80s toys - Atari. I still have
Tiểu thuyết tình yêu

Tiểu Thuyết Tình Yêu

Đọc truyện tại Tiểu Thuyết Tình Yêu

Loading...

Truyện ma Người Khăn Trắng - Quyển 12 Lời Thề Ma Nữ

Quyển 12 Lời Thề Ma Nữ

Mục Lục | Lùi Quyển 11 | Tiếp quyển 12

Ngôi mộ cô đơn

Vừa chọn bộ đồ để trên giường, định khi tắm xong trở ra Son sẽ mặc, thì lại biến đâu mất! Son tưởng mình đãng trí nên tự đi tìm lại trong tủ, tất nhiên là không có.
- Chị Năm ơi...
Son vừa cất tiếng gọi đã im bặt ngay, bởi cô nhớ ra mình... không có gì trên thân mình!
Bên ngoài có tiếng của Năm, cô người làm:
- Cô Ba kêu tôi có gì vậy?
Bước lùi vào nhà tắm, Son hỏi vọng ra:
- Nãy giờ chị có vào phòng tôi không?
- Dạ đâu có. Tôi đang làm bếp với bà mà.
- Vậy…
Thay xong quần áo khác, Son bước ra, thấy Năm Lành còn đứng đó, cô gay gắt:
- Nhà này bây giờ có ma hay sao mà thứ gì vừa để cũng mất!
Năm Lành hơi khó chịu:
- Cô Ba nói vậy tội cho em.
- Vậy chứ bộ đồ tôi mới để đây biến đâu?
- Cô để ở đâu?
- Trong phòng tôi chứ đâu!
- Phòng cô Ba thì lúc nào cũng khóa cửa, ai mà vào lấy được.
Lời nói của Năm đúng hoàn toàn, bởi khi nãy cô mở cửa ra thì cửa ở tình trạng còn khóa chốt bên trong. Vậy thì…
Son thừ người ra, lẩm bẩm:
- Không thể nào...
Trở vào phòng, vừa đến bàn viết Son phát hoảng, bởi quyển nhật ký cô đang viết đêm qua đã không cánh mà bay!
- Năm Lành. Vào đây mau!
Năm Lành vừa quay xuống nhà bếp, nghe gọi vội quay trở lại. Vừa thấy mặt nó Son đã quát ầm cả lên:
- Cuốn sổ tôi để trên bàn đâu?
Lành ngơ ngác:
- Dạ, em đâu có biết cuốn sổ gì! Nó ở trong phòng cô mà.
Lời nhắc này lại một lần nữa khiến Son ngỡ ngàng. Rõ ràng những gì trong phòng cô thì không thể hỏi người làm được. Xưa nay phòng riêng của Son là tuyệt đối không một ai được vào, chứ đừng nói là vào lấy đồ. Bất cứ người làm nào muốn gì thì chỉ được phép đứng bên ngoài nói vào thôi. Năm Lành vốn là người được cắt đặt phục vụ riêng cho Son, nhưng cũng chưa một lần được bước chân vào trong.
Tuy biết là vậy, nhưng Son vẫn hỏi:
- Vậy nó ở đâu?
- Cô Ba thử kiếm kỹ lại coi.
- Kiếm rồi. Đâu chị vào tìm lại giùm tôi coi!
Năm Lành tới bên bàn viết chợt cô nhìn ra cửa sổ và kêu lên:
- Cô Ba không thấy cái gì sao!
Theo tay chỉ của Lành, Son nhìn thấy một chiếc áo phụ nữ nằm vắt ngang nhánh cây bên ngoài cửa sổ.
- Của ai vậy?
Lành ngạc nhiên:
- Cái áo không phải của cô sao?
Son lắc đầu:
- Tôi đâu có loại áo này. Chị với tay được thì kéo vào thử xem?
Năm Lành thò tay ra cửa sổ vừa mở, chỉ cần rướn tay một chút là lấy được chiếc áo vào. Lúc này chị mới phát hiện áo chỉ còn lại vạt trước, vạt sau đã bị đứt ngang.
Kiểu may của áo, màu sắc, thoạt nhìn đã phân biệt được ngay, nó là của một người trẻ, nhưng được may cách đây khá lâu, nhất là kiểu cổ áo, thuộc loại khá xưa.
Son lắc đầu:
- Đây chắc là áo của ai phơi rồi bị gió bay, mắc trên đó. Chị đem bỏ ra ngoài đi.
Năm Lành cầm chiếc áo lên xem kỹ lại lần nữa. Chợt có một cơn gió thốc thổi chiếc áo bay vèo ra ngoài cửa, khiến Son giật mình:
- Coi chừng!
Chiếc áo như cánh diều bay một vòng, trước khi hạ thấp độ cao và cứ thế là đà trên mặt cỏ bay đi về cuối khu vườn và mất hút! Son quá đỗi ngạc nhiên trước hiện tượng vừa rồi, cô hỏi:
- Sao kỳ vậy chị Năm!
Năm Lành cũng không thể hiểu được, chỉ đáp:
- Có thể do luồng gió...
Tự dưng Son bắt rùng mình, cô giục:
- Thôi, chị đóng cửa lại đi.
Chờ cho Năm Lành gài chặt cửa sổ lại, Son bảo:
- Thôi, hông tìm nữa. Mà chị cũng đừng nói cho ai biết chuyện này. Kể cả chuyện vừa rồi nữa.
- Dạ, chuyện gì vừa rồi cô Ba?
- Thì chuyện chiếc áo bay.
Chẳng hiểu ý cô chủ, nhưng không dám hỏi, Năm Lành bước ra ngoài mà lòng chưa hết thắc mắc.
Phần Son, khi đứng lại một mình trong phòng, cô cứ bị ám ảnh mãi chiếc áo và cứ nghĩ là cách bay của nó phải chăng là muốn hướng dẫn tới một nơi nào đó.
Với suy nghĩ đó mà gần suốt đêm hôm ấy, Son không tài nào ngủ ngon giấc. Hễ mỗi khi nhớ tới thì cô bật dậy và kêu lên một cách ngẫu nhiên, như được ai mớm lời:
- Ở ngoài nơi lạnh lẽo đó!
Chính Son cũng không biết mình nói về ai. Chỉ thấy trong lòng càng lúc càng thấy bồn chồn, như muốn đi ra ngoài.
Cho đến khi trời rạng sáng thì nỗi bồn chồn không còn kìm giữ được, Son khoác vội chiếc áo khoác mỏng, rồi lẻn đi ra ngoài, không để ai phát hiện.
Khu vườn nhà Son rất rộng, trước đây khi ba cô còn sống thì đã từng trồng một vườn lan khá lớn, với nhiều giống lan nổi tiếng nhất vùng cao nguyên này. Khi ba cô mất thì những giò lan cũng từ từ tàn tạ theo, bởi không ai chăm sóc, nhưng hình như vẫn còn những giò bám vào các gốc cây to trong vườn, theo hơi sương sớm tỏa hương thơm ngát.
Son đi nhanh theo lối mòn mà từ nào đến giờ cô chưa một lần đặt chân tới. Chợt nhận ra một mảnh vải màu giống như màu chiếc áo lúc nãy, Son dừng lại nhìn và kêu lên:
- Đúng là vạt áo ấy!
Cô cầm lên xem kỹ và không khỏi kinh ngạc, bởi đó là vạt áo sau mà chiếc áo lúc nãy bị mất.
- Đây là…
Có một vật gì đó rơi mạnh ngay sau lưng, Son giật mình nhìn lại và không khỏi sửng sốt.
- Quyển sổ!
Thì ra đó chính là quyển nhật ký mà cô đã bị mất. Cầm trên tay mà Son chưa tin là thật, cô đưa mắt nhìn quanh nhưng chẳng thấy bóng dáng ai. Cũng chẳng có một tiếng động nào chứng tỏ có người gần đó...
Nỗi bồn chồn trong người lại trỗi dậy, Son bỏ phần vạt áo lại đó bước tiếp theo con đường mòn. Qua khỏi khu trồng lan cũ, đến một bãi đất trống, lúc này Son mới phát hiện ra còn có một khu đất rộng khác tiếp nối với khu vườn. Thì ra đất của ba cô rộng hơn cô tưởng nhiều, vậy mà khi chết ông trăng trối lại Son phải cai quản toàn bộ đất đai này, đừng để ai xâm chiếm.
Đi một quãng nữa thì ra tới một nơi mà phía trước mặt có hai cây cổ thụ nằm trơ trọi giữa bãi cỏ lớn. Xa xa mới là chân đồi. Như vậy có nghĩa là đất đai nhà Son ra tận ngoài đó.
Đi nữa hay thôi? Đúng ra bình thường thì Son sẽ không bao giờ tiến tới một nơi như thế này, nhưng lúc này hầu như là ai đi chứ không phải cô. Cho nên khi bước vào mấy chỗ có nhiều cỏ gai, Son vẫn gồng mình mà bước. Một lát sau, cô dừng lại chỗ gốc hai cây cổ thụ và ồ lên kinh ngạc khi thấy dưới gốc có một ngôi mộ nằm cô quạnh!
Và càng ngạc nhiên hơn khi ngay trước bia của ngôi mộ có một vật mà vừa nhìn thấy Son đã reo lên:
- Bộ quần áo!
Thì ra đó là bộ quần áo mà Son bị mất trong phòng!
- Sao nó lại ở đây?
Giữa quyển nhật ký vừa được ném trả lại và bộ quần áo này nằm cách nhau không xa, nhưng điều khiến cho Son ngạc nhiên là chỗ để bộ đồ. Tại sao là trước ngôi mộ? Mộ này của ai?
Đến khi nhìn lên bia mộ thì Son càng ngạc nhiên hơn với dòng chữ tên người chết trên đó: Nguyễn Thị Son.
Tại sao lại có sự trùng hợp đến lạ lùng như thế Son đứng thừ người, đầu óc cô quay cuồng một cách khó hiểu...
Có lúc Son tưởng chừng như mình không còn đứng vững. Cô phải đưa tay vịn vào đầu bia mộ để không bị ngã...
- Cô Ba, sao cô lại nằm ngoài này? Cô bị ai làm gì vậy?
Son mở mắt ra nhìn thấy Năm Lành thì ôm chầm lấy và giục:
- Cho tôi ra khỏi đây ngay!
Lành ngạc nhiên:
- Ra khỏi đây, vậy lúc nãy cô vào làm gì mà bây giờ đòi ra?
Nghe hỏi, Son đưa mắt nhìn và ngạc nhiên vô cùng, bởi nơi cô đang nằm không phải là chỗ đầu mộ, mà một căn phòng hoàn toàn xa lạ.
- Đây là chỗ nào?
- Là nhà thờ dòng họ. Là từ đường nhà họ Lưu mà từ lâu cô Ba không bao giờ bước vào và còn dặn tôi tớ khác, ngoài tôi ra không ai được vào đây nữa. Hồi nãy nếu tôi không tình cờ đi ngang qua đây và nghe tiếng rên trong này thì chắc khó mà phát hiện ra cô đang nằm. Tôi mạo muội vào đây để cứu cô, mong cô đừng rầy.
Son bắt đầu hoàn hồn, nhớ lại chuyện khi nãy, cô hỏi:
- Ngôi mộ ngoài kia của ai vậy?
- Mộ nào?
- Ở tuốt ngoài bãi cỏ trống, phía sau vườn lan.
Lành lắc đầu:
- Tôi không biết. Chỉ biết là nhà mình có một khu nghĩa trang riêng ở cách đây vài cây số. Mộ ông bà chôn ở đó.
- Tôi không hỏi ở đó, mà là ngôi mộ. Dưới cây cổ thụ ngoài kia kìa. Tại sao...
Cô định hỏi về cái tên Nguyễn Thị Son nhưng thấy không tiện, vả lại vừa khi ấy chợt nhìn thấy có bức ảnh chân dung thờ riêng, tách biệt với những nhà thờ khác trong phòng, cạnh lư hương có vật gì đó mà vừa thoạt nhìn Son đã giật mình:
- Cái gì kia?
Cô nhào tới ngay và reo lên:
- Đồ của tôi mà.
Đó là bộ quần áo và cuốn sổ nhật ký! Những thứ này cùng với Son nằm ở chỗ ngôi mộ, mà sao…
- Bàn thờ này thờ ai vậy chị Năm?
Năm Lành hơi lúng túng:
- Vật này chính ông gửi lại cho tôi. Ông dặn đến khi nào cô lấy chồng thì mới đưa. Nhưng nay tôi nghĩ…
Son hơi rụt rè khi tiếp nhận vật ấy, cô nhẹ giọng:
- Tôi xin lỗi chị. Tôi tôn trọng những gửi gắm của ba tôi với chị, nhưng...
Năm Lành nói:
- Cũng đã đến lúc rồi cô Ba. Lâu nay chỉ vì mấy thứ này mà níu kéo tôi ở lại đây, chứ đúng ra tôi đã đi lấy chồng rồi. Cô chưa có chồng, nhưng giờ cô là người thừa kế, cai quản hết sản nghiệp này, nên có đủ tư cách để xem những gì ông để lại. Cô cứ đem về phòng và từ nay giữ lấy.
Son muốn mở gói đó ra ngay, nhưng nghe Lành nói, cô cầm đem về phòng mình. Vừa mở ra, Son đã giật mình khi thấy đúng là chữ viết của ba cô ngay bên ngoài một quyển sổ: “Những điều con gái ba phải biết trước khi đi lấy chồng”.
Trong số con của ba thì Son là đứa duy nhất thuộc giới nữ. Còn lại hai người con trai thì một đã chết, một thì mất tích ngay từ nhỏ. Vậy đích thực đây là vật ba để lại cho mình rồi! Son thẫn thờ một lúc mới từ từ mở quyển sổ ra... Đây là một tự truyện mà ba cô viết y như thật. Đọc đến đâu, câu chuyện như sống lại với đầy đủ các chi tiết...
“Phan Rí mùa hè năm 1958... Sửa soạn xong hành lý, chưa kịp xách đi thì Chu Sa giật mình khi thấy có ai đó kéo cái vali của mình lên.
- Hành lý của cô đã bị đánh cắp!
Nghe giọng nói, Sa không cần quay lại cũng biết đó là ai. Cô nghiêm giọng:
- Người ta đi có người vui lắm mà! Mà vui cũng phải, hết còn kỳ đà cản mũi nữa rồi!
Anh chàng Lợi xịu mặt:
- Người ta sợ trễ không kịp tiễn nên ba chân bốn cẳng chạy về, còn giận nữa...
- Ai mà dám giận hờn. Người ta có nơi để mà giận rồi, còn cần gì nữa mà làm bộ.
- Kìa, Sa, sao em lại nói vậy? Bộ muốn anh cắn lưỡi tại đây để em đi mới hài lòng sao!
Lợi nói chưa dứt lời đã ngã chúi xuống đất, đầu đập thẳng vào nền nhà vang lên một tiếng làm cho Sa hốt hoảng:
- Anh điên hả? Làm gì vậy, trời ơi là trời!
Cô cúi xuống thì thấy máu từ đầu của Lợi tuôn ra ướt đẫm cả cổ áo. Lợi thì nằm bất động!
- Lợi ơi, em xin lỗi. Em nói đùa mà!
Cô đang sợ thất thần, chưa biết phải làm sao thì chợt Lợi ngồi bật dậy, cười như mếu:
- Nghe em nói vậy anh hết đau rồi!
Tuy nói là hết đau nhưng Lợi phải dùng tay bịt chỗ vết thương ở đầu, mặt thì xanh dờn. Sa phải gắt lên:
- Đưa em xem vết thương coi sao đã!
Lợi tự lấy khăn tay của mình cột ngang đầu và trấn an:
- Không sao mà. Lúc đập đầu xuống anh đã chọn bên không nguy hiểm, chứ ai lại...
- Chọn chọn cái nỗi gì, anh chứng nào vẫn tật nấy, lỡ trúng chỗ nghiệt thì sao? Chết liền không nói gì, chạm thần kinh rồi... điên điên khùng khùng ai chịu nổi!
Lợi đưa tay lên định nắm tay người yêu nhưng khi nhận thấy tay mình đầy máu, anh vội nói:
- Chờ anh rửa tay một chút rồi đưa em ra ga. Còn kịp giờ mà!
Chính Sa theo Lợi ra sau nhà và cũng chính cô rửa vết thương, thấy vết thương không sâu cô mới yên tâm, nhưng vẫn cằn nhằn:
- Bộ anh tính làm nũng để em ở lại hả? Em nói rồi, em chỉ đi trước ít bữa, rồi đầu năm học anh cũng vào mà, chứ có bỏ đi luôn đâu mà dữ vậy? Hôm qua anh nói gì nhớ không, em giận lắm.
Lợi xuống giọng:
- Hôm qua anh bậy, nói năng càn quấy, em tha cho. Cũng chỉ vì anh nghe người ta nói... em đi chuyến này là đi để lấy chồng, bỏ anh!
Sa trừng mắt:
- Họ nói vậy mà anh cũng tin hả? Nếu tin thì... em đi luôn!
Cô bỏ ra nhà trước, Lợi ôm đầu chạy theo, năn nỉ:
- Anh xin lỗi mà. Không tin em thì tin ai.
- Đi tìm con Mỹ Hoa xóm chài đi, nó tuyên bố với mọi người nếu không lấy được anh thì nó thề đi bằng đầu xuống đất đó!
- Chuyện đó anh giải thích rồi mà. Tuyên bố là của nó, còn có gì hay không là ở anh, em không tin sao?
- Tin gì nổi!
Vừa nói Sa vừa xách va li đi một nước ra thẳng đường, Lợi đành phải chạy theo nhưng chợt Sa quay lại quát lớn:
- Anh để quần áo đầy máu me như vậy ra ga hả?
Lợi chợt nhớ, anh vội nói:
- Vậy em đi ra đó trước, anh tạt qua nhà thay áo đã!
- Không cần! Trong nhà có sẵn cái áo của anh mắc mưa hôm trước, em giặt ủi rồi, treo chỗ móc áo.
Lợi chạy bay vào nhà thay áo. Khi trở ra anh thấy Sa vẫn đứng đợi. Vậy là cả hai cùng cười và nắm tay nhau đi như chưa có gì xảy ra. Đôi tình nhân này như vậy đó, yêu rồi giận, giận rồi lại yêu. Và sau mỗi lần như thế thì tình yêu của họ càng tăng thêm.
Ra tới ga, vừa kịp lúc xe chạy, siết chặt tay người yêu Sa nói qua màn nước mắt:
- Mau mau vào với em. Đừng để em đợi lâu.
- Anh sẽ vào ngay tuần sau!
Tàu chạy khá xa rồi mà bóng Lợi vẫn còn đứng yên trên sân nhìn theo và nghe nỗi đau gặm nhấm tâm hồn. Vết thương trên đầu có làm cho anh đau, nhưng thật ra nỗi đau trong lòng mới là cơn đau thật sự. Nhớ đến gương mặt của Sa lúc lên xe, lòng Lợi càng quặng đau.
Thẫn thờ khi bước về nhà, Lợi như người mất hồn. Chợt có tiếng gọi từ sau:
- Anh Lợi đi đâu mà em kiếm suốt từ sáng tới giờ!
Một cô gái đẹp sắc sảo, ăn mặc ra dáng con nhà giàu, vừa bước xuống chiếc xe hơi riêng vừa ôm lấy vai Lợi, nũng nịu:
- Người ta chờ muốn chết luôn! Ba má đang đợi anh ở nhà, có việc quan trọng lắm, anh lên xe ngay đi, về với em!
Lợi lưỡng lự, nhưng chợt thấy có bóng người quen ở đằng xa, nên anh đành phải leo nhanh lên xe để tránh mặt. Thấy đầu Lợi có vết thương, cô gái lo lắng:
- Anh bị sao vậy?
Lợi sợ cô nàng chạm vào vết thương, nên vội lấy tay ngăn lại:
- Hoa đừng đụng vào.
Thì ra cô gái này là cô Mỹ Hoa, cô đã từng tuyên bố “nếu không lấy được Lợi thì tôi sẽ đi bằng đầu!”. Lợi ngồi im ở góc ngoài của băng sau thì cô nàng đã kéo mạnh vào sát với mình:
- Bộ sợ em lây bệnh hả, sao ngồi xa vậy!
Cô ta quay về phía tài xế:
- Anh cho xe chạy ra nhà hàng Tân Hòa Lợi chứ đừng về nhà!
Lợi ngạc nhiên:
- Sao em nói hai bác đợi ở nhà?
Hoa chẩu môi ra:
- Không về có được không? Bữa nay phải bắt anh uống rượu cho bò luôn, để trị cái tội cứ lần lựa mãi chưa chịu chọn ngày cưới! Mà tôi cũng thông báo luôn, lát nữa tôi sẽ chính thức tuyên bố...
Lợi hoàn toàn bị động trước cô ả này, nên suốt trong buổi cùng ngồi tại nhà hàng chỉ toàn nghe cô ả nói, còn Lợi thì toàn nghe và gật. Gần cuối bữa tiệc, trong lúc Lợi đã phải uống đến ly thứ sáu, uống gần hết nổi thì Mỹ Hoa lại rót đầy một ly nữa, cùng cụng ly:
- Anh hãy uống hết ly này nữa, coi như đoạn tuyệt tất cả những gì còn lại. Quên luôn con nhỏ Chu Sa nghèo khổ của anh đi!
Trong cơn say bí tỉ, nhưng nghe câu nói đó, Lợi phản ứng ngay:
- Cô nói ai là nghèo là khổ? Người ta nghèo khổ nhưng đâu có ăn nhờ ăn xin gì của cô!
Mỹ Hoa phá lên cười:
- Coi kìa, vừa động đến người yêu bé bỏng thì đã giãy nảy lên rồi. Nó nghèo thì tôi nói là nghèo, có sao đâu mà bắt bẻ!
Lợi đứng dậy định sấn tới thì... bất chợt ngã chúi tới trước, nằm bất động. Mấy người phục vụ trong quán nháo nhào chạy tới định đỡ lên ghế thì đã nghe Mỹ Hoa bảo:
- Khiêng luôn anh ta lên phòng 101 trên lầu. Phòng tôi đã thuê sẵn rồi.
Lợi được đưa lên phòng trong tình trạng say như chết. Và một màn kịch bắt đầu...
Khoảng nửa giờ sau, có một chiếc xe hơi đỗ trước nhà hàng khách sạn Tân Hòa Lợi: Trên xe có bốn người bước xuống gồm ba má của Mỹ Hoa: ông bà Phán Hòa và... cha mẹ của Lợi: ông bà Bảy Khá!
Họ đi thẳng vào khách sạn, không cần hỏi ai, họ xông thẳng lên lầu đến trước phòng 101 và không cần gõ cửa, cứ xô thẳng vào! Mấy người phục vụ không kịp can ngăn thì đã bị bà Phán Hòa đuổi đi:
- Mấy người không có việc gì ở đây, xin đi cho. Đây là chuyện riêng của gia đình chúng tôi, để chúng tôi giải quyết!
Khi mấy người phục vụ đi ra hết thì đích thân ông Phán Hòa đẩy tung cửa vào. Người kêu lên đầu tiên là bà Bảy Khá:
- Trời ơi!
Trước mắt họ là một cảnh tượng làm xốn mắt bốn người lớn! Lợi đang trần truồng cùng với Mỹ Hoa... trên giường. Và hình như hai người đang ngủ say sau một giấc vu sơn!
Bà Phán gào lên:
- Trời ơi là trời! Con gái tôi... nó… nó...
Ông Phán thì gầm lên:
- Thằng khốn này, nó dám... nó…
Ông nghẹn lời, trong lúc bà Bảy thì thất thần. Chỉ có ông Bảy Khá thì lặng người đi, vừa quay chỗ khác vừa lẩm bẩm:
- Nghiệp chướng nè trời ơi!
Rồi tất cả họ đều lặng thinh. Có lẽ sợ làm ầm lên thì xấu hổ… Nhìn nét mặt đỏ bừng của ông Phán Hòa đủ biết ông giận ghê gớm. Rồi bằng giọng nhẹ nhàng hiếm thấy, bà Phán bảo:
- Gọi tụi nó dậy rồi về nhà tôi, mình giải quyết, chứ làm ầm ĩ ở đây thì ích lợi gì!
Chú Bảy Khá lẳng lặng bỏ xuống nhà và ông lầm lũi đi bộ về nhà mà không chờ xe và bà vợ tội nghiệp của mình.
Buổi tối đó, người đi chài lưới bắt gặp chú Bảy nằm thoi thóp trên bãi. Nếu không kịp khiêng chú lên thì thủy triều kéo chú ra xa và coi như xong một đời. Khi người ta đem được chú về nhà thì thím Bảy ngồi khóc rưng rức bên cạnh Lợi nằm như xác chết!
Thấy chú, thím Bảy lại càng khóc dữ hơn:
- Ông chỉ biết cho thân ông thôi, còn để tôi với lũ người quyền thế đó. Họ nhục mạ, mắng chửi đã đời rồi còn đặt điều kiện này điều kiện nọ, mà mình có quyền đâu mà cãi cọ, từ chối.
Đang trong trạng thái kiệt sức, vậy mà chú Bảy cũng gượng dậy, hỏi:
- Họ bắt cái gì?
- Thì còn gì nữa, con mình đã làm chuyện tác tệ với con gái họ, họ không thưa kiện cho đi tù là may.
Chú Bảy gào lên:
- Tôi biết thằng con trai tôi, nó đâu có ưa gì con nhỏ đó mà lấy!
- Nhưng chứng cớ ràng ràng ra đó còn chối gì nữa!
- Chứng cớ gì…
Nói được mấy tiếng rồi chú ngất đi. Mấy người đưa chú về thuật lại:
- Hồi chiều thấy ông ấy uống thật nhiều rượu rồi đi ra biển trầm mình dưới đó cho đến tối, muốn tự tử hay sao mà khi kéo ông ấy lên ông ấy còn kháng cự.
Đến lúc đó thì Lợi mới tỉnh lại. Vừa bật dậy, thấy cha mẹ như thế Lợi hốt hoảng:
- Có chuyện gì vậy má?
Thím Bảy thuật lại đầu đuôi rồi hỏi giọng nghiêm:
- Bộ mày thèm khát chuyện đó sao làm vậy hả Lợi?
Lợi ngơ ngác:
- Con có làm gì đâu! Con chỉ…
Anh nhớ lại rồi kêu lên:
- Chết rồi, con bị phục rượu rồi! Con bị...
- Phục hay không má không biết, chỉ thấy con và con đó trần như nhộng trong phòng khách sạn. Vợ chồng Phán Hòa cũng thấy và họ làm dữ, họ đòi bồi thường tiết trinh con gái họ và còn đòi...
Lợi quá phẫn uất:
- Con gái họ đã gây ra chuyện này mà còn làm lớn chuyện nữa sao!
Thím Bảy thuật rõ hơn:
- Chính con Mỹ Hoa nói rằng khi thấy con uống quá say đã nhờ người khiêng về phòng khách sạn, định giúp con dã rượu, nào ngờ con nổi thú tính, cưỡng hiếp nó. Nó chống cự không lại nên xuôi tay.
Lợi thật sự không chắc mình đã làm gì trong cơn say, nhưng chuyện ấy thì chắc là không. Anh cố giải thích:
- Con thề với má là con không bao giờ!
- Má tin con, nhưng họ đâu có tin. Mà họ thì quyền thế trong tay, lại giàu có nhất làng này, mình làm sao đối đầu lại với họ, con!
Bà lại khóc nức nở. Lợi bất nhẫn nhìn mẹ mình, đột nhiên anh đứng dậy dợm bước ra ngoài. Thím Bảy hốt hoảng:
- Con còn tính đi đâu nữa?
- Con phải qua nhà nói cho họ hiểu!
Thím Bảy nắm tay con lại:
- Má xin con, đừng làm lớn chuyện mà thiệt thân. Chỉ việc họ thưa con cưỡng hiếp con gái họ thì con trả lời sao? Ba má nghèo, đâu có tiền đi hầu tòa hay đền bù hả con!
Lợi ngồi xuống, ôm lấy đầu, rên rỉ:
- Rồi con ăn nói sao với Sa đây! Cô ấy cũng nghèo nên mới đi Sài Gòn làm mướn, trước khi đi cô ấy còn căn dặn con là hãy ráng giữ mình, ít bữa cùng lên đó với cô ấy để cùng làm thuê làm mướn kiếm tiền gửi về cho gia đình...
Thím Bảy cũng nói:
- Tao với ba mày mới vừa gặp bên gia đình con Sa, hứa với họ là Tết này sẽ đưa sính lễ qua để làm đám hỏi cho tụi bay. Bây giờ biết tính sao đây...
Chú Bảy đột ngột ngồi dậy, chú không nhìn vợ con, mà nhìn thẳng lên trời cao, nói như nói với ông trời:
- Tình thế này thì chỉ có cái chết mới hết nhục thôi.
Chú bật đứng dậy, nhưng bị ngã trở xuống. Nhìn cha như vậy, tự dưng bao nhiêu phẫn uất trong lòng của Lợi như đợt sóng trào, anh hét lên một tiếng rồi lao vút ra ngoài.
- Con ơi, đừng...
Tiếng kêu thảng thốt, tuyệt vọng của người đàn bà tội nghiệp…
Đêm hôm đó Lợi đã quậy phá nhà vợ chồng Phán Hòa. Nhưng cuối cùng anh đã bị trói gô đưa về đồn. Tên đại úy trưởng đồn lệnh cho thuộc hạ còng tay chuyển ngay Lợi lên tỉnh trong đêm đó. Hay tin, bà Bảy Khá đã đến đứng ngoài đồn gào khóc và bị đánh đập nặng tay. Những việc đó đã diễn ra trước mặt Lợi, nên anh càng đau lòng...
Tuy nhiên, ngay sáng hôm sau thì có lệnh thả Lợi ra, sau khi anh chịu ký vào tờ giấy thú nhận việc làm sai trái với Mỹ Hoa, và hứa chịu trách nhiệm danh dự với gia đình Phán Hòa.
Được thả ra nửa ngày sau thì đích thân vợ chồng Phán Hòa sang nhà cha mẹ Lợi làm hòa. Chính ông Phán đã tuyên bố.
- Chẳng qua hiểu lầm. Nay cháu Lợi nó biết hối thì vợ chồng tôi cũng không hẹp hòi gì mà không tha thứ cho nó. Ngay ngày mai, anh chị cứ để tụi tôi lo hết mọi chuvện, lễ hỏi sẽ được tổ chức. Một tuần sau thì đám cưới luôn!
Vợ chồng Bảy Khá chỉ còn nước lặng thinh chấp nhận. Lợi thì như kẻ mất hồn, người ta nói gì anh cũng dạ dạ, vâng vâng.
Đám hỏi cử hành mà mọi thứ từ quần áo, nữ trang, cho đến việc đãi đằng đều do nhà gái lo liệu.
Cho đến ngày cưới cũng vậy. Khi lễ cưới vừa xong thì xảy ra một cuộc cãi vã dữ dội giữa Lợi và Mỹ Hoa. Bởi vừa lột áo cô dâu ra, Mỹ Hoa đã không giấu được cái bụng đã to lên của mình trước mặt Lợi! Anh chàng điếng người:
- Như vậy là cô gạt tôi phải không?
Mỹ Hoa cười đầy thách thức:
- Bây giờ mới biết sao? Bộ mấy người tưởng dễ lấy được tôi hả? Chỉ có đổ vỏ thì mới tới anh thôi, hiểu chưa!
Không dằn được, Lợi sấn tới đánh cho con đàn bà lăng loàn hai tát tai, và thế là cô ả la bài hãi, khiến cả nhà rung động. Vợ chồng Phán Hòa hăm dọa:
- Mày có thái độ này thì lập tức cả mày, cha mẹ mày đều tù rục xương. Mày có nhớ cái giấy mày ký trước khi được thả ở đồn cảnh sát không?
Ông ta ném tờ giấy trước mặt Lợi và bảo:
- Đây là bản sao y từ nguyên bản, có chứng thực của chính quyền, mày đọc lại coi!
Lợi không muốn đọc làm gì cái tờ giấy nhục nhã đó, tuy nhiên khi liếc qua anh phát hiện có điều là lạ, anh cầm lên và kinh hoảng:
- Tại sao có thêm điều khoản này?
Phán Hòa cười khẩy:
- Điều khoản nào?
- Thì điều sau này. Hồi tôi ký đâu có điều này?
Ông Phán giằng lấy, đọc to lên:
- Tôi cam kết nếu sau này bội ước với gia đình cô Mỹ Hoa thì sẽ chịu bồi hoàn số tiền coi như đền danh dự là mười lượng vàng ròng. Nếu tôi thất tín thì tôi và cha mẹ tôi sẽ chịu hình phạt trước pháp luật, nhà cửa tôi sẽ bị tịch biên để bù vào.
Đọc xong, ông Phán hỏi lại:
- Cậu còn lớn lối nữa hết?
Lợi vẫn la to:
- Điều này là bịa đặt! Lúc ký tên tôi không hề thấy điều này. Tôi không thừa nhận!
Một viên lục sự tòa án hình như đã được mời sẵn từ trước, xuất hiện và nghiêm giọng bảo Lợi:
- Mọi việc sẽ đơn giản hơn nếu cậu không gây rắc rối gì cho gia đình! Bằng không thì ngay lúc này, tôi sẽ lập biên bản và cậu sẽ nhận mọi hậu quả!
Chuyện diễn ra chóng vánh chỉ trong vài mươi phút, vậy là Lợi lại đưa cổ vào thêm một cái tròng nữa. Anh đổ gục xuống trong nỗi thất vọng ê chề...
Ngay lúc đó, có một người xuất hiện trước cổng nhà. Người ấy nhìn vào theo dõi bóng của Lợi từ lúc anh bước xuống xe hoa cùng với vợ. Cô đứng nép vào một góc tối khóc một mình. Đó là Sa.
Rồi đột nhiên cô ngã xuống. Có lẽ do đứng lâu và cũng bởi do quá xúc động. Chẳng một ai hay biết, cho đến khi có người đi qua phát hiện họ liền chở đi bệnh viện. Tại đây, người ta đã cứu tỉnh được Sa, nhưng vị bác sĩ trực đã lo lắng nói:
- Chẳng biết thân nhân cô này ở đâu. Cô ấy có thai hơn bốn tháng rồi!
Mãi đến lúc có người biết chuyện chạy đi báo tin cho Lợi hay, anh tới bệnh viện thì Sa đã đi mất! Chỉ có một mảnh giấy nhỏ được đề gửi tên anh ở đó với nội dung thật ngắn gọn: “Em mang trong mình dòng máu của anh và em sẽ nuôi dưỡng nó. Em đặt tên con là Son, để nhắc cho anh nhớ, lòng em lúc nào cũng son sắt và cũng cho nó có nghĩa giống tên em. Em là Chu Sa cũng là Son...”
Nghe các bác sĩ trong bệnh viện kể lại, Lợi biết là Sa cũng mang thai bằng với cái thai trong bụng của Mỹ Hoa, và đó đúng là kết quả của những lần vụng trộm giữa anh và Sa cách đây hơn bốn tháng...
- Cậu Hai, cô Hoa đang đợi ngoài xe.
Lợi giật mình, thì ra con quỷ cái đó lúc nào cũng bám sát anh, nhất cử nhất động của anh đều không qua mắt được nó! Lợi ức lắm, nhưng cũng đành phải trở ra. Vừa thấy mặt anh, Mỹ Hoa đã đay nghiến:
- Chung tình dữ há? Thăm viếng “bà bầu” mà sao không mang theo quà cáp gì hết, đây tôi đưa cho quà nè, tìm mà cho nó!
Lợi trừng mắt với cô ta:
- Cô muốn gì đây?
Hoa cười nửa miệng:
- Có muốn gì đâu ngoài việc đem tiền tới cho nó mà nó làm cao không nhận. Đồ ngoan cố, không biết thân biết phận, cho chết đường chết chợ, đáng đời.
Lợi giận tím ruột bầm gan, anh muốn giết chết ả rồi ra sao cũng được, nhưng vừa nắm bàn tay lại thì chợt nhìn thấy cái bụng đang mang thai của ả. Dẫu không là con mình, nhưng nó vẫn là một sinh linh vô tội.
Lòng của Lợi dịu xuống, anh thở dài, nhắm nghiền mắt, mặc cho số phận... Giọng cô ả vẫn đều đều:
- Tôi tiếc là lúc nãy bị cái bụng bầu này nên không đuổi theo kịp khi nó lên xe lửa xuôi Sài Gòn, chứ không thì cho nó một trận!
Những lời độc địa đó dẫu sao cũng cung cấp cho Lợi một tin tức biết được là Sa vẫn trở về nơi mà trước đây cô đã đến.
- Có muốn đi thăm nó không? Ngày mai này tôi theo ba tôi đi Sài Gòn, mà không chừng kỳ này mua nhà luôn trong đó nữa!
Lợi không buồn trả lời. Để cho ả ta muốn nói gì thì cứ việc nói. Khi xe chạy về tới nhà thì Lợi đã ngủ từ lúc nào rồi.

Mỹ Hoa sinh con ra chưa được ba ngày thì một chuyện động trời lại đến. Đứa hài nhi đã chết lúc nằm ngủ bên mẹ! Trong lúc mọi người quýnh lên vì chuyện đó thì Hoa dửng dưng như không. Cô ta còn nói:
- Số nó như vậy thì biết sao bây giờ!
Có người nói rằng cô ả cố tình triệt đứa con đi, bởi là con hoang, chứ chẳng phải vô cớ mà chết như vậy! Tuy có thể đó là ác khẩu, nhưng với Mỹ Hoa thì đâu phải hoàn toàn vô lý...
Rảnh tay rồi Mỹ Hoa mặc sức ăn diện, chơi bời. Cô mặc tình giao du, hết người này tới đám nọ, toàn là những cuộc chơi đêm. Lợi biết hết, nhưng anh không thèm để ý. Mà có để ý, có mở miệng nói thì ả có nghe cho đâu!
Trong hoàn cảnh như vậy làm cho Lợi càng quyết tâm hơn trong việc đi tìm Sa. Anh bỏ ra ngoài hai tuần lễ để tìm, và cuối cùng thì công sức của anh cũng được đền bù. Anh tìm được mẹ con Sa ở một khu phố nghèo.
Sa sau khi buồn chán trở về Sài Gòn thì đã đôi lần có ý định quyên sinh. Nhưng nghĩ tới đứa con trong bụng, cuối cùng cô quyết phải sống, phải sinh con ra và nuôi dưỡng nó như những gì đã hứa với Lợi. Cô không mong gì gặp lại người tình đầu, tuy nhiên lòng dạ cô vẫn cứ thấp thỏm trông chờ...
Hôm nhìn thấy Lợi bước vào nhà, không kiềm chế được Sa đã sà ngay vào lòng anh, khóc nức nở. Và chỉ biết khóc thôi...
Từ hôm đó, Lợi âm thầm tới lui. Anh kín đáo và cũng được những người ở chung nhà với Sa thương nên chẳng ai để ý gì...
Vậy mà vào một buổi trưa, khi Lợi tới như thường lệ thì không thấy Sa trong nhà. Dì Tư, người chủ nhà bế bé Son từ hàng xóm về hốt hoảng nói:
- Sáng nay cô Sa nhờ tôi bế giùm con cho cô ấy đi ra đầu ngõ đây mua đồ ăn, thường thì năm phút sau sẽ về, nhưng sao chờ hoài từ sáng tới giờ không thấy đã hơn một buổi rồi. Cô ấy có bao giờ bỏ con quá nửa tiếng đâu!
Lợi cũng bắt đầu lo. Anh chờ thêm một lúc nữa rồi dặn Dì Tư chủ nhà:
- Dì giữ cháu giùm cho con, đừng giao nó cho bất cứ ai. Để con đi tìm mẹ nó.
Lợi tìm suốt ba bốn ngày mà vẫn không gặp được Sa. Anh tìm cách liên lạc về Phan Rí cũng không có tin gì của cô.
Đoán là có điều không lành, nên một mặt vẫn tiếp tục tìm kiếm, một mặt Lợi đưa bé Son đi gửi một nơi khác an toàn hơn. Khoảng mười ngày sau, lúc đang ngủ ở nhà, Lợi nghe như có ai gọi mình. Bật dậy chưa kịp lên tiếng hỏi thì anh nghe từ ngoài cửa sổ có tiếng của Sa:
- Em bị người ta giết rồi! Họ bỏ xác em ở bãi rác cạnh bờ sông có cây cầu lớn cho xe lửa chạy ngang. Họ bó em có một chiếc chiếu thôi, lạnh lắm. Hãy giúp em với!
Lợi bàng hoàng, ngay nửa đêm anh đã tức tốc tới đó. Theo lời Sa nói thì nơi ấy không đâu khác hơn là cầu Bình Lợi. Anh tìm được ngay một bãi rác và sẵn mấy người thu dọn rác đang làm việc đêm, anh nhờ họ giúp đào tìm. Không khó để họ tìm ra một cái xác được bó trong một chiếc chiếu, chôn bên cạnh đống rác lớn.
Đúng đó là xác của Sa! Cô chết với nhiều vết thương trên người, có lẽ là bị một nhóm người hành hung có chủ mưu, nên việc phi tang xác cũng khá kín đáo, nếu vong hồn Sa không báo mộng thì khó lòng ai tìm ra!
Nghĩ việc tày trời này là do bàn tay của Mỹ Hoa, nhưng không có bằng chứng nên Lợi chỉ biết uất hận, chịu đựng. Tuy nhiên, nửa đêm hôm đó thì điều gọi là quả báo đã nhãn tiền!
Đang ngủ bỗng Hoa giật mình tỉnh giấc, sờ tay qua bên cạnh chạm phải một người, cô ả hốt hoảng:
- Ai?
Ả định bật dậy đi mở đèn thì hình như bị kéo ghì xuống, ngã sấp lên thân thể kế bên. Tay ả vừa chạm vào thân thể đó đã phát hoảng kêu lên:
- Cái... cái này...
Ả ta lạnh cả người khi nhận ra người nằm cạnh mình là một… tử thi, da thịt lạnh ngắt!
Đèn không được bật, nhưng tự dưng sáng lên, đủ cho ả nhìn rõ mặt tử thi đó là... Chu Sa!
- Bớ!
Ả cố sức gào lên và phóng được xuống khỏi giường. Đèn lúc ấy lại vụt tắt!
- Bớ người ta! Bớ...
Trong ngôi nhà vườn mới mua, buổi tối chỉ có ả ta và Lợi. Tuy ngủ riêng phòng nhưng gần đó, nên khi nghe kêu la thì người chạy sang chính là Lợi. Anh hỏi trống không:
- Chuyện gì vậy?
Ả nghe tiếng Lợi thì lao ra ôm chầm lấy run rẩy.
- Nó... nó ở trong đó!
- Ai?
- Con... con Sa!
Nghe mấy tiếng đó, Lợi giật mình:
- Tại sao là Sa?
Anh lao vào phòng, hỏi:
- Sa ở đâu?
Hoa chỉ lên giường:
- Ở đó!
Lợi nhìn lên giường thì chẳng thấy gì, nên xẵng giọng:
- Có gì đâu.
Mỹ Hoa bước trở vào, len lén nhìn lên và ngạc nhiên:
- Sao kỳ vậy. Nó mới đó mà...
Lợi nhìn thẳng vào mặt ả, gắt lên:
- Cô đã giết chết Sa phải không?
Mỹ Hoa thoáng một chút sợ hãi, nhưng vẫn mồm mép chối phăng:
- Tôi biết gì chuyện của nó! Tôi… đâu có gặp nó!
- Không gặp nhưng mướn người giết phải không?
- Không... không biết...
- Tôi đã lấy xác của cô ấy được rồi. Lũ khốn nạn các người chôn xác cô ấy ở bãi rác thối tha, định phi tang mà đâu có được!
Hoa suy sụp hoàn toàn, cô ả ngã quỵ xuống sàn, vừa ôm mặt khóc nức nở.
Đó khác nào một lời thú tội! Tuy nhiên, khi Lợi hỏi thêm thì cô ta vẫn giở giọng đanh đá.
- Chuyện về con Sa thì không dính gì đến tôi. Nhưng tôi cảnh cáo, bất cứ ai nhắc tới con đó trong nhà này thì đừng trách!
Lợi hậm hực bước ra, nói với lại:
- Chuyện cái xác vừa rồi chưa làm cho cô sợ sao? Hồn ma thì đâu chừa ai mà không báo oán. Vay trả, trả vay mà, liệu mà sống cho ra con người!
Anh về phòng mình mà lòng dạ không yên. Phải chăng do quá vội nên anh chỉ chôn tạm cái xác của Sa phía sau một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô, chưa xây kim tĩnh, cũng chưa có bia mộ, nên cô ấy về đây báo? Mà báo để làm cho con quỷ cái kia sợ là điều Lợi vừa lòng, tuy nhiên khi nghĩ đến cảnh Sa nằm quạnh quẽ một mình anh lại xót xa…
Hay Ià... Lợi chợt nghĩ và anh cho là đắc sách, nên reo lên:
- Phải rồi! Vậy mà mình không nghĩ ra…
Ngay trưa hôm đó, Lợi đã thuê 2 người thợ cùng với anh âm thầm bốc mộ Sa từ chùa về chôn ngay khu vườn trong nhà, nơi có bãi đất trống khá lớn mà người chủ trước trồng lan và các loại cây ăn trái. Nhờ khu vườn rộng, có cổng hậu, mà ả kia thì hầu như đi suốt, nên việc cải táng diễn ra không hề bị phát hiện.
Chôn xong, Lợi hài lòng lắm, anh thầm khấn:
- Từ nay em về đây ở với anh. Nơi này sẽ là của em.
Để tránh sự để ý của Mỹ Hoa, Lợi đặt làm một bia mộ, khắc tên người chết là... Nguyễn Thị Son, thay vì Sa.
Phần bé Son thì Lợi nhờ người nuôi dưỡng rất chu đáo. Con bé lớn lên càng ngày càng giống với mẹ nó như khuôn đúc!
Trong khi đó thì ở nhà Mỹ Hoa cứ liên tục bị quấy phá. Cô ả hầu như không đêm nào ngủ mà không nhìn thấy Sa hiện về! Mỗi lần như vậy thì ả thét lên chẳng ngủ nghê gì được! Ả sợ nên phải xuống nước năn nỉ Lợi:
- Từ nay anh đừng ngủ riêng nữa, qua ngủ với tôi đi. Tôi hứa...
Làm sao Lợi có thể chung đụng với cái thân xác đi dâng cho mọi người đàn ông của ả, nên Lợi từ chối thẳng thừng:
- Hồi đó cô đuổi tôi ra khỏi phòng, thề là có chết cũng không chung đụng với tôi mà! Bây giờ sợ thì đi kiếm mấy thằng đang đeo theo cô đó, rước nó về!
Mỹ Hoa đâu có vừa:
- Tôi sợ mất mặt mấy người nên chưa làm, bây giờ thách hả, tôi làm liền cho coi!
Ngay tối hôm đó, đưa một gã nhân tình về ngủ. Lợi hay biết, nhưng vờ như không. Mặc cho ả muốn làm gì thì làm. Đến nửa đêm, bỗng nghe tiếng la thất thanh từ phòng ả:
- Bớ người ta, giết... giết người!
Ả gọi đến lần thứ ba.
Lợi không thể không chạy qua và anh sững người lại khi nhìn thấy xác của gã nhân tình nằm sóng soài trên sàn nhà. Và càng rùng rợn hơn cả là hai tai của tên nọ đều bị mất. Miệng hắn đầy máu, hình như lưỡi cũng đã bị cắt!
Vừa thấy bóng Lợi, ả nhào ra ôm cứng nhưng không phải để cầu cứu, mà để hô hoán lên:
- Nó… nó giết người. Chính nó!
Lợi hoảng hồn trước sự vu khống trắng trợn của ả.
- Cô dẫn trai về nhà, chơi bời thế nào để nó chết, rồi bây giờ giá họa cho người ta phải không?
Ả lại nhào tới, hung hăng như con hổ cái, khiến cho Lợi chẳng còn cách nào hơn là phải thẳng tay tát cho ả hai bạt tai, vừa hét:
- Đồ lăng loàn, đĩ thỏa! Tao vái cho oan hồn Sa về bẻ cổ, vặn họng mày cho rồi!
Trong lúc mạnh tay đánh, khiến cho Mỹ Hoa ngã nhào vào phòng, đúng ngay vào chỗ tử thi đang nằm.
- Cứu…
Nhưng khi nhìn lại thì chẳng còn thấy xác của gã nhân tình đâu? Chính Lợi cũng ngạc nhiên, bởi mới vừa ở đó. Anh lẩm bẩm:
- Không lẽ...
Anh nghĩ tới Sa và hả dạ lắm, hất hàm bảo:
- Có gì để giá họa nữa không? Đi mà rước thêm vài thằng nữa về.
Anh bỏ đi ra ngoài trong lúc Mỹ Hoa ngồi khóc như một người tâm thần...
Vừa sáng sớm hôm đó, người làm công không ngủ lại đêm là Năm Lành tới. Chị ấy rụt rè nói nhỏ với anh:
- Ở góc đường cách nhà mình một quãng xa, có một xác chết đàn ông, người bị thương tích khắp thân thể, mà hình như tai cũng bị cắt nữa, xe cấp cứu đang tới chở đi!
Lợi chạy nhanh ra xem, vừa đủ thì giờ nhìn thấy mặt xác chết. Đúng là tên nhân tình của Mỹ Hoa!
Còn đang bần thần suy nghĩ xem tại sao xác hắn lại ra đây nhanh như vậy thì… chợt Lợi nghe có người nói khẽ bên tai:
- Về nhà liền đi, ả ta đang rắp tâm hãm hại anh đó. Coi trong hộc bàn viết!
Lợi nhìn sang thì thấy người vừa nói với mình là một cô gái đầu đội chiếc nón lá che khuất gương mặt, cô nàng quay đi ngay mà không đợi cho Lợi hỏi gì. Nhìn tấm lưng tròn giống hệt như của Sa, Lợi chạy theo gọi lớn:
- Sa!
Nhưng chỉ thoắt một cái thì cô nàng đã biến mất trong dòng người đi làm buổi sáng.
Không kịp suy nghĩ thêm, Lợi chạy nhanh về nhà và kịp nhìn thấy Mỹ Hoa vừa từ trong phòng anh bước ra. Định la lên, nhưng chợt nhớ tới lời cô gái lúc nãy, Lợi nép vào một nơi, chờ cho cô ả về phòng mình, anh bước nhanh vào, kéo hộc tủ bàn viết ra, quả nhiên thấy một gói vải để trong đó. Mở ra thì thấy có một số nữ trang quý giá!
- Nó định vu oan giá họa cho mình đây! Nó định nhổ mình ra khỏi nhà này để đỡ rắc rối!
Giận run lên nhưng Lợi cố kiềm chế, anh cầm số nữ trang đó trong tay, nhẹ bước qua phòng ả, đứng nép bên ngoài nghe ngóng. Bên trong có tiếng giội nước ào ào. Cô ả đang tắm!
Lợi xoay cửa, cửa không khóa, anh nhẹ bước vào và đi nhanh tới chỗ bàn phấn của ả, đặt nhanh gói nữ trang vào đó rồi đi trở ra, trong lúc Mỹ Hoa vẫn còn tắm, mùi nước hoa ả xức bay ra thơm phức...
Lợi trở về phòng ngồi đợi. Quả nhiên, chỉ vài phút sau anh đã nghe tiếng ả tru tréo:
- Mới còn đây bây giờ biến đi đâu rồi. Trời ơi, nó lấy hết tài sản của tôi rồi!
Ả sang dộng cửa phòng Lợi ầm ầm, vừa gào lên:
- Tôi nuôi ong tay áo mà! Thằng khốn nạn, mày mau mở cửa ra mau!
Lợi bình tĩnh bước ra mở cửa, vừa trông thấy anh, ả đã xỉa xói:
- Không dễ nuốt trôi đồ của bà đâu, thằng khốn nạn!
Ả xông thẳng vào phòng, lục tung đồ đạc lên, vừa gào thét:
- Nữ trang của tao là của cải ba má tao để lại làm vốn liếng, mày đã không giúp gì cho nhà này, bây giờ lại tính cuỗm hết đi chứ gì!
Ả xông tới tủ bàn viết, Lợi liếc mắt xem… quả nhiên ả mở nhanh ra vừa la lớn:
- Đây mà...
Nhưng lời của ả bị tắt ngang, bởi trong hộc tủ trống không! Nhưng vốn đã có chủ định nên ả lại tiếp tục gào lớn:
- Mày giấu những thứ đó ở đâu?
Bây giờ Lợi mới quát:
- Nói lăng nhăng cái gì? Tại sao xông vào phòng người ta mà làm lung tung thế này, muốn gì?
- Tao muốn kiếm của vừa bị mất, mày lấy chứ không ai vào đây! Mày giấu ở đâu thì đem ra ngay không thì tao nhờ người khác xét!
Lợi ngồi xuống ghế, giọng tỉnh như không:
- Muốn xét thì cứ xét. Nhưng nếu không có thì tính sao nào?
Mỹ Hoa điên cuồng sục sạo khắp nơi, dĩ nhiên là không có gì. Vừa khi đó, Năm Lành báo có nhân viên công lực tới, nói là theo yêu cầu của chủ nhà. Mỹ Hoa ra lệnh:
- Mày cho người ta vào!
Bốn nhân viên cảnh sát vào cùng với một thừa phát lại, ông ta nói:
- Chủ nhà là Phan Thị Mỹ Hoa, yêu cầu chúng tôi lập biên bản ông Nguyễn Thành Lợi, chồng có hôn thú nhưng đang sống ly thân, chiếm dụng bất hợp pháp tài sản riêng của bà. Vậy yêu cầu ông Lợi để chúng tôi làm nhiệm vụ.
Lợi rất lịch sự:
- Tôi là Lợi rất sẵn sàng để quý ông thi hành nhiệm vụ. Mời!
Họ tiến hành khám xét rất kỹ từng nơi trong phòng. Sau hơn nửa giờ chính vị thừa phát lại tuyên bố.
- Chúng tôi không phát hiện bất cứ vật gì như lời tố cáo của bà Mỹ Hoa. Vậy chúng tôi lập biên bản thực tế.
Nhưng Lợi lại yêu cầu:
- Tôi là người bị tố cáo, nhưng khám xét không có, như vậy là tôi bị vu cáo. Vậy trước khi lập biên bản, tôi yêu cầu quý ông xét chính phòng riêng của cô Mỹ Hoa đây. Xem những gì mà cô ấy nói là mất, sự thật ra sao?
Lời yêu cầu hợp lý đó của Lợi được chấp thuận. Mỹ Hoa vừa ấm ức, giọng mỉa mai:
- Cũng chưa chắc là vô tội đâu! Có khéo giấu thì rồi cũng lòi ra thôi.
Nhân viên công lực kéo sang khám xét phòng của ả, và không khó để họ tìm ra bọc nữ trang trong tủ bàn phấn. Khi một nhân viên công lực cầm đưa gói vải lên thì Mỹ Hoa biến sắc:
- Sao... sao kỳ vậy?
Vị thừa phát lại nghiêm giọng:
- Chúng tôi sẽ lập biên bản vụ víệc này. Như vậy những điều bà Mỹ Hoa tố cáo là không đúng sự thật. Nếu ông Lợi truy tố ra tòa thì bà Hoa phải chịu trách nhiệm về tội vu khống!
Các ông ấy đi rồi thì đến lượt Mỹ Hoa làm toáng lên trong nhà, có lẽ để trút cơn giận vì bị bẽ mặt. Cô chửi bới Lợi không tiếc lời và còn quá quắt hơn, nhào qua phòng anh để đấm, đập hòng làm nhục anh. Lợi cố nhịn, nhưng Hoa thì càng làm tới. Cô ta còn cầm dao hăm dọa:
- Nếu mày không ra khỏi đây thì tao quyết ăn thua đủ với mày. Một là mày chết hay là tao!
Ả ta đâm dao loạn xạ nhắm vào Lợi. Tuy nhiên Lợi né tránh được. Bỗng nhiên anh thấy cô ả lảo đảo rồi kêu thét lên:
- Chết tôi rồi!
Con dao ả cầm đâm chém nãy giờ, chẳng hiểu sao lại cắm ngập vào một bàn tay của chính ả!
Ả đau đớn chạy về phòng mình rồi từ lúc ấy đóng cửa lại, gào khóc inh ỏi trong đó...
Mỹ Hoa càng ngày càng lún sâu vào những cuộc trác táng. Cô ả nghe lời ai đó xúi bảo, đã rước một tay thầy pháp người Tàu về nhà làm phép, đặt vật yểm và có vẻ yên tâm hơn, khi đêm đêm ngủ không còn bị ác mộng nữa.
Điều đó có lẽ do ả ít về nhà. Cha mẹ ả còn để lại một căn nhà khác, nên ả chuyển sang đó ở hẳn, để dễ bề rước trai về nhà. Lợi thấy dễ thở hơn, vì hằng ngày anh đỡ phải nghe và thấy những lời lẽ hành động trái tai gai mắt. Một phần nữa, anh cũng được tự do thăm viếng mộ của Sa mà không sợ Mỹ Hoa phát hiện.
Vào một đêm trăng cuối tuần, chờ cho trăng vừa lên, Lợi lại ra phần mộ ngoài vườn và theo thông lệ, anh ngồi đó cho đến khi trăng tàn mới vào nhà. Những lần như vậy Lợi cảm thấy mình ngủ rất ngon...
Nhưng đêm nay thì khác. Lầm lũi bước, khi gần tới nơi chợt Lợi giật mình khi thấy có một bóng người đang quỳ trước ngôi mộ!
- Ai vậy?
Lợi nhẹ bước đến gần hơn và kinh ngạc khi nhận ra đó là Mỹ Hoa! Không tin vào mắt mình, Lợi phải dụi mắt nhìn kỹ, khi biết mình không lầm, anh ngồi thụp xuống và nghe ngóng xem ả ta nói gì, bởi có tiếng lầm bầm từ miệng ả.
- Tôi xin nghe, xin nhận hết những gì cô nói. Tôi biết lỗi mình...
Một giọng nói quen thuộc khiến Lợi không kiềm chế được, thốt lên:
- Sa!
Đúng là giọng của Sa:
- Hồn ma không biết nói ngược những gì mình đã nói ra. Cô biết trước lúc tắt thở ở bãi rác, tôi đã nói gì không? Đó là một lời thề chưa trọn vẹn, bởi thủ đoạn của cô quá tàn ác, đòn thù quá nhẫn tâm, nên tôi đâu kịp nói hết ý mình. Vậy nay tôi lặp lại rõ hơn: Với tôi, ai đã vay gì thì phải trả nấy! Cô đã cướp mất tình yêu của tôi thì phải trả lại trọn vẹn! Cô đã cướp mạng sống của tôi thì cũng phải trả lại. Cô hiểu chứ?
Chỉ nghe Mỹ Hoa đáp lí nhí, nhưng chừng như đã đáp ứng được yêu cầu, nên giọng của Sa chỉ ngắn gọn:
- Tôi sẽ chờ xem cô hành động...
Mỹ Hoa đứng lên, cúi đầu rời khỏi đó như chạy trốn. Lợi nhìn theo một lúc rồi bước tới bên mộ, lên tiếng:
- Sao em để ả biết chỗ này, lỡ ả ta không thật lòng thì sao?
Im lặng...
Lợi ngồi ở đó rất lâu mới trở vào nhà. Vừa về tới thì anh đã thấy Năm Lành đứng lấp ló ở ngoài, có vẻ đợi anh đã khá lâu. Cô nói ngay:
- Cậu hay chuyện gì chưa? Người lái taxi chở mợ Hoa đi hằng ngày mới tới đây kêu cửa bảo rằng phải đi cứu mợ ấy ngay thôi, kẻo không kịp!
Lợi ngạc nhiên:
- Có chuyện gì?
- Anh ta nói mợ Hoa bị bốn năm người đàn bà lạ vây đánh, máu me đầy người và còn... lột hết quần áo bêu riếu giữa đường nữa!
- Chuyện xảy ra lâu chưa?
- Cách đây chừng hơn một giờ!
Lợi lắc đầu:
- Chuyện đó là không thật. Bởi tôi mới gặp cô ta đây. Gặp ở...
Lợi không muốn tiết lộ chuyện vừa rồi, nhưng vẫn quan tâm tới lời kể của Lành anh hỏi lại:
- Chị biết nhà của người tài xế đó?
- Dạ biết, anh ta có chỉ, ở gần đây thôi.
- Chị đưa tôi tới đó ngay.
Khi gặp người tài xế, anh ta kể lại:
- Mấy người đàn bà kia nghe nói đều là vợ của những người đàn ông mà đêm nào cũng đi nhảy đầm, uống rượu với cô Hoa. Họ hợp lại đánh ghen. Nếu hồi chiều không có một điều kỳ lạ xảy ra thì chắc là cô Hoa không thể sống nổi!
Lợi hỏi:
- Điều kỳ lạ gì?
- Tôi chứng kiến từ đầu, bởi lúc ấy cô Hoa vừa bước xuống xe tôi thì bị ngay một nhóm năm sáu người áp tới túm tóc, lôi xềnh xệch vào lề và thi nhau đấm, đá. Rồi một người trong bọn hô lên và có bốn tên côn đồ dữ dằn đứng sẵn gần đó nhào ra. Chúng định lôi cô Hoa lên chiếc xe hơi đậu sẵn, một tên ra lệnh: Chở nó chôn ở bãi rác!
Nghe tới đó, Lợi kêu lên:
- Bãi rác cầu Bình Lợi!
Người tài xế gật đầu:
- Nơi đó rất nổi tiếng. Ai muốn tự tử thì ra cầu mà nhảy xuống. Còn ai chết không có người thừa nhận cũng bị vùi xác nơi bãi rác gần đó?
Năm Lành chen vào hỏi:
- Chú nói điều kỳ lạ gì?
Người tài xế kể tiếp:
- Lúc họ sắp tống cô Hoa lên xe, tôi định la lên để gọi người cứu cô ấy, nhưng không có ai chung quanh nên lại sợ bị chúng thanh toán. Trong lúc chưa biết phải làm gì thì chợt tôi nhìn thấy cả bọn côn đồ bị bắn tung ra khỏi xe, rồi chiếc xe chạy vọt đi mà không thấy tài xế lái! Cô Hoa nằm trong xe ấy…
Lợi không hỏi thêm, kéo Năm Lành về, anh chỉ nói riêng với cô người làm:
- Cô ấy vay cái gì thì trả cái nấy thôi.
Lành không hiểu, nhưng không dám hỏi… Chỉ đến khi về tới nhà, cô mới nói:
- Thưa cậu, hồi chiều có một cô bé gái tới tìm cậu.
Lợi giật mình:
- Cô ấy là ai, có gặp Mỹ Hoa không?
- Dạ không. Đó là một bé gái tuổi chừng mười hai mười ba, rất xinh. Con hỏi tìm cậu có việc gì thì cô bé e dè không nói, chỉ bảo là bữa khác sẽ tới tìm.
Nghĩ đến Son, Lợi vụt hỏi:
- Có phải con bé cột tóc đuôi gà, có cái nốt ruồi trên môi trái không?
Năm Lành gật đầu đáp:
- Dạ phải.
- Con Son!
- Son là ai vậy cậu? Con nhỏ hết sức dễ thương, phải chi cậu có một đứa con như vậy thì hay biết mấy!
Câu nói vô tình làm nhói đau con tim của Lợi. Chợt anh hỏi:
- Nếu tôi nhận một đứa như vậy về làm con ở đây, chị thấy có được không?
Lành reo lên:
- Được quá đi chứ cậu! Hay là cậu xin nó về nuôi đi, nó con của ai vậy?
Lợi cười nhẹ:
- Làm sao được khi còn con chằn cái đó ở nhà?
Rồi anh đăm chiêu, lẳng lặng đi về phòng riêng... Anh biết, con Son đi tìm anh bởi nơi nuôi nó giùm anh lâu nay sắp sửa chuyển đi nơi khác, không tiện giúp nữa…
Ngày hôm sau, người ta tìm gặp chiếc xe hơi không có ai lái, lủi xuống sông ở cầu Bình Lợi. Trên xe có xác một phụ nữ. Người này mình đầy thương tích, khi vớt lên người ta tìm được giấy tờ trong túi xách của cô ta, tên Phan Thị Mỹ Hoa!
Lợi nhận xác cô ả về, làm lễ mai táng trọng thể. Do không ai để tang, bởi dòng họ Phan chỉ còn lại Mỹ Hoa là người duy nhất, nên Son đứng cư tang như tư cách con gái. Son tuy biết đó không phải là mẹ ruột mình, nhưng vẫn nghe theo lời cha, con bé vẫn ngoan ngoãn để tang.
Từ hôm ấy, Lợi đã đưa con gái về ở chung. Anh chưa cho con biết vội mồ mả của mẹ nó, bởi anh làm đúng theo lời dặn của Sa khi vong hồn cô về bảo rằng dẫu sao thì cô cũng đã chết, cô không muốn con gái nghe kể chuyện về cuộc đời bi thương, bạc phận của mình mà sinh chán chường, không dám lấy chồng. Do vậy, ý Sa là muốn khi nào Son chính thức lấy chồng thì mới nói rõ thân phận và chỉ mộ để nó biết...
Đọc hết tập sách viết tay khá công phu, Son ngẩng lên hỏi:
- Khi ba em chết, sao trước đó không thấy ba bệnh hoạn gì mà lại chết quá đột ngột?
Năm Lành thở dài:
- Khi cô về đây được vài năm thì sức khỏe của ông chủ đã ngày càng yếu. Cô không để ý, chứ đêm nào tôi cũng thấy ông đi bộ ra phần mộ của mẹ cô và ngồi đó đến quá nửa khuya mới vào nhà. Ông buồn vì nhớ mẹ cô, cứ thơ thẩn và khóc. Trước khi chết mấy hôm, tôi được ông gọi lại và đưa cho cái hộp có di vật này, căn dặn là phải đưa cho cô khi nào cô lấy chồng. Tuy nhiên, do cô biết được những bí mật về mẹ mình nên tôi đành phải phá lệ. Mà tôi nghĩ, có lẽ mẹ cô cũng muốn cho cô biết sớm, nên mới hiện về lấy mấy thứ của cô và hướng dẫn cô tìm ra ngôi mộ ngoài kia.
Son thắc mắc hỏi:
- Sao ba thương mẹ, lại chết sau mụ kia, vậy sao xác ba không chôn ở cạnh mẹ, mà lại chôn ở nghĩa trang, nằm cạnh mụ ta?
Năm Lành mắt sáng lên:
- Về việc này cũng là do ý của ông chủ. Trước khi chết ông trối lại, dặn tôi làm như vậy. Cô nhớ, lúc ông qua đời thì cô đang đi du học, về không kịp, nên mọi điều ông mới viết vào cuốn sổ đó. Thật ra ông đâu có nằm chung với bà Mỹ Hoa!
Son ngạc nhiên:
- Vậy ba em được chôn ở đâu?
- Ở ngay trong vườn này! Ngay bên cạnh mẹ cô!
Son trố mắt, không tin:
- Tôi đâu có thấy mộ nào ngoài mộ của mẹ?
- Cô đi với tôi ra đó.
Theo Năm Lành ra ngôi mộ có tấm bia Nguyễn Thị Son, Son nhìn quanh và nói:
- Nào có mộ ai?
- Ngay dưới chân cô đó.
Lúc này, Son mới để ý mình đang đứng trên một tấm xi măng bằng phẳng, cô hỏi:
- Không lẽ là ở đây?
- Đúng rồi. Sở dĩ xây không có nấm mộ là bởi lời dặn của ông. Ông bảo rằng: “Cũng theo lời mách bảo của mẹ cô, nhằm tránh cho cô cái dốp bị chết bất đắc khi có cha mẹ đều là hồn ma!”
Son kinh hoảng:
- Ba tôi cũng là… ma sao?
- Chính ba cô tự nguyện xin với mẹ cô được như vậy. Ông đã mấy lần về báo cho tôi biết như vậy. Ông còn giải thích thêm rằng, không phải ai chết cũng thành ma. Có oan ức, trắc trở thì mới là oan hồn. Ba cô không thuộc diện đó, nên phải cần có sự dẫn dắt của mẹ cô mới thành ma và để ở cõi âm giờ này hai ông bà mới bên nhau được.
Son sụp xuống lạy trước hai ngôi mộ và khóc:
- Ba má, về sau con có chết cũng xin được thành ma con muốn được ở bên ba má thôi!

Ma Xó Si Tình

Khi được phân công phụ trách lai tạo giống cho đồn điền cao su, Điền ngại nhất là chuyện phải tìm chỗ trọ. Bởi nông trường chỉ định anh ở chung với nhiều người trong một ngôi nhà mới xây thì Điền ngán ngẩm, lắc đầu:
- Tính tôi không chịu được sự chung đụng quá đông người, phải chi có nhà riêng, nhỏ cũng được…
Tiêu chuẩn của công ty là như vậy, bắt buộc nhân viên phải tuân theo. Tuy nhiên, sau bữa cơm chiều hôm đó. A Tư, một thầy cai gốc người địa phương, đã kéo tay Điền ra ngoài và chỉ:
- Cậu kỹ sư có thấy xóm nhà bên kia không?
- Nhà của công nhân ở?
- Đó là xóm cư dân địa phương, một số họ làm công nhân trong này, còn lại đi làm rẫy làm rừng và các nghề khác. Cậu kỹ sư có muốn qua ở bên xóm đó không?
Điền nghe là thích thú liền:
- Có được không? Người ta có cho mướn nhà à?
A Tư cười:
- Vùng này không có chuyện thuê mướn nhà. Người ta thích thì cho ở không thôi.
Điền chán nản:
- Vậy làm sao ở được. Bởi tôi mới tới, chưa quen ai ở đây, làm gì có được người thích hay ưa.
A Tư cười khó hiểu:
- Có người thích mà cậu kỹ sư không biết đó thôi!
- Ai?
- Cậu có muốn biết không?
- Sao lại không!
A Tư kéo tay Điền:
- Giờ này còn sớm, vậy cậu theo tôi qua bên kia chơi.
- Bên xóm nhà đó?
- Phải! Ở đó cậu sẽ biết ai là người thích mình!
Họ đi xuyên qua nhiều luống cao su thì tới xóm nhà tranh. Đúng hơn đó là những nhà sàn đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số. Lúc này A Tư mới nói:
- Tôi ở đây. Nhà tôi chỗ có hai con trâu cột dưới sàn đó.
Vừa bước lên sàn, Điền đã nghe có tiếng chân chạy rung rinh sàn nhà. A Tư cười bảo:
- Nó mắc cỡ khi có đàn ông về nhà đó!
A Tư có vợ và hai đứa con lên tám, chín tuổi. Họ không chào khách theo kiểu người Kinh, mà kéo nhau chạy biến vào nhà trong. A Tư phải lên tiếng:
- Có khách quý tới nhà, Mèng Lan đâu không ra đón?
Vợ anh ta nói vọng từ bếp:
- Nó trốn rồi!
- Đi kêu nó về đây, tôi có chuyện nói!
Một đứa con của A Tư, chạy ra nói nhỏ vào tai bố, nhưng những lời của nó chẳng khác nào hét cho mọi người nghe:
- A cô đâu có đi đâu, nấp trong nhà kia kìa!
A Tư cười ngất:
- Con trẻ chúng tôi như vậy đó, chúng không biết nói lén!
Rồi anh quay vào trong nhà, lát sau nắm tay một cô gái đi ra. Vừa trông thấy cô nàng thì tim của Điền muốn loạn nhịp! Anh phát lúng túng:
- Đây… đây là...
- Nó là em gái tôi, tên là Mèng Lan, mà người Kinh các anh hay gọi là Mường Lan đó. 17 tuổi, chưa có đứa nào ngấp nghé!
Nghe ông anh mình giới thiệu, cô gái thẹn đỏ mặt, quay người định chạy. Nhưng A Tư đã đoán trước nên nắm chặt cô ta lại, nghiêm giọng:
- Ở lại nói chuyện đàng hoàng!
Rồi anh quay sang Điền, bảo:
- Người mà anh muốn biết có thích mình hay không!
Điền không tin trong bản làng rừng rú này lại có một cô gái đẹp lạ thường như thế này. Mà lại là người thích mình.
- Anh Tư nói… giỡn chi vậy! Tôi... tôi...
A Tư cười lớn:
- Anh là con trai người Kinh mà rụt rè như con gái.
Rồi anh chủ động nắm tay em gái mình đến gần Điền:
- Nó tới kiếm tôi ở chỗ làm, thấy cậu kỹ sư một lần mà về nhà cứ nhắc hoài! Con gái dân tộc một khi đã nhắc tới cậu trai nào thì coi như... yêu người ấy!
Điền la lên:
- Sao có chuyện đó được. Lỡ cô đây… không ưa tôi thì sao?
Không ngờ vừa khi ấy cô gái lại vọt miệng nói:
- Ai nói tôi không ưa?
Câu nói bất ngờ của cô gái khiến cho Điền ngơ ngác. Anh thật sự lúng túng:
- Cô... cảm ơn cô. Cô...
A Tư nói chen vào:
- Nó tên Mèng Lan, mà thôi, kêu Mường Lan cho dễ nhớ! Em gái tôi cũng không biết nói khác lòng mình. Thích thì nói là thích. Cậu kỹ sư thì sao, có thích nó không?
Điền như gà mắc tóc:
- Thì... thì... thích chứ! Nhưng mà…
A Tư vỗ mạnh lên lưng em gái:
- Mày không phải ê chề bởi bị từ chối đấy nhé! Sao không tạ ơn người ta đi!
Mường Lan bất ngờ chụp vào bàn tay của Điền, cúi xuống hôn vào đó một cái, rồi vụt chạy vào nhà! Điền còn ngơ ngác thì A Tư lại nói:
- Thủ tục coi như xong rồi đó. Cậu kỹ sư về lo chuẩn bị chuyển đồ qua đây đi.
Điền lại một phen ngạc nhiên:
- Đồ đạc gì?
- Thì quần áo, đồ đạc của cậu đó. Coi như nhà này chấp nhận cho cậu tới ở rồi đó!
Anh ta sợ Điền không hiểu nên giải thích thêm:
- Nhà người Thượng, nếu muốn quyết định điều gì thì phải hỏi con vợ hay con đàn bà trong nhà, nó nói nó thích là nó đồng ý! Mường Lan thích cậu, tức là nó cho cậu ở nhà này!
- Nhưng mà...
A Tư nghiêm giọng:
- Người Thượng ghét nhất là bị từ chối lòng tốt của mình. Cậu khó mà sống được ở đất này nếu cậu không đáp lại sự mời mọc của nó!
Anh ta lấy ra chén rượu cần, mời Điền cùng uống:
- Cậu phải say với tôi bữa nay, bắt đầu từ ngày mai thì khi tôi muốn mời cậu uống rượu thì phải xin phép.
Tưởng anh ta nói chơi, nhưng Mường Lan nghiêm giọng nói:
- Đúng là như vậy. Con trai người Kinh có sợ mà bỏ chạy không?
Đã bắt đầu hiểu về tính cách của người thiểu số, nên Điền bớt sự ngỡ ngàng, anh bắt đầu dạn dĩ hơn trong nói chuyện và cũng biết đùa:
- Chừng nào sợ thì chạy cũng không muộn!
Cô nàng cười khúc khích:
- Để rồi coi, chạy có thoát không!
Tối hôm đó tuy chưa chính thức chuyển tới ở, nhưng do uống quá nhiều rượu nên Điền phải ngủ lại. Anh ngủ một giấc ngon lành mãi đến quá nửa đêm.
Lúc Điền tỉnh giấc không phải do tự nhiên, mà anh cảm giác như có ai đó nắm chặt bàn chân mình và cào nhẹ vào đó, gây nhột khó chịu, mà nhột là việc mà Điền chịu đựng dở nhất, anh vùng kéo chân ra. Nhưng càng kéo thì như bị giữ chặt hơn. Đến khi Điền vùng ra được thì nghe ai đó cười thành tiếng trong trẻo rồi vụt chạy rất nhanh ra ngoài cửa...
Không suy nghĩ, Điền tức tốc đuổi theo ra ngoài, xuống cầu thang nhà sàn thì bắt gặp bóng người chạy không nhanh phía trước mình.
- Mường Lan, cô này quá quắt thật!
Vừa lẩm bẩm, Điền vừa đuổi theo nhanh hơn. Chỉ vài trăm thước thì bóng người chạy trước chậm lại và cuối cùng nhoài người về phía trước nửa như nằm xuống, nửa như bị ngã! Điền nghĩ là cô nàng muốn đùa với mình nên vừa chạy tới cũng ngã nhoài theo, chống tay, kề mặt mình rất gần mặt nàng ta, vừa hổn hển nói:
- Cô này ác thật, nửa đêm mà bắt người ta chạy gần chết luôn!
Nàng im lặng không nói gì. Điền gọi khẽ:
- Mường Lan!
Gọi đến lần thứ hai vẫn chưa thấy cô nàng động đậy. Điền hốt hoảng gọi to hơn lần nữa:
- Lan!
Và nhanh tay chụp lấy vai nàng kéo nàng nằm quay mặt trở lên, và...
- Trời ơi!
Trước mặt Điền không phải là Mường Lan, mà là một gương mặt xanh như chàm, đôi mắt không có tròng đen và ở miệng chiếc lưỡi lè ra gần cả tấc! Điền choáng váng và cố lắm cũng chỉ bò được vài bước rồi ngất đi...
Sáng hôm sau, cũng chính Mường Lan đi rẫy sớm đã phát hiện ra Điền nằm bất động ngoài rừng. Cô nàng không ngại, đã cúi xuống đỡ anh dậy và hô to lên:
- Cứu người với!
Lúc A Tư và vợ chạy ra thì họ ngơ ngác hỏi:
- Sao vậy?
Mường Lan kể lại và giục anh mình:
- Cho anh ta vào nhà đi, người không còn chút ấm nào!
Điền được đưa lên nhà sàn và người lo lắng nhất là Mường Lan, cô nhìn anh mình như cầu cứu, xem làm cách nào đó giúp Điền tỉnh lại. A Tư bảo:
- Phải giúp nó có lại hơi ấm thôi. Mày làm đi!
Mường Lan sau một chút e ngại, đã bất thần nằm nguyên thân mình lên người của Điền, theo kiểu thân trùm lên thân. Quả nhiên chỉ sau một lúc thì Điền nhẹ cử động, lúc đó Mường Lan vẫn chưa hay, cô vẫn nằm một cách vô tư. Khi tỉnh hẳn, Điền vùng bật dậy thật nhanh, khiến cho cả thân thể Mường Lan bị hất tung sang bên!
- Nó! Nó...
Điền hốt hoảng, không kịp nhìn Lan, anh đã đứng lên tính chạy. A Tư phải níu lại và nói:
- Cậu bị ngất ngoài rừng, chính con Mường Lan đã gặp và cứu cậu về đây!
- Nhưng, chính là nó...
- Là Mường Lan đó, nó phải dùng hơi ấm của mình để cứu cậu đó!
Lúc ấy Mường Lan cũng vừa bật dậy, cô nhăn mặt:
- Làm người ta đau gần chết!
Đã trông thấy mặt Mường Lan rồi, nhưng Điền vẫn còn bị ám ảnh bởi gương mặt hồi đêm, anh bước lùi lại mấy bước, giọng run run:
- Cô... cô không phải là... là con quỷ đó sao?
A Tư cũng ngạc nhiên:
- Cậu nói gì vậy, con quỷ nào?
- Tôi... tôi bị…
Mường Lan chợt lên tiếng:
- Hay là anh bị…
Vừa nói tới đó thì bỗng dưng cô nàng ngã lăn ra, người lạnh ngắt! A Tư hốt hoảng:
- Mèng Lan, mày sao vậy?
Anh và vợ cùng đỡ Lan dậy, nhưng cô nàng mắt nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt...
Sau tai nạn đêm hôm đó xảy ra, tự dưng Điền trở nên ít nói hẳn. Tuy cũng chuyển tới ở nhà A Tư, nhưng giữa anh và cô nàng Mường Lan như có một khoảng cách. Hai người tránh gặp mặt nhau, mà nếu có gặp thì cũng rất ngượng, không nói chuyện và chào hỏi. Điều này không lọt khỏi mắt A Tư. Một hôm, anh này kêu em gái mình ra và hỏi:
- Có chuyện gì vậy?
Lan cũng tránh cả việc trả lời anh mình, bằng cách bỏ chạy đi nơi khác. Suốt cả tháng trời như vậy. Một buổi tối, tình cờ A Tư bắt gặp Lan ngồi khóc một mình trong góc nhà, anh dò hỏi mãi thì cô mới nói được đúng một câu:
- Người ta không cho nói!
Thế thôi. Rồi Lan lủi mất trong bóng tối. Cả ngày hôm sau cũng không thấy cô nàng đâu. Hoảng quá, A Tư phải cầu cứu tới già Phang, được coi như thầy mo trong bản. Ông không cần phải suy nghĩ lâu, đã nói:
- Phải đuổi ngay người lạ đó ra khỏi nhà thì con nhỏ mới trở về được!
A Tư ngạc nhiên:
- Người lạ nào?
- Thì cái người khiến nó không dám về nhà!
A Tư lẩm bẩm:
- Cậu kỹ sư?
Hỏi gì thêm ông già Phang cũng không nói. A Tư lo quá, cuối cùng ông đành phải đem chuyện nói với Điền. Chẳng ngờ chính Điền lại là người chủ động nói trước:
- Chắc là tôi phải dọn trở về công ty ở quá, A Tư.
A Tư ngạc nhiên thật sự:
- Sao cậu kỹ sư có ý đó?
- Nói thật, từ hôm dọn về đây đến giờ tôi thấy như mình đã gây ra một điều gì đó không phải, cho nên cô Mường Lan cứ tránh mặt hoài. Hồi tối qua, tôi đang ngủ thì có người tới đuổi tôi đi, dọa nếu còn ở lại thì họ sẽ không tha mạng!
Hỏi thêm gì Điền cùng không nói, cứ lẳng lặng xách túi ra đi. Vợ A Tư đứng trong nhà nhìn theo và khẽ thở dài, quay vào một góc, nói rất khẽ:
- Đi rồi!
Chẳng biết chị ta nói với ai nhưng sau đó nghe có tiếng khóc nức nở trong ấy...
Hồi lâu sau, khi A Tư từ ngoài vào thì bắt gặp ở góc bếp có chiếc áo thun của Điền, anh cầm lên và nói:
- Cậu ta vội đi nên quên, để lát nữa đi làm tôi đem theo trả cho cậu ta.
Nhưng bà vợ anh đã giằng lại và nói:
- Cái này mà mất thì con Mèng Lan cũng sẽ không về!
Chị ta giành lại và nhét nó lại đúng chỗ lúc nãy. A Tư tái mặt:
- Chẳng lẽ con Lan đã... đã...
Anh ta không dám nói hết câu, mà chị vợ cũng không dám đứng đó nữa, vụt chạy ra ngoài. Tần ngần một lúc, A Tư vừa bước đi vừa than một mình:
- Giàng không còn thương nhà này nữa rồi!
Và anh ta khóc. Chẳng hiểu vì sao!
Điền tìm được nơi ở mới. Không phải khu tập thể trong công ty, mà nhà riêng. Có một người công nhân dư một căn nhà nhỏ cách văn phòng công ty hơn cây số, nằm bên đường nhựa chạy ra lộ cái. Tuy không khang trang lắm, nhưng chỉ cho một người độc thân như Điền ở. Anh dọn về đó có vẻ yên tâm, mặc dù trong lòng như có chút gì đó vương vấn, bồn chồn mỗi lần hướng về phía xóm nhà của A Tư.
Ngay tối đó, để dỗ giấc ngủ. Điền ngồi uống rượu một mình, cửa nẻo đã gài chặt, nên anh chàng ung dung nhâm nhi, nghĩ nếu có lỡ say thì ngã đại ra sàn nhà mà ngủ cũng chẳng sao. Và anh đã như thế thật.
Khi nhậu và lúc say nằm ngủ, Điền vẫn để nguyên bộ quần áo đi làm về. Nhưng sau một giấc ngủ vùi, lúc mở mắt ra với cái đầu còn nặng vì hơi men, bỗng Điền hết sức ngạc nhiên khi nhận ra mình đang nằm trên gối, mền hẳn hoi, và trên người anh cũng đã không còn bộ đồ đi làm nữa, thay vào đó là bộ đồ mặc ở nhà!
Điền bật dậy rất nhanh, nhìn quanh một lượt và còn ngạc nhiên hơn nữa khi thấy một mâm cơm đã dọn sẵn trên sàn. Hơi nóng từ thức ăn còn bốc lên, chứng tỏ cơm mới vừa được dọn!
- Ai trong nhà?
Điền thốt lên và quay đi tìm. Ngôi nhà sàn tuy không lớn lắm, nhưng do ở một mình, lại không có bày biện đồ đạc gì, nên phải một lúc sau Điền mới tìm được khắp. Cửa nẻo vẫn gài chặt bên trong, sàn nhà, vách nhà cũng không có nơi nào trống để một người nào đó có thể lẻn vào. Lại càng không thể có chuyện ai đó nấp bên trong...
Định không ăn mâm cơm dọn sẵn đó, nhưng vừa khi ấy tự dưng bụng Điền lại cồn cào, khó cưỡng nổi, nên cuối cùng anh đành phải ngồi xuống cầm đũa và nói như khấn trước khi ăn:
- Của ai chẳng biết, đã có lòng với người độc thân này thì xin nhận. Ăn vào nếu có vấn đề gì thì cũng không dám trách.
Điền ăn một cách ngon lành. Ăn xong, anh tự dọn vào một góc để đó. Lúc ấy anh mới kịp nhận ra, hầu hết những chén, tô và vật dụng đựng thức ăn không phải là đồ trong nhà mình! Mà tất cả những thứ đó nó trùng khớp đến lạ lùng những món phải đi mua sắm mà Điền đã liệt kê vào một tờ giấy khi dọn về nhà mới, chưa kịp đi mua sắm. Định ngày nghỉ sẽ làm việc này...
Ăn no thì trong bụng Điền đã hết cồn cào. Điền nhìn đồng hồ tay thì thấy mới có hơn một giờ sáng, nên chẳng còn cách nào hơn là phải nằm lại chờ sáng. Tuy nói là chờ sáng nhưng có lẽ do cái bụng dễ chịu, nên vừa nằm một chút là Điền lại ngủ say.
Đến khi gà gáy vang thì Điền mở mắt ra, và một lần nữa quá đỗi ngạc nhiên khi cả mâm chén bát đêm qua đã được ai đó rửa sạch!
- Ai trong nhà tôi vậy? Nếu không ra thì từ bây giờ tôi phải bỏ đi, không dám ở nữa!
Mặc cho Điền nói, chung quanh anh vẫn hoàn toàn im lặng. Sáng hôm đó khi đi làm Điền không nói lại với ai chuyện lạ ở nhà mình. Khi ra chỗ vạt rừng ươm cây giống, anh gặp A Tư ở đó, anh ta có vẻ ngại khi phải nói chuyện với Điền:
- Anh ở chỗ mới có tốt không?
Điền vui vẻ:
- Cũng được, nhưng không được như ở nhà anh. Cô Mường Lan có khỏe không?
Câu hỏi vô tình chạm vào nỗi ưu tư của A Tư. Anh ta thở dài:
- Nó bỏ nhà đi từ bữa đó không thấy về. Chẳng biết là đi đâu nữa...
Điền lo lắng:
- Sao anh không nhờ người đi tìm lỡ có chuyện gì thì sao?
A Tư lắc đầu:
- Chắc là không sao.
Điền tự trách mình:
- Trong việc này có trách nhiệm của tôi nữa. Nếu tôi không dọn tới ở thì đâu có chuyện này...
A Tư trầm ngâm một lúc rồi bảo:
- Cái số của nó như vậy. Nhưng chắc là rồi cũng không có điều gì. Nó sẽ về thôi.
- Nhưng anh và cô ấy đâu có bà con gì ở gần đây? Vậy cô ấy đi đâu, ở đâu?
A Tư không tiện nói ra điều đang nghĩ trong lòng, anh ta chỉ lửng lơ:
- Con gái xứ này khó mà chết vì hùm beo trong rừng lắm. Giàng không hại nó mà.
Điền quả quyết:
- Ngày mai chủ nhật, tôi sẽ cùng với anh và một số anh em khác tổ chức đi tìm cô ấy. Tôi phải tìm cho được Mường Lan về mới yên tâm. Mai mình đi nhé!
Lời động viên của Điền không khiến cho A Tư phấn khởi lắm, mặc dù anh ta cũng gật đầu:
- Được rồi, mai tôi sẽ báo cho cậu biết.
Nhưng chuyện đi tìm Mường Lan vào ngày mai đã không thực hiện. Bởi ngay chiều hôm đó cô đã trở về. Nhìn thấy Mường Lan với nét mặt tươi tỉnh, không một chút mệt nhọc sau mấy ngày vắng nhà, vợ chồng A Tư muốn hỏi nhưng còn ngại, thì chính cô nàng đã tự nói:
- Tôi về để lấy đồ đạc ra nhà chồng ở!
Nói xong cô đi soạn một số đồ đạc riêng, rồi rút vào góc trong ngôi nhà ngồi một mình rất lâu. Theo phong tục của bộ tộc thì khi không còn cha mẹ, thì người vợ của anh ruột, tức bà chị dâu của Mường Lan sẽ đứng ra lo liệu chuyện hôn nhân của cô em gái. Nhưng ở đây, khi nghe Mường Lan tuyên bố như vậy thì chẳng nghe A Tư có ý kiến gì. Một lúc sau chị mới kéo tay chồng vào một nơi riêng, nói nhỏ:
- Làm sao mình làm được việc đó, khi cô em này đâu có chịu nghe mình. Cô ấy có người bảo cho nghe rồi, cứ để cho người ta lo.
Chị ta nói như vậy rồi lẳng lặng bỏ đi ra ngoài. A Tư hiểu phần nào nên cũng im lặng, để mặc cho Lan. Tối hôm đó bà vợ anh bảo:
- Con Mèng Lan đã tìm được chỗ để “về nhà chồng” rồi đó!
Sáng ra mới biết, nơi “về nhà chồng” của Mường Lan là cái góc ngôi nhà ông già của A Tư cất này xưa, dùng làm nơi chứa vật dụng lưu trữ làm mùa. Lan đóng kín cửa cầu thang không cho ai ra vào. A Tư muốn hỏi chuyện với em cũng phải đứng dưới đất nói vọng lên:
- Mày làm gì cũng phải nhớ ông cha vẫn còn hồn phách ở đây, là máu mủ ruột rà, tao không bỏ mày được nghe chưa!
Đối với người thiểu số thì những câu nói như vậy là đầy tình nghĩa, đầy trách nhiệm với nhau, nên chỉ cần nói bấy nhiêu đó rồi A Tư bỏ đi vào nhà. Anh dặn vợ hằng ngày phải cơm nước đầy đủ mang ra cho cô em và không được hỏi han bất cứ chuyện gì, nếu Mường Lan không hỏi.
Nhưng chỉ được hai ngày, bỗng vợ A Tư chạy đi tìm chồng và báo tin:
- Tôi lo cơm nước đầy đủ cho cô ấy, mình ăn gì thì cho cô ấy ăn như vậy, nhưng hai ngày rồi, bữa nào cô Mèng cũng bảo tôi dọn mâm giống như nấu cho người Kinh ăn, sao cô ấy lại quen ăn mấy thứ đó?
A Tư trầm ngâm một lúc rồi đáp:
- Thì ráng mà chiều nó đi. Bà đóng vai mẹ có con về nhà chồng mà!
Chị Phèng Liu vốn là người tốt bụng, nên tuy có cực vì yêu cầu của cô em chồng, nhưng cũng ráng lo. Chị ta không quen nấu món ăn của người Kinh, cũng phải cố ra chỗ bếp công ty học cách nấu của mấy người đầu bếp ngoài đó.
Lạ một điều là mỗi ngày Mường Lan chỉ ăn một lần vào buổi chiều tối. Buổi sáng và trưa thì không hề thấy cô nàng đâu. Ra nương rẫy thì thấy mọi việc đồng áng vẫn được Mường Lan làm chu đáo, chẳng biết từ lúc nào, bởi lúc A Tư và vợ ra dòm ngó thì chẳng hề gặp Mường Lan đâu.
Chị Liu nói với chồng:
- Cô ấy có chồng thật rồi. Vậy mình cũng phải tính việc xây nhà riêng cho cô ấy chứ.
A Tư cũng đồng tình:
- Phần đất phía bên kia bụi tre ngày trước tính xây cái nhà hội dòng tộc, nay mình xây cho nó cái nhà với số vật liệu dự trữ đó. Nhưng hỏi nó xem, nó có chịu không đã!
Chị Liu bảo:
- Cô ấy đời nào chịu nhận, mình cứ việc xây rồi giao sau. Nhưng nếu có ai hỏi việc này thì làm sao trả lời?
A Tư bảo:
- Tôi sẽ bảo mọi người là con Mèng Lan có lời hứa với con trai xứ khác, ở nhà riêng để chờ cưới. Phong tục người mình có điều đó mà.
- Nhưng sau này biết lấy ai để trám vào chỗ con trai xứ khác đây?
- Chuyện đó thì để rồi tính. Bộ bà không thấy bây giờ mình cũng đâu có giải quyết được gì trong chuyện của nó.
Họ quyết định như vậy và âm thầm đi kêu người chuẩn bị cất nhà. Tuy nhiên đến bữa cơm chiều, khi chị Liu mang cơm ra thì nghe Mường Lan nói vọng từ trong nhà ra:
- Xây nhà sao không xây kiểu người Kinh?
Chị Liu giật mình:
- Cô biết chuyện rồi sao?
Lan nói rõ ý hơn:
- Có xây thì xây nhà theo kiểu người Kinh, đừng xây nhà sàn người ta không chịu!
- Người ta là ai? Mà làm sao mình xây nhà theo kiểu người Kinh ở giữa xóm thượng được.
- Xây cho người Kinh ở thì phải theo kiểu của họ chứ.
Chị Liu vô cùng ngạc nhiên:
- Cô sẽ lấy chồng người Kinh?
Lan gắt lên:
- Đã lấy rồi chứ còn sẽ gì nữa!
- Kìa, cô Mèng…
Mường Lan ra nhận mâm cơm rồi đóng sầm cửa lại, giận dỗi:
- Không thì thôi, đừng hỏi nhiều quá!
Chị Liu chạy nhanh về kể cho chồng nghe, A Tư giật mình nói:
- Lấy chồng người Kinh? Vậy sao bữa trước nó một hai đuổi cậu kỹ sư đi? Cậu cũng là người Kinh…
Ngừng một lúc, A Tư nói:
- Biết vậy lúc đó tôi nói thẳng ra ý mình, để cậu ấy đừng ra đi.
- Ý gì?
- Thì tôi có ý muốn ghép đôi cho cậu ấy với Mèng Lan nhà mình. Con Mèng Lan đầu tiên cũng thích cậu ấy lắm, chính nó đã xúi tôi mời cậu ấy về nhà đó chứ. Chẳng hiểu sao chỉ được một lúc thì lại xảy ra chuyện ghét nhau đến không muốn nhìn nhau như hai đứa nó?
Chị Liu bảo:
- Tôi thì lại nghĩ khác. Trong chuyện này có những điều như tôi nói với ông đó. Cứ để coi…
A Tư đã được vợ cảnh báo một số điều, nhưng anh còn bán tín bán nghi, nên cho đến giờ này anh vẫn chưa nói ra. Kể cả việc riêng với kỹ sư Điền, đáng lý ngay hôm Điền dọn đi, anh cần phải nói một số việc cho Điền biết, nhưng chẳng hiểu sao anh lại thôi.
Buổi sáng chủ nhật đẹp trời, Điền vừa tính thay đồ qua thăm nhà A Tư thì có tiếng xe hơi ngừng trước nhà. Do ở ngay trục đường lớn, nên xe cộ chạy qua khá nhiều nhưng ngừng ngay trước cổng thì ít khi.
Nhìn ra thấy chiếc xe hơi nhà khá sang trọng thì Điền lại càng ngạc nhiên hơn. Anh nghĩ chắc là xe nào đó ngừng đổ nước hay nghỉ xả hơi gì đó nên cũng không bước ra. Tuy nhiên, vừa lúc đó có tiếng gọi đúng tên anh:
- Điền ơi, anh có nhà không?
Tiếng gọi thật quen, Điền phải bật dậy chạy ra ngay và anh kinh ngạc kêu lên:
- Phương Dung!
Cô gái vừa bước xuống xe và đang vẫy tay từ dưới đường khiến cho Điền vừa mừng vừa sửng sốt. Quả thật Điền không ngờ anh có người khách này tới đây.
- Không mời người ta vào nhà hả?
Mãi sững sờ nên Điền bị giật mình, lúng túng:
- Vào... vào nhà đi. Trời ơi, sao em lại lên được đây?
Phương Dung nheo mắt:
- Vậy mới tài chứ!
Cô quay lại dặn ai đó trên xe:
- Chú cứ đi đi mai hay mốt ghé lại đón cháu cũng được!
Người trên xe có lẽ là tài xế riêng của gia đình Phương Dung, sau một tiếng dạ, anh ta cho xe vọt đi ngay. Phương Dung tay xách va li, bước nhanh vào nhà, vừa đến gần Điền, bất ngờ cô nàng bỏ va li xuống, ôm chầm lấy anh hôn tới tấp vào mặt mũi, khiến Điền phải cuống lên:
- Em... em đừng làm vậy. Người ta...
Nhưng Dung hầu như không còn nghe gì nữa, cô nàng cứ ghì lấy và hôn như sợ bỏ ra sẽ mất!
Đến khi Dung vừa buông ra thì Điền thở không muốn kịp. Anh trố mắt nhìn cô nàng, tưởng chừng như Dung muốn hôn để trả thù anh. Mà quả vậy, Phương Dung nói thẳng ra ý mình:
- Cho chừa cái tội bỏ người ta đi biệt cả mấy tháng nay!
Sợ những người qua đường nhìn thấy, Điền kéo nàng ta vào nhà, đóng cửa lại rồi mới nói:
- Ai chỉ em biết anh ở trên này?
- Cũng may là có người còn tốt bụng chỉ cho em biết nơi anh trốn, chứ nếu không thì em có hóa đá chưa chắc gì gặp lại anh!
Bị trách móc một hơi nhưng Điền vẫn bình tĩnh:
- Làm sao em biết nhà?
- Em tới công ty hỏi thì người ta chỉ. Họ còn nói, không biết anh đã dọn về đây hẳn chưa, hay còn ở trong buôn người Thượng. Bộ anh muốn lấy vợ Thượng sao vào tận buôn của họ mà ở?
Điền biết tính của cô nàng, nên vội chuyển hướng:
- Sao em không giữ tài xế lại, để lát nữa anh ta chở em ra thị trấn tìm khách sạn, chứ ở đây làm sao anh có giường nệm cho cô tiểu thư nhà họ Đoàn ở đây.
Phương Dung nổi máu ngang ngạnh lên liền:
- Bây giờ đuổi phải không? Mà càng đuổi thì con này lại càng bám chặt luôn. Tính ở chơi mai mốt về, mà đã nói vậy thì đằng này ở luôn, ở thật chứ không ở chơi nữa!
Định cúi xuống lấy va li để đem vào giường ngủ của Điền như một cách khẳng định quyết tâm của mình, nhưng bỗng cô nàng kêu lên:
- Ủa, cái va li mới đây mà?
Chẳng còn chiếc va li mà rõ ràng Phương Dung mới đặt xuống. Chính Điền cũng ngạc nhiên:
- Ủa, đâu có ai lấy. Anh cũng mới thấy nó đây mà...
Cả hai tìm một lượt trong nhà, rồi mở cửa ra ngoài, cũng chẳng thấy. Dung phải gắt lên:
- Cái xứ gì kỳ cục quá, đồ đạc để trong nhà cũng mất! Làm sao bây giờ hả Điền?
Điền cũng bối rối, anh đành phải nói:
- Trong va li nếu chỉ có quần áo không thì mình có thể ra chợ mua lại một ít. Chỉ sợ có thứ gì quý thì khó...
Phương Dung ấm ức, cứ tắc lưỡi, bặm môi mãi. Cô nàng hỏi lại lần nữa:
- Ở đây bộ kẻ cắp nhiều lắm sao? Vậy anh ở mà làm gì. Đúng là...
Điền trừng mắt:
- Em đừng hồ đồ. Nơi đây nhà xa nhau cả trăm thước không có người tham, cho dù em để tiền ngay trước mặt cũng không lấy, đừng nói là...
Vừa lúc đó chợt có người gọi ngoài cửa:
- Cậu kỹ sư ơi, cái này phải của nhà cậu không, nó bay tung tóe ở ngoài đường nè.
Điền chạy ra thấy chiếc va li bị mở tung, quần áo đổ ra ngoài, vài cái bay theo gió, nên quay lại hỏi:
- Phải cái va li của em không?
Phương Dung nhìn ra và mừng rỡ:
- Đúng là của em! Mà sao lại...
Điền sợ cô nàng bước ra sẽ gây chú ý cho mọi người, nên chạy nhanh ra vừa dặn lại:
- Để anh ra lấy cho!
Anh ra ngoài cổng và nhìn thấy chiếc va li bị mở ra có lẽ do bị rơi chứ không phải do bị mở và lục lạo, bởi hầu như mọi vật còn đầy đủ. Gom tạm lại ôm vào nhà, vừa đặt xuống sàn anh đã bảo:
- Em kiểm lại coi có mất thứ gì không? Nếu là trộm thì người ta đã không kêu cho mình lấy lại!
Phương Dung hơi ngượng, nhưng vẫn kiểm tra lại thật cẩn thận. Sau cùng cô nàng xác nhận:
- Còn đủ cả. Mà lại có dư cái này!
Cầm sợi dây chuyền đan bằng sợi cỏ nhuộm màu như vải thổ cẩm của người dân tộc đưa lên, Phương Dung phải buột miệng khen:
- Cái này ở đâu đẹp quá! Mà sao nó lại lẫn trong đồ đạc của em. Chắc là...
Tuy xác định không phải là của mình, nhưng bởi thấy nó khá xinh, nên cứ cầm ngắm mãi. Trong lúc Điền lại buột miệng:
- Mường Lan!
Dung hỏi lại:
- Cái gì là Mường Lan? Mường Lan là tên vật này hả?
Túng thế, Điền đành gật đại:
- Đúng rồi.
Anh đã nhận ra, chiếc vòng cỏ đó là của Mường Lan hay đeo trên cổ. Cô nàng khéo tay nên cứ chiếc này cũ thì lại tự tay đan, bện chiếc khác để đeo. Nó là của riêng, không lẫn với ai được, nên vừa nhìn thấy là Điền nhận ra ngay.
Phương Dung tỏ ra thích thú, cô thuận tay đưa lên cổ và đeo nhanh vào, khoe với Điền:
- Anh thấy em đeo có đẹp hơn mấy cô người Thượng không nào?
Điền hốt hoảng:
- Sao em làm vậy? Đừng...
Nhưng không còn kịp nữa. Tự dưng tim của Điền đập nhanh, anh có cảm giác như mình vừa phạm phải một sai lầm gì đó...
- Sao mặt mày anh xanh lè vậy, Điền? Bệnh hả?
Điền xua tay:
- Không, anh chỉ hơi chóng mặt...
Tuy nói vậy, nhưng khi đến ngả lưng xuống giường thì Điền không dậy được nữa. Người anh nóng bừng khiến cho Phương Dung phải hoảng lên:
- Trời ơi, làm sao bây giờ, anh nóng quá chừng Điền ơi!
Lạ nước lạ cái, lại gặp trường hợp khó xử này nên Dung quýnh lên, sợ thất thần. Cô chưa biết phải làm sao thì chợt có mấy người hàng xóm chẳng biết do ai báo tin, đã kéo sang và lo lắng nói:
- Cậu kỹ sư có cần chở đi bệnh viện không?
Tuy hỏi vậy, chứ họ đã gọi sẵn chiếc xe cấp cứu của nông trường, người ta tức tốc đưa Điền ra chợ cách đó gần mười cây sô. Phương Dung đòi theo nhưng họ không cho, còn bảo:
- Người bệnh mà có con gái bên cạnh không tốt!
Họ chở Điền đi khá lâu rồi mà Dung vẫn chưa hoàn hồn. Trước nhất là lo cho bệnh của Điền, thứ hai là chẳng biết cô ta đêm nay phải đối phó làm sao trong ngôi nhà vắng và lạ này.
Nói là nhà của Điền, nhưng khi không có anh ở nhà, lại ở một xóm hết sức lạ lẫm này, liệu Dung có chịu đựng nổi sự sợ hãi đêm nay không?
Muốn đi tắm nhưng lưỡng lự mãi, cuối cùng Dung mới mò được vào cái gọi là phòng tắm. Cô ngao ngán tự hỏi:
- Sao sống như thế này mà Điền chịu được?
Nhớ lại khi hay tin Điền đột nhiên biến mất khi sắp tới ngày làm lễ đính hôn giữa hai người, Dung lúc nãy muốn trách móc, nói ra hết cơn bực dọc giận dỗi của mình, nhưng chưa kịp nói thì Điền đã bị như thế rồi. Giữa Điền và cô đã xảy ra vài hiểu lầm, thậm chí là bất đồng quan điểm trong việc tiến tới hôn nhân, nhưng không thể vì thế mà anh ta lại bỏ hết ở thành phố, lên xứ khỉ ho cò gáy này để sống cuộc sống quá kham khổ như thế này.
Đành rằng cô là con nhà giàu, còn Điền có gia cảnh không bằng nàng, nhưng là một kỹ sư mới ra trường, vừa tài năng vừa đẹp trai lại có một tương lai xán lạn khi có được sự trợ giúp của gia đình bên vợ như gia đình Đoàn đại gia lừng lẫy trong thương trường như cha mẹ cô, anh ta sẽ phất lên mấy hồi, cũng lên xe xuống ngựa, cũng là bậc vương tôn công tử, chứ đâu phải là hạng khố rách áo ôm...
Mải lo suy nghĩ và tức tối, Phương Dung quên cả giữ ý, cứ cởi phăng quần áo ra, ngồi bên lu nước tắm mà không có gì che chắn. Tuy nhiên cửa nẻo đã khóa chặt, lại ở nhà chắc chắn là chỉ có một mình, nên cô nàng yên tâm tắm táp cho đã. Phải đến hơn mười lăm phút sau thì cô nàng mới thôi tắm, đồng thời nhìn lại thấy lu nước đầy lúc nãy chỉ còn lại phần cặn bên dưới. Cô ta đã tắm hết cả phần của Điền trong hai ngày liền. Cô ta đâu có biết là vùng này nước quý như vàng!
Sau khi lau khô thân thể, Dung định lấy quần áo ra mặc thì một lần nữa phát hoảng lên, bởi cái va li đó lại biến mất! Tất cả quần áo ở trong đó, kể cả bộ quần áo dơ vừa thay ra cũng không còn.
Cô nàng cuống cuồng, lấy chiếc mền quấn người lại và người thì run rẩy, hai hàm răng cứ va vào nhau liên hồi. Chuyện gì đang xảy ra ở đây? Một câu hỏi mà dẫu có biết cô ta cũng không dám trả lời.
Ở thế cùng, Phương Dung đành phải tới chỗ để quần áo của Điền, chọn đại một bộ mặc trong nhà mặc vào. Nó rộng thùng thình, nhưng như thế còn hơn là tênh hênh.
Đến lúc này, cô ta mới cảm thấy đói bụng. Suốt từ khi rời khỏi nhà, do ăn sáng muộn nên buổi trưa cô không ăn dọc đường, tới đây rồi hết chuyện này tới chuyện khác, trong bụng của Dung hầu như trống rỗng. Định tới chỗ đặt bếp xem có gì có thể ăn được, thì chợt cô trông thấy một mâm cơm đã dọn sẵn, tuy có hơi nguội nhưng chưa có ai ăn.
- Có lẽ Điền dọn mà chưa kịp ăn đây!
Phương Dung nghĩ vậy nên ngồi xuống ăn ngon lành. Ăn gần xong, cô mới để ý và buột miệng khen:
- Anh chàng có một mình mà cũng nấu đủ món, giỏi thật đó!
Ăn đến no, không nghĩ tới việc phải chừa cho Điền. Xong xuôi cô nàng ngã lưng ra giường như nhà của mình. Cơn buồn ngủ kéo đến thật nhanh khiến cho cô ta không còn kịp nghĩ về chiếc va li bị mất một cách bí hiểm!
Đến quá nửa đêm...
Khi giật mình tỉnh giấc thì cái cảm giác đau râm ran trong bụng bắt đầu tăng lên. Một lúc sau thì cơn đau quặn đến chịu không nổi, Dung phải nhảy xuống giường định tìm chỗ đại tiện. Nhưng tìm ở đâu nếu không ở bên ngoài, ở vùng rừng núi này mọi người vẫn đi vệ sinh ngoài đồng, bụi, nhưng làm sao cô nàng dám làm chuyện đó?
Cơn đau càng lúc càng dữ dội, đến nỗi Dung đã ngã nhoài trên sàn nhà, và để mặc cho những gì bụng dạ cô không chịu nổi cứ tống ra. Nó lại tống ra bằng miệng. Cô nàng nôn ói một trận không thể tưởng nổi! Phải đến hơn nửa giờ sau thì cơn đau mới dịu lại và cơn tháo dạ cũng chấm dứt.
Lúc này nhìn lại Dung mới bàng hoàng, không tin vào mắt mình nữa. Bởi những gì cô ta nôn ra vừa hôi thối lại vừa kỳ dị! Nó gồm toàn những con vật gớm ghiếc, toàn những con ếch, nhái, ễnh ương, sâu bọ, chuột con, thậm chí có cả vài con rắn con bị cắn đứt nhiều khúc!
- Trời ơi!
Cô ta kêu lên vừa bật dậy, và cứ thế bò lê lết về phía bếp. Vô tình cô nàng bò ngang qua chỗ mâm cơm lúc nãy và một lần nữa cô thét lên kinh hãi:
- Bớ!...
Cô nàng nhìn thấy trong mâm cơm còn lại những con vật giống như vậy! Có nghĩa là lúc nãy cô nàng đã ăn cơm bằng những thứ gớm ghiếc này chứ không phải là món ngon vật lạ!
- Trời ơi, bớ ngưới ta!
Vừa kêu xong thì cô ta ngã chúi về phía trước, người bất động. Vài người hàng xóm nghe la đã chạy tới dộng cửa gọi lớn:
- Cậu kỹ sư ơi!
Có người lại nói:
- Cậu ấy được chở đi nhà thương lúc chiều, đã về đâu!
- Vậy sao có tiếng kêu cứu trong đó?
Bàn nhau chán, có người đánh bạo tông cửa vào. Nhưng khi nhìn thấy cảnh tượng bên trong thì họ không khỏi bàng hoàng. Tất cả đều phải bịt mũi mới không phải ngửi thứ mùi hôi thối lạ lùng. Rồi không ai bảo ai, họ cũng lần lượt rút lui, để mặc cho cô ả nằm đó với ễnh ương, cóc nhái...
Phần Điền thì khi ra tới bệnh viện, anh đã tỉnh lại như chưa từng có bệnh!
Chính anh cũng ngạc nhiên tự hỏi:
- Mình sao vậy?
Đến nửa đêm hôm đó thì Điền đã hiểu vì sao anh lại ngã bệnh đột ngột như thế. Bởi lúc nằm mơ màng ngủ thì anh nghe có người nói bên tai:
- Hãy nằm ngủ cho ngon, đến khi nào cô ả chán bỏ về thì hãy về nhà. Anh đâu có ưa gì cô ả phải không?
Giọng nói nghe quen lắm, nhưng khi mở mắt ra thì chẳng thấy ai. Điền giả vờ nhắm mắt lại ngủ, cố chờ xem cô ta có trở lại hay không. Nhưng hình như cô ta biết nên cho đến lúc ngủ lại thật Điền không hề nghe gì nữa!
Sáng sớm hôm sau khi vừa mở mắt ra, Điền lại một phen giật mình khi nhìn thấy chiếc va li của Phương Dung đang nằm ở cạnh giường!
Điền nhớ lại cảnh Phương Dung phải khổ sở đến cỡ nào khi không tìm thấy va li quần áo này, cũng như cảnh cô nàng phải một mình ở lại trong ngôi nhà xa lạ đó. Dù không còn thương cô gái đỏng đảnh này nữa, nhưng Điền cũng thấy tội nghiệp và lo lắng cho nàng ta. Anh có ý muốn xin về thì cô y tá trực bác bỏ ngay:
- Giờ này mới sáng sớm, bác sĩ khám bệnh chưa vào, làm sao cho anh về được. Việc gì cũng phải đợi đến mười giờ. Nhưng lúc tối qua có người dặn lại chúng tôi là phải để cậu nghỉ trong này vài hôm, đợi ổn định hẳn rồi mới được về!
Điền ngạc nhiên:
- Ai dặn?
- Một cô gái trẻ, nói là vợ cậu!
Điền ngồi bật dậy kêu lên:
- Ai là vợ tôi? Làm gì có…
Cô y tá cười ý nhị:
- Mấy cậu trai trẻ có vợ đẹp lại thường giấu giếm. Chẳng bù với phụ nữ, như cô vợ cậu, dù trẻ nhưng vẫn một điều chồng tôi hai điều chồng tôi ngọt xớt!
- Tôi đã nói rồi mà, người đó…
Cô y tá vẫn trêu:
- Vợ hay người yêu sắp cưới cũng như nhau thôi. Trông cô ấy đẹp và dễ thương lắm, lại ăn nói thật thà, dễ thương nữa!
Chị ta móc trong túi ra một sợi dây cỏ nhiều màu đưa cho Điền xem:
- Vợ cậu dễ thương lắm, mới gặp tôi lần đầu mà đã tặng cho món quà thật đẹp mấy chị em trong bệnh viện ai cũng thích, cứ đòi đợi cô ấy trở lại để xin thêm!
Điền giật mình:
- Người thăm tôi là cô gái cho chị cái này?
Chị y tá ngạc nhiên:
- Bộ ngoài cô này cậu còn có nhiều cô khác nữa sao? Thật, sợ mấy ông đàn ông luôn, đủ thứ cô!
Điền xua tay:
- Chị hiểu lầm rồi. Tôi muốn hỏi có đúng là cô ấy vào đây không? Đó là cô gái người dân tộc, da ngăm đen nhưng duyên dáng...
- Đúng, cô ấy còn xưng tên mình là Mường Lan nữa!
Nhìn sắc mặt rạng ngời lên của Điền, cô y tá cũng vui lây:
- Có được cô vợ như vậy còn hơn lấy tiên rồi, còn đòi gì nữa!
Chị ta nói xong bỏ đi ra ngoài rồi mà Điền vẫn còn ngẩn ngơ. Anh lầm bầm như trong cơn mơ:
- Mường Lan, cô ấy...
Điền không nghĩ là Lan vào tận đây thăm mình và còn xưng là vợ nữa. Anh quay sang người bệnh nằm bên cạnh dặn:
- Nếu tôi có ngủ quên mà cô gái nào đến kiếm, anh làm ơn kêu tôi dậy gấp giùm!
Mấy người chung quanh che miệng cười. Điền ngạc nhiên:
- Sao vậy?
Anh bệnh nhân nằm cạnh nói:
- Anh dặn có cô nào nữa, có nghĩa là sẽ còn nhiều cô khiến tụi tôi phát ớn lạnh! Chỉ cái cô mà y tá vừa nói thôi, cậu cũng đủ mệt rồi, nói chi tới mấy cô nữa! Cậu có biết cô gái ấy dặn tụi tôi sao không? Cô ấy bảo, nếu thấy cô nào khác vào đây thì tụi tôi phải bước ra khỏi phòng này, nếu không muốn mang họa lây!
Một người nữa lại thêm:
- Cô gái đó đẹp mà coi bộ ghen lắm à nghen! Nhưng xem ra cô ấy thương cậu dữ lắm, nhà không biết ở đâu mà từ hôm qua tới nay thấy đến cả chục lần! Hình như cô ấy ở đâu đó bên ngoài hành lang bệnh viện này chứ không về nhà.
Điền nghe vậy vụt bước xuống giường chạy bay ra ngoài, đi dọc hành lang tìm. Cũng có vài chục người nằm ngủ theo hành lang nhưng không có cô nàng...
Đến khi Điền trở lại phòng thì nghe anh chàng lúc nãy nói:
- Cô ấy mới vừa vào lấy cái va li đi rồi!
Điền không còn đủ sức để chạy theo nữa. Anh đứng lặng đó mà không biết nên buồn hay vui...
Nhưng sự háo hức trong lòng đã nói rằng anh chấp nhận một người vợ như vậy!
Nôn nao đợi, nhưng cũng phải hơn 10 giờ Điền mới được bác sĩ cho xuất viện. Vừa nhận được giấy ra viện, Điền đã không kịp cảm ơn đã chạy bay ra ngoài.
Còn đang hỏi thăm xe về nông trường thì chợt anh nghe tiếng còi xe sau lưng. Quay lại. Điền giật mình khi thấy đó là chiếc xe chở Phương Dung tới nhà bữa trước!
Còn đang khó chịu vì nghĩ cô nàng đỏng đảnh lại tới tận bệnh viện thăm, thì người tài xế nhoài người ra gọi:
- Cậu có về không tôi chở về luôn?
Nhìn lên xe thấy chỉ có tài xế. Điền ngạc nhiên:
- Cô Dung đâu?
- Dạ, em đi qua Đơn Dương từ bữa đó, nay mới quay về đón cô ấy. Vừa rồi khi chạy tới gần đây thì có một cô gái đón xe lại, và cho biết cậu đang nằm viện ở đây, bảo tôi ghé đón, cô ấy còn cho cả số phòng cậu nằm nữa.
Điền ngơ ngác:
- Rồi cô ấy đâu?
Tài xế cười:
- Cô ta xuống ở đầu con dốc, nói là đi có việc.
- Cô ta có nói tên là gì không?
- Dạ không. Chỉ nói gửi trả cô Dung cái va li.
Nhìn thấy chiếc va li trên xe, Điền im lặng một lúc, hình như anh hiểu anh phải làm gì. Anh tài xế phải hỏi lại:
- Cậu có về không?
Điền đáp nhanh:
- Cảm ơn anh, anh về nói cô Phương Dung là bệnh tôi cần phải chuyển về Sài Gòn điều trị đi xe của bệnh viện, nên không cùng đi với cô ấy được.
Nói xong, Điền bước nhanh sang hướng khác. Vừa đi được vài chục bước, anh đã nghe có người gọi:
- Cậu kỹ sư!
A Tư đang đứng bên đường với chiếc xe thồ cọc cạch, mắt rạng ngời, vẫy tay cho Điền:
- Về nhà đi thôi!
Điền tiến tới bên anh đưa chiếc giỏ quần áo cho anh ta, chẳng hỏi gì thêm, leo lên xe cho anh ta chở. Chạy được một đoạn A Tư mới nói, giọng phấn khởi:
- Về nhà tôi luôn nghe. Tôi đã cất xong cho cậu cái nhà kiểu người Kinh, đẹp lắm, và cũng có người đang chờ!
Điền ngạc nhiên:
- Sao lại cất nhà cho tôi?
- Thì về đi sẽ biết!
Đường xa đến hơn chục cây số, vậy mà anh ta đạp xe đi vù vù, chẳng có vẻ gì là mệt. Và lạ hơn nữa là chỉ chưa đầy mười lăm phút sau là đã về đến xóm nhà.
Quá đỗi ngạc nhiên trước ngôi nhà mới cất theo lối người Kinh nằm lọt giữa khu nhà sàn kiểu người Thượng. Điền không tin vào mắt mình nên cứ nhìn tới nhìn lui và hỏi lại:
- Anh cất thật đây sao?
- Còn thật với giả gì nữa. Hãy bước vào khai trương nhà mình đi!
Điền còn đang rụt rè thì đã thấy bóng của Mường Lan xuất hiện ngay ngạch cửa với nụ cười thật tươi:
- Người ta thì rể đi đón dâu, còn đây dâu chờ đón rể. Vậy thì vào đi.
Ngẩn ngơ trước sắc đẹp rạng rỡ của nàng ta, Điền thầm kêu lên:
- Còn đẹp hơn hôm trước nữa! Nhưng sao…
Lúc anh bước qua ngang chỗ nàng đứng thì nghe nàng hỏi thật nhỏ:
- Ngạc nhiên là sao mới ở ngoài bệnh viện mà bây giờ đã ở nhà rồi, phải không?
Điền nhìn sững cô nàng, chưa kịp hỏi lại thì nàng đã vụt biến mất vào bên trong mang theo nụ cười mê đắm!
Nhìn thấy trong nhà bày biện đủ mọi thứ giống như cách của người Thượng, mà món nào cũng mới toanh, Điền chưa kịp hỏi thì đã nghe nàng nói vọng từ trong ra:
- Của bạn bè anh gửi tặng đó. Bộ ghế tiếp khách này của anh kỹ sư Thông ở Biên Hòa, còn cái bàn và tủ áo của anh giám đốc nông trường. Chỉ có giường, màn, chiếc gối là của em thôi!
Điền không thể nào tin:
- Sao mấy người đó biết? Sao họ lại tặng?
- Quà cưới mà!...
A Tư giục:
- Vào nhà nhanh lên đi, để còn chuẩn bị đón khách! Trưa nay họ tới đó!
Điền trố mắt:
- Ai tới?
- Thì bạn bè cậu. Và còn có... cha mẹ cậu nữa!
Điền chẳng còn kiềm chế được nữa, anh kêu lên:
- Sao cha mẹ tôi lại tới đây. Họ... họ...
Mường Lan nói vọng từ trong ra:
- Đám cưới con trai mà cha mẹ không có mặt sao được!
Đến lúc này thì Điền chỉ còn biết ngẩn ngơ. Anh lóng ngóng trong ngôi nhà được gọi là nhà cưới của mình đến tội nghiệp! Lát sau, A Tư kéo anh ra một góc và nói:
- Nếu không giải thích thì chắc là cậu không hiểu. Mấy ngày qua một mình con Mèng Lan đã làm hết mọi chuyện, chỉ vì nó... thương cậu. Mặc dù...
Anh ta ngập ngừng, phải một lúc sau mới tiếp lời:
- Mặc dù nó đang mang thân phận là một… con ma xó!
Điền sửng sốt đến độ tim muốn ngừng đập luôn:
- Anh... anh nói...?
A Tư vẫn chậm rãi nói:
- Nó bị hồn một con ma xó nhập, cho nên có lúc nó muốn đuổi cậu đi. Chứ thật ra trong lòng nó thương cậu lắm, nó muốn lấy cậu làm chồng...
Điền chen ngang hỏi:
- Lúc đầu tôi vẫn thấy cô ấy bình thường mà?
A Tư gật đầu:
- Nó bình thường cho đến cái hôm mà cậu chạy đuổi theo một người con gái nào đó ra ngoài rừng rồi bị ngất ở ngoài đó.
Nhớ lại chuyện ấy, Điền kêu lên:
- Đúng rồi! Bữa đó khi đang ngủ tôi bị ai đó cào vào chân, tôi dậy thì thấy cô gái chạy ra ngoài, tôi tưởng đâu là Mường Lan nên đuổi theo. Đến khi cô ấy ngã, tôi ngã ập lên người cô ấy, và... chợt thấy bộ mặt ma chứ không phải người, tôi sợ quá và đã ngất đi!
- Con Mèng Lan đã cứu cậu đem vào nhà, nhưng cũng chính vì vậy mà nó bị hồn con ma xó nhập vào.
Điền hốt hoảng:
- Vậy là cô ấy thành ma luôn sao?
A Tư thở hắt ra một hơi:
- Cũng may là không hẳn như vậy. Tôi nói để cậu rõ hơn, xứ Mường chúng tôi có mấy loài ma, nào là ma trành, ma lai, ma xó. Trong số này thì ma xó là hiền lành nhất, chỉ có bám theo người để được… yêu mà thôi. Tuy con Mèng Lan bị hồn ma nhập, nhưng là con ma xó cũng hợp với nó, bởi nó cũng đang muốn theo cậu.
Điền lo lắng:
- Nhưng dẫu sao thì cô ấy cũng…
A Tư nói đầy tự tin:
- Vừa rồi tôi đã nhờ thầy xem kỹ, người ta nói con Mèng Lan bị con ma xó đó nhập hồn chỉ nhằm mục đích chính là… thương cậu. Chính nó đã giúp cho Mèng Lan làm những việc mà chỉ có hồn ma mới làm được mà thôi. Ví dụ như… ghen, như bám theo cậu như hình với bóng. Nó là một hồn ma hiền lành và nó sẽ rời bỏ cậu, để cho Mèng Lan trở lại thành người bình thường khi nào cậu với Mèng Lan có con!
Điền chẳng biết làm sao trong lúc này. Anh cứ ngây người ra. Chừng như hiểu ý anh, A Tư đi đâu một lúc, khi trở vào đã nói khẽ:
- Cậu đừng nghĩ đến chuyện bỏ đi. Ma xó hiền lành nhưng một khi nó đeo ai thì đừng hòng thoát. Cậu muốn trốn về thành phố nó cũng theo suốt đời!
Nghĩ là anh ta nói đúng, nên sau đó Điền phấn khởi trở lại, bắt tay vào lo công việc sắp tới. Nhất là mỗi khi nhìn vào bếp, thấy Mường Lan với khuôn mặt rạng rỡ thì bao nhiêu lấn cấn trong lòng Điền như tan biến hết…

Nửa Đêm Cầu Cơ

Lưỡng lự rất lâu, cuối cùng Tiến cũng đồng ý để các bạn bày bàn cầu cơ ra. Sinh, người bạn khá rành chuyện này đề nghị:
- Cầu cơ cần một không gian yên tĩnh, một quãng thời gian thích hợp thì có rồi, bây giờ là 11 giờ đêm, rất tốt cho việc này, còn phòng này thì e không đạt.
Anh ta đưa tay chỉ lên lầu trên:
- Lầu thượng có ai ngủ không?
Tiến lắc đầu:
- Trên đó chỉ để lâu lâu lên ngắm trăng thôi. Phòng bỏ trống.
- Tốt, ta lên đó đi.
Cả bọn lỉnh kỉnh dọn đồ nghề lên phòng trên sân thượng. Có tất cả bốn người tham dự, ngoài Tiến và Sinh, còn có Hương và Lộc. Là người nữ duy nhất nên Hương được soi rất kỹ, bị Sinh hỏi thẳng thừng:
- Tôi hỏi điều này có hơi kỳ một chút, nhưng theo lệ của một buổi cầu cơ thì... không được dơ mình. Chẳng biết bà...
Hương thẹn đỏ mặt:
- Nhiều chuyện! Nhưng... người ta đâu phải lúc nào cũng... dơ đâu!
Sinh cười lớn:
- Vậy là ổn rồi, ta có thể tiến hành buổi cầu cơ!
Rồi anh ta quay lại Hương nói thêm:
- Cái này không phải do anh vẽ ra, mà bắt buộc nó như vậy. Đã mấy lần rồi, tụi anh cầu mà không linh, bởi trong số người tham dự có cô đang bị kẹt...
Hương xua tay:
- Hiểu rồi, nói rồi, tiến hành đi!
Tiến chen vào nói đỡ:
- Mày nói tới nói lui hoài. Hương đã gồng mình ngồi dự vụ này đã là quá cỡ rồi, hãy để cho cô ấy còn dũng khí để mà tiếp tục chứ.
Hương thấy có đồng minh thì tự tin hơn:
- Có anh Tiến em chẳng sợ gì!
Mấy người bạn đều nheo mắt cười. Bởi ai cũng biết Hương là người yêu của Tiến.
Lộc nói nhẹ nhàng:
- Người ta có băng đảng với nhau đó nghen, thằng Sinh liệu hồn!
Sinh yêu cầu mọi người cùng khấn theo công thức anh đưa ra, sau đó anh hỏi:
- Hôm nay ai muốn trực tiếp cầu?
Tiến nhìn Lộc, rồi nhìn sang Sinh, anh bảo:
- Một trong hai đứa bay làm đi.
Lộc nhìn Tiến:
- Sao không phải là mày?
Sinh thì lại nói:
- Theo tao thì người thích hợp nhất để đứng ra trực tiếp cầu là Hương. Tụi bay biết sao không, cầu cơ phải theo tuần trăng, đêm nay trăng sáng là thuộc âm vượng, như vậy người phụ nữ cầu là thích hợp nhất.
Hương nghe vậy xua tay lia lịa:
- Thôi, em không làm đâu.
Nhưng bất ngờ Tiến lại nói:
- Hương thử đi.
Trố mắt nhìn Tiến, Hương ngạc nhiên:
- Sao anh muốn em làm?
Tiến nghiêm giọng:
- Em là người nữ duy nhất ở đây, lại là thời điểm thích hợp nữa, sao lại không thử?
Hương lưỡng lự:
- Nhưng mà em... em sợ.
Tiến động viên:
- Cứ thử một lần xem sao.
Mấy người kia đều tán thành:
- Ý kiến hay, Hương làm đi!
Chẳng còn cách nào hơn, Hương đành rụt rè nói:
- Mấy anh xúi đó nghen, nếu có gì thì...
Lộc cười to:
- Thì thằng Tiến chịu!
Sinh hướng dẫn:
- Em cứ đặt tay lên con cơ này, như vậy đó, ngồi ngay ngắn lại, tập trung tư tưởng thật thành tâm, đừng nghĩ gì khác ngoài cầu cho ai đó về để mình hỏi.
- Nhưng... biết hỏi ai?
- Nếu không nhắm hỏi người nào cụ thể, thì cứ thành tâm cầu, không cần nói tên, có người nào hợp vía mình sẽ về giúp mình ngay!
Hương vẫn hơi sợ:
- Em ngại quá... hay là em cầu vong ba em vậy!
Cô đặt tay lên miếng cơ nhắm mắt lại và lâm râm khấn:
- Từ ngày ba mất, con chưa một lần thấy ba về, vậy nay ba thử về với con, nói cho con nghe xem ba đang cần gì?
Lần đầu tiên tham gia trò này, nên Hương rất nghiêm túc thành tâm, nhắm mắt thật lâu mà chưa dám mở ra. Gần hai phút trôi qua vẫn chưa thấy có gì lạ. Bỗng ngay sau đó ở ngón tay đặt trên cơ có dấu hiệu tê tê nhẹ, rồi như có luồng điện năng chạy qua và con cơ chuyển động lướt rất nhanh trên tờ giấy có những ô chữ từ A đến Z. Ban đầu con cơ dừng rồi chạy và lại dừng... chưa rõ là muốn dừng ở đâu, muốn nói gì.
Sinh là người rành, nên nhìn là biết ngay cuộc cầu cơ đã có kết quả! Anh bảo khẽ vào tai Tiến:
- Đừng ai lên tiếng, để cho Hương cứ tự nhiên.
Sau vài giây chưa ổn định, mấy vòng sau thì con cơ theo ngón tay của Hương đã bắt đầu chậm lại và ngừng lại ở ô chữ B. Sinh lấy giấy ra ghi lại trên đó những chữ mà cơ dừng lại. Tiếp theo là chữ A, rồi chữ M, chữ U, chữ N, chữ G. Ngập ngừng một lúc nữa, tay của Hương lại chạy tiếp đến chữ G, chữ A, chữ P, chữ L, chữ A, chữ I, chữ C, chữ O và chữ N. Ngừng lại một lúc lại tiếp ở chữ C, chữ O, chữ N, chữ L, chữ O, chữ N, chữ Q, chữ U , chữ A.
Sinh ráp lại và đọc nhỏ cho hai bạn nghe:
- Bài cơ vừa rồi cho mấy chữ như thế này: BA MỪNG GẶP LẠI CON, CON LỚN QUÁ.
Tiến giật mình, anh hỏi khẽ:
- Ba của Hương về thật hả?
Ra dấu cho bạn không hỏi lớn, sợ kinh động đến Hương. Anh bảo khẽ:
- Hãy để cô ấy cầu, tao sẽ ghi đầy đủ rồi chuyển dịch lại cho tụi bay nghe!
Hương như quên chung quanh, cô chú tâm vào và con cơ lại tiếp tục chuyển động. Cứ hết chữ này lại sang chữ khác. Chợt đến một lúc thì tay của Hương run lên, cô suýt làm văng con cơ ra ngoài bản chữ! Lúc này toàn thân Hương như bị kích động theo cái gì đó, mà thoạt nhìn Tiến hốt hoảng kêu lên:
- Hương, sao vậy?
Nghe tiếng kêu của Tiến, bỗng dưng Hương ngã bật ra phía sau! Vừa lúc Sinh tiếc rẻ:
- Phải chi Hương cố gắng một chút nữa thì có thêm chi tiết lạ lắm!
Anh ta cầm tờ giấy ghi được lúc Hương chuyển động nhanh trước khi ngã, đọc cho mọi người nghe:
- Sau câu BA MỪNG GẶP LẠI CON, CON LỚN QUÁ là đến câu: BA NHỚ NHÀ LẮM, MUỐN VỀ MÀ KHÔNG ĐƯỢC. BỮA NAY MUỐN NÓI MÀ BỊ… BỊ… HỌ GIÀNH, HỌ KHÔNG CHO…, GẶP EM RỒI! GẶP ĐƯỢC NGƯỜI MÀ ANH ĐỢI LÂU NAY…
Tiến lo cứu tỉnh Hương, cũng may là sau đó Hương tỉnh lại, cô kêu nhức đầu, chóng mặt. Cho cô uống ly nước xong, Sinh hỏi liền:
- Lúc nãy Hương thấy gì vậy?
Hương lắc đầu:
- Có thấy gì đâu, chỉ cảm giác như ai đó lôi ngón tay mình đi, khiến mình không tự chủ được, vậy mình làm gì lúc nãy?
Đưa cho cô xem bảng chữ Sinh ghi được, Tiến hỏi:
- Cái này là ý gì vậy?
Hương lại lắc đầu:
- Em không biết.
Sinh giải thích:
- Lúc đó là thần giao cách cảm. Giữa âm dương được nối với nhau bằng con cơ. Người chết muốn nói gì đó thì nhập vào con cơ và tay người sống tiếp nhận thông tin từ người chết qua thần giao ấy. Ở đây có điều lạ là giữa lúc ba của Hương đang nói, chẳng hiểu sao lại có ý khác chen vào? Đúng là bác ấy đã bị hồn nào đó khống chế, chen để nhập vào cơ, khiến cho Hương chịu không nổi phải ngã ngang!
Hương xác nhận:
- Em đang lâng lâng thì tự nhiên điện trong người như bị chạm, khiến đầu óc em quay cuồng, không làm chủ được bản thân!
Tiến trách Sinh:
- Hương không quen chuyện này, mày làm cho cô ấy bị thế này...
Hương gượng cười:
- Không sao đâu. Giờ thì em khỏe lại rồi. Thôi, mấy anh tiếp tục làm đi, em ngồi coi.
Lạ là từ phút đó chẳng một ai cầu cơ được nữa kể cả Sinh cũng chịu thua. Anh ta nói:
- Thôi mình để hôm khác. Bữa nay bày ra nhậu một chầu đi!
Hương cũng tham gia, nhưng tự dưng cô mất vui. Đầu óc Hương như có cái gì đó lởn vởn…
Đến gần nửa bữa nhậu thì Hương đòi về, Tiến phải đứng lên đưa người yêu ra tận cửa. Anh chuẩn bị dắt xe ra thì Hương ngăn lại:
- Em hơi chóng mặt, để em về xích lô tốt hơn.
Tiến lo lắng hỏi lại:
- Em có sao không?
- Không, chẳng sao cả. Em về đây.
Tiến cứ nhìn theo, anh lo lắng cũng phải, bởi rõ ràng trong sắc diện của Hương thì dường như đã có điều gì đó không ổn. Anh tự trách là lúc nãy đã không ngăn chuyện Hương tham gia cầu cơ.
- Lên nhậu tiếp chứ anh chàng si tình, đứng ngẩn ngơ hoài vậy!
Bị các bạn giục mãi nên Tiến đành phải trở lên tham gia cuộc vui, nhưng đầu óc nghĩ mãi về thần sắc không bình thường của người yêu. Một lúc sau, Tiến vẫn còn nhắc lại với Sinh:
- Cậu quá vô ý, Hương mà có chuyện gì mình không cho cậu yên đâu!
Sinh phải trấn an:
- Làm gì có chuyện mà lo cho mệt! Cả triệu người cầu cơ chứ có riêng gì Hương đâu.
- Nhưng Hương thì khác. Nhất là chuyện ba cô ấy lúc nãy, mình sợ sợ…
Lộc là anh chàng vô tâm nhất trong bọn, chen vào nói:
- Cầu cơ chỉ là chuyện đẩy một miếng ván đi tới đi lui, các cậu quan trọng hóa nó chi cho mệt!
Sinh là người cuồng tín về cầu cơ, nghe Lộc nói vậy anh ta chĩa mũi dùi sang Lộc:
- Cậu biết gì mà bình với luận! Cậu có biết miếng cơ làm bằng gì không? Nó làm từ miếng ván lấy ở nắp hòm chôn người chết lâu năm! Phải là ván nắp hòm mới linh nghe chưa!
Thấy hai người sắp cãi vả căng thẳng Tiến xua tay:
- Thôi, dẹp chuyện đó qua một bên đi. Cũng dẹp luôn vụ nhậu này, tao mất hứng!
Tiến bỏ đi về phòng mình ở tầng dưới và ở luôn, mặc cho các bạn muốn làm gì thì làm...
Tuy bị Tiến bỏ ngang buổi nhậu, nhưng bởi chỗ quá thân tình, từng ngủ nhà của nhau bao nhiêu lần, nên sau khi Tiến bỏ đi về phòng riêng thì Sinh và Lộc vẫn tiếp tục cuộc vui. Sinh nói:
- Để cho thằng Tiến nó ngủ đi, tao với mày chơi tới sáng. Mà nếu hứng thì một lát mình lại cầu cơ xem thử coi có gặp hồn ma nữ nào mình mời về.
Lộc tròn mắt nhìn bạn:
- Mày ăn nói không giữ mồm giữ miệng gì hết!
Sinh cười xòa:
- Nói chơi vậy chứ cỡ bợm nhậu như tao với mày thì cầu cơ ai về mà cầu cho mất công! Muốn cầu thì phải trai tịnh, phải lòng thành. Mày thấy con Hương không, nó còn con gái, lại trong sáng, nên vừa cầu là ứng ngay! Chính tao cũng hoảng hồn vì vụ hồi nãy!
- Theo mày thì con Hương nó bị gì vậy?
Đang bô bô cái miệng do men rượu, vậy mà khi nói tới chuyện này Sinh cũng hạ thấp giọng:
- Nó gặp cái vong của ai đó!
- Tức hồn người chết chứ gì?
- Tao tin là chuyện đó có thật! Mày thấy mắt con Hương lúc đó không?
- Phải, xanh mét! Lúc ấy tao sợ điếng hồn luôn!
- Có điều là khi thằng Tiến hỏi, tao phải giả vờ là không có chuyện gì. Thật ra cho tới lúc này tao vẫn còn run!
Lộc uống một hơi cạn ly rượu trong tay:
- Từ nay dẹp cái chuyện cầu cơ đi, tao không thích cái trò này!
Thay vì gật đầu tán thành, Sinh lại đáp ỡm ờ:
- Nhưng nó lại có cái hay riêng. Thú vị thì đúng hơn. Tao vẫn thích chơi nó, bởi không không gì có thể vừa sống ở cõi đời này lại có thể hiểu được người ở thế giới bên kia!
Lộc đang định nói gì đó thì chợt nghe tiếng la lớn từ tầng dưới! Sinh hốt hoảng:
- Tiếng của thằng Tiến!
Khi họ chạy xuống thì thấy Tiến nằm dài trên sàn nhà trong phòng anh ta, ở cổ vẫn còn sợi dây thòng lọng bị đứt!
Họ tức tốc vực Tiến dậy rồi thay nhau cõng Tiến chạy ra cửa, đưa đi trạm xá gần đó. Bởi nhà Tiến lúc ấy không có ai khác, mà việc cấp cứu thì Sinh và Lộc đều không rành, và lại thấy tình trạng của Tiến như vậy họ đều sợ thất thần, đâu dám tự lo ở nhà.
Cuối cùng, người ta cũng giúp cho Tiến tỉnh lại. Người mừng nhất là Lộc, người được phân công ngồi trực suốt mấy tiếng đồng hồ ở trạm xá.
- Lạy trời, mày tỉnh lại rồi!
Tiến nhìn bạn mà mãi một lúc sau mới nhận ra:
- Ủa, mày hả Lộc? Mày làm gì ở đây hả?
Lộc vừa đáp vừa ngáp dài:
- Sợ mày chết, nên ngồi canh từ tối qua tới giờ chứ làm gì!
Tiến ngồi bật dậy, nhưng phát hiện cổ mình bị đau, kêu lên:
- Cổ tao...!
- Mày bị ai đó cột cổ, hay tự mày treo cổ tự tử, mà lúc tao với thằng Sinh chạy xuống thì thấy sợi dây thòng lọng còn dính trên cổ mày. Sao vậy Tiến?
Từ từ Tiến nhớ lại, anh đưa tay sờ nhẹ lên cổ và rùng mình:
- Nó muốn giết tao!
- Mày nói ai?
Giọng của Tiến vẫn còn run:
- Thằng nào đó kỳ lạ lắm, nó như từ dưới nước chui lên, người nhớp nháp, tay chân lạnh như băng và chẳng hiểu sao tự dưng nhào tới ôm chầm lấy tao, đè tao xuống rồi rít lên: “Mày phải chết! Mày không được quyền yêu nàng ấy!”.
Tiến cứ sờ lên chỗ đau ở cổ và kể tiếp:
- Tao cũng chẳng hiểu sao thằng đó nó nhấc nổi tao chỉ với một tay, còn tay kia thì cột tao lên cây quạt trần trong phòng. Tao ngạt thở quá nên kêu thét lên, đồng thời vùng vẫy dữ dội, thế rồi…
Lộc tiếp lời:
- Tao và thằng Sinh nghe mày kêu nên chạy xuống thì kịp nhìn thấy mày nằm dài trên sàn, ở cổ còn sợi dây thòng lọng bị đứt. Chắc là do dây mục, mày vùng vẫy mạnh quá nên nhờ vậy mày mới thoát chết!
- Tụi bay có gặp thằng đó không?
Lộc ngạc nhiên:
- Thằng nào?
- Thì cái thằng đã treo cổ tao!
- Có thấy ai đâu. Hay là mày nằm mơ?
Tiến chợt nhớ lại từng lời hắn nói, anh bỗng đứng phắt dậy, kêu lên:
- Không xong rồi, Hương của tao!
Lộc không hểu:
- Hương bị sao?
Tiến vọt chạy ra cửa, vừa nói vọng lại:
- Tao phải đi tìm Hương, cô ấy nguy mất!
Lộc chạy theo nhưng không còn kịp, bởi tuy mới vừa tỉnh lại, nhưng Tiến chạy nhanh như một vận động viên điền kinh, chỉ loáng một cái, anh ta đã mất hút phía trước…
Khoảng hơn mười lăm phút sau thì Tiến đã có mặt ở trước nhà của Hương, anh không theo thông lệ gọi cửa từ tốn, lại dộng cửa ầm ầm:
- Hương ơi Hương!
Gọi tới lần thứ hai thì nghe có tiếng dép lê từ trong đi ra, giọng của mẹ Hương:
- Ai mà kêu réo như giặc vậy?
Tiến quên cả lịch sự:
- Hương. Hương có nhà không?
Bà Thoa nhìn Tiến với vẻ ngạc nhiên:
- Có chuyện gì vậy Tiến?
- Dạ, con hỏi Hương có nhà không?
Bà Thoa nghiêm giọng:
- Bác đang trông đứng trông ngồi nó đây. Tối qua cháu tới đây chở nó đi mà đến khuya vẫn không thấy về, cả nhà không ai ngủ nghê gì được vì chờ nó. Sao bây giờ cháu còn hỏi?
Tiến điếng hồn:
- Hương đâu còn ở nhà cháu. Hương... Hương...
Vừa lúc ấy, Phượng, em gái của Hương từ trong nhà bước ra nói:
- Hồi gần sáng em với thằng Hải qua nhà anh gọi cửa mà chẳng có ai ở nhà, đèn trong nhà tắt tối thui. Chị Hương từ lúc đi với anh thì đâu có về đây!
Tiến giục:
- Biết đâu tối qua Hương về mà khuya quá không dám gọi cửa, em thử vào phòng cô ấy xem.
Bà Thoa cũng nói:
- Con vào coi thử thế nào!
Phượng chạy vào lát sau trở ra hốt hoảng nói:
- Không có chị Hương trong đó, nhưng có bộ đồ chị ấy mặc tối qua khi đi với anh!
Tiến nhìn thì đúng là bộ đồ Hương mặc tối qua. Anh lặng người đi…
Bà Thoa cứ hết ngồi khóc rồi lại nằm khóc. Đã ba ngày rồi con gái bà vẫn chưa trở về. Mà Hương có thể đi đâu được chứ, khi mà từ nào đến giờ cô chưa một mình rời khỏi nhà bao giờ, cũng chẳng có bà con thân thuộc nào khác ngoài những người mà mấy hôm nay bà và Phượng đã chia nhau đi tìm mà chẳng có kết quả gì.
Thằng Hải, đứa em út trong nhà rất thương chị Hương, nên cũng bị suy sụp theo mẹ. Nó cũng nằm vùi, nhưng mỗi khi nhớ ra điều gì, nó đều bật dậy và chạy đi tìm. Vẫn là sự thất vọng, bởi kể cả những người bạn thân, sơ gì của Hương đều quả quyết:
- Từ ba ngày qua không hề thấy Hương tới.
Phượng thì cứ cầm bộ quần áo Hương cởi bỏ lại trước khi biến mất và thắc mắc hoài:
- Chị ấy mặc gì để đi mà bộ đồ này bỏ đây, trong khi quần áo khác không thiếu bộ nào?
Nghe thế, bà Thoa càng lo sợ thêm:
- Có khi nào... nó chết rồi không?
Phượng trấn an mẹ:
- Không đến nỗi đâu mẹ. Chỉ có điều...
Chính Phượng cũng không tìm ra một nguyên nhân đủ thuyết phục để nói cho mẹ mình hết lo.
Bà Thoa nhớ ra, vội hỏi con:
- Con nhớ đường tới chùa Bảo Thiên không?
- Dạ nhớ. Mẹ muốn tới đó?
- Mẹ muốn đốt nhang cầu nguyện cho nó. Sẵn dịp mẹ hỏi sư thầy xem...
Trong lúc hai mẹ con đang chuẩn bị để đi thì chuông điện thoại reo vang. Phượng đứng gần nên cầm ống nghe.
Tuy nhiên, bên kia đầu dây chẳng có ai lên tiếng. Phượng cáu lên, hỏi lớn:
- Ai vậy?
Chẳng ai đáp. Phượng bực quá định đặt máy xuống, thì nghe có giọng ồ ồ như người bị đàm chặn ngang cổ:
- Sẵn sàng chưa, mau đi!
Phượng hốt hoảng quay vào gọi mẹ:
- Mẹ ra nghe coi cái gì nè!
Bà Thoa chạy ra cầm lấy ống nghe:
- Alô, ai...
Bên kia đầu dây vẫn cái giọng ồ ồ đó:
- Tôi đây...
Rồi cúp máy. Bà Thoa quay sang con:
- Ai vậy?
Phượng lắc đầu:
- Con đâu biết. Ông ta giục mình mau đi? Nhưng ông ta là ai?
Bà Thoa đang gấp đi nên bảo:
- Chắc là ai đó gọi nhầm số, hoặc mấy người rảnh việc quấy phá đó thôi.
Bà vừa định quay đi thì chuông điện thoại lại reo. Lần này Phượng vẫn là người nhấc máy lên:
- Ai vậy?
Vẫn cái giọng như không còn hơi nữa cất lên:
- Mau đi...
Cô quay sang mẹ, nói thật nhỏ:
- Cái ông hồi nãy.
Bà Thoa chụp lấy máy:
- Ông muốn gì? Coi chừng…
Đầu dây bên kia nói gì đó mà tự dưng bà xanh mặt, lắp bắp:
- Ông... ông đó sao?
Phượng kinh ngạc:
- Ai vậy mẹ?
- Ba con!
Câu nói của bà khiến cho Phượng sững sờ:
- Sao lại là ba con? Ba chết cả chục năm rồi...
Giọng bà Thoa lạc thần:
- Ba con đó...
- Nhưng...
- Ba con bảo mình hãy mau đi ra khỏi nhà, nhưng đừng tới chùa. Bảo tới nghĩa địa nào đó... rồi cúp máy, giống như ba con bị ai đó bóp cổ không cho nói!
- Sao má biết là ba. Người chết sao nói chuvện được? Hay là…
- Hồn ma của ba con!
Phượng điếng hồn:
- Ba hiện hồn! Sao ba không nhận ra con?
Bà Thoa nhẹ lắc đầu:
- Làm sao mẹ quên giọng nói của ba con được, dẫu là hơn mười năm rồi... Ba con nói vậy là có ý gì đó muốn bảo chúng ta, mà sao câu nói lại không trọn vẹn?
Chuông điện thoại lại reo lần nữa. Lần này vẫn là Phương chụp nhanh ống nghe:
- Alô, ông… ủa, ai như chị Hương vậy? Chị Hương!
Bà Thoa mừng lên:
- Lạy trời, con Hương!
- Chị Hương, chị đang ở đâu vậy, cả nhà đang lo cho chị đây…
Bỗng Phượng khựng lại, giọng hốt hoảng:
- Chị bị sao vậy? Ai làm gì chị vậy, chị Hương?
Bà Thoa kinh hãi giật lấy ống nghe:
- Hương, con ở đâu?
Trả lời bà là một loạt những tiếng ặc... ặc như người bị bóp cổ! Khiến cho bà Thoa rú lên:
- Con ơi, ai làm gì con?
Máy bị cúp. Ống nghe trên tay bà Thoa rơi xuống. Bà như người mất hồn, chỉ thều thào:
- Cha con... nó... bị... bị…
Phượng cầm lại ống nghe kề vào tai, bên kia máy chưa cúp, nhưng có lẽ bị gác hay treo lửng lơ, nhiều tiếng động rất kỳ lạ nghe như ở một nơi hoang vắng nào đó...
Phượng nghe kỹ rồi la lên:
- Giống như tiếng ếch nhái, ễnh ương kêu vậy!
Bà Thoa không còn đủ sức lên tiếng nữa, bà ngồi bệt xuống sàn, giọng nhừa nhựa:
- Cha con nó...
Rồi bà ngoẹo sang một bên, Phượng hốt hoảng:
- Mẹ! Mẹ!
Nhưng bà đã ngất đi người lạnh ngắt.
Hương lặp lại lần thứ hai mà vợ chồng ông bà già vẫn chưa nghe rõ:
- Cô nói gì? Cô là...
- Dạ, cháu là Hương, cháu là người mà anh Tòng đã rước về.
Bà già Hai trố mắt:
- Thằng... Tòng? Cô… cô có điên không vậy? Cô là... là...
Ông Hai thì bình tĩnh hơn:
- Thời buổi này lắm mưu ma chước quỷ, nhưng cô giở trò này thì chứng tỏ cô còn non lắm, không gạt được vợ chồng già chúng tôi đâu!
Hương vẫn cố nói:
- Cháu nói thật mà, anh Tòng cho cháu địa chỉ này, bảo cháu về... hầu hạ hai bác. Anh ấy nói sẽ cưới cháu mà. Hai bác đừng nghi ngờ...
Bà Hai la lên:
- Cô còn nói nữa thì tôi kêu làng xóm tới bây giờ!
Hương rút ra một chiếc lắc đeo tay, đưa cho bà Hai:
- Anh Tòng bảo con đưa cho hai bác làm tin. Chính anh ấy...
Vừa nhìn thấy tín vật, bà Hai kêu lên liền:
- Đúng là của thằng Tòng rồi ông ơi.
Ông Hai cầm lấy và nói:
- Hồi nó chết, chính tôi đã chôn vật này theo với nó đây mà!
Bà Hai quay sang Hương, hỏi trong sự hoài nghi:
- Sao cô với nó lại…?
- Dạ, cháu mới gặp anh ấy đây, nhưng chúng cháu đã phải lòng nhau ngay. Cháu về đây là theo ý anh ấy. Anh Tòng nói, do chết sớm nên không kịp báo hiếu cho cha mẹ, nhờ cháu về ở đây và làm giúp anh chuyện ấy!
Ông Hai bắt đầu tin:
- Cô gặp nó trong dịp nào?
Hương nói thật:
- Dạ, khi cầu cơ. Anh ấy về và không rời cháu nửa bước. Cháu bỏ nhà ra đi vì anh ấy và chính anh đã đưa cháu về tận đây....
Bà Hai hỏi dồn:
- Sao nó không vào nhà? Nó đâu?
- Dạ, anh Tòng nói âm dương cách trở, nên anh ấy chưa về được. Đợi khi nào cháu được hai bác chính thức công nhận là con dâu rồi thì anh sẽ tìm cách về thăm hai bác.
Quay sang chồng, bà hỏi ý:
- Bây giờ ông tính sao đây?
Ông Hai nhìn kỹ Hương, rồi nhẹ giọng:
- Biết sao bây giờ khi nó đã muốn như vậy. Chuyện này chính tôi cũng đã mơ thấy thằng Tòng bảo như vậy.
Bà hỏi lại Hương:
- Nhà của cháu ở đâu?
- Dạ, ở Gia Định. Nhưng hiện giờ cháu không được phép liên lạc về nhà. Cháu bị...
Cô muốn nói đang bị cái vong của Tòng ngăn cản, nhưng ngại không dám nói thẳng ra.
Thấy thái độ lúng túng của cô, bà Hai đoán được phần nào:
- Nếu chưa muốn nói thì thôi.
Hương phấn khởi trước sự dễ dãi của bà:
- Dạ, như vậy hai bác cho phép cháu ở lại đây phải không ạ?
Trong khi họ chưa trả lời thì chính Hương lại thở dài:
- Bây giờ hai bác có đuổi cháu cũng chẳng biết phải đi đâu, bởi anh Tòng nghiêm cấm cháu trở về nhà, cấm không cho ở nơi nào khác!
Bà Hai thở dài, thổ lộ:
- Thằng Tòng lúc còn sống tính nó ghen dữ lắm. Lúc nó và con Huệ thương nhau...
Hương xen vào hỏi:
- Huệ là ai vậy bác?
- Là vợ sắp cưới của nó. Ngày ấy hai đứa nó thương nhau sáu bảy năm, chuẩn bị đám cưới thì bỗng con Huệ bỏ nó ra đi! Chỉ vì chịu không nổi tính ghen tuông quá độ của nó. Con Huệ đi và sau đó tự tử chết, sau đó Tòng cũng chết theo.
Ông Hai cũng thở dài, nói tiếp:
- Từ đó trong làng này ai cũng đồn rằng, hễ có cô gái nào mà dính tới thằng Tòng là sẽ không bao giờ xa được nó! Cũng may là nó đã chết, chứ không thì vợ chồng tôi sẽ mang tiếng là dạy con kiểu ghen tuông kỳ quặc đó!
Bà trách ông:
- Nó là con mình, sao ông cho rằng nó chết là may!
Ông Hai tỏ ra thông thoáng:
- Mình trong nhà nói với nhau mà. Vả lại cô này đây, chẳng hiểu số phận sao lại dính tới thằng Tòng. Tôi nói thật, tôi lo nhiều hơn mừng.
Nhưng Hương vẫn bình thản:
- Cháu chấp nhận.
Bà Hai lại thở dài, rồi bà nhìn sang Hương, nói:
- Cháu cứ ở lại đây. Nhưng bác nói trước...
Hương phấn khởi, đi thẳng ra nhà sau, nhanh chóng hòa nhập như một thành viên trong nhà. Vợ chồng ông Hai nhìn nhau, bàn riêng:
- Tôi tội nghiệp con nhỏ này. Chắc cha mẹ nó đau khổ lắm khi mất đứa con gái như vậy. Bây giờ ông tính sao, chứ không lẽ để thế này coi sao được.
- Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với tụi nó, nhưng việc chứa chấp một đứa như con nhỏ này tôi e là sẽ rắc rối đây. Nhìn cung cách cũng biết nó là con nhà đàng hoàng, việc nó bị như vậy đúng là một tai nạn. Tôi tính...
Ông trầm ngâm một lúc rồi nói đủ cho bà nghe:
- Bà thử lén xem giấy tờ tùy thân của nó, xem nhà cửa nó ở đâu. Tôi tính…
Bà Hai gật đầu:
- Thì để từ từ...
Ngay tối hôm đó, trong lúc vợ chồng ông bà chưa ngủ thì chợt nghe có ai gọi rất khẽ ngoài cửa sổ:
- Tôi đây! Tôi là ba của con Hương...
Bà Hai giật mình gọi khẽ chồng:
- Ông ra coi, ba con Hương!
Ông bước ra cửa sổ nhìn thì chẳng thấy bóng dáng ai, toàn một màu đen tối. Ông vừa định quay trở vào thì giọng nói lại vang lên đủ cho họ nghe:
- Thằng con của ông bà nó không cho tôi nói... Ông bà hãy mau mau tìm mộ của nó, dời đi liền nơi khác.
- Mau lên…
Tiếng nói tới đó thì im ngang. Dường như người nói bị chuyện gì hay sợ ai đó nên nín thinh. Rồi sau đó thì chẳng còn nghe nữa...
Bà Hai hốt hoảng:
- Coi chừng, thằng Tòng hại người ta.
Ông Hai gọi Hương đang ngủ ở nhà sau lên và hỏi:
- Ba cháu thế nào?
Hương hơi bất ngờ, đáp nhanh:
- Dạ, ba cháu đã chết rồi!
Hai ông bà giật mình:
- Vậy sao mới rồi…
Ông đưa tay ngăn bà lại:
- Đừng nói, để tôi...
Ông quay sang Hương, hỏi thật nhỏ:
- Mồ mả ba cháu chôn ở đâu?
- Dạ, ở chùa Bảo Thiên.
Bà Hai kêu lên:
- Chùa Bảo Thiên! Thằng Tòng cũng chôn ở đó.
- Dạ, ba cháu....
Cô vừa nói tới đó thì bỗng kêu lên một tiếng đau đớn bởi một bên má hình như vừa bị ai đó tát một cái.
Ông Hai nói riêng với vợ:
- Thằng Tòng nó ngăn không cho con nhỏ nói đó!
Ông bấm tay vợ và ra dấu cho Hương ở yên đó, không nói gì. Khi ra tới ngoài ông cũng chẳng nói lời nào, kêu xe đi mà chẳng biết đi đâu.
Đến khi xe ngừng trước chùa Bảo Thiên, bà Hai ngạc nhiên:
- Ông tới đây làm gì?
Không nói, ông kéo tay bà đi thẳng ra sau chùa, nơi có khoảng đất trống dùng làm nghĩa trang, có khá nhiều mộ. Đến thẳng ngôi mộ xây đề dòng chữ trên mộ bia: Nguyễn Văn Tòng, ông bảo:
- Tôi đoán không sai mà, bà thấy cái cây lớn tàn che khuất cả ngôi mộ kia không?
Bà Hai nhìn và giật mình:
- Năm ngoái vào tiết Thanh minh, mình còn thấy cái cây này nhỏ xíu. Thấy nó có bông đẹp nên tôi không cho đốn, không ngờ cây mau lớn quá, giống như cây trồng năm mười năm không bằng!
Ông Hai chép miệng:
- Đúng là không nên trồng cây lớn gần mộ. Rễ của nó có thể ăn xuống quan tài, không nên!
Ông nhìn kỹ một lúc, vừa định vào chùa hỏi gì đó thì đã nghe giọng hiền từ của vị sư trụ trì:
- Chào ông bà tới thăm mộ. Mô Phật, bần đạo mấy hôm nay có ý muốn tìm người nhà của ngôi mộ này, cũng chỉ vì cái cây đó.
Quay lại xá vị sư thầy, ông Hai nói liền:
- Con đang tính vào chùa xin ý kiến thầy để bứng cái cây này đi, thì may có thầy đây...
Sư thầy bảo:
- Một khi cây lớn nằm giữa hai ngôi mộ thì phải bứng ngay, bởi nhiều khi rễ nó ăn phạm vào mộ nào đó thì không nên.
- Bạch thầy, con sẽ làm ngay. Sẽ bứng cái cây này xin thầy cho phép.
Vừa khi ấy có tiếng người xôn xao sau lưng, sư thầy quay lại, lên tiếng:
- Thiện tai, thiện tai! Tôi mới có ý nhắc tối qua thì bà cũng tới!
Người vừa tới chính là bà Thoa, mẹ của Hương. Bà cùng đi với Phượng. Thấy có ông bà Hai, bà Thoa định hỏi gì đó nhưng chưa tiện lên tiếng thì sư thầy đã hỏi:
- Đã tìm được cô Hương chưa?
Bà Thoa mếu máo:
- Dạ bạch thầy, chưa. Hôm qua nó có điện về, nhưng mới nói được mấy tiếng thì như bị ai đó cấm không cho nói. Con đang lo nên định tới đây hỏi ý thầy...
Trong lúc mẹ nói chuyện với sư thầy thì Phượng ngồi xuống ngôi mộ bên cạnh mộ của Tòng, đưa tay bứt những cọng cỏ mọc che mộ bia. Cô bảo mẹ:
- Mộ của ba hình như bị nứt một bên nè mẹ.
Vừa nghe Phượng nói, ông Hai hỏi liền:
- Cô đây là gì của cô Hương? Có phải cô Hương có cái nốt ruồi bên mép trái không?
Phượng ngạc nhiên:
- Sao bác biết chị cháu?
Bà Thoa cũng hỏi:
- Ông biết con gái tôi trong trường hợp nào? Đúng là nó có nốt ruồi trên mép. Nó còn...
Bà Hai buột miệng nói:
- Nó đang ở nhà tôi!
Bà Thoa tròn mắt ngạc niên:
- Có đúng không? Lạy trời...
Ông Hai đột ngột bảo:
- Tôi nghiệm ra rồi, mộ này của thằng Tòng, còn mộ này của ba con Hương. Như vậy nguyên nhân là bởi cái rễ cây này!
Ông không nói gì thêm, hỏi sư thầy mượn cây cuốc của nhà chùa, rồi tự tay ông cuốc xuống chỗ gốc cây. Càng đào sâu thì rõ ràng cây có rễ rất dài, chia làm hai nhánh. Một rễ ăn sâu xuống ngay áo quan của Tòng, đâm thủng ván hòm, xuyên vào trong. Còn nhánh kia thì ăn qua ngôi mộ của ba Hương, và lạ lùng làm sao, cả cái rễ dài và to ấy nằm vắt ngang qua quan tài, rồi lại vòng xuống bên dưới trổ đầu rễ trở lên, chẳng khác nào cỗ quan tài bị trói, cột chặt!
Vừa nhìn thấy rõ cảnh đó, ông Hai quay sang sư thầy xá một xá rồi nói:
- Con không tin dị đoan, nhưng những gì được nghe từ nào đến giờ thì xin quả quyết rằng, chính hai cái rễ cây này đã khiến cho hai vong hồn nằm ở hai ngôi mộ này liên hệ với nhau. Thằng con trai tôi nhỏ, nhưng nó lại làm cái việc trói chặt ông anh đây. Bởi vậy...
Bà Thoa nói nhanh:
- Bởi vậy lâu nay vong hồn ông nhà tôi như bị ai đó bóp cổ, không cho nói, không làm theo ý muốn!
Ông Hai lo sợ:
- Bà vào chùa xin sư thầy một bó nhang ra đây, tôi sẽ cúng vong họ.
Sư thầy chừng như không muốn chứng kiến chuyện cúng vái hồn ma, nên ông niệm Phật rồi quay bước vào trong. Ở ngoài này, sau khi vợ đem bó nhang ra, ông Hai đốt lên và khấn:
- Con sống khôn thác thiêng, vốn tính con là hiền lành, đâu muốn hại ai. Chỉ vì con hận con vợ trước bỏ con mà đi nên con muốn trả thù những phụ nữ khác. Nhưng con nên nhớ rằng, người như cô Hương đó không có thù oán gì với con, sao con nỡ hại đời cô ấy. Người ta còn có cha mẹ, gia đình, vậy hãy để cô ấy tự do...
Ông vừa vái xong thì cầm nhanh cây búa lên, dang thẳng tay chặt phụp xuống hai cái rễ cây, làm cho nó đứt lìa khỏi thân cây! Lạ thay, từ chỗ vết chặt đứt có những giọt máu chảy ra, chẳng khác chặt phải thân người.
Đột nhiên ông Hai ngã bật ra ngoài, mặt mày trắng bệch! Bà Hai hoảng hốt:
- Kìa, ông!
Nhưng ông Hai xua tay:
- Tôi không sao. Không sao...
Bà Thoa cũng trong tình trạng như vậy, nhưng bà vẫn còn tỉnh táo, bảo con gái:
- Con đưa má về nhà. Má có linh tính như con Hương nó đã về.
Linh tính của bà Thoa không sai. Lúc họ vừa xuống xe thì đã thấy bóng Hương trong nhà. Cô ngơ ngác:
- Má đi đâu vậy? Mà sao con lại về được đây?
Ôm con vào lòng, bà Thoa nức nở khóc:
- Vậy là tốt rồi! Để rồi mẹ sẽ nói cho nghe. Đi tắm rửa đi, rồi làm ngay mâm cơm cúng ba con!
Phượng phấn khởi lắm:
- Tiền hung hậu kiết chị Hương ơi!
Hương cố hỏi mà mẹ và em gái không chịu nói. Lát sau bà Thoa trấn an:
- Má nói vui thì cứ vui. Từ nay con không còn phải lo sợ gì nữa.
Hương cũng cảm thấy người nhẹ nhõm, cô siết chặt tay mẹ và em, vừa hỏi:
- Thằng Hải đâu?
- Tội nghiệp thằng nhỏ, nó thương con quá nên một mình về quê tìm rồi. Để má nhắn cho nó về.
Hôm sau…
Và những hôm sau nữa... Cuộc sống gia đình bà Thoa yên ổn. Hương ngủ ngon giấc và hầu như không còn bị ám ảnh bởi chuyện lạ lùng kia nữa. Bà Thoa lên kế hoạch dời ngôi mộ của chồng đi nơi khác. Bởi dù sao bà cũng còn rùng mình mỗi khi nghĩ tới hai cái rễ cây nọ...

LÒ RÈN BÊN BỜ SUỐI

Tám Được quay tay búa mỗi lúc một nhẹ dần. Ngọn lửa trong lò đang cháy đỏ và vài mảnh than sáng rực chực rơi ra. Trời đã về chiều.
Sau một ngày làm việc cật lực, ông Tám đang lơi tay búa và sắp kết thúc công việc trong ngày. Thường khi ông chỉ làm việc tới giữa trưa là nghỉ, lúc này phải làm dồn nhiều việc do bà con trong làng đang vào mùa khai khẩn, cày cấy nên lò rèn của ông - cái lò rèn duy nhất trong vùng - phải đáp ứng nhiều hơn nào cuốc, xẻng, dao, rựa...
Một năm có một mùa làm rẫy nên nghề rèn dao, cuốc rựa.. phải biết đón lấy cơ hội... lượm tiền. Hà hà…
Ông Tám hả hê nhìn lại vật dụng vừa gò lại xong, cho hết thảy vào nước ngâm. Ngày mai, nếu có thời giờ ông sẽ gọt lại mấy con dao, rựa rồi mài lại. Ngày mốt giao hàng. Bây giờ nghỉ được rồi. Nhưng vì sao ông Tám lại chọn bờ suối này làm nơi trú ngụ và mở lò rèn?
Vì ở đây là ngã ba suối nên liên lạc với cánh đồng bậc thang ngoài kia mà cũng rất gần với mé rừng cho nhiều cây tốt giúp ông đốt lò. Nhưng có một điều ông Tám chưa hài lòng là con suối thường làm lũ lụt dâng tràn và ổ nước xi xả xuống cánh đồng phía cuối làng gây nhiều tổn thất cho bà con. Làm sao cản được nước lũ?
Ông Tám lấy áo quần ra suối tắm. Ông men theo ghềnh đá chọn chỗ nước chảy nhẹ nhất để ngồi gột rửa bụi đất trên người. Con suối nước chảy khá mạnh. Là ngã ba nên nước từ hai nhánh suối chảy vào tạo thành dòng chảy rất xiết. Mấy bữa nay mưa trên nguồn mù cả đất trời nên nước tràn xuống dữ dội tạo thành những cơn lũ nhỏ tung bọt trắng xóa ghềnh đá.
Rồi thì mặc cho dòng nước cắt ngang vỗ mạnh vào ghềnh đá, ông Tám Được vẫn bơi ra giữa dòng lặn hụp thỏa chí. Cả ngày cởi trần trùng trục, da thịt đỏ theo lửa trong lò, giờ được ngâm trong dòng suối lạnh... ông Tám thấy khỏe vô cùng...
- Mình cũng giống cây rựa kia... ha ha... Nung cháy đỏ rồi được ngâm trong nước. Có vậy mới chắc da chắc thịt…
Trời sập tối.
Ông Tám Được kịp bắt cho mình một nồi cơm trên đám than hừng hực cháy. Ông Tám chỉ nấu một lon gạo cho mỗi mình ông ăn thôi. Hôm nay, thằng nhỏ phụ việc xin nghỉ để xuống làng đi lễ lạc gì đó. Cái chòi và lò rèn còn mình ông Tám bên ngã ba suối và cánh rừng với nhiều cây to đang chìm dần vào bóng tối.
- Mình còn một ít khô... Hà hà...
Ông Tám thắp đèn dầu cho cái chòi sáng lên và lấy từ vách nhà hai miếng khô cá thật ngon.
Bữa cơm chiều đạm bạc của ông chủ lò rèn chỉ có cá khô và vài ly rượu trắng thơm lừng...
Lúc con trăng rừng lên cao ngang ngọn đồi phía làng thì ông Tám đi ngủ:
- Ái chà... cái thằng phụ việc giờ này đang xem phim dưới làng. Mệt quá rồi... đi ngủ thôi.
Ông Tám trải đệm nằm cạnh cửa vào căn chòi bé nhỏ của mình với tấm phên được chống lên cao và hình như chẳng bao giờ ông hạ nó xuống... Tấm vải dù kéo ngang ngực ông. Vậy là ông ngủ ngon lành...
Ngoài bờ suối, bế lò hãy còn đỏ lửa. Chai rượu đã vơi, mấy miếng khô vụn còn nằm trên dĩa…
Sương xuống nhiều làm ánh trăng cũng bạc trắng như sương...
Một cái bóng trắng từ vạt rừng bên kia mò qua gặp cái bóng trắng khác từ lòng suối mò lên. Cả hai bước tới chòi lá ông Tám Được. Dưới ánh trăng chỉ thấy họ là hai người đàn ông tuổi khoảng ngoài ba mươi, tóc dài quá vai, râu ria bờm xờm. Họ là cư dân trong vùng hay lâm tặc?
- Còn chút rượu này. Mình nhậu chia tay nhé?
- Có vài miếng khô hà... Lão già Tám này “phá mồi” chứ nhậu gì? Hà hà…
Hai bóng trắng ngồi xếp bằng đối diện nhau ở giữa là chai rượu còn lưng chai và dĩa khô cá. Lửa trong lò còn cháy hắt ánh sáng lung linh ra bờ suối trong veo. Ánh trăng bị che bởi đám mây vừa kéo ngang bầu trời.
- Mày đừng nói lão già Tám phá mồi. Ông ấy nướng khô ăn cơm mà. Ông ấy làm vài ly cho ấm bụng thôi. Ái chà... mày rót rượu đi chứ...
- Ừ! Rượu ngon quá chừng…
- Ngon như thứ rượu mày uống năm ngoái rồi chui vào bánh xe be kéo gỗ không?
- Mày nhắc chi chuyện đó... ớn quá chừng. Chết là hết... chuyện!
- Hết sao được. Mày chết cũng như tao chết chỉ là một chuyện. Còn mày sắp đi, tao cứ ở đây canh con suối này hoài là chuyện khác...
- Ừ phải. Nhưng mà, ma da này..
- Nhưng cái gì... Uống đi. Tao chờ... khát nước rồi đó thằng... ma rừng rú!
Cái bóng trắng kia cười nghiêng ngả:
- Ừ! Tao là ma rừng còn mày là ma da. Hai đứa mình đều ma chứ có khác gì đâu! Tao... uống đây!
Hai bóng trắng uống lai rai vài ly, im lặng và cùng nhìn vầng trăng sáng vừa nhô ra khỏi đám mây. Một người hỏi:
- Bữa nay... mùng mấy?
- Mười sáu rồi chứ còn mùng gì nữa. Trăng sáng trưng kia kìa!
- Mai mười bảy… mày được chuyển xuống dưới? Rồi chừng nào... đầu thai?
- Mày hỏi... chuyện tao chưa biết không hà?
- Hì hì...
- Tao nói cho mày mừng nha! Hồi sáng tao nhận lệnh chuyển đi, có hỏi thăm thằng ma đưa văn thư, nó nói tuần sau ngày hăm bốn có hai nhân mạng tới đây... chết ở cái suối này để thế chỗ cho mày đó ma da. Chắc mày cũng sẽ chuyển xuống dưới!
- Vậy sao? Mừng quá chừng. Tao ở đây sáu tháng rồi… buồn quá. Với lại... gần cái lò rèn của lão Tám... nóng... muốn chết.
- Ủa! Mày chết rồi mà!
Ông Tám ở rừng mấy năm nay gặp ma hoài mà nào có sợ gì? Có đêm ông thấy cả bầy ma kéo đi lũ lượt từ bên kia suối ngang qua cánh rừng này đi thẳng lên rẫy. Họ đi đâu vậy? Thì ra bọn ma đó đi ra rẫy mót lúa hay đào trộm khoai củ gì đó. Ma đói mà. Không ai cúng kiếng nên cả bọn lang thang...
Có lần ông thấy hai con ma ngồi tâm sự ngoài suối. Trời khuya lạnh buốt mà họ vẫn tình tứ, ông kêu mấy tiếng thì hai đứa ma tình nhân đó biến mất. Chắc tụi nó... mắc cỡ.
Hai bóng trắng vừa uống rượu, ăn khô của ông Tám Được chính là hai con ma mà ông Tám đã quen. Một thằng thành ma vì uống rượu say lái xe honda chui đầu vào lòng xe be kéo gỗ. Xe cán nát óc. Còn thằng ma da kia chết đuối dưới con suối hung dữ này vào mùa lũ cách nay sáu tháng. Ông Tám hết sức cố gắng cứu nó... mà cứu không được. Đó là thằng ma... đi tìm vàng. Nó chết dưới suối rồi trở thành ma da.
Lần đó...
Mưa ba ngày ba đêm nên nước đầu nguồn đổ về khá mạnh. Nhìn nước đỏ ngầu đầy xác lá mục ông Tám lo ngại cho mùa vụ dưới làng. Lũ mạnh vậy cuốn trôi hết rau, khoai, ngập úng cả cánh đồng. Dân làng sẽ thiếu cái ăn đây.
- Cầu cho ông bớt mưa. Mưa vậy... làm ăn gì cũng khó.
Ăn cơm xong, thấy trời còn mưa, ông Tám định nằm nghỉ lưng một lát thì thằng nhỏ phụ việc lò rèn kêu ông hỏi:
- Ông Tám ơi... vùng này có mỏ vàng hả ông Tám?
Ông Tám với tay lấy cây quạt, quạt nhè nhẹ đáp:
- Có! Mà tuốt bên kia đồi Chuối lận. Mày tính bỏ tao đi đào vàng hả?
Thằng nhỏ chừng mười sáu tuổi, nó cười hề hề:
- Ý không có đâu ông Tám. Con thấy ở dưới làng người ta tụ tập đông lắm. Họ nói đi đào vàng... trong núi.
Ông Tám chép miệng:
- Trong núi làm gì có. Vàng ở lạch suối đầu nguồn bên kia đồi. Tìm có vàng thì ham lắm nhưng rồi chia nhau, giành nhau chém giết lẫn nhau chứ có hưởng một mình được đâu. Nghề đó... khốn nạn lắm. Sinh mạng mỏng manh.
Nghe nói vậy thằng nhỏ phụ việc không trả lời. Nó im lặng suy nghĩ lời ông Tám nói. Ông Tám là cha chú nó, là thầy dạy nghề cho nó. Ông nói chắc chắn đúng.
- Nhưng mà... - Nó hãy còn tò mò muốn biết thêm chuyện tìm vàng. - Mưa vậy trên đó người ta tìm vàng được không ông Tám?
- Hên xui.
- Là sao ông Tám?
- Tìm ngay chỗ có vàng thì hưởng. Còn bằng không thì... thôi!
Im lặng một lát sau, ông Tám nói thêm:
- Cái đó là trời cho ai nấy hưởng. Còn cơm mày ăn, quần áo mày mặc, tiền mày xài... là của tao cho mày. Tao cho mày vì mày phụ công chuyện với tao. Vậy thôi. Đừng hỏi nữa tao ngủ chút xíu coi... cái thằng lộn xộn!
Trời dứt mưa lúc xế trưa…
Thằng nhỏ đặt vài thân củi to vào lò tiếp tục làm công việc bơm ống thụt. Ông Tám dặn phải luôn giữ lửa trong lò có độ nóng. Xứ này là rừng có nhiều cây không lo tốn củi.
Những tia lửa dày, mạnh mẽ phun lên ào ào tạo thành những tiếng khè khẹt liên hồi theo nhịp bơm hơi của thằng nhỏ. Lò lửa nóng khiến thằng nhỏ thấy ấm trong người rồi chẳng bao lâu mồ hôi nó tuôn ra ướt đẫm cả người...
Đang làm công việc thường ngày của nó, chợt thằng nhỏ thấy bên mé rừng có một người đi ra trên vai vác một cái bao coi bộ nặng. Đó là một người đàn ông khoảng ngoài ba mươi tuổi. Anh ta vác cái gì vậy?
- Ê thằng nhỏ… - Người đàn ông kêu nó.
- Cái gì chú ơi! - Thằng nhỏ nói.
Người đàn ông dò từng bước đi qua ghềnh đá để đến cái chòi lá của ông Tám lò rèn. Trên vai anh ta là quần áo, dao rựa, cây cuốc nhỏ và một ít lương thực. Anh ta đi tìm vàng miệt trên, sẵn đường qua đây, ghé hỏi chuyện có ý hỏi thăm đường đi nước bước...
Không may cho người tìm vàng. Vàng chưa thấy mà cái chết cận kề. Bàn chân anh ta đặt lên bậc đá đầy rêu xanh nên trượt ngang. Vậy là anh ta chới với mấy giây rồi té xuống suối ngay ngã ba với con nước rất mạnh tràn qua ào ạt... Bao đồ nghề bị nước cuốn trôi cùng với người chủ của nó...
Thằng nhỏ hốt hoảng la lên:
- Ông Tám ơi có người té suối!
Ông Tám Được vừa chợp mắt nghe thằng nhỏ phụ việc la hoảng vội bật dậy liền. Ông lao ra suối, chạy theo cái bao và một con người đang bị nước cuốn trôi đi. Bất kể hiểm nguy ông phóng xuống dòng nước đang chảy xiết, vươn hai tay bơi theo thật nhanh…
Ngay ngã ba suối là vùng nước xoáy dữ dội.
Ông Tám không nhìn thấy người bị nạn đâu cả. Ông lo trong bụng:
- Đâu mất rồi? Trời ơi... có nước chết!
Ông lao qua bên này, bơi qua bên kia để mong cứu người đàn ông vô phước bị nước cuốn kia. Chắc anh ta không biết lội, chắc anh ta bị va chạm lúc té xuống suối nên bất tỉnh, rồi thì...
Ông Tám trồi lên đưa tay vuốt nước trên mặt rồi quay lại lò rèn lắc bàn tay với thằng nhỏ phụ việc. Thằng nhỏ hiểu ý lắc tay lại có nghĩa là nó cũng không thấy người đàn ông kia đâu cả.
- Thôi tiêu rồi...
Ông Tám Được bỏ cả buổi chiều lặn hụp dưới suối, bơi tuốt xuống dưới thật xa để tìm kiếm mà vớt xác người xấu số kia lên. Nhưng ông chỉ mò được cái bao dụng cụ đào vàng của anh ta mà thôi. Đúng là chưa tìm được vàng đã thiệt thân.
- Hên xui! Thằng này xui tận số luôn…
Ông Tám rời con suối, leo lên bờ đi thẳng vào chòi. Vài phút sau ông trở ra với ba cây nhang trong tay. Ông thắp nhang cắm bên bờ suối với lời khấn chân thành:
- Tôi chưa biết anh là ai. Thấy anh gặp nạn mà không cứu được thật cũng ái ngại. Anh có chết thiêng thì cho tôi thấy xác anh vướng lùm cây nào, bờ đá nào để tôi đưa lên chôn cất tử tế.
Đêm hôm sau, ông Tám Được thấy anh chàng tìm vàng về báo mộng. Và ông tìm được xác anh ta đem chôn ở mé rừng cạnh con suối cách cái chòi ông vài trăm mét.
Lâu lâu ông Tám thấy anh ta về, đứng xớ rớ trước lò rèn rồi bỏ đi.
Anh ta trở thành ma da “thường trú” ở con suối này. Và con suối trở nên dữ dằn, dòng chảy xiết, nước vỗ vô bờ ì ầm. Làm như thằng tìm vàng chết tức tưởi nên nó khuấy động dòng nước cho đã cơn tức tối.
Từ ngày đó tới nay là sáu tháng. Thỉnh thoảng thằng “ma tìm vàng” đến ngồi bên bờ suối gục đầu giữa hai gối rầu rĩ. Có lẽ nó tiếc cho giấc mơ làm giàu trên bãi vàng đồi Chuối đã vượt xa tầm tay nó? Hay nó nhớ quê?
Sau này khi hai người thân thiện nhau thì nó ứng mộng nói cho ông Tám biết nó phải ở lại con suối này rất lâu, lâu cho đến khi có ai đó chết ở con suối này thay thế cho nhiệm vụ ma da của nó mới thôi. Nó chờ đợi ở ông Tám hay thằng nhỏ phụ việc là người thay thế nó.
Nhưng cả hai đều sống phây phây...
Có lần thằng ma da đến uống rượu với ông Tám, lúc ngà ngà say nó nói lời cám ơn ông Tám đã cố mà cứu nó, nhưng số phận của nó đến đó là hết cho nên ông Tám có ráng cách mấy cũng uổng công:
- Sống chết có số ông... già ơi. Tôi... biết ông sống dai lắm. Phải chi ông... thay thế cho tôi thì hay lắm. Ông là người nhân đức...
- Tao sáu mươi mấy rồi. Có đi cũng chẳng sao. Nhưng mà cái số tao chưa tới.
- Ừ! Tôi… cũng biết vậy.
Thằng ma da thở dài lúc con trăng ngả hẳn về Tây. Nó uống tiếp một hớp rượu nữa rồi đi.
Nó xuống suối...
Ma thì có gì lạ?
Nhưng lạ là lần này ông nằm ngủ chập chờn nghe hai thằng ma nói chuyện mà thấy nổi gai ốc. Sẽ có hai nhân mạng đến đây, chết ở cái suối này để thế chỗ cho thằng ma da đi về cõi âm? Vậy hai người sắp chết ở con suối này, ngày hăm bốn sắp tới là ai?
Thằng nhỏ phụ việc trở lại lò rèn vào sáng hôm sau. Nghe ông Tám kể chuyện tối qua ông thấy hai thằng ma, nó rùng mình:
- Thấy ghê vậy ông Tám? Ủa mà sao lúc con... ở đây... con không thấy... ma hả ông Tám?
- Mày nặng... bóng vía quá làm sao thấy?
- Nặng bóng vía là sao ông Tám?
- Mày biết vậy thôi đừng hỏi lòng vòng. Coi đốt lò đi. Bữa nay còn một mớ đồ nữa đó...
Ông Tám nói xong thì bỏ đi. Ông không bỏ đi cái thằng này còn hỏi tiếp nữa. Mệt.
Ông Tám ngồi gọt dao rựa ngoài khoảng đất trống mà suy nghĩ riết. Thằng ma rừng nói với thằng ma da sẽ có hai mạng đến thay thế vị trí cho thằng ma da vào ngày hai mươi bốn. Hai mạng đó là ai? Không lẽ là ông và thằng nhỏ phụ việc? Nếu là ông thì chẳng ngại gì. Tội nghiệp thằng nhỏ còn quá trẻ. Nó chết uổng lắm.
Ông Tám tiếp tục suy nghĩ. Dân làng chỉ đặt hàng ông làm lúc ông xuống chợ. Rựa cỡ nào, dao cỡ nào, lưỡi cuốc nào đều được người đặt hàng ghi sẵn cùng với tên họ. Ông cứ làm xong là xuống chợ giao hàng. Còn người tìm vàng lúc này không đi qua đây nữa vì đã có con đường tắt từ chợ lên thẳng đồi Chuối.
Vậy thì vùng này còn ai léo hánh tới đâu mà có tới hai mạng người? Thằng nhỏ vô tư chẳng biết mối lo canh cánh trong lòng ông Tám. Ngày hai mươi hai tới. Còn hai ngày nữa thôi…
Giữa trưa ông Tám kêu thằng nhỏ giao việc:
- Mày vác mớ dao rựa đó xuống chợ giao cho ông Năm bán tạp hóa. Có tờ giấy đây. Dặn ông Năm giao cho khách giùm tao. Tiền bạc tính sau nghen...
- Dạ.
- Rồi mày...
Ông Tám đang lựa lời nói khéo.
- Sao ông Tám?
- Mày ở chơi dưới đó hết ngày hai mươi lăm hãy lên. Tao mắc công chuyện phải đi vài bữa.
- Ông Tám đi thì con lên đây coi chừng chòi...
Ông Tám xua tay:
- Không được! Lúc lên ghé chợ cõng một bao gạo, lấy một ký khô, một chai dầu ăn... Nói ông Năm... cho trừ vào tiền dao rựa giao khách hàng ở dưới. Dư thiếu tính sau.
- Tao dặn có nhớ không?
Thằng nhỏ gật đầu lặp lại:
- Ở chơi sáng hai mươi sáu lên. Cõng gạo, xách khô, chai dầu ăn con két…
Ông Tám chỉ cái bao ở gốc cây:
- Đi đi… Tao dặn phải nhớ không được trái ý của tao nghe chưa!
Thằng nhỏ vác đồ đi liền. Vừa đi nó vừa lấy làm lạ về cử chỉ của ông Tám:
- Mấy bữa nay thấy ông Tám kỳ kỳ...
Cả ngày hai mươi bốn ông Tám chẳng làm gì cả. Ông nấu cơm ăn xong thì ngồi trước chòi hút thuốc. Nhìn ống bể lạnh tanh ông thấy buồn. Ngọn gió rừng lào xào và tiếng suối reo làm lòng ông khó chịu. Trong đầu ông cứ xoay mãi câu hỏi: Hai mạng người hôm nay là ai? Là ai? Hay là chính ông và một ai nữa sẽ tới đây theo lời xúi giục của thần Chết?
- Không phải mình. Thằng ma da nói sống chết có số. Mình chưa tới số chết sao được?
Ông Tám vấn điếu thuốc bập lửa đốt hút chơi. Sống ở đây lúc nào cũng có lửa lò rèn ấm áp đã quen, bữa nay không đốt lò thấy thiếu thiếu. Phải hút thuốc bù vào.
Uống miếng rượu cho ấm. Phải rồi. Ông Tám đứng dậy bước vào chòi rót rượu. Ông tìm chai rượu mấy bữa trước còn chút ít. Xong ông tìm cái ly. Loay hoay tìm kiếm trong chòi một hồi ông Tám mới có được gói đậu phộng rang, thằng nhỏ phụ việc mua ăn còn bỏ lại nửa gói.
- Vậy được rồi...
Ông Tám thích thú đem hết ra ngoài dự tính sẽ lai rai chơi một mình bên bờ suối. Nhưng khi ông bước ra thì ông liệng hết rượu, đậu, cái ly... hốt hoảng la lên:
- Đừng có xuống suối...
Ngoài kia có một cô gái đang lần bước theo ghềnh đá mò xuống suối… Ông Tám chạy nhanh ra, miệng kêu:
- Ê! Có nghe không… Đừng... đừng...
Ông chưa nói hết lời thì cô gái nọ trượt chân ngã nhào xuống suối. Dòng chảy lúc này đang mạnh, chỉ trong tích tắc cô ta đã bị nước cuốn trôi, hai cánh tay đưa lên chới với trong ngàn bọt nước sủi lên đỏ ngầu...
Ông Tám lao xuống suối đón đầu kịp nắm cánh tay đó. Thằng ma da dưới suối trồi lên nắm chân cô gái nọ ghì xuống. Ông Tám cảm thấy lực kéo đó biết rõ thằng tìm vàng đang cố thoát kiếp ma da ở con suối này. Ông bậm môi dùng hết sức lôi, dùng hai chân đạp nước thật mạnh để nhanh chóng vào bờ. Ông hét lên một tiếng:
- Để tao cứu người ta chứ?
Thằng ma da có lẽ nghe tiếng hét của ông già lò rèn giật mình buông lơi sức kéo. Nhờ vậy ông Tám đạp nước thật mạnh mới đưa được cô gái vào bờ, đẩy lên ghềnh đá. Vậy là thoát.
Cô gái trẻ mặt mày xanh lét. Cô lạnh run hay thoát chết mà vẫn còn run? Ông Tám đưa cô ta vào chòi rồi lấy khăn đưa cho cô gái. Lúc này ông Tám mới nhìn thấy cái bụng cô ta tròn vo. Thì ra cô gái này có thai. Ông thở khì:
- Đúng là... hai mạng người! May mà mình cứu kịp...
Ngoài con suối tự nhiên nước chảy rất mạnh. Bọt nước trắng xóa tung lên ghềnh đá. Tiếng nước gầm gừ dữ dội ầm ì, ầm ì liên tục... Ông Tám bước ra ngoài cảm được một luồng gió lạnh thổi tạt vào mặt mình. Ông thì thào:
- Tao... tao... xin lỗi!
Đưa cô gái về chợ xong, ông tạt qua hàng tạp hóa. Ông muốn mua ít đồ hàng mả cúng thằng ma da sẵn dịp kêu thằng phụ việc về luôn.
- Sao ông Tám dặn sáng hai mươi sáu con lên. Bây giờ kêu lên?
Thằng phụ việc mê chơi vừa nhìn ông vừa hỏi.
- Mày hỏi lung tung chi vậy. Nè... xách giỏ đồ cho tao. Về!
Đồ hàng mả ông Tám mua cho thằng ma da là nhang đèn, mấy bộ quần áo, hai xấp vải, vàng mả, tiền bạc và một con ngựa, một cái thang... Tất cả đều làm bằng giấy.
Có hai món là thật là chai rượu nếp, hai con cá khô.
Thằng nhỏ với tay lượm bịch đậu phọng rang bỏ luôn vào giỏ mây... Hai ông cháu trở lên lò rèn.
Hình ảnh cô gái trẻ có thai làm ông bàng hoàng cả người. Cô ta có thai với ai mà phải đi trầm mình tự tử vậy? Cô quyết đi tìm cái chết nhưng khi cô trượt chân té xuống dòng nước thì hốt hoảng giơ tay lên níu kéo cuộc sống. Con người ta ai chẳng muốn sống. Chết là do số thôi. Trước đây ông Tám cũng từng cứu thằng ma da mà không cứu được. Tại số nó phải chết. Còn cô gái thì chưa... dù cho thằng ma da cố kéo chân cô gái để mong được hóa kiếp.
- Mình làm thằng ma da thất vọng. Mình cải... số Trời?
Ông Tám nói lầm bầm trong miệng làm thằng nhỏ phụ việc nhìn ông chẳng hiểu gì cả.
Đêm đó ông Tám bày áo quần, vải vóc, dựng con ngựa bên cạnh xấp tiền, vàng... ngoài ghềnh đá. Con suối bỗng dưng dịu lại. Chắc thằng ma da đang tò mò muốn biết ông Tám đang làm cái gì.
Ông Tám đốt hai cây đèn cầy, thắp nhang vái với lời lẽ êm ái nhẹ nhàng của người biết lỗi:
- Ma da... Mày lên đây nhận chút quà mọn của Tám Được này. Rồi uống rượu... chia tay với tao. Đêm nay mày đi mà. Phải không? Mày đừng trách tao vô tình với mày. Tao làm chuyện cải mệnh trời vì tao không thể thấy người ta sắp chết mà không cứu. Nếu tao vì mày mà bỏ đi thì tao không còn là Tám Được nữa, tao không còn là... thằng người nữa.
Ba cây nhang cắm dưới đất trong chốc lát tàn nhang cong lại. Ông Tám biết thằng ma da đang nghe ông nói và bằng lòng với lý lẽ của một con người ngay thẳng. Ông bày rượu ra, kêu thằng nhỏ đem khô nướng ra rồi rót rượu mời thằng ma da chắc đang lẩn quẩn đâu đây:
- Uống vài ly gọi là tiễn biệt nhé ma da.
Ông Tám uống trước, rót tiếp ly khác đặt xuống đất. Chiếc ly rung nhẹ. Rượu còn nguyên nhưng thằng ma da đã uống một hớp coi như nó chấp nhận lời ông chủ lò rèn.
- Tao gửi mày tiền, vàng, quần áo, vải vóc và... con ngựa để mày đi về cõi âm cho nhanh. Hình như mày cũng bị trễ vài tiếng đồng hồ rồi? Thôi, xuống suối lấy hành lý của mày để đi cho kịp giờ.
Một mình ông Tám uống hết ba ly rượu gọi là đưa tiễn thằng hàng xóm ma da. Xong, ông đốt hàng mả, kêu tên thằng ma da để giao nhận. Ông đốt luôn con ngựa giấy. Và động tác sau cùng là ông dựng chiếc thang giấy từ mép ghềnh đá bên bờ suối lên bờ. Vừa đốt chiếc thang giấy, ông Tám vừa nói như lời cầu xin các đấng thiêng liêng cõi trên, cõi dưới:
- Thằng ma da tới lúc phải đi. Lẽ ra có hai nhân mạng thay thế cho nó ở vị trí ma da con suối này. Nhưng tôi đã cứu sống hai mẹ con người ta. Nay xin các vị khuất mặt khuất mày tha thứ và giúp cho thằng ma da được dùng chiếc thang giấy này đi vào cõi khác, nhanh chóng siêu thoát.
Ngọn lửa cháy lung linh liếm dần chiếc thang giấy. Khi ngọn lửa bao trùm chiếc thang thì có một cái bóng trắng từ con suối tối đen nhẹ nhàng bước qua chiếc thang leo lên ghềnh đá ngay chỗ ông Tám ngồi. Cái bóng đó leo lên yên con ngựa trắng vừa rung lục lạc kêu leng keng bên vách chòi lá của ông già Tám.
Ông Tám đứng dậy nhìn thằng ma da. Nó vừa thay quần áo mới, tay cầm xấp tiền giấy rãi khắp nơi. Rồi thì nó cười với ông, ghìm dây cương ngựa, trở bước...
Ông Tám đứng nhìn theo bàn tay vẫy mãi...
Thằng ma da đi khuất sau cánh rừng ông Tám mới thở phào tan hết âu lo. Thằng ma da đi trước lúc nửa đêm, nghĩa là kịp giờ hóa kiếp... Ông Tám rất mừng...
Từ đó trở đi, con suối trở nên hiền hòa dù cho mưa trên nguồn có nhiều hay ít. Ngã ba suối cũng êm ái hơn, dòng chảy dịu lại, đầy ắp phù sa đất đỏ badan.
Mùa vụ trên cánh đồng dưới kia nhờ vậy mà vô cùng xanh tốt. Dân làng no ấm, hạnh phúc.
Vì sao? Việc này chỉ một mình ông Tám hiểu.

Mục Lục | Lùi Quyển 11 | Tiếp quyển 12

Loading...

Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!

Chúc các bạn online vui vẻ !

Laptop Tùng Anh

Tour Phú Quốc

Vinhomes Cầu Rào 2

Trang Chủ