bé dồn dập.
“Không. Chúng tôi vừa mới đến đây. Bà ấy cứ cố vào trong nên tôi đã đóng cổng lại...”
Không ai khác nhìn thấy mẹ anh nữa. Cậu thanh niên theo anh ra cổng và nói, “Thực sự là tôi đã nhìn thấy bà ấy mà!” Cậu ta nhìn xuôi con ngõ và chạy đến trước mặt anh. Anh đưa cho cậu ta một tấm séc trị giá một trăm nghìn uôn khi anh rời đi. Mắt cậu thanh niên sáng lên. Anh bảo cậu ta nếu nhìn thấy bà cụ một lần nữa thì hãy giữ bà lại rồi liên lạc với anh. Cậu thanh niên chưa kịp nghe rõ lời anh đã hỏi lại ngay, “Lúc đó ông sẽ thưởng năm triệu uôn chứ?” Anh gật đầu. Cậu thanh niên bảo anh đưa thêm mấy tờ rơi nữa. Cậu ta nói sẽ dán ở trạm xăng nơi cậu ta làm thêm. Cậu ta bảo nếu nhờ thế mà Hyong-chol tìm thấy mẹ thì anh cũng nên thưởng năm triệu uôn cho cậu, vì đó là công của cậu. Hyong-chol bảo anh sẽ thưởng.
Chúng đã phai nhạt đâu rồi - những lời anh tự hứa với bản thân về mẹ, người đã đổi chỗ cho anh trong phòng trực đêm của ủy ban phường để che gió lạnh cho anh, bảo rằng, Nằm sát tường mẹ ngủ ngon hơn. Lời thề anh đã đặt ra rằng mẹ sẽ được ngủ trong một gian phòng ấm áp khi mẹ trở lại thành phố này.
Anh lấy một điếu thuốc trong túi đưa lên miệng. Anh cũng không biết chính xác từ bao giờ, nhưng từ một thời điểm nào đó xúc cảm của anh đã không còn thuộc về anh nữa. Anh chỉ sống cho riêng mình, hầu như quên bẵng mẹ. Mình đã làm gì khi mẹ rớt lại trên sân ga tàu điện ngầm xa lạ, không lên được chuyến tàu cùng với bố? Anh trở lại ủy ban phường ngó nghiêng một lần nữa rồi quay đi. Lúc đó mình đang làm gì nhỉ? Rồi anh nhớ ra. Hôm trước ngày mẹ đi lạc, anh đi uống rượu với các đồng nghiệp nhưng bữa tiệc kết thúc không vui. Ông K, một đồng nghiệp đáng kính và lịch sự, sau vài chén rượu đã ra lời mai mỉa anh, bảo anh là kẻ khôn ngoan. Ở công ty, anh phụ trách việc bán tòa chung cư gần khu Songdo ở Inchon, còn ông K phụ trách việc bán tòa chung cư ở gần Yongin. Ông K nói anh là kẻ khôn ngoan là nhằm chọc ngoáy chuyện anh đã lấy vé biểu diễn của một ca sĩ được người trung niên rất hâm mộ làm món quà biếu cho những người đến xem căn nhà mẫu. Đó không phải là ý tưởng của anh mà là ý tưởng của cô em gái anh. Lần trước, khi cô đến nhà anh chơi, vợ anh đưa cho cô một tấm thảm phòng tắm làm quà biếu cho đợt bán căn hộ lần trước, cô liền nói, “Em không hiểu sao các công ty đều nghĩ rằng các bà nội trợ thích món quà kiểu này?”
Anh cũng đang trăn trở không biết lần này phải tặng khách hàng món quà gì nên đã hỏi cô, “Thế theo cô phải tặng món quà gì mới được lưu tâm?”
“Em cũng không chắc, nhưng người ta nhanh quên những món quà kiểu này lắm. Nghĩ mà xem. Anh nghĩ vợ anh có hạnh phúc không khi anh tặng chị ấy bộ đồ bếp vào ngày sinh nhật? Nếu nhận được một tấm thảm làm quà tặng chào bán chung cư thì người ta quên ngay thôi. Nhưng em nghĩ em sẽ ngạc nhiên thích thú nếu đó là sách hoặc vé xem phim và có lẽ em sẽ nhớ về nó. Nếu em phải lập kế hoạch sử dụng món quà thì em sẽ nhớ nhờ đâu mình có nó. Có phải em là người duy nhất nghĩ như thế không nhỉ?” Nói xong cô em gái nhìn anh vẻ dò xét. Cô bỏ lại tấm thảm khi ra về.
Trong cuộc họp, khi bàn đến chuyện tặng phẩm, anh đã đề xuất tặng một sản phẩm văn hóa, và không có ai phản đối ý tưởng đó. Tình cờ đúng một ca sĩ được giới trung niên hâm mộ đang tổ chức tour biểu diễn dài ngày, thế là anh chuẩn bị một lượng vé lớn và nhận được lời khen ngợi của ngài Tổng giám đốc. Có lẽ ngài cũng rất yêu thích người ca sĩ ấy. Theo kết quả điều tra, những tấm vé ca nhạc đó đã nâng cao hình ảnh của công ty. Cũng chưa chắc đã là nhờ vào món quà tiếp thị đó, nhưng tòa chung cư ở Songdo do anh phụ trách đã bán gần hết, còn tỷ lệ bán tòa chung cư ở Yongin do ông K phụ trách vẫn chỉ dừng lại ở 60%. Ông K sẽ phải lo lắng rất nhiều nếu dự án này không thành công. Vì vậy khi ông K nhận xét như thế, anh chỉ cười xòa mà nói đó chỉ là nhờ may mắn thôi, nhưng khi uống thêm vài chén rượu, ông K lại bình luận rằng, nếu anh dùng đầu óc khôn ngoan đó vào một chỗ khác thì có lẽ anh sẽ trở thành công tố viên hàng đầu. Ông K biết rằng anh vốn xuất thân từ dân luật nhưng chỉ tranh thủ học thêm vào buổi tối. Ông ta còn nói thêm rằng ông ta không biết anh đã dùng thủ đoạn gì mà có thể thăng tiến nhanh như vậy, khi mà thậm chí anh không tốt nghiệp trường đại học Y hoặc đại học K vốn là những trường cung cấp những nhân sự cấp cao chính yếu trong công ty. Cuối cùng, anh hất ly rượu ông K rót cho mình rồi bỏ về. Buổi sáng hôm sau, vợ anh nói rằng cô ấy muốn đến thăm cậu con trai Chin chứ không ra ga Seoul, anh đã định tự mình đi đón bố mẹ. Bố anh muốn tạt qua nhà cậu em trai anh vì cậu em vừa mới chuyển đến ngôi nhà mới. Anh đã định đến đón bố mẹ rồi đưa sang nhà cậu em, nhưng khi đi làm người anh cứ lạnh run, đầu đau như búa bổ. Bố anh lại cứ nói rằng ông có thể tìm ra đường... Thế là thay vì ra ga Seoul, anh đi đến phòng xông hơi ở gần công ty. Khi anh vã mồ hôi trong phòng xông hơi, nơi anh thường tới sau những hôm quá chén, bố anh lên tàu mà không có mẹ anh.
Khi còn nhỏ, anh mong muốn trở thành một công tố viên để có thể đưa người mẹ đã phải bỏ nhà ra đi vì thất vọng với bố anh trở về. Bố dẫn về nhà một người phụ nữ có làn da trắng hồng, cơ thể luôn tỏa mùi hương thơm ngát như mùi phấn trang điểm. Khi người phụ nữ đó đi qua cổng chính vào nhà, mẹ lại rời khỏi nhà bằng cửa sau. Cố gắng mua chuộc trái tim lạnh giá của anh, người phụ nữ đó thường làm món trứng rán cho vào cái hộp đựng bữa trưa của anh. Anh chạy ra sân sau với cái hộp cơm ăn trưa mà người phụ nữ đã cẩn thận bọc trong khăn tay, đặt nó lên một cái nắp vại lớn rồi đi đến trường. Mấy đứa em len lén nhìn anh rồi lén lút mang theo cái hộp cơm trưa mà người phụ nữ đã chuẩn bị sẵn cho chúng. Trên đường đến trường, anh tập trung các em lại trước nghĩa trang. Anh đào một cái hố và bắt mấy đứa bỏ hộp cơm vào đó. Cậu em trai không nghe lời anh, cầm lấy chiếc hộp rồi bỏ chạy, nhưng anh tóm được và nện cho một trận. Cô em gái ngoan ngoãn chôn chiếc hộp cơm của mình xuống. Anh nghĩ làm thế thì người phụ nữ kia sẽ không thể làm bữa trưa cho mấy anh em nữa. Nhưng cô ta vào trong thị trấn mua mấy cái hộp đựng bữa trưa mới. Chúng không phải là hộp nhôm màu vàng mà là loại hộp bảo ôn giữ cho cơm không bị nguội. Có lẽ, ai đó đã nói cho mẹ anh biết rằng anh không những không mang hộp cơm mà người phụ nữ kia chuẩn bị sẵn đến trường mà còn không thèm ăn, mẹ đã đến tận trường tìm anh. Hôm đó là ngày thứ mười người phụ nữ kia ở nhà anh.
“Mẹ ơi.” Nước mắt anh cứ tuôn trào.
Mẹ anh dẫn anh lên ngọn đồi ở sau trường. Mẹ xắn ống quần của anh lên để lộ bắp chân. Mẹ lấy trong vạt áo ra một cái roi và đánh vào bắp chân anh.
“Tại sao con không ăn! Con nghĩ mẹ sẽ sung sướng nếu con không ăn cơm sao!” Chiếc roi của mẹ quật vào bắp chân anh thật đau. Anh đã rất bực mình khi lũ em không chịu nghe lời mình, nhưng giờ đây anh không sao hiểu nổi vì đâu mẹ lại đánh anh đau như vậy, thế nên trong lòng anh chất đầy phẫn uất. Anh không biết tại sao mẹ lại nổi giận như vậy.
“Con có chịu mang cái hộp cơm trưa đi hay không? Có hay không?”
“Không!”
“Cái thằng này giỏi thật!”
Chiếc roi của mẹ quật càng mạnh hơn. Anh không kêu ca rên rỉ dù chỉ một lời, và chẳng mấy chốc mẹ đã thấy mệt nhoài. Anh không bỏ chạy, mà cứ ngậm tăm ngậm bặt, đứng im không nhúc nhích, chịu đựng đòn roi của mẹ.
“Bây giờ thì thế nào?”
Vết roi đã chuyển từ đỏ sang bầm tím ở bắp chân anh.
“Bây giờ vẫn thế ạ!” anh hét to.
Mẹ quăng cái roi đi rồi gào lên, “Giời ơi, cái thằng này! Hyong-chol ơi!” rồi ôm chặt lấy anh mà khóc òa lên. Một lát sau, mẹ thôi không khóc nữa va bắt đầu dỗ dành anh. Mẹ nói cho dù ai nấu đi nữa thì anh cũng phải ăn. Rồi mẹ nói anh phải ăn cơm đầy đủ thì mẹ mới đỡ buồn. Buồn ư? Đây là lần đầu tiên anh nghe thấy mẹ nói từ “buồn”. Anh không tài nào hiểu tại sao mình phải ăn cơm đầy đủ thì mẹ mới đỡ buồn. Mẹ phải ra khỏi nhà vì người phụ nữ đó thì đáng lẽ mẹ phải rất buồn nếu mấy anh em ăn cơm do cô ta nấu chứ, sao mẹ lại nói với anh điều hoàn toàn trái ngược. Mẹ sẽ đỡ buồn nếu anh ăn, cho dù đó là cơm cô ta nấu. Anh không hiểu được điều đó, nhưng vì không muốn mẹ phải buồn, anh nói với mẹ bằng giọng đầy giận dỗi, “Con sẽ ăn.”
“Thế mới là con trai mẹ chứ.” Tuy nước mắt giàn giụa, nhưng trong mắt mẹ sáng lên một nụ cười.
“Thế mẹ hứa với con mẹ sẽ về nhà đi!” anh khăng khăng.
Đôi mắt mẹ chùng xuống. “Mẹ không thích về nhà.”
“Tại sao, tại sao chứ?”
“Mẹ không muốn nhìn thấy bố con nữa.”
Nước mắt lại chảy xuống má anh. Trông mẹ anh có vẻ thực sự không muốn trở về nữa. Có thể đó là lý do tại sao mẹ dặn anh phải ăn uống đầy đủ, cho dù đó là cơm do ai nấu. Nhỡ mẹ không bao giờ quay về nhà nữa thì sao? Đột nhiên anh thấy hoảng sợ.
“Mẹ ơi, con sẽ làm tất cả mọi việc. Việc đồng áng con cũng làm, vườn tược con cũng trồng, sân con cũng quét, nước con cũng múc cho mẹ. Con sẽ xát gạo và nhóm lửa. Con sẽ đuổi chuột, con sẽ thịt gà làm cơm cúng. Chỉ cần mẹ quay về nhà thôi!”
Vào ngày giỗ chạp hay lễ tết, mẹ hay yêu cầu bố hoặc một cậu con trai trong nhà làm thịt gà giúp mẹ. Mẹ anh - người có thể ra đồng sau cơn mưa dữ dội để nâng những cây đậu bị đổ suốt cả ngày, có thể cõng bố anh trên lưng đưa về nhà trong những lần ông say khướt, có thể nện gậy vào mông con lợn khi nó xổng khỏi chuồng để bắt nó trở vào chuồng - lại không thể làm thịt gà. Khi anh bắt được con cá chép ở dưới mương, phải đợi khi nó chết hẳn mẹ mới dám chạm vào. Khi nhà trường yêu cầu tất cả học sinh mang đuôi chuột đến để chứng tỏ rằng mình thực sự đã bắt được chuột ở nhà vào Ngày Bắt Chuột, mẹ của các học sinh khác sẽ bắt chuột, chặt cái đuôi rồi gói trong tờ giấy báo mang đến trường, còn mẹ anh thì chỉ cần nghe thấy chuyện đó thôi đã co rúm cả người lại. Mặc dù rất khỏe mạnh, nhưng mẹ lại không dám bắt chuột. Nếu đi vào nhà kho đong gạo mà vấp phải con chuột, mẹ hét toáng lên rồi chạy vội ra ngoài. Bà bác thường tặc tặc lưỡi tỏ vẻ rất khó chịu khi nhìn thấy mẹ mặt mũi đỏ bừng, hoảng sợ chạy từ trong kho ra. Mặc cho anh hứa sẽ làm thịt gà và đuổi chuột cho mẹ, mẹ không hề nói sẽ quay về nhà.
“Con sẽ trở thành một người quan trọng,” anh lại hứa thêm.
“Con sẽ trở thành gì nào?”
“Công tố viên!”
Đôi mắt của mẹ anh sáng lên. “Nếu muốn trở thành công tố viên, con phải chịu khó học hành thật chăm chỉ. Cần cù hơn mức con nghĩ rất nhiều. Mẹ biết có người muốn trở thành công tố viên nên đã phải học ngày học đêm nhưng vẫn không thực hiện được giấc mơ và cuối cùng đã hóa điên.”
“Chỉ cần mẹ quay về, con sẽ làm được...”
Mẹ trìu mến nhìn vào đôi mắt đầy lo lắng của anh rồi mỉm cười. “Đúng vậy, con sẽ làm được. Khi sinh ra chưa được một trăm ngày, con đã có thể nói được từ ‘Mẹ’. Dù không có ai dạy con học chữ, con đã tự học được cách đọc ngay sau khi đến trường và luôn đứng đầu lớp. Tại sao mẹ lại rời khỏi ngôi nhà ấy khi còn có con ở đó... Tại sao mẹ đã không nghĩ đến điều đó chứ? Mẹ vẫn còn có con ở bên mà.”
Mẹ nhìn bắp chân bầm tím của anh rồi quay lưng lại ngồi xuống, bảo anh trèo lên lưng mình. Anh ngây người ra nhìn tấm lưng của mẹ. Mẹ ngoái cổ lại. “Ngồi lên lưng mẹ cõng về nhà nào.”
Mẹ cõng anh trở về nhà rồi đuổi người phụ nữ kia đi và vào bếp nấu cơm. Khi bố anh cùng cô ta chuyển tới một ngôi nhà thuê trong làng để tiếp tục chung sống, mẹ xắn ống tay áo lên, lao đến ngôi nhà đó, mẹ chộp lấy nồi cơm trên bếp lò vứt xuống mương. Để có thể quay về nhà và giữ lời hứa với anh, mẹ gần như đã trở thành người tranh đấu. Khi bố cùng người phụ nữ kia rời hẳn khỏi làng vì không thể chịu đựng được sự lăng mạ của mẹ, mẹ gọi anh đến ngồi xuống trước mặt mình, hai người quỳ đối diện nhau. Trong khi anh đang rất hoảng sợ vì có thể mẹ cũng bỏ nhà ra đi thì mẹ lại hỏi anh bằng giọng điềm tĩnh, “Ngày hôm nay con đã học được nhiều chưa?” Khi biết bài kiểm tra của anh được đúng một trăm điểm, đôi mắt u sầu của mẹ lại sáng lên ngọn lửa. Mẹ ôm chầm lấy anh khi nhìn thấy những vòng tròn bằng bút chì đỏ khoanh kín trên bài kiểm tra.
“Ôi, con trai mẹ giỏi quá!”
Mẹ đã rất chiều chuộng anh trong thời gian bố anh không có nhà. Mẹ cho anh đi chiếc xe đạp của bố. Mẹ đưa cho anh cái chiếu bố anh nằm ngủ, đắp cho anh cái chăn bố anh đã đắp. Mẹ còn xới cơm cho anh vào cái bát to mà xưa nay chỉ có bố dùng. Bát canh đầu tiên múc ra mẹ luôn đặt trước mặt anh. Nếu mấy đứa em định ăn, mẹ sẽ mắng, “Anh còn chưa cầm đũa đâu đấy!” Khi người bán hoa quả với chiếc thùng cao su đựng đầy nho đi qua nhà, mẹ xúc nửa bát vừng đang phơi ngoài sân cho họ để đổi lấy mấy chùm nho rồi mang cất đi cho anh, bảo với lũ em rằng, “Cái này chỉ để cho anh các con thôi.” Mỗi lần như thế, mẹ đều nhắn nhủ anh rằng, “Con nhất định phải trở thành công tố viên.”
Anh đã nghĩ mình phải trở thành công tố viên để giữ được mẹ ở nhà.
Mùa thu năm ấy, mẹ một mình thu hoạch lúa mang về nhà đập rồi phơi phóng, không có bố. Nếu anh định làm gì đỡ để giúp đỡ mẹ một tay, mẹ sẽ bảo, “Con không phải làm gì cả, nhiệm vụ của con chỉ là học bài,” rồi đẩy anh đến trước bàn học. Mẹ bắt các em anh đi lên cánh đồng trên đồi để dỡ khoai lang, nhưng lại bắt anh ở nhà học bài. Đến tận tối mịt, khi khoai đã chất đầy thùng xe, mẹ và các em mới quay về nhà. Cậu em trai anh, vốn cũng rất muốn ở nhà học bài nhưng mẹ vẫn bắt ra đồng làm việc, cúi lom khom bên giếng để cọ sạch đất cát ở móng tay và nói với mẹ.
“Mẹ! Chỉ có anh Hyong-chol là quan trọng mẹ nhỉ?”
“Tất nhiên! Chỉ có anh Hyong-chol là quan trọng thôi.” Mẹ cốc cho cậu em trai anh một cái vào đầu, chẳng nghĩ ngợi thêm gì về câu hỏi đó.
“Thế mẹ không cần chúng con à?”
“Đúng vậy! Không cần!”
“Vậy chúng con đến sống với bố nhé!”
“Cái gì?” Mẹ lại định đánh vào đầu cậu em, nhưng rồi dừng tay lại. “Ừ! Các con cũng quan trọng mà! Tất cả các con đều quan trọng. Nào, những đứa con quan trọng của mẹ, hãy lại đây với mẹ nào!” Cuối cùng, bên bờ giếng vang lên tiếng cười giòn giã của tất cả mọi người. Ngồi trong phòng trước bàn học, nghe thấy tiếng cười của gia đình từ giếng vọng lại, anh cũng mỉm cười.
Không nhớ chính xác từ khi nào, mẹ đã thôi không đóng cổng vào các buổi tối. Rồi chẳng bao lâu sau, mỗi khi lấy cơm sáng cho mấy anh em, mẹ bắt đầu xúc một ít vào chiếc bát của bố rồi ủ dưới chăn đặt ở chỗ ấm áp nhất trong phòng. Trong thời gian bố không có nhà, anh lại càng chịu khó học hành hơn. Mẹ không muốn anh phải động chân động tay vào bất cứ việc gì trong nhà. Mỗi khi trời mưa, nếu có gọi các em anh dọn đống ớt khô đang phơi ngoài sân, mẹ cũng hạ giọng xuống vì sợ ảnh hưởng đến việc học tập của anh. Khuôn mặt mẹ luôn nhăn nhó với nỗi u sầu lo lắng, nhưng khi anh đọc bài to lên thì quầng mắt mẹ sáng bừng, như thể mẹ đã trát phấn lên đó. Những lúc anh học bài, mẹ luôn đóng mở cửa thật nhẹ nhàng. Mẹ lặng lẽ mang vào phòng anh mấy củ khoai lang luộc hoặc mấy quả hồng rồi lại lặng lẽ đóng cửa đi ra. Một đêm mùa đông tuyết phủ trắng thềm, bố bước qua cánh cổng vẫn để mở, hắng giọng rồi cởi giày ra đập đập vào tường cho sạch tuyết và mở cửa nhà. Hôm đó trời lạnh quá nên cả nhà ngủ cùng nhau. Qua đôi mắt he hé, anh quan sát bố sờ trán từng đứa và nhìn lũ con chằm chằm, mẹ thì để bát cơm vẫn ủ ở chỗ ấm nhất trong gian phòng lên mâm và lấy một ít rong biển nướng với dầu tía tô đặt bên cạnh bát cơm, rồi lại đặt thêm vào mâm một bát nước cơm mà trước sau chẳng nói câu nào, cứ như bố ra đi vào buổi sáng hôm đó và trở về vào buổi tối chứ không phải ra đi vào mùa hạ và trở về vào mùa đông.
Khi anh tốt nghiệp đại học và thi đỗ trong kỳ thi tuyển nhân viên của công ty mà anh làm cho tới giờ, mẹ không vui. Mẹ thậm chí không mỉm cười khi mọi người trong làng chúc mừng mẹ vì anh được làm việc ở tập đoàn lớn nhất nước. Khi anh trở về nhà thăm mẹ với món quà truyền thống là bộ quần áo mặc trong mà anh đã dùng tháng lương đầu tiên để mua cho mẹ, mẹ quát, “Con đã nói là con sẽ trở thành người như thế nào chứ hả?”
Anh nói với người mẹ đang tỏ vẻ lạnh lùng của mình rằng anh sẽ chịu khó làm việc ở công ty này trong khoảng hai năm để tiết kiệm tiền rồi bắt đầu lại việc học hành.
Khi mẹ còn trẻ, mẹ chính là sự hiện diện thôi thúc anh tiếp tục xây dựng quyết tâm của mình như một người đàn ông, như một con người.
Mẹ bắt đầu liên tục nói lời xin lỗi với anh khi mẹ dẫn đứa em gái vừa tốt nghiệp trung học lên thành phố sống cùng anh để anh chăm sóc. Mẹ dẫn đứa em gái từ nông thôn lên giao phó cho anh trước khi anh có thể tiết kiệm tiền bạc, trước khi anh có thể thi lại kỳ thi sát hạch lấy chứng chỉ hành nghề luật, thế nên mẹ đã không thể nhìn thẳng vào mắt anh.
“Em con là con gái nên nó phải được học hành nhiều hơn nữa. Dù gì thì con cũng phải tạo điều kiện cho em gái con được học hành ở thành phố. Mẹ không thể để nó sống cuộc đời như mẹ.”
Ba mẹ con gặp nhau dưới chân tháp đồng hồ ở ga Seoul, mẹ đặt tay của đứa em gái mười lăm tuổi vào tay người anh hai mươi tư tuổi. Trước khi về, mẹ đưa hai anh em vào ăn cơm với canh thịt bò. Mẹ cứ gắp thịt bò trong bát canh của mẹ sang bát canh của anh. Dù anh nói rằng anh không thể ăn hết tất cả, rằng mẹ hãy ăn đi mấy miếng, nhưng mẹ vẫn gắp thịt bò sang bát anh. Mặc dù chính mẹ đề xuất đi ăn, nhưng mẹ lại không ăn lấy một thìa.
“Mẹ không ăn ạ?” anh hỏi.
“Ờ ờ, mẹ đang ăn đấy chứ, mẹ sẽ ăn mà.” Mẹ nói thế nhưng vẫn luôn tay gắp thịt bò sang bát của anh. “Nhưng mà con... con sẽ làm gì?” Mẹ anh bỏ cái thìa dính nước canh xuống. “Tất cả là tại mẹ. Mẹ xin lỗi con, Hyong-chol à.”
Đứng ở ga Seoul để chờ bắt tàu về nhà, mẹ đút hai bàn tay thô kệch với những chiếc móng cắt cụt vào sâu trong túi áo, đôi mắt mẹ ngấn lệ. Khi đó anh nghĩ, sao đôi mắt mẹ trông giống đôi mắt của con bê đến thế.
Chúc các bạn online vui vẻ !