Chương 2: Xin lỗi con, Hyong-chol (3)
Anh gọi điện cho cô em gái đang ở ga Seoul. Trời đã nhá nhem tối. Cô em im lặng khi nghe thấy giọng anh. Có vẻ như cô muốn anh nói trước. Mặc dù trên tờ rơi có ghi đầy đủ số điện thoại của cả mấy anh em, nhưng cô em anh nhận được nhiều cuộc gọi nhất. Hầu hết trong số đó đều là những thông tin vô giá trị. Có một anh chàng nào đó nói hiện nay mẹ anh đang ở chỗ anh ta. Thậm chí anh ta còn chỉ dẫn tỉ mỉ về nơi anh ra sống. Cô em anh vội vàng bắt taxi đến chỗ chân cầu mà người đó bảo, nhưng ở đó cô chỉ thấy một người say đang ngáy khò khò, một gã đàn ông chứ không phải phụ nữ, ông ta xỉn đến mức nếu có ai vác đi thì ông ta cũng không hề hay biết.
“Anh không tìm thấy mẹ,” anh nói với cô em gái.
Cô em anh thở hắt ra.
“Em vẫn còn ở nhà ga Seoul đấy chứ?”
“Em sẽ ở đây thêm một lúc nữa... vẫn còn mấy tờ rơi chưa phát hết.”
“Anh sẽ qua đó. Anh em mình cùng đi ăn tối nhé.”
“Em không thấy đói.”
“Vậy, anh em mình đi uống một chút nhé.”
“Uống rượu ấy ạ?” Cô em gái lặng thinh một lúc. “Em vừa nhận được cuộc gọi từ một ông dược sĩ ở quầy thuốc Sobu trước cổng chợ Sobu phường Yokchon gọi, ông ấy nói đã xem tờ rơi mà cậu con trai ông ấy mang về. Ông ấy nghĩ đã nhìn thấy một người giống mẹ ở phường Yokchon hai ngày trước... nhưng ông ấy bảo người phụ nữ đó đi đôi dép lê màu xanh. Vì đi lại nhiều nên ngón chân cái bị thương, vết thương ăn vào tận móng, ông ấy đã bôi thuốc sát trùng lên đó...”
Đôi dép lê màu xanh ư? Anh bỏ điện thoại khỏi tai.
“Anh à!”
Anh lại đưa điện thoại lên tai.
“Em sẽ thử đi đến đó xem sao, anh cũng cùng đi với em chứ?”
“Ở phường Yokchon à? Em định nói là ở chợ Sobu, nơi trước đây chúng ta từng sống gần phải không?”
“Vâng.”
“Anh biết rồi.”
Anh không muốn quay về nhà. Không phải vì anh có chuyện gì đặc biệt cần nói khi gặp cô em. Nhưng khi gọi điện cho em gái, anh lại nghĩ, mình không muốn về nhà. Phường Yokchon sao? Anh giơ tay ra vẫy taxi. Anh không tài nào lý giải nổi. Nhiều người gọi điện bảo rằng họ thấy một người giống mẹ anh, đi đôi dép lê màu xanh. Thật kỳ lạ, tất cả những người đó đều nói họ thấy mẹ anh ở khu vực anh từng sống trước đây. Hình như, tất cả họ đều đã nhìn thấy mẹ anh ở đó. Phường Kaebong, Tearim, Oksu, dưới khu chung cư Naksan ở phường Tongsung, phường Suyu, Singil, Chongnung. Nếu anh tìm đến những nơi đó, họ sẽ nói đã nhìn thấy người phụ nữ đó cách đây ba ngày, vài hôm trước hoặc một tuần gì đó. Thậm chí còn có người nói đã nhìn thấy mẹ anh khoảng một tháng trước thời điểm mẹ anh mất tích. Mỗi khi nhận được những thông tin như vậy, anh lại đến đó, một mình hoặc cùng mấy người em, cũng có khi đi cùng bố. Dù những người gọi điện đó đều bảo đã gặp mẹ, anh không tìm thấy ai giống mẹ, đi đôi dép lê màu xanh. Sau khi nghe lời kể của họ, tất cả những gì anh có thể làm là dán tờ rơi lên bốt điện thoại công cộng, thân cây hoặc cột điện trong khu, chỉ cốt để cho yên lòng. Khi đi qua trước những ngôi nhà ngày xưa anh từng sống, anh dừng bước nhìn vào trong, ở đó giờ đây có những người khác sống. Dù anh sống ở ngôi nhà nào trong thành phố này, mẹ chưa bao giờ tự mình đến đó. Những lần mẹ anh lên thành phố thăm con, thể nào cũng có một người trong gia đình ra ga Seoul hay bến xe buýt để đón mẹ. Ở cái thành phố này, mẹ sẽ không đi đâu chừng nào chưa có người tới đón mẹ đưa đi chỗ khác. Khi mẹ lên nhà cậu em trai anh, cậu ấy sẽ đi đón và chăm sóc mẹ, khi mẹ lên nhà cô em gái, cô ấy sẽ đảm nhận việc đó. Dù không ai nói ra, nhưng trong thâm tâm anh và mọi người trong nhà đều cho rằng mẹ không thể một mình đi đến bất cứ nơi nào trong thành phố này. Chính vì vậy, nếu mẹ lên Seoul, bao giờ cũng phải có người ở bên cạnh mẹ. Sau khi đăng quảng cáo trên báo, phát tờ rơi và đăng tin trên mạng tìm mẹ, anh mới nhận ra rằng, mình đã từng sống ở mười hai ngôi nhà trong cái thành phố này. Giờ đây anh ngồi thẳng người dậy nhìn ra ngoài.
Phường Yokchon là nơi đầu tiên anh có thể mua được một căn nhà ở thành phố này.
“Chỉ còn vài ngày nữa là đến tết Trung thu rồi...” Khi ngồi trong xe taxi để đi đến phường Yokchon, cô em gái anh cứ cọ móng tay vào nhau. Anh cũng đang nghĩ đến điều cô vừa nói. Anh hắng giọng và cau mày. Hằng năm cứ đến dịp tết Trung thu, chuyện năm nay có nhiều người muốn ra nước ngoài du lịch vào kỳ nghỉ hơn năm trước lại trở thành vấn đề thời sự của xã hội. Mấy năm trước chuyện đi du lịch vào dịp lễ tết còn bị phê phán mạnh mẽ, nhưng ngày nay thì người ta cứ thoải mái nói, Xin phép các cụ, con sẽ lễ tạ các cụ đầy đủ sau, rồi ra sân bay đi du lịch. Khi mới bắt đầu tình trạng tổ chức ngày lễ tết ở khách sạn trong thời gian đi du lịch, mọi người thường lo lắng không biết linh hồn các cụ có tìm ra được họ không, nhưng giờ thì ai nấy đều vô tư lự nhảy lên máy bay. Sáng nay sau khi xem báo, vợ anh nói cứ như thể đây là tin sốt dẻo, “Xem ra có đến hơn một triệu người sẽ đi nước ngoài dịp này đấy.”
“Người ta chắc quá lắm tiền nhiều của,” anh đáp.
“Những người không thể ra nước ngoài du lịch, ừm, họ chẳng tài cán cho lắm,” vợ anh lẩm bẩm.
Bố anh chỉ lặng lẽ nhìn hai vợ chồng.
“Từ khi bạn bè của con cái chúng ta đi du lịch nước ngoài vào dịp tết Trung thu, chúng cứ nói suốt rằng, ước gì gia đình mình cũng làm được như họ,” vợ anh nói. Khi anh liếc vợ, không muốn nghe chuyện đó thêm chút nào nữa, vợ anh giải thích, “Anh biết đấy, bọn trẻ rất nhạy cảm với những chuyện như thế.” Bố anh đứng lên khỏi bàn ăn và đi vào phòng.
“Em điên à? Sao lại nói những chuyện ấy vào lúc này?” anh quát vợ. Vợ anh vặc lại, “Là em nói chuyện rằng con cái chúng nói như vậy, em có nói là em muốn đi du lịch nước ngoài đâu? Không lẽ, em không được phép nói lại lời của bọn trẻ sao? Thật là quá thể. Không được nói câu nào thì sống làm sao được?” Lần này đến lượt vợ anh đứng dậy rời khỏi bàn ăn.
“Chúng ta không nên tổ chức cúng tết Trung thu à anh?”
“Em đã quan tâm đến ngày lễ tết từ khi nào vậy? Bình thường, đến ngày nghỉ em còn không về nhà cơ mà, sao bây giờ lại quan tâm đến tết Trung thu thế?”
“Em thật có lỗi. Đáng lẽ em đã không nên như vậy.”
Anh quan sát cô em gái thôi không cọ móng tay vào nhau nữa mà cho cả hai tay vào túi áo khoác. Đó là thói quen của cô em gái anh mỗi khi cô thấy căng thẳng trước mặt anh. Đã lâu lắm rồi, thế mà đến giờ cô vẫn chưa bỏ thói quen đó.
Khi hai anh em còn sống với nhau, khi anh còn phải ngủ cùng cậu em trai và cô em gái trong một phòng, cô em gái luôn nằm sát tường, anh nằm ở giữa và cậu em trai nằm cạnh một góc tường khác. Trong khi ngủ, nếu anh giật mình tỉnh giấc vì bị đánh vào mặt, chắc chắn lúc ấy cánh tay của cậu em anh đang dang ra đè cả vào mặt anh. Anh nhẹ nhàng đặt cánh tay của cậu em xuống rồi lại chìm vào giấc ngủ, nhưng chỉ sau đó, đến lượt cánh tay của cô em gái đập lên ngực anh. Đó là thói quen nằm ngủ ngổn ngang trong một căn phòng rộng ở vùng nông thôn, ai nằm thế nào tùy thích. Một đêm, anh thét lên vì bị đập vào mắt. Hai đứa em anh đang chìm trong giấc ngủ choàng tỉnh dậy.
“Ê này!”
Phải mất một lúc lâu sau cô em mới hiểu rõ sự tình, cô vội vã đút hai tay vào túi và cựa người một cách căng thẳng.
“Nếu mày còn tiếp tục như thế nữa thì cút về quê ngay!”
Có phải đáng lẽ anh đã không nên nói những lời như thế? Giờ đây, trong taxi, anh quay sang nhìn em gái.
Thấy thái độ của anh như vậy, ngày hôm sau cô em về với mẹ thật, mang theo tất cả đồ đạc của cô. Mẹ dẫn cô trở lại. Mẹ bắt cô quỳ gối trước anh nhận lỗi và xin anh tha thứ cho. Cô em ương bướng không hề nhúc nhích.
“Hãy xin anh tha thứ đi con!” mẹ nói, nhưng cô không động đậy.
Cô em anh trông có vẻ nhu mì, nhưng khi cô đã quyết định cái gì thì không ai lay chuyển được. Có phải chuyện này xảy ra hồi anh học trung học không nhỉ? Có lần, anh bắt cô giặt đôi giày thể thao cho mình mặc dù cô không hề muốn. Thông thường, cô sẽ ngoan ngoãn giặt đôi giày thể thao một cách sạch sẽ. Nhưng hôm đó, cô tỏ ra rất bực tức và mang đôi giày mới của anh ra mương ném xuống dòng nước đang chảy. Anh phải chạy đến tận cuối con mương để tìm lại đôi giày trôi dạt của mình. Khi thời gian trôi qua thì những câu chuyện thế này sẽ trở thành ký ức chỉ anh chị em mới chia sẻ được với nhau, nhưng vào lúc đó, anh tức giận trở về nhà, với chỉ một chiếc giày thể thao, giờ đã biến thành màu xanh vì cặn nước và bám đầy các thứ phế phẩm. Anh quát cho cô một trận. Nhưng ngay cả khi mẹ cầm que cời lửa lên và hỏi cô học ở đâu cái tính không thể chấp nhận được như vậy, cô cũng không nhận lỗi. Trái lại cô đâm nổi cáu với mẹ. “Con đã bảo con không muốn làm! Con đã bảo anh ấy là con không muốn làm! Con sẽ không bao giờ làm việc gì con không muốn!”
Mẹ ra lệnh cho Chi-hon, “Mẹ bảo con hãy xin lỗi anh đi. Ở cái nhà này, anh cả cũng là bố mẹ. Nếu con không sửa cái thói mang tất cả mọi thứ rồi bỏ đi chỉ vì anh trai mắng mỏ thì nó sẽ theo con suốt cả cuộc đời. Chẳng nhẽ đến khi lấy chồng rồi mà có điều gì đó không vừa lòng thì con cũng cuốn gói đồ đạc và bỏ đi sao?”
Mẹ càng bắt cô em gái xin lỗi anh thì hai tay cô càng thọc sâu vào túi quần. Mẹ buồn rầu thở dài, “Thế đấy, giờ đây đứa con này sẽ chẳng nghe lời tôi nữa. Đứa con này không nghe lời tôi vì tôi không có cái gì, tôi không được học hành gì...” Nước mắt lăn dài trên mặt mẹ. Phải đến lúc mẹ khóc thành tiếng, cô em gái mới lên tiếng, “Mẹ! Không phải vậy đâu.” Không thể vỗ về được người mẹ đang ngày càng khóc to hơn, cuối cùng cô em gái đành nói, “Con sẽ xin lỗi, con xin lỗi là được chứ gì.” Phải đến lúc ấy, cô mới rút tay ra khỏi túi và nói lời xin lỗi anh. Từ đó về sau, cứ ngủ là em gái anh lại đút tay vào túi. Bất cứ khi nào anh hơi cao giọng là ngay lập tức cô đút tay vào trong túi.
Sau khi mẹ bị lạc, bất cứ khi nào có ai chỉ ra chuyện gì không hay không phải, dù chỉ là những chuyện nhỏ nhặt, cô em gái bướng bỉnh của anh cũng sẽ tự thừa nhận bằng giọng yếu ớt, “Em có lỗi, lẽ ra em không nên làm như vậy.”
“Ai sẽ lau cửa sổ nhà mình, anh nhỉ?” Chi-hon hỏi anh.
“Em nói gì cơ?”
“Độ này trong năm nếu gọi điện về, chắc mẹ đang lau cửa sổ.”
“Cửa sổ ư?”
“Khi em hỏi sao mẹ cứ phải làm vậy thì mẹ nói làm sao mẹ có thể để cửa sổ nhà ta bẩn thỉu khi tết Trung thu sắp đến được chứ?”
Bao nhiêu cánh cửa sổ ngôi nhà thôn quê của anh chợt bừng lên trong mắt anh. Các phòng trong ngôi nhà mới xây lại mấy năm trước đều có cửa sổ, đặc biệt là trong phòng khách, khác với ô kính duy nhất trên cửa ra vào trong ngôi nhà cũ.
“Em đã bảo mẹ thuê người đến lau, nhưng mẹ nói rằng, Ai mà đi đến cái xó xỉnh quê mình để lau cửa sổ chứ?” Cô em gái thở dài rồi đưa tay ra gõ vào cửa xe taxi và lau lau cửa kính. Có phải tầm thời gian này trước đây mẹ hay lau cửa kính không nhỉ?
“Hồi anh em mình còn bé, vào dịp này trong năm mẹ sẽ tháo hết tất cả các cánh cửa ra để lau... chuyện đó anh còn nhớ không?” Chi-hon hỏi.
“Nhớ.”
“Có nhớ không?”
“Anh còn nhớ mà!”
“Nói dối!”
“Sao em lại nghĩ rằng đó là lời nói dối? Anh còn nhớ thật mà. Mẹ thường dán lá thích lên cửa. Vì chuyện đó mà bác chúng ta đã gây khó dễ cho mẹ suốt còn gì.”
“Công nhận là anh nhớ thật. Thế anh còn nhớ chuyện anh em chúng mình đến tận nhà bác để lấy những chiếc lá đó không?”
“Nhớ chứ.”
Trước khi xây ngôi nhà mới, vào dịp tết Trung thu, mẹ thường chọn ngày nắng ráo rồi tháo tất cả các cánh cửa trong nhà xuống. Mẹ dùng nước rửa các cánh cửa rồi phơi khô dưới ánh nắng mặt trời, sau đó mẹ quấy một ít hồ rồi dán giấy mới lên cửa. Cứ khi nào nhìn thấy những cánh cửa được nhấc ra, phơi nắng, dựa vào tường nhà, anh lại nghĩ, “A, tết Trung thu đến rồi.”
Trong nhà đầy đàn ông con trai, sao lúc mẹ dán giấy lên cánh cửa không có ai giúp mẹ một tay nhỉ? Cô em tinh nghịch của anh còn nhúng ngón tay vào cái thùng đựng hồ loãng rồi xoa khắp cánh cửa. Một mình mẹ cầm cây chổi phết hồ lên mặt tờ giấy trông cứ như mẹ đang điêu luyện đưa bút vẽ bức tranh hoa lan truyền thống, rồi khéo léo dán giấy lên khung cửa thật ngay ngắn. Cử chỉ của mẹ tràn ngập vui sướng hân hoan. Mẹ đã làm những việc mà giờ đây anh thậm chí không dám thử, mặc dù bây giờ anh lớn tuổi hơn nhiều so với mẹ anh ngày ấy, và mẹ hoàn thành những việc đó cực kỳ nhanh nhẹn và đơn giản. Bản tính lãng mạn của mẹ thăng hoa khi mẹ dán giấy mới lên cửa. Cầm cây chổi quét hồ trên tay, mẹ yêu cầu cô em gái đang hớn hở nghịch thùng hồ, hoặc yêu cầu anh khi đó đang đứng cạnh hỏi xem có giúp được gì cho mẹ không, là hãy đi nhặt lá thích về Mặc dù nhà anh có rất nhiều cây, cây hồng, cây mận, cây táo, nhưng mẹ đặc biệt yêu cầu lá cây thích, loại cây mà nhà anh không có. Một lần, để có lá thích, anh bắt đầu tìm từ cổng, tìm ra khắp các ngõ ngách, vượt qua con mương rồi đi hết cả con đường mới làm tới tận nhà bác gái, chị của bố anh. Thấy anh nhặt những chiếc lá thích, bác anh hỏi, “Mày lấy mấy cái lá đó làm gì thế? Mẹ mày sai mày đi nhặt lá à? Cái trò lãng mạn vô bổ này của mẹ mày thì được tích sự gì chứ? Vào mùa đông khi mở cánh cửa mà thấy có dán lá thích bên trên thì sẽ có cảm giác lạnh lẽo hơn đấy, nhưng dù tao có bảo đừng làm thế nữa thì mẹ mày cũng vẫn sẽ làm thôi!”
Khi anh mang về hai vốc lá khô, mẹ sẽ đặt những chiếc lá đẹp đẽ đó đối diện nhau ở ngay sát tay cầm của tất cả mấy cánh cửa kia rồi dán chúng lên trên giấy. Đây là nơi mẹ thường dán nhiều lớp giấy để nó không bị rách khi mọi người cứ liên tục chạm phải vùng đó lúc mở cửa. Trên cánh cửa phòng anh, mẹ dán nhiều hơn ở các cánh cửa khác ba chiếc lá, trải năm chiếc lá ra như những bông hoa, cẩn thận dùng lòng bàn tay miết những chiếc lá, rồi hỏi anh có thích không. Năm chiếc lá khô xòe ra như năm ngón tay của đứa trẻ. Cho dù bác anh có nói gì đi nữa, trong mắt anh những chiếc lá đó vẫn thật đẹp. Khi anh khen những chiếc lá đó rất tuyệt vời, khuôn mặt mẹ nở một nụ cười rạng rỡ như bông hoa mẫu đơn. Vốn không hề thích đón lễ tết với những cánh cửa bị thủng hay bị rách, hỏng hóc vì cứ mở ra đóng vào suốt mùa hè, thế nên với mẹ dán giấy cửa mới chính là sự khởi đầu của mùa thu và là sự chào đón tết Trung thu. Có lẽ cũng bởi mẹ muốn chuẩn bị để mọi người trong nhà không bị cảm cúm trước những cơn gió trở lạnh khi mùa hè đã qua đi. Phải chăng đó là cảm giác lãng mạn nhất mẹ được hưởng trong những ngày tháng ấy?
Anh cũng đã thọc tay vào túi quần giống như cô em gái từ lúc nào chính anh cũng không biết. Những chiếc lá thích được dán bên cạnh tay cầm của cánh cửa vẫn tiếp tục ở lại cùng cả gia đình trong ngôi nhà đó khi tết Trung thu đã qua đi, qua cả mùa đông và tuyết rơi, cho tới tận khi những chiếc lá thích mới đâm chồi lúc xuân sang.
Sự mất tích của mẹ đã khơi dậy trong ký ức của anh những câu chuyện anh nghĩ mình đã quên hẳn. Như chuyện những cánh cửa dán lá thích này.
Phường Yokchon không còn là phường Yokchon ngày xưa mà anh vẫn nhớ. Khi lần đầu tiên anh có được ngôi nhà mang tên mình ở cái thành phố này, đây vẫn là một khu có nhiều ngõ ngách với những ngôi nhà tồi tàn, còn ngày nay nơi đây mọc lên như nấm những tòa chung cư cao tầng và cửa hàng quần áo. Hai anh em đi từ trước ra sau rồi lại từ sau ra trước khu chung cư đến hai lần mà vẫn không tìm được chợ Sobu ngày xưa vốn nằm ở trung tâm phường Yokchon, cuối cùng đành phải hỏi một cô bé học sinh đi ngang qua xem chợ Sobu nằm ở đâu. Hóa ra nó nằm ở hướng ngược lại so với họ nghĩ. Giờ một cửa hàng lớn đã thế chỗ cho cái bốt điện thoại mà trước đây ngày nào anh cũng đi qua. Anh không thể nào tìm thấy cửa hàng bán len sợi, nơi vợ anh thường đến mua len vì muốn đan một chiếc áo len để sau này cô con gái mới sinh lớn lên sẽ mặc.
“Em nghĩ nó ở đằng kia kìa!”
Chợ Sobu trong ký ức của anh nằm ngay bên cạnh con đường lớn, nhưng giờ đây nó đã bị bao quanh bởi những con đường mới khiến anh không thể nhìn thấy rõ các tấm bảng hiệu.
“Ông dược sĩ nói rằng quầy thuốc của ông ấy ở trước cổng chợ...” Cô em gái chạy về phía cổng chợ, vòng đi vòng lại quanh đó để nhìn ngó dãy cửa hàng. “Kia rồi!”
Anh nhìn theo hướng tay cô em gái chỉ và thấy tấm biển “Hiệu thuốc Sobu”, quầy thuốc nằm giữa một cửa hàng bán đồ ăn nhanh và quán café Internet. Ông dược sĩ đeo kính, tầm khoảng ngoài năm mươi tuổi, ngẩng đầu lên nhìn khi anh và cô em gái bước vào. Cô em gái anh hỏi, “Có phải chú đã gọi điện cho cháu khi nhìn thấy tờ rơi do con trai chú mang về không?” Ông dược sĩ tháo kính ra nhìn hai anh em.
“Mẹ cô đã bị lạc như thế nào vậy?”
Kể từ khi mẹ bị lạc, đây là câu hỏi khó trả lời nhất với hai anh em. Mặc dù họ cố gắng không để cho mọi người biết mẹ mình đã bị lạc như thế nào mà chỉ tỏ ra đang cố đi tìm mẹ, song mọi người luôn hỏi chuyện đó đã xảy ra như thế nào. Trong câu hỏi ấy luôn ẩn chứa sự tò mò và trách móc. Hồi đầu mấy anh em thường giải thích tỉ mỉ, Mẹ ở ga tàu điện ngầm Seoul..., nhưng giờ đây họ chỉ trả lời rằng, Chuyện đã xảy ra như vậy đấy. Rồi tỏ vẻ thật thiểu não. Có như vậy họ mới thoát được câu hỏi, “Chuyện đã xảy ra như thế nào?”
“Hay bà ấy bị mất trí nhớ chăng?”
Cô em gái anh không trả lời, thế nên anh lên tiếng phủ nhận.
“Nhưng sao anh lại như vậy khi đang cố gắng đi tìm bà ấy? Tôi đã gọi điện một lúc lâu rồi mà sao giờ anh mới đến?” ông dược sĩ hỏi cứ như thể hai anh em đã có thể tìm thấy mẹ mình nếu đến đây sớm, nhưng giờ đây mẹ đi nơi khác rồi thế nên họ mới đến muộn...
“Chú nhìn thấy bà ấy khi nào? Trông bà ấy có giống mẹ cháu không?” cô em gái lấy một tờ rơi ra và chỉ vào hình của mẹ.
Ông dược sĩ nói ông đã nhìn thấy mẹ anh sáu ngày trước đây. Ông dược sĩ kể lại, ông ấy sống ở tầng ba của tòa nhà này, buổi sáng hôm ấy, ông mở cánh cửa chớp của quầy thuốc ra thì nhìn thấy một bà già đang ngủ bên cạnh thùng rác trước cửa tiệm ăn nhanh bên cạnh. Ông dược sĩ còn nói, bà cụ đi đôi dép lê màu xanh, vì đi lại nhiều nên chỗ gần ngón chân cái bị thương sâu hoắm đến mức gần như nhìn thấy cả xương, vết thương đã bị nhiễm trùng và tái nhiễm trùng rất tệ, chừng như chẳng thể làm gì được nữa.
“Là dược sĩ, khi nhìn thấy vết thương của bà ấy, tôi không thể để như vậy được. Tôi nghĩ ít nhất thì cũng phải sát trùng vết thương cho bà ấy, thế là tôi vào trong lấy thuốc sát trùng và băng gạc ra băng bó vết thương. Bà ấy tỉnh dậy. Mặc dù một người hoàn toàn xa lạ đang sờ nắn bàn chân mình, nhưng bà ấy vẫn không hề động đậy, có lẽ bà ấy đã kiệt sức. Tôi thấy ngạc nhiên vì nếu vết thương nặng đến mức ấy thì lẽ ra khi sát trùng phải kêu lên đau đớn mới đúng, nhưng bà ấy lại không hề có phản ứng gì. Vết thương quá nặng lại để lâu ngày nên mủ cứ chảy ra bốc mùi rất khó chịu. Tôi không nhớ mình đã sát trùng bao nhiêu lần. Sau đó tôi bôi thuốc mỡ lên vết thương, rồi do miếng gạc không đủ rộng nên tôi phải dùng băng quấn vết thương lại. Dù sao đi nữa bà ấy cần phải có ai đó giúp đỡ, vì vậy tôi đi vào trong quầy thuốc gọi điện đến đồn cảnh sát nhưng rồi lại trở ra hỏi xem bà ấy có người thân ở thành phố này không. Lúc đó, chắc vì đói bụng quá nên bà ấy bốc cả nắm kimpap người ta đổ trong thùng rác để ăn. Thấy vậy tôi liền bảo đó là kimpap thừa người ta đổ đi, bà đừng ăn những thứ đó, tôi sẽ lấy cho bà thứ gì đó để ăn tạm, nhưng bà ấy vẫn cứ ăn nên tôi phải giật lấy vứt đi. Mặc dù lúc tôi bảo thì bà ấy không chịu vứt, nhưng khi vứt đi thì bà ấy cũng chẳng phản ứng gì. Tôi bảo bà ấy vào trong quầy thuốc nghỉ tạm, nhưng bà ấy cứ ngồi yên ở đó cứ như không hiểu tôi đang nói gì. Bà ấy bị điếc à?”
Chương 2: Xin lỗi con, Hyong-chol (4)
Cô em gái anh vẫn không nói gì, thế nên anh phủ nhận điều đó.
Ông dược sĩ kể tiếp, “Tôi hỏi bà ấy, Bà sống ở đâu? Bà có nhớ ra ai đó có thể đến đón bà không? Nếu có số điện thoại của ai đó thì tôi sẽ gọi họ cho bà, nhưng bà ấy cứ ngồi bất động, chỉ chớp chớp mắt. Chẳng biết phải làm gì nữa, thế nên tôi đi vào trong quầy thuốc gọi điện đến đồn cảnh sát, và khi tôi quay ra bà ấy đã không còn ở đấy nữa. Thật là một chuyện khác thường. Tôi vào nhà chỉ có vài phút vậy mà bà ấy đã đi rồi.”
“Mẹ chúng tôi không đi đôi dép lê màu xanh mà đi đôi xăng đan màu be. Chú có chắc đó là đôi dép lê màu xanh không?”
“Đúng mà. Bà ấy mặc áo sơ mi màu xanh nhạt, cái áo khoác bên ngoài có màu trắng hay màu vàng gì đó, vì nó rất bẩn nên tôi không nhận rõ được. Cái váy có vẻ cũng là màu trắng, nhưng vì bẩn quá nên trông như màu be, hình như đó là một cái váy xếp nếp. Bắp chân bà ấy đầy vết máu bầm, nham nhở vì bị muỗi đốt.”
Chỉ trừ đôi dép lê màu xanh, còn lại đó chính là bộ quần áo mẹ anh đã mặc khi bị mất tích.
“Trong bức ảnh của tờ rơi, mẹ tôi mặc bộ hanbok. Kiểu tóc cũng hoàn toàn khác... Trong bức ảnh này mẹ tôi đã trang điểm kỹ càng, chứ khi bị lạc mẹ tôi không giống thế này. Nhìn ảnh của mẹ tôi có gợi chú nghĩ đến hình ảnh bà cụ ấy không?” Dường như cô em gái anh mong rằng bà cụ mà ông dược sĩ đã gặp không phải là mẹ mình, có lẽ bởi theo lời kể của ông ta thì bà ấy quá thảm hại.
“Đúng là người này rồi. Đôi mắt rất giống mắt con bò. Ngày còn bé tôi đi chăn bò suốt, tôi đã thấy những đôi mắt y hệt đôi mắt này. Tôi nhận ra ngay mặc dù bà ấy trông rất khác, vì đôi mắt của bà ấy không lẫn vào đâu được.”
Cô em gái anh ngồi phịch xuống cái ghế trong quầy thuốc.
“Nhưng cảnh sát có đến không ạ?”
“Tôi đã gọi điện thoại lại cho cảnh sát ngay sau đó và bảo họ không cần phải đến nữa vì bà ấy đi mất rồi.”
Anh cùng cô em gái đi khỏi quầy thuốc và chia nhau ra để đi tìm mẹ, hai anh em thống nhất sẽ gặp nhau sau hai tiếng nữa ở sân chơi trong một khu chung cư mới. Anh men theo những con đường xung quanh khu chung cư mới xây trên mảnh đất mà dạo anh còn sống ở đây chỉ là những ngôi nhà tồi tàn, còn cô em gái anh đi tìm ở khu vực gần chợ Sobu, nơi đây vẫn còn sót lại mấy con đường cũ. Theo lời kể của ông dược sĩ, người phụ nữ có thể chính là mẹ anh đó đã bốc ăn kimpap từ trong thùng rác gần tiệm đồ ăn nhanh, vì vậy anh tìm rất kỹ ở tất cả các thùng rác quanh tòa nhà. Anh đến tận nơi đặt các thùng rác trong khu chung cư, không bỏ sót một chỗ nào. Vừa tìm kiếm anh vừa tự hỏi không biết căn nhà ngày xưa mình sống vốn nằm ở chỗ nào. Đó là căn nhà áp chót trên con hẻm dài nhất trong khu này. Con hẻm sâu đến mức mỗi lần đi làm về khuya, anh cứ phải quay lại nhìn phía sau ít nhất hai lần trước khi tới được cổng nhà mình. Cô em gái đang ngồi đợi trên chiếc ghế gỗ trong sân chơi, cô đứng dậy khi nhìn thấy đôi vai rũ xuống và bước chân chậm chạp của anh. Đêm đã về khuya, trong sân chơi không còn bóng đứa trẻ nào, mà chỉ có đây đó những người già đi thả bộ ngơi nghỉ chân.
Có lẽ nào mẹ đã đến đây để tìm ngôi nhà đó?
Vào ngày đầu tiên đến thăm ngôi nhà đó, mẹ xuống ở ga Seoul, tay xách theo cái ấm đun nước to như cái nồi hấp ở quê đựng đầy cháo đậu đỏ. Thời đó anh chưa có ô tô. Khi ra ga đón mẹ, anh vừa đỡ lấy cái ấm đựng cháo đậu đỏ vừa cáu kỉnh mẹ, “Mẹ ra đây còn xách theo cái thứ nặng thế này làm gì chứ?” Mẹ cứ mỉm cười đầy mãn nguyện. Vừa rẽ vào con hẻm là mẹ chỉ ngay một ngôi nhà mà hỏi, “Nhà này à?” Khi hai mẹ con đi qua ngôi nhà đó, mẹ lại chỉ vào ngôi nhà kế bên và hỏi tiếp, “Nhà kia à?” Lúc anh dừng lại trước cửa nhà mình và bảo mẹ, “Nhà này mẹ ạ,” nụ cười tỏa rộng trên khuôn mặt mẹ. Mẹ nhẹ nhàng đẩy cánh cửa nhìn vào trong, trông mẹ phấn khích như một thiếu nữ đang trong chuyến du lịch đầu tiên trong cuộc đời. “Chà, có cả sân nữa cơ à. Còn có cả cây hồng nữa chứ, cây gì đây, chẳng phải là cây nho sao!” Ngay khi bước vào trong nhà, mẹ rót từ ấm ra một bát cháo đậu đỏ rồi rải cháo khắp nhà. Mẹ nói, “Phải làm như thế này mới xua được mọi điều xui xẻo.” Vợ anh, cũng là lần đầu tiên có được một ngôi nhà trên thành phố này giống như anh, vừa mở cửa một trong ba phòng vừa nói với giọng đầy hào hứng, “Mẹ à, đây là phòng của mẹ, khi nào mẹ lên Seoul, mẹ có thể nghỉ ngơi thoải mái trong căn phòng này.” Mẹ anh bước vào trong nhìn ngắm căn phòng và nói với giọng như đã gây nhiều phiền toái cho hai vợ chồng anh, “Mẹ cũng có phòng riêng à?”
Đêm hôm đó, quá nửa đêm, nghe thấy tiếng động ngoài sân nên anh tới cửa sổ nhìn ra ngoài. Mẹ đang đi đi lại lại quanh sân. Mẹ sờ lên cánh cổng và vuốt ve dây nho, rồi tới hiên nhà và ngồi xuống bậc thềm nhìn ngắm xung quanh. Mẹ ngước lên bầu trời đêm rồi lại đi đến đứng dưới gốc cây hồng. Lo mẹ sẽ cứ vơ vẩn ngoài sân đến sáng mất, anh mở cửa sổ và nói vọng xuống sân, “Mẹ đi dạo vậy thôi, vào đi ngủ đi mẹ.”
Mẹ nói, “Sao con còn chưa ngủ?” rồi mẹ ân cần gọi tên anh như thể mẹ được gọi lần đầu, “Hyong-chol à, xuống đây một chút đi con.”
Khi anh đi ra sân, mẹ móc trong túi áo ra một cái phong bì rồi giúi vào tay anh. “Bây giờ con chỉ còn cần làm tấm biển tên treo ngoài cổng nữa thôi. Hãy dùng số tiền này để làm tấm biển tên nhé.” Anh nhìn mẹ, cái phong bì đựng tiền làm biển tên trong tay anh, và mẹ xoa xoa đôi bàn tay với vẻ có lỗi. “Mẹ xin lỗi vì con mua nhà mà mẹ chẳng giúp được gì.”
Sáng sớm ngày hôm sau, khi đi ra từ nhà tắm, anh nhẹ nhàng mở cửa phòng mẹ. Mẹ và cô em gái anh đang nằm cạnh nhau, chìm trong giấc ngủ mệt nhoài. Miệng mẹ nở nụ cười và cánh tay cô em gái dang rộng một cách thoải mái.
Rất lâu sau lần đầu tiên mẹ lên Seoul mà phải ngủ cùng giường ở phòng trực ở ủy ban phường với cậu con trai cả hai mươi tuổi, vẫn không có một nơi thoải mái cho mẹ nghỉ lại Seoul. Có những lần, khi mẹ theo chuyến xe thuê lên Seoul dự đám cưới của họ hàng, anh và các em tới gặp mẹ thì thấy mẹ mang theo bao nhiêu là thứ. Đám cưới còn chưa kết thúc mẹ đã vội vàng giục mấy anh em đưa mẹ đến căn phòng trọ mà họ đang sống. Mẹ vội vã trút bỏ bộ đồ âu mặc dự đám cưới. Bao nhiêu thức ăn được bọc trong giấy báo hoặc ni lông hoặc có khi là lá bí ngô tuồn ra từ trong những cái túi của mẹ. Chẳng mất một phút mẹ đã thay sang chiếc áo rộng, và cái quần hoa mang theo được cuộn lại để tận trong góc túi xách. Sau khi bày những món ăn được bọc trong giấy báo, túi bóng và lá bí ngô ra đĩa và chuyển lên giá bếp, mẹ phủi sạch tay rồi nhanh nhẹn lột mấy cái vỏ chăn mang đi giặt. Mẹ làm kim chi từ chỗ cải bắp muối sẵn mang từ dưới nhà lên, rồi lấy nước rửa chén cọ cái xoong nấu cơm đen sì vì muội than hoặc lau chùi cái bếp lò cho đến khi nó sáng bóng lên, rồi khâu vá những tấm vỏ chăn sau khi chúng khô cong dưới ánh nắng trên mái nhà, rồi mẹ đi vo gạo và nấu canh đậu tương và dọn bàn ăn tối. Trên bàn là bữa ăn thịnh soạn với thịt bò hầm, cá đối chiên, kim chi lá vừng mẹ mang từ nhà lên. Mỗi khi mấy anh em xúc một thìa cơm là mẹ lại đặt lên thìa của mỗi người một miếng thịt bò hầm. Nếu mấy anh em có giục mẹ ăn đi, mẹ thường bảo, “Các con ăn đi, mẹ no bụng rồi...” Ăn xong, mẹ dọn rửa bát đũa rồi vặn đầy nước vào cái thùng cao su đặt dưới vòi, xong xuôi mẹ đi mua một quả dưa hấu về thả vào thùng cho lạnh rồi nhanh chóng mặc lại bộ đồ âu chỉ dành cho những khi đi dự đám cưới và bảo anh, “Con đưa mẹ ra ga Seoul nhé.” Lúc đó, trời đã sẩm tối. Dù mấy anh em có nói, “Mẹ ngủ lại đây một tối rồi mai hãy về,” thì mẹ cũng bảo, “Mẹ phải về, ngày mai mẹ còn có việc phải làm.” Việc mà mẹ phải làm chỉ là việc đồng áng hay vườn tược thôi. Những công việc như thế có thể hoãn lại cho đến khi mẹ về nhà vào ngày hôm sau, nhưng mẹ vẫn nhât quyết ra ga để đón chuyến tàu về nhà ngay trong đêm hôm ấy. Mặc dù thực ra bởi vì ngôi nhà anh thuê chỉ có đúng một phòng, một căn phòng nhỏ nơi ba đứa con đã lớn của mẹ phải ngủ như nêm cạnh nhau chứ chẳng được cựa người thoải mái, mẹ chỉ nói, “Mẹ phải về, ngày mai mẹ còn có việc phải làm.”
Mỗi lần đưa người mẹ đã mệt trở ra ga Seoul chờ chuyến tàu đêm để về nhà với hai bàn tay không là một lần anh đổi mới những lời hứa quyết tâm của mình. Mình sẽ kiếm tiền để chuyển đến một căn nhà có hai phòng. Mình sẽ thuê một căn nhà lớn. Mình sẽ mua một căn nhà ở thành phố này. Khi đó mình sẽ có một căn phòng cho mẹ ngủ thật thoải mái. Mỗi lần đưa mẹ ra ga bắt tàu đêm về quê, anh đều mua vé tiễn rồi đưa mẹ lên tận tàu. Anh tìm ghế ngồi cho mẹ, rồi đưa cho mẹ một cái túi đựng đồ ăn vặt, thường là chuối hoặc quýt.
“Mẹ đừng ngủ quên đấy, nhớ xuống ở ga J nhé.”
Mẹ luôn dặn dò anh với vẻ mặt u buồn, hoặc đôi khi là cương nghị. “Ở trên này, con là bố của các em đấy, mà cũng là mẹ nữa.”
Khi cậu con trai cả mới hai mươi mấy tuổi đầu đứng đó vặn vẹo hai bàn tay vào nhau, mẹ sẽ đứng dậy khỏi ghế rồi mở tay anh ra và nắn vai anh cho thẳng thớm. “Người anh cả phải sống cho có phẩm cách. Người anh cả phải làm gương cho em. Nếu anh cả đi sai đường, thì những đứa em cũng sẽ đi theo con đường đó.”
Khi con tàu chuẩn bị lăn bánh cũng là lúc nước mắt mẹ bắt đầu lã chã rơi. Mẹ nhìn anh với đôi mắt đẫm lệ rồi mỉm cười. Và nói, “Xin lỗi con, Hyong-chol.”
Mẹ sẽ xuống ga J vào lúc nửa đêm. Để bắt được chuyến xe buýt đầu tiên về làng thì phải đợi đến sau sáu giờ sáng. Vì vậy, sau khi xuống tàu, mẹ cứ đi bộ trong đêm trên con đường vắng vẻ trở về nhà.
“Giá mà chúng ta mang nhiều tờ rơi hơn để dán quanh đây nhỉ,” anh nói.
“Mai em sẽ quay lại đây làm việc đó.”
Ngày mai, anh phải tháp tùng ban giám đốc đến thăm ngôi nhà mẫu ở Hongchon. Đây là việc anh không thể thoái thác được. “Hay để mẹ của Chin đi làm việc đó?”
“Thôi, để chị ấy nghỉ. Chị ấy cũng đang phải chăm sóc bố còn gì.”
“Hay là em gọi cho cô út.”
“Anh ấy sẽ giúp em làm việc này.”
“Ai?”
“Bạn trai của em. Khi nào tìm thấy mẹ, em sẽ kết hôn với anh ấy. Chẳng phải mẹ đã rất trông đợi đám cưới của em đó sao.”
“Nếu chuyện này với em mà dễ quyết định như thế thì em đã kết hôn từ lâu rồi.”
“Sau khi mẹ bị lạc, em đã nhận ra rằng có một câu trả lời cho mọi điều. Em đã có thể thực hiện được mọi điều mẹ mong muốn ở em. Trước đây điều đó không quan trọng. Giờ em không biết tại sao em lại hay làm mẹ phiền lòng đến như vậy. Em sẽ không đi máy bay lần nào nữa.”
Cảm thấy mệt mỏi, anh đưa tay vỗ vỗ vào vai cô em gái. Mẹ không thích chuyện cô em gái ngồi máy bay để đi nước ngoài. Mẹ nghĩ rằng thật đáng sợ khi chỉ cần một tai nạn thôi là có đến hơn hai trăm người thiệt mạng cùng lúc. Theo quan điểm của mẹ, nếu trong thời chiến thì chẳng tránh được, nhưng khi bình thường thì ta không thể phó mặc cuộc đời mình cho số phận như vậy được, thật chẳng khác gì không hề quý trọng mạng sống của mình chút nào vậy. Mẹ yêu cầu cô em gái không được đi máy bay nữa, và khi sự can thiệp ấy ngày càng sâu, cô đành phải giấu mẹ đi máy bay một cách bí mật. Dù đi du lịch hay đi công tác, nếu phải đi bằng máy bay, cô sẽ cứ đi mà không nói cho mẹ biết.
“Những bông hoa hồng của ngôi nhà kia thật đẹp…” cô em gái anh nói.
Anh đứng trong bóng tối nhìn cô em gái chằm chằm. Chính anh cũng đang nghĩ về những bông hoa hồng đó. Vào mùa xuân đầu tiên sau khi anh có nhà riêng, mẹ lên Seoul và rủ mấy anh em đi mua hoa hồng. Hoa hồng ư? Ngay khi từ “hoa hồng” bật ra từ miệng mẹ, anh đã phải hỏi lại vì tưởng mình đã nghe nhầm, “Ý mẹ nói là hoa hồng ấy à?”
“Hoa hồng đỏ ấy, sao, ở đây không có chỗ nào bán à?”
“Không, có bán chứ ạ.”
Khi anh đưa mẹ đến một vườn ươm, nơi có bán cây giống bày dọc các con đường ở Kupabal, mẹ nói, “Mẹ nghĩ đây là loài hoa đẹp nhất. Mẹ thích loài hoa này nhất đấy.” Mẹ mua về nhiều bụi hồng hơn anh tưởng rồi lom khom đào những cái hố ở gần hàng rào để trồng hoa. Đây là lần đầu tiên anh thấy mẹ trồng cây để ngắm, chứ không phải để thu hoạch sau mỗi vụ gieo trồng như cây đậu hay khoai tây hay ớt hay rau cải hoặc củ cải đỏ. Quan sát cảnh tượng lạ mắt này, anh hỏi, “Mẹ trồng mấy cây hoa hồng sát hàng rào quá đấy,” nhưng mẹ nói, “Phải thế thì mọi người đi qua mới ngắm cùng được chứ.” Cho đến tận khi anh rời khỏi ngôi nhà ấy, những đóa hồng vẫn cứ nở rộ mỗi độ xuân về. Vào mùa hoa hồng nở, mọi người đi qua trước ngôi nhà ấy đều dừng bước cạnh hàng rào để nhìn ngắm và cảm nhận hương thơm tinh khiết của những đóa hồng đang hé nở, đúng như ước nguyện của mẹ khi trồng. Sau trận mưa, những cánh hoa hồng đỏ thắm lại rụng đầy dưới chân hàng rào, bay đi khắp xung quanh.
Tại quán rượu trong trung tâm thương mại phường Yokchon, cô em gái anh đã uống hai vại bia tươi thay cho bữa tối, rồi lấy trong túi áo ra một cuốn sổ tay, giở đến trang có những hàng chữ được gạch chân và đẩy về phía anh. Mặt cô đỏ bừng lên vì uống bia khi bụng đang trống rỗng. Anh nghiêng cuốn sổ ra chỗ sáng và đọc những dòng chữ đó.
Tôi muốn đọc sách cho trẻ em khiếm thị.
Tôi muốn học tiếng Trung Quốc.
Tôi muốn kiếm được thật nhiều tiền để sở hữu một rạp hát nhỏ.
Tôi muốn đến Nam cực.
Tôi muốn hành hương tới thánh địa Santiago.
Tiếp sau đó còn hơn ba mươi câu bắt đầu bằng từ “Tôi”.
“Cái gì đây?”
“Tất niên năm ngoái em đã viết những việc em muốn làm với cuộc đời mình, ngoài việc viết văn. Cho vui thôi. Những việc em muốn làm hoặc sẽ kiên trì theo đuổi trong mười năm tới. Nhưng em đã không định làm bất cứ việc gì cùng với mẹ. Em đã không nhận ra điều đó khi viết danh sách ấy. Nhưng bây giờ đây em nhìn lại nó sau khi mẹ đã mất tích...” Mắt cô em gái long lanh nước.
Say xỉn, anh ra khỏi thang máy và bấm chuông cửa, nhưng bên trong nhà chẳng có động tĩnh gì. Cả người lảo đảo, anh thò tay vào túi áo tìm chìa khóa rồi mở cửa. Sau khi chia tay với cô em gái, trên đường về nhà, anh còn tạt vào hai quán rượu nữa. Mỗi khi hình ảnh người phụ nữ đi đôi dép lê màu xanh, người phụ nữ có thể là mẹ anh, người phụ nữ đã đi lại quá nhiều tới mức đôi dép cứa sâu vào bàn chân đến lòi cả xương, nhảy múa trước mắt anh, anh lại uống thêm một chén. Đèn trong phòng khách vẫn sáng, tĩnh mịch bao trùm cả căn phòng. Bức tượng Đức mẹ Mary mẹ đặt trong phòng đang nhìn anh chằm chằm. Anh loạng choạng bước về phía phòng ngủ của mình, nhưng rồi anh dừng lại, nhẹ nhàng mở cửa phòng cô con gái, nơi bố anh đang nghỉ. Anh nhìn thấy bố nằm nghiêng, lưng quay ra ngoài, trên cái chiếu trải trên sàn nhà gần giường của cô con gái. Anh bước vào, kéo tấm chăn đã bị tuột xuống đắp lại cho bố rồi lại nhẹ nhàng đóng cửa đi ra. Anh đi xuống bếp, nghiêng bình nước đặt trên bàn rót một cốc đầy rồi vừa uống vừa nhìn quanh. Chẳng có gì thay đối. Tiếng tủ lạnh chạy rù rì vẫn y như cũ, đống bát đĩa mà người vợ vốn ngại việc dọn rửa để bừa trong bồn vẫn không hề suy chuyển. Anh cau mặt bước vào phòng ngủ, nhìn chằm chằm người vợ đang nằm ngủ. Một sợi dây chuyền sáng lấp lánh trên cổ vợ anh. Anh giật tung tấm chăn vợ anh đang đắp ra. Vợ anh vừa dụi mắt vừa lồm cồm ngồi dậy.
“Anh về khi nào đấy?” Người vợ chỉ thở dài trước sự cộc cằn của anh, sự cộc cằn chứa đựng một lời mắng mỏ hàm ẩn: Sao cô có thể ngủ được cơ chứ! Từ sau ngày mẹ bị lạc, anh bắt đầu thường xuyên nổi cáu với mọi người. Anh càng giận dữ hơn mỗi khi về nhà. Nếu cậu em trai gọi điện để hỏi thăm tình hình tìm kiếm, vừa trả lời được vài câu hỏi là anh nổi giận đùng đùng, “Chú không có gì để thông báo với tôi à? Chú đang làm cái quái gì vậy?” Khi bố nói sẽ về quê vì ở trên này bố cũng không giúp được gì, anh quát ầm lên cả với bố, “Thế bố định về quê làm gì chứ?” Hằng sáng, anh bỏ đi làm mà không thèm để ý đến bữa sáng vợ mình đã chuẩn bị sẵn.
“Anh uống rượu phải không?” Vợ anh giật cái chăn anh đang nắm trong tay rồi vuốt phẳng.
“Cô vẫn ngủ được cơ à?”
Vợ anh khẽ vuốt bộ áo ngủ.
“Tôi nói là cô vẫn có thể ngủ được sao!”
“Vậy thì anh bảo em phải làm gì bây giờ chứ?” vợ anh cũng thét lên.
“Tại cô cả đấy!” anh cứ nói vậy dù biết đó chỉ là sự suy diễn.
“Sao chuyện này lại là tại em?”
“Đáng lẽ cô phải đi đón bố mẹ chứ!
“Thì em đã nói với anh là em đi đưa đồ ăn cho Chin còn gì.”
“Sao cô lại đi đúng vào ngày hôm ấy chứ! Tại sao cô lại đi vào đúng ngày bố mẹ từ quê lên để chúng ta có thể tổ chức sinh nhật cho bố mẹ chứ!”
“Bố đã nói bố biết đường rồi còn gì! Mà trên thành phố Seoul này đâu phải chỉ có mỗi chúng ta. Bố mẹ đã muốn lên thăm nhà em trai anh vào ngày hôm đó đấy chứ. Cả em gái anh cũng ở đây cơ mà. Bố mẹ cũng có thường xuyên ở lại nhà chúng ta đâu, và em cũng không phải là người duy nhất phải đi đón họ. Đã hai tuần rồi em chưa đến thăm Chin, nó không còn cái gì để ăn, làm sao em có thể không đi xem con thế nào được. Em cũng quá mệt mỏi rồi, em cũng phải chăm sóc cho Chin và làm những việc khác nữa chứ. Hơn nữa, Chin còn đang phải ôn thi... Mà anh thậm chí có biết rằng kỳ thi này quan trọng với nó như thế nào không?”
“Cô sẽ còn mang thức ăn cho một đứa con đã trưởng thành trong bao lâu nữa, một đứa mà khi biết bà nội mất tích cũng chẳng buồn ghé qua nhà.”
“Chin có về nhà thì cũng làm được gì? Em đã bảo con không phải về đấy. Chúng ta đã đi tìm mẹ khắp nơi rồi. Đến cả cảnh sát cũng không thể tìm thấy thì chúng ta làm thế nào được? Chẳng lẽ lại bấm chuông cửa từng ngôi nhà ở Seoul này để hỏi xem mẹ có ở đó không hay sao? Đến người lớn còn chịu bó tay thì thử hỏi Chin có thể làm được gì? Học sinh thì phải đi học chứ. Không lẽ vì mẹ không có ở đây nên tất cả chúng ta phải vứt bỏ hết công việc của mình đi hay sao?”
“Không phải là ‘mẹ không có ở đây’, mà là mẹ bị lạc.”
“Vậy anh muốn em phải làm gì nào? Cả anh cũng vẫn đến công ty cơ mà.”
“Cái gì?” Anh nổi khùng lên rồi vơ lấy cây gậy chơi golf để ở trong góc phòng toan ném vào tường.
“Hyong-chol à!” Bố nghe hết mọi chuyện khi đang nằm ngủ trong phòng cô cháu gái nên liền đi sang đứng trước cửa phòng anh đang mở. Anh đặt cây gậy chơi golf xuống. Bố đứng yên lặng nhìn hai vợ chồng anh cãi nhau rồi quay người đi. Bố đã lên Seoul để con cái tiện tổ chức sinh nhật cho bố. Nếu buổi sinh nhật diễn ra đúng theo dự kiến, mẹ thế nào cũng đứng trước bàn tiệc đầy ắp những món ăn truyền thống của Hàn Quốc mà vợ anh đã đặt trước và nói, “Buổi hôm nay cũng là mừng sinh nhật của mẹ luôn rồi nhé.” Vì mẹ bị lạc nên ngày sinh nhật của bố trôi qua mà không tổ chức gì, và mấy hôm sau ngày sinh nhật của bố anh, cái giỗ ở dưới nhà cũng do bác anh tổ chức.
Khi anh đi ra theo, bố anh mở cửa phòng cô cháu gái rồi quay lại phía anh.
“Tất cả là tại bố.”
Anh không nói gì.
“Thôi đừng cãi nhau nữa. Bố hiểu lòng của các con nhưng có cãi nhau thì cũng chẳng giải quyết được gì đâu. Mẹ các con đã gặp bố, rồi lấy bố và sống một đời vất vả, nhưng bà ấy là người tốt nên bố tin chắc ít nhất là bà ấy vẫn còn sống. Nếu mẹ các con còn sống, chúng ta sẽ nghe tin thôi.”
Anh vẫn không nói gì.
“Bây giờ bố về quê đây.”
Bố nhìn anh hồi lâu rồi bước vào trong phòng. Anh nhìn theo cánh cửa đã đóng lại, đôi môi mím chặt. Khí nóng bốc lên trong lồng ngực anh. Anh đưa tay lên xoa ngực. Anh định đưa tay lên xoa mặt theo thói quen, nhưng rồi lại hạ tay xuống. Anh có thể cảm nhận được bàn tay thô ráp, dịu dàng của mẹ. Mẹ rất ghét mỗi khi anh xoa xoa tay hoặc so vai. Nếu anh làm thế trước mặt mẹ, mẹ sẽ lập tức vuốt cho thẳng thớm đôi tay và hai vai anh. Còn nếu anh cúi đầu, thế nào mẹ cũng vỗ mạnh vào lưng anh mà nói, “Đàn ông con trai thì phải cho đáng mặt đàn ông chứ.” Anh đã không thể trở thành công tố viên. Mẹ luôn coi đó là ước mơ của anh, nhưng anh đã không nhận ra rằng đó cũng chính là ước mơ của mẹ. Anh chỉ nghĩ đó chỉ là mơ ước không thành của thời tuổi trẻ, chứ chẳng bao giờ thoáng nghĩ mình cũng đã phá hỏng những khát vọng của mẹ. Anh nhận ra rằng suốt cả đời mẹ luôn tin chính mẹ là người đã làm vướng bận khiến anh không đạt được ước mơ. Con xin lỗi mẹ, mẹ ơi, con mới là người phải xin lỗi vì đã không giữ lời hứa. Trái tim anh tràn ngập nỗi khao khát duy nhất là được chăm sóc mẹ khi tìm thấy mẹ. Nhưng anh biết mình đã đánh mất cơ hội ấy rồi.
Anh khuỵu gối xuống nền phòng khách .
Chúc các bạn online vui vẻ !