Thiên Hương con gái út của ông bà Phát Đạt, chủ hãng xuất nhập cảng 18 ngành lớn tại thành phố Sài Gòn vào những năm 1950... sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, nên đương nhiên cô gái rượu Thiên Hương được nuông chiều và hưởng mọi ưu đãi hơn nhiều bạn bè đồng trang lứa.
Ngay từ khi chuyển từ tiểu học sang đệ nhất cấp, thay vì vào học một trường trung học danh tiếng tại Sài Gòn như Áo Tím, Chassecloup Laubat.... Thiên Hương được cha mẹ gửi vào một trường Dòng ở Đà Lạt được chế độ nội trú. Do vậy mỗi năm về thăm nhà chỉ vào dịp nghỉ hè hay lễ tết.
Lúc đầu Thiên Hương phản đối dữ dội bằng cách tuyệt thực mấy ngày liền trong nhà nội trú, bởi làm sao một cô gái mới lớn đang ham chơi, ham vui với nhiều bạn đồng trang lứa lại có thể bị giam hãm trong bốn bức tường trường nội trú nhà Dòng với chỉ toàn học trò nữ!
Các bà sơ trong trường Dòng ngay tuần lễ đầu tiên đã có ý định trả con bé bướng bỉnh về với gia đình, nếu không có sự xuất hiện của một chàng trai 18 tuổi. Chuyện hơi lạ, nhưng đó là sự thật và là bước ngoặt trong cuộc đời của Thiên Hương. Chàng trai ấy là Thái, học sinh đệ nhị cấp đang chuẩn bị thi tú tài phần 2 vào cuối năm ở Sài Gòn. Anh chàng là con một gia đình trí thức trung lưu ở Đà Lạt, nên thỉnh thoảng về thăm nhà trên đó. Vào cuối tuần năm ấy Thái tình cờ có mặt bên bức tường rào cao của nhà Dòng, đúng lúc cô bé Thiên Hương vì không chịu nổi cảnh tù túng của trường nội trú nên bắt chước bạn bè tìm cách leo rào ra ngoài.
Hầu hết dân leo rào đều có kinh nghiệm nên những chuyến trốn đi rồi quay về của họ đều êm xuôi, trót lọt. Chỉ có Thiên Hương đúng là dân tay mơ, mới trốn lần đầu, nên thay vì nối hai tấm trải giường vào nhau rồi cột một đầu ở cành cây bên trong, một đầu thòng ra ngoài và cứ thế đu ra, Thiên Hương vừa mới xuống khỏi đầu tường chưa tới một mét thì dây vải đã sút mối nối và cô bé rơi tự do xuống mặt đất cách gần hai mét.
Tưởng chết. Thiên Hương nhắm mắt lại sau khi thét lên một tiếng. Nhưng lạ thay, cô cảm thấy té thật êm, như có ai đỡ bên dưới. Mở mắt ra, suýt nữa Hương đã kêu lên lần nữa, bởi đang bế cô trên tay là một cậu con trai mặt còn non choẹt nhưng có nụ cười rất người lớn.
- Anh...
Thái, chàng trai “định mệnh” của cô bé trốn tường rất ga lăng:
- Tấm thân này mà đo đất thì còn gì là mình hạc xương mai nữa. Cô bé!
Thiên Hương dù đang hết vía nhưng cũng kịp bật dậy làu bàu:
- Dám ôm người ta...
Chẳng một chút tự ái, Thái lịch sự giới thiệu:
- Mình là Thái nhà ở gần đây. Còn đàng ấy chắc là mới trốn trường lần đầu?
Như vớ được phao giữa dòng, Thiên Hương quên hết e thẹn:
- Nhà ở gần đây hả? Vậy cứ cuối tuần ra đây đỡ giùm tấm thân bé bỏng này nhé.
- Và kiêm luôn hướng đạo, dẫn đường chứ gì?
Thiên Hương nhún vai rất “đầm”:
- Cái đó còn tùy...
Họ gần tuổi nhau, nên rất dễ thân thích, nhất là khi biết Thái cũng từ Sài Gòn lên. Hương đã hỏi thẳng:
- Mình về nhà cậu chơi được không?
Thái cũng có cử chỉ rất “Tây”:
- Oui, mademoiselle (Vâng, được thôi tiểu thư).
Thiên Hương như chim được xổ lồng, chạy tung tăng về phía trước, làm Thái phải gọi giật lại:
- Ở phía này cơ!
Họ sóng đôi bên nhau như đôi bạn đã quen biết lâu ngày, và mãi khi về gần đến nhà Thái, anh chàng mới hỏi:
- Đàng ấy tên gì vậy, chưa xưng ra?
- Thiên Hương!
Thái buột miệng khen:
- Hương thơm của trời!
Thiên Hương sửa lại:
- Mình khoái được gọi là hương sắc của trời hơn.
- Ô, cái nào cũng “très jolie” (đẹp tuyệt) cả!
Họ thân nhau từ hôm ấy. Nhờ thế Thiên Hương thôi không tuyệt thực nữa và cũng chẳng còn ôm gối khóc mỗi đêm như trước nữa. Trái lại, cô nàng cứ mong ngóng cho mau đến chiều thứ bảy để được leo tường và được anh chàng đẹp trai đón sẵn dẫn đi chơi khắp nơi ở Đà Lạt và sau đó còn được về nhà anh chàng ăn những bữa cơm gia đình thật vui.
Thái ở nhà ôn bài thi một tháng và lại phải trở xuống Sài Gòn thi tú tài toàn phần năm ấy. Anh chàng thi đậu và có được ba tháng hè ở Đà Lạt trước khi vào đại học. Phần Thiên Hương thay vì về nhà cha mẹ như mong ước buổi đầu, vậy mà hôm ba má lên đón, cô bé đã từ chối thẳng thừng:
- Con không thích về nhà nữa. Về rồi lại phải đi, con không chịu nổi cảnh chia tay.
Đó là một cách nói. Thật ra cô nàng chỉ muốn ở lại Đà Lạt với mối tình đầu của mình. Suốt ba tháng hè đó chàng trai vừa tròn 18 tuổi với cô nàng tuổi 16 đã bắt đầu những ngày đẹp nhất của cuộc tình - Từ Thủy tạ, Hồ Xuân Hương, cho đến Thung Lũng Tình Yêu, hồ Than Thở, thác Cam Ly... nơi nào cũng có dấu chân của họ.
Đó là khởi đầu của cuộc tình, nhưng cũng là khởi đầu của một bi kịch về sau...
Sáu tháng sau. Khi Thái đã vào học đại học năm thứ nhất, thì cũng là lúc ở Đà Lạt cha mẹ Thiên Hương đã đích thân lên tận trường chính thức xin với các sơ cho con gái mình nghỉ học. Họ không giải thích thật lý do cho Thiên Hương nghỉ học, nên lúc mới nghe Hương đã phản đối ầm ĩ. Đến khi suy nghĩ lại thì cô chợt vui, bởi chuyển về Sài Gòn có nghĩa là sẽ ngày ngày gặp người yêu!
Tuy nhiên, niềm vui của Thiên Hương đã bị dập tắt, ngay ngày đầu trở lại nhà, Thiên Hương đã đối diện với một bi kịch: cha mẹ Hương mời cơm một người bạn làm ăn tại nhà, và trong bữa ăn đó Hương được đưa ra giới thiệu với những câu nói như sét đánh ngang tai. Mẹ Hương nói với khách:
- Cháu nó còn hai năm nữa mới lấy tú tài 2, nhưng ngay bây giờ hai bên chúng ta có thể hứa với nhau một lời về hôn ước của chúng nó.
Ông Phát Đạt nói cụ thể hơn:
- Ngay tuần này anh chị có thể cho tiến hành lễ hỏi. Hai năm sau thì cưới.
Thiên Hương nãy giờ đứng nghe mà như từ trên trời rơi xuống, tưởng chừng như mẹ mình đang nói về ai đó... Cho đến khi mẹ cô kéo tay con chỉ về phía hai người khách:
- Đây là hai bác Phúc Lợi, cha mẹ của Thiên Phúc, người sẽ là chồng của con sau này. Con hãy chào hai bác đi.
Thiên Hương không còn tự chủ được, cô cắn chặt đôi môi như muốn bật máu ra, rồi vụt chạy ra ngoài như người bị ma đuổi!...
Vân Hạnh, 18 tuổi con của một nhà tư sản, chủ một đồn điền thuộc loại nổi tiếng ở vùng đất đỏ. Nổi tiếng không chỉ vì bề thế làm ăn, mà còn là một trong hai cô con gái của ông bà chủ. Mà trong số này Vân Hạnh thuộc hàng hoa khôi. Cô nàng tuy mới ở tuổi 18, nhưng đã làm chết mê chết mệt hàng vài chục những vương tôn công tử đương thời. Hầu hết những kẻ trồng cây si đều thuộc hàng có máu mặt của Sài Gòn...
Nhưng, không như mọi người nghĩ, không đúng như ước của cha mẹ, người lọt mắt xanh của Vân Hạnh lại là một anh tú tài nghèo, người thất cơ lỡ vận phải rời Sài Gòn lên tận vùng đất đỏ để xin làm chân thư ký quèn tại đồn điền cao su Nguyễn Đình. Câu chuyện tình của đôi trai gái không đồng giai cấp này bắt đầu từ một chén mủ cao su.
Hôm ấy Vân Hạnh, Như Lan hai chị em con ông chủ theo cha lên đồn điền để dự một buổi dạ vũ do chính ông chủ, cha của hai cô gái đứng ra tổ chức để chiêu đãi quan chức cấp lớn của Pháp. Khách dự gồm hơn trăm người có máu mặt thời ấy. Họ đến vì nể nang sự giàu có của chủ gia một phần, nhưng bởi sức hút của nhan sắc hai cô con gái rượu của Nguyễn Đình thì nhiều hơn. Gia đình khách mời nào cũng dẫn theo các cậu con trai quý tử của họ với một mong ước duy nhất: con họ sẽ lọt được vào mắt xanh của hai vị tiểu thư họ Nguyễn, đặc biệt là Vân Hạnh.
Buổi chiều trước tiệc dạ vũ, xe đưa cả nhà Nguyễn Đình lên tới đồn điền. Thấy còn sớm, chính Vân Hạnh đã đòi được đi ra vườn cao su chơi. Trái với cô em, cô chị Như Lan thì tỏ ra kiêu kỳ, đã bài bác ý tưởng của em:
- Có gì ngoài mấy gốc cao su mà chơi. Tao mệt muốn chết, chỉ muốn nằm ngủ một giấc trước khi buổi tiệc bắt đầu.
Thấy chị không muốn đi. Vân Hạnh rủ người tớ gái cùng đi. Cô còn dặn:
- Chị đừng nói với ba tôi là đưa tôi ra rừng nghen.
Như con chim xổ lồng, Vân Hạnh chạy nhảy tung tăng giữa mặt đất dầy những lá cao su rụng. Nhũng hàng cây thẳng tắp ngút mắt đã làm cho cô thích thú vô cùng.
Cứ chạy ôm hết gốc cây này đến gốc cây kia làm cuộc trốn tìm với cô tớ gái. Mải mê chạy giỡn, chỉ một lúc sau họ đã đi khá xa.
Người tớ gái phải nhắc:
- Cô Ba đừng đi xa quá kẻo trời tối.
Vân Hạnh một khi đã vui rồi thì có trời cản. Cô vừa chạy thẳng tới phía trước và nói vọng lại:
- Chị không đi thì cứ đi về, tôi sẽ tự về khi nào mỏi chân.
Chạy một mạch đến khi cảm thấy mệt, cô bé mới dừng lại vịn gốc cao su nghỉ. Chợt nhìn thấy chén hứng nhựa đang bắt đầu có những giọt nhựa trắng chảy xuống.
Thật là hình ảnh ấn tượng mà trước đây dù đã vài lần theo cha lên đây nhưng Hạnh chưa bao giờ tận mắt thấy nên trố mắt nhìn. Rồi không ngăn được sự tò mò, Vân Hạnh đưa mấy ngón tay chấm vào chén mủ đặc biệt đó.
Cảm giác đầu tiên là sự mát lạnh, nhưng sau đó khi rút ngón tay lên thì cô bé mới hoảng hốt: Mủ cao su quấn chặt lấy ngón tay, càng ngọ nguậy, thì các ngón tay lại càng dính vào nhau!
Vân Hạnh quýnh quáng đưa bàn tay còn lại chụp vào các ngón tay đang dính mủ. Nó lại thê thảm hơn, chỉ trong vài giây sau cả hai bàn tay cô gần như dính liền vào nhau.
Cô bé bướng bỉnh sắp òa lên khóc vì chẳng biết làm sao chợt có ai đó chụp vào tay cô với chiếc khăn mùi xoa trắng tinh, kèm câu nói:
- Phải dùng cái này thì mới gỡ rối được, thưa tiểu thư.
Nhìn lại thấy người đang nắm tay mình là một chàng trai lạ. Suýt nữa Hạnh đã kêu thét Iên. Nhưng như đã đoán trước anh chàng kia lịch sự nở nụ cười hiền hòa.
- Tôi là thư ký trong đồn điền này, cô đừng sợ. Cứ đứng yên để tôi giúp cho.
Bàn tay thuần thục, chỉ lát sau thì cả hai tay Vân Hạnh đã sạch trơn. Tuy nhiên, thấy ở các kẽ tay còn rít, anh chàng lại rất bất ngờ kéo ngay vạt áo sơ mi đang mặc lên lau một lần nữa. Hạnh muốn ngăn anh ta lại nhưng không còn kịp, cho đến khi cử động thấy không còn vướng víu gì, cô mới lên tiếng:
- Cám ơn anh. Chiếc áo của anh...
Chàng tai mỉm cười thân thiện:
- Đâu có sao, dân làm cao su thì ai mà không dính mủ. Có mủ mới có tiền!
Bây giờ Hạnh mới chợt lo:
- Trời sắp tối rồi...
Cô quay bước về, nhưng chợt nhớ mới lên tiếng hỏi:
- Anh tên gì?
- Phú.
- Tôi Ià Vân Hạnh.
Chàng trai tên Phú đã mau miệng:
- Là con ông chủ.
Vân Hạnh đang hối hả quay về nên không kịp nói thêm câu nào. Đến lúc đi vài mươi bước rồi cô mới quay lại thì bắt gặp chàng đang đứng lặng nhìn theo...
Buổi dạ vũ hôm đó tự dưng Hạnh kêu đau bụng và xin không ra dự. Khi cha mẹ cô vào bắt ra thì Hạnh cố làm như đau dữ dội, nên bà mẹ cô đã lo ngại thật sự:
- Có lẽ con nhỏ không quen gió độc ở xứ này nên như thế. Tui nói rồi, có tiệc tùng gì thì tổ chức ở Sài Gòn, lên làm chi cái đất đầy những chướng khí chết người này chẳng biết!
Thấy vợ cằn nhằn và vốn cưng cô con gái út nên dù đám khách ngoài kia đều mong muốn Vân Hạnh xuất hiện. Ông Nguyễn Đình cũng đành phải ra ngoài với lời cáo lỗi.
Cô chị Như Lan thì rất khoái, bởi vắng cô em gái như thỏi nam châm thì cô sẽ trở thành cục nam châm hút hết các chàng trai đêm nay.
Và thay vì phải trở về Sài Gòn ngay sáng sớm hôm sau nhưng viện cớ là quá mệt, đi không nổi, nên Vân Hạnh xin ở lại một ngày nữa. Chiều con, nên ông bà Nguyễn Đình đã để lại bà vú già lo chăm sóc cho Vân Hạnh, còn họ và Như Lan thì về trước.
Ngay khi ba mẹ vừa rời khỏi đồn điền thì Vân Hạnh đã tung mền ngồi dậy, gọi người tớ gái hỏi liền:
- Ở đây có ai là thư ký tên Phú?
Chị người làm vốn đã phục vụ lâu năm nên khá rành:
- Dạ có. Thầy Phú làm ở văn phòng bên kia, còn ở ngôi nhà nhỏ phía sau, cách đây vài trăm thước.
- Anh ta ở... một mình?
Chị người làm gật đầu:
- Chỉ có một mình. Nghe nói chưa vợ con gì hết. Từ ngày lên đây đến ba, bốn năm rồi cũng chẳng thấy người thân nào lên thăm.
Chỉ hỏi bấy nhiêu đó thôi. Hạnh cho người tớ gái đi ra. Và ngay sau đó cô đóng vai trò của cô chủ nhỏ, đã đột ngột viếng thăm văn phòng của đồn điền. Cô bước vô phòng làm việc của gần một chục nhân viên, đảo mắt một vòng mà không hỏi một ai. Có vài nhân viên biết mặt cô chủ nên kính cẩn đứng lên chào rất lễ phép. Số còn lại cũng làm như vậy. Có người lên tiếng hỏi:
- Thưa cô chủ, cô có cần gì không?
Không trả lời câu hỏi, cô hỏi lại:
- Nhân viên ở đây chỉ bấy nhiêu người đây sao?
Một bác lớn tuổi vội đứng lên đáp:
- Dạ, còn thư ký Phú đang có việc ngoài rừng.
Hạnh lễ phép chào mọi người rồi bước nhanh. Chẳng ai hiểu mục đích cuộc viếng thăm đột xuất của cô chủ nhỏ nên thấy lo lo...
Chỉ có Vân Hạnh là thấy vui vui khi không chạm mặt “thầy ký” Phú trong văn phòng đông người. Cô đi thẳng ra rừng và lúc ấy mới thấy rối, bởi vườn cao su đến mấy trăm mẫu, lối đi nào cũng giống nhau biết đi hướng nào để không bị lạc đường?
Cũng may, ngay trước tầm mắt của Hạnh là một ngôi nhà sàn nhỏ, mà chợt nhớ lại lời chị người làm nói. Cô nghĩ đó là nhà của Phú. Không một chút nghĩ ngợi. Hạnh bước thẳng về hướng đó.
Nhà đóng cửa, cả cửa sổ và cửa cái, mặc dù không có khóa ngoài nhưng Hạnh đoán là không có người ở trong. Nhìn đồng hồ tay thấy mới hơn mười giờ. Hạnh chép miệng:
- Phải đến trưa anh ta mới về...
Cô lưỡng lự một chút, cuối cùng mò trong túi áo ra một chiếc khăn tay màu trắng thơm phức nước hoa định đặt nó ở khe cửa sổ, nhưng để vào rồi lại lấy ra, thấy không ổn.
Không có cách nào đặt chiếc khăn mà chủ nhà khi về mở cửa có thể nhìn thấy ngay và hiểu rằng có người đã để lại chiếc khăn mà thầy ký đã lấy ra lau mủ cao su cho người chưa từng quen biết...
Lại lưỡng lự một hồi nữa, chợt Hạnh phát hiện cửa cái chỉ khép hờ. Cô đánh bạo đưa tay đẩy vào. Cửa mở dễ dàng. Bên trong nhà khá đơn sơ. Chỉ một chiếc giường cá nhân với một chiếc gối, một chăn đắp được xếp ngay ngắn. Một tủ quần áo nhỏ, một bàn viết, trên vách treo khá nhiều tranh vẽ. Có lẽ do chủ nhân ngôi nhà đã vẽ...
Biết là hơi quá đáng khi tự tiện thâm nhập nhà người khác, nhưng lúc đó chẳng hiểu sao Vân Hạnh lại đánh liều bước rón rén vào. Không khí trong nhà khá ấm cúng, dễ chịu.
Chỉ tính bước vô tìm chỗ để chiếc khăn rồi ra ngay nhưng chính sự ấm cúng của gian nhà đã làm cho Hạnh lưu lại thêm. Cô bước tới bên bàn viết, nhìn mấy quyển sách xếp ngăn nắp, trên bàn là một xấp giấy trắng còn nguyên, có lẽ chủ nhân đang định viết gì đó...
Bỗng cô nhìn được mấy dòng chữ ở đầu trang. Chữ viết khá đẹp, rất bắt mắt. Và đặc biệt nhất là ở nội dung. Dù không muốn đọc trộm nhưng Vân Hạnh cũng liếc thấy mấy chữ: “… cô nàng như một bông hoa lạ từ trên trời rơi xuống, làm sáng rực lên cả một góc rừng cao su vốn xám xịt một màu buồn tẻ. Mình đã liều lĩnh nắm lấy bàn tay như những búp hoa đỏ, mặc dù là để giúp nàng lau mủ cao su, nhưng nghĩ lại mình thấy đáng ăn mấy bạt tay vì tội liều. Nhưng cũng chính vì thế mà cho tới bây giờ mình vẫn còn bồi hồi, chắc là sẽ mất ngủ hôm nay và còn nhiều hôm nữa…”
Đoạn viết chỉ bấy nhiêu đó, nhưng Vân Hạnh đọc xong, lại phải đọc lại lần nữa và cứ nghĩ nó dài ra... Cô cười một mình khi biết anh chàng đang viết về mình.
Thì ra...
Một tiếng kẹt ở cửa làm cắt đứt mạch suy nghĩ của Hạnh. Phú bước vào đột ngột và cả hai đều sửng sốt nhìn nhau.
- Cô…
- Anh...
Họ chỉ thốt được nửa tiếng đó rồi lúng túng nhìn nhau… mãi mấy mươi giây sau Hạnh mới lắp bắp nói:
- Tôi… chỉ...
Cô đưa chiếc khăn tay tới trước mà không nói thêm lời nào. Còn Phú thì sau phút đột ngột đó đã lấy lại bình tĩnh:
- Tôi đi ra ngoài ít khi khóa cửa, vì trong nhà chẳng có gì đáng giá...
Vân Hạnh cũng bình tĩnh hơn, cô chỉ tờ giấy đang viết dở dang hỏi:
- Cái này mà mất thì anh có tiếc không?
Lúc này Phú mới chợt giật mình, anh chàng biết cô nàng đã đọc.
- Tôi... tôi...
- Viết về ai đó mà không được phép của người ta là có tội đó nghen.
Cô đút chiếc khăn tay vào lại túi mình:
- Định đem chiếc khăn này để đền lại anh, nhưng anh đã viết như vậy thì thôi...
Cô bước ra cửa. Phú chợt móc trong túi mình ra một chiếc khăn dính đầy mủ cao su và cười:
- Nó vẫn còn dùng được mà!
Hạnh đứng sựng lại, rồi chẳng hiểu sao cô móc chiếc khăn của mình ra, đặt vào tay Phú, còn chiếc khăn dính mủ cao su của Phú thì cô giật lẹ và nhét vào túi. Xong đi nhanh ra ngoài. Cô nói với lại:
- Như vậy là huề nhé... “thầy ký”!
Đó, mối tình của họ bắt đầu như vậy đó. Vậy mà khắng khít, dính chặt còn hơn nhựa cao su dán vào nhau.
Từ đó, cứ chiều chứ bảy là Vân Hạnh lại đòi lên đồn điền cho bằng được thay vì đi Vũng Tàu, Long Hải chơi với gia đình. Ban đầu ba má Hạnh chỉ ngạc nhiên sao cô con gái cưng của mình lại thay đổi nếp sống nhanh như vậy? Nhưng lần hồi họ phát hiện ra chuyện động trời. Đối với họ việc con gái con chủ đồn điền mà yêu một người làm công là một chuyện như trời long đất lở, không thế nào chấp nhận được.
Kết cuộc là thầy ký Phú bị đuổi việc, cho một số tiền và buộc phải đi định cư ở một vùng xa xôi trên cao nguyên.
Vân Hạnh thì hụt hẫng đau khổ và đã vài lần tìm cách tự tử...
Thu Hà sinh ra trong một gia đình nghèo. Cô bé lớn lên trong cảnh túng thiếu của cha mẹ, cùng một bầy anh chị em sáu người. Những tưởng Hà sẽ không được học hành hoàn chỉnh, bởi hoàn cảnh thiếu trước hụt sau ấy...
Tuy nhiên với sự siêng năng, chăm chỉ nên Hà đã vượt qua tiểu học, rồi trung học. Năm đệ tứ. Hà thi đậu trung học đệ nhất cấp, rồi học lên ban tú tài.
Đang học đệ tam thì bước ngoặt cuộc đời Hà bắt đầu, khi cô đi dạy kèm tại nhà một đại tư bản ngành đồn điền. Ông Nguyễn Đình. Tại đây số phận đã đưa đẩy để Thu Hà gặp Tuấn, người anh cả của Vân Hạnh và Như Lan.
Là con cả của đại tư bản, việc kế nghiệp cha là đương nhiên đối với Tuấn, nhưng tính tình của chàng trai này thì lại hoàn toàn ngược lại với ông chỉ biết kinh doanh và tiền bạc, do vậy bất cứ lúc nào được cha nhắc đến chuyện kế nghiệp thì Tuấn luôn dửng dưng. Niềm đam mê duy nhất của Tuấn là đi đây đi đó để giúp đỡ người nghèo, trẻ mồ côi. Do vậy, khi gặp Thu Hà, cô học trò nghèo đi dạy kèm thì con tim nhân hậu của Tuấn đã xao xuyến.
Họ đã yêu nhau một cách tự nhiên như bao nhiêu đôi trai gái khác. Nhưng họ quên rằng rào cản lớn nhất mà họ phải vượt qua chính là gia đình. Cụ thể là nhà tỷ phú đồn điền Nguyễn Đình.
Sau sự cố cô con gái út Vân Hạnh yêu chàng thư ký đồn điền, hai ông bà Nguyễn Đình đã căng thẳng đầu óc để đối phó, cản ngăn và vừa yên tâm sau màn hạ độc thủ bằng cách đuổi thư ký Phú đi mất tiêu, trở về thì họ hết sức kinh ngạc khi phát hiện một quả bom nổ chậm khác đang ở trong nhà.
Hôm đó lúc vừa trong bệnh viện trở về sau ca tự tử bằng thuốc ngủ của Vân Hạnh, đang ngồi nghỉ mệt ở phòng khách thì anh con cả bước ra, tay trong tay với Thu Hà.
Trước cái nhìn kinh ngạc của cha mẹ, Tuấn đã bình tĩnh thưa thật mọi chuyện:
- Thưa ba má, con và Thu Hà yêu nhau, chúng con xin làm đám cưới sau khi Hà xong tú tài toàn phần...
Chưa để con nói hết câu, bà Nguyễn Đình đã quát lên:
- Mày vừa nói gì hả?
Lâu nay vốn buồn lòng vì thái độ dửng dưng với công việc kinh doanh của đứa con trai cả, nay ông Nguyễn Đình như lửa cháy đổ thêm dầu, thuận tay ông chụp chiếc gạt tàn thuốc trên bàn ném thẳng về phía Tuấn kèm tiếng quát:
- Thằng bất hiếu, cút đi khỏi mắt tao!
Chẳng biết vô tình hay cố ý, chiếc gạt tàn đã bay trúng thẳng vào mặt Thu Hà. Tội nghiệp cô bé đang khúm núm nép bên mình người yêu đã gục ngay xuống, máu đầm đìa trên gương mặt xinh đẹp. Mặc cho Tuấn hốt hoảng ôm thân thể Thu Hà. Ông bà Nguyễn Đình thản nhiên bước về phòng riêng.
Bị chấn thương khá nặng, nhưng may mắn không nguy hiểm đến tính mạng. Thu Hà phải nằm bệnh viện đến cả tuần. Tuấn ở cạnh người yêu suốt những ngày đó và cũng từ lúc đó Tuấn thề với lòng là sẽ không bao giờ trở lại mái nhà mà cha mẹ chỉ là những người chỉ biết có đồng tiền, quên hết mọi thứ trên đời...
Và tuy nằm cùng bệnh viện với Vân Hạnh, cách nhau chỉ vài phòng, mỗi khi ông bà Nguyễn Đình vào thăm con gái đều đi ngang và nhìn thấy nhưng chưa bao giờ Thu Hà được họ ghé hỏi thăm một tiếng. Cô buồn tủi là đương nhiên, mà Tuấn cũng vừa buồn vừa hận.
Đợi những lúc Vân Hạnh ở một mình, Tuấn đã vào tâm sự và an ủi em gái. Khi biết chuyện Thu Hà bị nạn, Vân Hạnh đã khóc rất nhiều và có lần đã thốt lên:
- Em không chết được thì có sống em cũng sống với người mình yêu. Anh Hai có dám như vậy không?
Tuấn xiết chặt tay em:
- Anh ủng hộ em và ngược lại em cũng đứng về phía anh và Thu Hà chứ?
Vân Hạnh vui trong ánh mắt:
- Chắc chắn như vậy. Để tối nay nếu khỏe em sẽ qua thăm chị ấy.
Bất ngờ Hạnh hỏi:
- Anh Hai có biết ba má đuổi anh Phú đi đâu không?
Tuấn gật đầu:
- Chưa chắc là chính xác nhưng anh nghĩ một nơi nào đó ở Đà Lạt.
- Đà Lạt thì đâu có xa.
Tuấn tỏ ra rành chuyện:
- Không xa lắm nhưng đồn điền trà thì từ Đà Lạt đi vào khá hiểm trở. Em nhớ đồn điền trà của ba má không?
Vân Hạnh gật:
- Em có nghe nói nhưng chưa tới đó lần nào.
- Phú bị đẩy ra đó với một điều kiện ngặt nghèo, khó lòng trở về.
Hạnh mừng thầm, cô tự hứa với lòng: “Giá nào mình cũng gặp lại Phú...”
Từ hôm ở bệnh viện trở về, Vân Hạnh gần như sống biệt lập trong phòng riêng của mình. Cô không xuất hiện trong các bữa cơm gia đình, cũng không ra ngoài mỗi khi có mặt cha mẹ ở nhà.
Người trước kia thường đi ra ngoài hoặc chuyện trò, vui chơi cùng cô là Như Lan. Kể từ lúc xảy ra chuyện thì hầu như Vân Hạnh cũng không muốn gần. Hai chị em trước ngủ chung phòng, nhưng từ lúc trở về nhà thì chính Hạnh đã mang đồ đạc cá nhân sang căn phòng trống bên cạnh để ở hẳn.
Tuấn cũng đi khỏi nhà, trong số anh chị em chỉ duy có Vân Hạnh là đồng cảm với anh mình, vậy mà từ lúc ra đi Tuấn cũng không hề liên lạc gì. Giữa Hạnh và Thu Hà từ lúc đó cũng thân tình hơn, thương yêu nhau hơn. Có lẽ mối cảm thông này bắt nguồn từ sự đồng cảnh ngộ ngang trái như nhau.
Phần ông Nguyễn Đình thì có lẽ sợ làm căng hơn nữa thì con gái sẽ tự tử lần nữa, nên họ không còn kiểm soát quá chặt như trước. Họ để Hạnh sống tự do theo ý cô và dành hẳn chiếc xe hơi mới mua cho Hạnh muốn lái đi đâu tùy thích. Một phần có lẽ cũng do ông bà đã quá tự tin khi nghĩ đã cắt đứt sự liên lạc giữa Hạnh và thư ký Phú. Phần nữa họ cũng muốn Vân Hạnh được dịp giao du với bạn bè khác, nhất là trong giới thượng lưu để cô có cơ duyên gặp được ai đó, quên hẳn mối tình trái ngang kia đi.
Vân Hạnh hầu như chẳng bữa vào về trước bảy giờ tối. Có hôm Như Lan muốn làm lành với em gái, đã đề nghị được đi chung xe ra chợ mua đồ, nhưng Hạnh đã thẳng thừng từ chối:
- Khi nào chị đi tìm được Phú về đây thì chị em mới còn có nghĩa là chị em. Còn không...
Như Lan biết lỗi mình, cũng chính vì cô đã mét mọi chuyện về mối quan hệ giữa Vân Hạnh và Phú lại còn thêm mắm dặm muối để cha mẹ làm quyết liệt chuyện chia cắt tình yêu của họ.
Một mình lái xe đi hết nơi này đến chỗ nọ, giao du với đủ thứ bạn bè. Tuy nhiên không như mong đợi của ông bà Nguyễn Đình, hầu hết người Vân Hạnh kết giao không một ai trong giới giàu có. Trong số bạn học cũ mới. Hạnh chỉ toàn lựa những người trong giới bình dân, lao động để kết giao.
Và chiều thứ bảy hôm đó cuộc hẹn của Vân Hạnh không phải với bạn trai, mà là với hai cô gái: Một người học chung trường với Hạnh, dưới cô một lớp từ năm tiểu học và một người nữa là Thu Hà.
Sau khi nằm bệnh viện ba ngày, Thu Hà xuất hiện và nghỉ hẳn việc dạy kèm tại nhà Hạnh, nhưng mối liên hệ giữa họ lại trở nên thắm thiết hơn. Do đó khi nhận được lời rủ của Hạnh, hẹn gặp tại một quán vùng ngoại ô thì Thu Hà đã nhận lời ngay. Tuấn biết chuyện đòi cùng đi nhưng Hà cương quyết không cho:
- Chuyện con gái với nhau, đàn ông đi làm gì?
Vân Hạnh, Thu Hà đến nơi trước. Về người khách thứ ba. Thu Hà cứ thắc mắc mãi:
- Ai vậy Hạnh?
Vân Hạnh ra vẻ bí mật:
- Cũng không lạ, nhưng để gặp sẽ biết. Khi người đó tới thì Thu Hà ngạc nhiên vô cùng, reo lên:
- Thiên Hương!
Thiên Hương nhỏ hơn hai người một tuổi, học dưới một lớp ở tiểu học cho đến khi Hương chuyển lên Đà Lạt học trường Dòng. Tuy ít gần, nhưng do thân nhau từ nhỏ nên lúc nào gặp lại nhau họ mừng hơn là chị em ruột.
Cuộc hội ngộ thật bất ngờ, chính Thiên Hương phải lên tiếng:
- Em cứ tưởng chị Vân Hạnh rủ đến gặp ai, không ngờ là chị. Sao, chị Hà đã ra trường chưa?
Siết chặt tay cô bạn nhỏ. Hà mắng yêu:
- Xa mặt cách lòng nên quên hết rồi. Mình hơn cậu một lớp, mà năm nay cậu đệ tam phải không?
Vân Hạnh chen vào:
- Mới lớp đệ tứ thôi. Bỏ học từ đầu năm thì làm sao lên đệ tam được. Thu Hà ngạc nhiên:
- Ủa, sao bỏ học? Nghe cậu học ở Đà Lạt mà.
Vô tình bị chạm vào nỗi đau, Thiên Hương sẽ không vui nhưng Vân Hạnh vẫn kể lại sơ lược chuyện Hương và Thái bị gia đình ngăn trở. Và cuối cùng cô nói một câu mà cả ba đều nhìn nhau:
- Ba đứa con gái bị chính cha mẹ mình cướp mất tình yêu!
Trong nỗi cảm thông sâu sắc họ cùng siết chặt tay nhau và nước mắt cùng tuôn trào. Hồi lâu Hạnh mới nói:
- Hương sống ra sao bấy lâu nay?
Cười héo hắt. Hương đáp chán chường:
- Mình chỉ còn biết vẫn đi tìm Thái trong vô vọng.
Hạnh nhẹ lắc đầu:
- Mình đâu hơn gì bồ. Cha mẹ mình còn ác hơn, họ dùng tiền bạc và cả thủ đoạn nữa, đày Phú đi biệt tăm.
Giọng Thiên Hương càng buồn hơn:
- Thái bị ba má mình làm nhục nên bỏ học trở về Đà Lạt. Mình lên đó tìm, nhưng chẳng ai biết Thái đi đâu, cả năm nay không liên lạc về.
Hỏi đến chuyện của Thu Hà thì chính Vân Hạnh lại kể rõ hơn:
- Anh mình đã bỏ nhà đi từ cả tháng nay đến Hà cũng không biết tin. Hôm qua mình nghe trong nhà nói ba má mình đã hoàn tất thủ tục để anh ấy đi du học ở Pháp. Một kiểu chia cắt tình cảm của anh Tuấn và Hà. Mình phản đối, nhưng hiện tại mình còn nghĩa lý gì với gia đình nữa...
Bữa tiệc hội ngộ giữa ba người bạn gái đã biến thành tiệc nước mắt. Ai kể lại chuyện mình cũng bằng sự chán chường. Sầu thảm và cuối cùng là khóc. Thiên Hương có vẻ bi thảm hơn, cô tỏ ra hối tiếc:
- Chính mình đã hại Thái. Anh ấy nhà tuy nghèo nhưng ham học và học giỏi, nếu không yêu mình thì chỉ mấy năm nữa anh ấy tốt nghiệp, tương lai rạng rỡ trước mắt.
Hạnh cũng chẳng hơn gì:
- Phú đang yên ổn với đồng lương khiêm tốn, nhưng như thế cũng đủ để anh ấy sẽ học tiếp trong vài năm tới. Gia đình anh ấy ở tỉnh xa chỉ trong cậy vào mình anh ấy thôi.
Thu Hà từ đầu chỉ lẳng Iặng nghe và thở dài. Hạnh phải lay vai:
- Hà có ý kiến gì đi chứ...
Thu Hà khóc. Với cô, cú sốc vừa rồi là quá nặng. Vừa mất người yêu vừa bị ông bà Nguyễn Đình đến tận nhà xỉ vả làm nhục, đến nỗi giờ đây mỗi khi ra khỏi nhà cô không dám ngẩng nhìn mọi người.
- Hay là thế này...
Vân Hạnh đề xuất:
- Bọn mình đi Đà Lạt.
Thiên Hương ngạc nhên:
- Lên đó làm gì?
Thu Hà cũng nói:
- Mình bây giờ chán mọi thứ, chẳng thiết đi đâu.
Giọng Hạnh trở nên nghiêm túc:
- Mấy người có nhớ trên đường đi Đà Lạt, qua đèo Bảo Lộc có mấy ngôi chùa nhỏ vắng vẻ?
Như hiểu được ý Hạnh, Thiên Hương reo lên:
- Đi tu!
Hạnh xiết tay bạn:
- Bồ dám không?
- Có gì đâu mà không dám. Đi tu là bỏ lại trần gian những phiền lụy, sân si. Mình cũng đã từng nghĩ...
Vân Hạnh nói như một người đang thuyết giảng giáo lý:
- Chỉ có chốn ấy mới làm cho mình thanh thản. Mình sẽ quên được bên kệ kinh. Mình sẽ...
Thu Hà chợt hỏi:
- Nhưng ai cho mình vào đó tu? Mình nhớ nơi đó chỉ có mấy cái am cỡ rất nhỏ, không phải chùa...
Thiên Hương tỏ ra rành rẽ:
- Đúng là không có chùa Iớn. Nhưng cần gì, miễn là có chỗ để mình ở cùng nhau. Mình chỉ cần ở cùng nhau, không cần tu cũng được.
Vân Hạnh tính chi li hơn:
- Ba đứa con gái mà ở chỗ vắng vẻ đó thì khó yên. Chỉ có trong lốt nâu sồng thì mới ổn. Mình nghĩ, am hay cốc vắng, bỏ hoang càng tốt. Quan trọng là mấy bồ có dám không đã?
Trong một phút bốc đồng cả ba cùng ôm chặt lấy nhau, giọng quyết tâm:
- Không hối tiếc gì cả!
Vân Hạnh vạch chi tiết:
- Sẵn mình có xe, chính mình sẽ lái và bọn mình cùng đi ngay sáng mai. Lên tới đó mình sẽ cho xe xuống vực, còn bọn mình thì leo lên chỗ cái am cũ trên núi.
- Đồng ý chưa?
Cả ba đồng thanh:
- Cùng nhau!
Thật đúng giờ. Lúc bảy giờ sáng, cả ba đã gặp nhau ở một góc đường. Mỗi người chỉ mang theo một túi quần áo như một cuộc du lịch ngắn ngày. Vân Hạnh chu đáo hơn, cô bảo:
- Phải mua theo gạo, muối, tương chao và nhiều lương khô. Mình sẽ tự lực khá lâu chứ chẳng có ai giúp đỡ đâu.
Họ khởi hành lúc tám giờ. Hạnh lái xe rất giỏi, lại là xe nhà quen tay lái nên hơn năm giờ sau cả bọn đã lên tới chân đèo Bảo Lộc.
Đường vắng nhưng leo dốc khá nguy hiểm, nên Hạnh cho xe chạy thật cẩn thận. Một phần là phải để mắt tìm địa điểm cái am cũ trên triền núi. Vừa trông thấy, Thiên Hương đã reo lên:
- Ở trên kia kìa!
Cả ba xuống xe và cùng sóng bước leo dốc lên am như những tín đồ đi tìm đất thiêng để thăm viếng. Phải mất hơn mười phút họ mới lên tới nơi. Đó là một am cũ, được xây bằng gạch, nhưng có lẽ từ lâu lắm rồi không có người ở hoặc lui tới nên khắp nơi nhện giăng, bụi bám đầy. Thiên Hương hơi đăm chiêu khi nghĩ đến những ngày phải sống ở một nơi như thế này…
Tuy nhiên Vân Hạnh thì lại hài lòng, cô nắm tay hai bạn siết chặt, như để động viên họ:
- Nơi này là tốt rồi. Vừa gần đường lộ nhưng lại tránh được sự tò mò của người đời. Mình chịu ở đây. Cho dù mai mốt các bồ có ai đó bỏ cuộc giữa chừng thì mình cũng quyết ở lại một mình.
Cả Hương và Thu Hà đều nêu quyết tâm:
- Tụi này theo Hạnh đến cùng. Chúng ta không còn gì để mà luyến thế nữa...
Hạnh giục:
- Vậy thì chúng ta mau xuống xe đem đồ đạc lên đây rồi mình còn tìm cách đẩy xe xuống vực nữa.
Cả ba lại theo nhau trở xuống. Thiên Hương gợi ý:
- Thu Hà mang đồ lên cùng với mình, để Hạnh lo vụ cái xe.
Hai người hì hục đem ba va li đồ cùng với mấy thứ như gạo, muối, lương khô và nồi niêu soong chảo lên am. Xong Hương bảo:
- Hà ở trên này lo quét dọn sơ cho có chỗ để đồ, còn mình trở xuống giúp Hạnh.
Trong khi đó thì Hạnh đã nổ máy cho xe ra sát mép vực. Dù chả quen việc này, nhưng cô nghĩ chỉ cần vô số, rồi mở cửa bước xuống, sau đó đưa tay đẩy xe tới một chút là chiếc xe sẽ lao xuống vực sâu. Như thế là hết, cắt đứt mọi liên hệ với gia đình, với quá khứ...
Và cô làm đúng như thế. Nhưng oan nghiệt thay, khi Hạnh cố sức đẩy cánh cửa xe đang mở tới trước, chiếc xe chuyển động và lao nhanh hơn dự đoán của cô. Cùng lúc một chân Hạnh bị vấp cục đá ngã chúi về trước, tay cô vướng vào tay nắm cửa chiếc xe. Chiếc xe lôi theo cả Vân Hạnh!
Thiên Hương vừa tới, cô chứng kiến toàn bộ cảnh rùng rợn vừa rồi với sự hoảng hốt tột cùng, cô há to mồm kêu thét lên:
- Hạnh!
Rồi như một quán tính, hoặc do một động lực vô hình nào đó đã đẩy Hương về phía vực. Cô còn kịp nhìn thấy Hạnh văng ra chới với rồi mất hút dưới vực sâu thăm thẳm.
Không còn tự chủ được nữa. Thiên Hương nhắm nghiền đôi mắt lại, người ngã trong tình trạng vô thức về phía vực sâu.
Thu Hà đang ở trên am tự dưng cô nghe những âm thanh kỳ lạ, đã vội lao nhanh xuống. Vừa kịp nhìn thấy Thiên Hương rơi từ mép vực xuống.
Đang chới với bên bờ vực. Thu Hà chỉ còn kịp kêu lên một tiếng thảng thốt, rồi như có ai đó từ phía sau đẩy tới. Toàn thân cô gái tội nghiệp đã rơi theo hai bạn của mình!
Lúc đó trời vừa hoàng hôn. Trên đỉnh Bảo Lộc sương xuống nhiều và trời tối rất nhanh...
Ngay đêm hôm đó khi đang ngon giấc bỗng bà Nguyễn Đình kêu to rồi ngồi bật dậy. Ông cũng dậy theo ngạc nhiên:
- Bà sao vậy?
Sờ tay chân, trán, mặt của vợ đẫm mồ hôi. Ông Nguyễn Đình lo lắng:
- Bà gặp ác mộng?
Người đàn bà thường khi rất đanh đá, giọng sắc lẻm, giờ bỗng òa lên khóc rất thảm hại. Ông Đình phải gắt lên:
- Chuyện gì vậy?
Lúc này bà mới ôm lấy ông, giọng run run:
- Tôi thấy con Hạnh và hai đứa bạn nó nữa, trong đó có con Thu Hà bồ thằng Tuấn, đứa nào người cũng đầy máu, tóc tai rũ rượi. Nó đứng ở đây nè, nhìn tôi mà khóc chứ không nói gì hết...
Ông Nguyễn Đình thở phào:
- Tưởng gì, chứ còn ba cái chuyện mộng mị...
Nhưng bà vẫn không ngưng khóc:
- Vía tôi thấy rõ ràng lắm, con Vân Hạnh như muốn nói gì đó với tôi nhưng chưa kịp thì có ai đó kéo nó đi, nó biến mất. Tôi lo quá, làm sao đây ông?
Bật đèn sáng lên, ông Nguyễn Đình gọi to:
- Như Lan dậy đi sang ba hỏi!
Như Lan còn ngái ngủ, vừa bước sang đã bị mẹ hỏi dồn:
- Con Vân Hạnh đi đâu từ sáng đến giờ?
Như người ở cõi trên. Như Lan lắc đầu:
- Con làm sao biết được...
Cả vợ chồng Nguyễn Đình đều chạy sang phòng riêng của Hạnh. Mở cửa ra chẳng thấy ai, chợt ông bước hẳn lại bàn phấn cầm lên một mẩu giấy nhỏ với những dòng chữ của Hạnh:
“Thưa ba má.
Con bất hiếu đã từ lâu làm ba má mất vui và lo lắng nhiều. Nay con quyết không làm phiền ba má nữa. Con sẽ chọn một nơi thật xa, một nơi không có những phiền toái của cuộc đời, để gởi thân nơi đó. Ba má đừng tìm con bởi con muốn như vậy!
Xin ba má tha thứ cho con…”
Ông buông thõng một câu:
- Nó bỏ nhà đi rồi.
Bà giật lấy lá thư, vừa đọc xong đã chết điếng:
- Không xong rồi! Giấc mơ vừa rồi...
Trong ngày đó chẳng hẹn mà cha mẹ của Thiên Hương và Thu Hà cũng đều chạy qua kể chuyện gần giống như giấc mơ của mẹ Vân Hạnh.
Má Thiên Hương kể:
- Nửa đêm tôi nghe tiếng con Thiên Hương kêu má ơi cứu con, khi tôi mở mắt ra nhìn thấy nó đứng kế bên con Hạnh với một đứa nữa, cả ba máu me đầy người như bị tai nạn xe cộ gì đó...
Ông Nguyễn Đình lúc đó mới hoảng:
- Chiếc xe! Chết rồi, con Hạnh lái xe đi...
Ông gọi mấy tài xế trong nhà hỏi thì ai cũng đáp:
- Đúng là sáng sớm này cô Tư có lái xe đi nhưng cũng tưởng như thường khi cô vẫn đi...
Chị người làm trong nhà thuật lại:
- Khi đi cô Hạnh có biểu tôi lấy cho mấy cái nồi, chảo và ít đồ nấu bếp, cả gạo nữa, tôi hỏi đi đâu thì cô nói đi chơi với mấy người bạn. Mà cũng lạ, từ nào giờ cô Hạnh có quen nấu nướng gì đâu?
Bà Đình phụ họa:
- Khi nấu cơm còn không biết vo gạo làm sao nữa thì đem theo nồi niêu để làm gì. Hay là nó đi xa lâu ngày? Ông Đình gắt:
- Thì nó đã viết trong thư đó, nó đi luôn mà.
- Nhưng đi đâu mới được, mà tại sao có cả Thu Hà nữa?
Đó là sự lên tiếng của Tuấn. Từ cả tháng nay đây là lần đầu tiên anh trở về nhà. Thấy Tuấn, bà mẹ mừng quýnh:
- Tuấn ơi, đi tìm tụi nó đi con!
Tuấn kể:
- Hồi nửa đêm con cũng thấy Thu Hà hiện về, mặt mày giập nát, máu me đầy người. Cô ấy không nói gì chỉ đứng khóc rồi sau đó biến đi...
Chọn lựa mãi, cuối cùng ông Hồng Phát quyết định lấy vùng đất thung lũng dưới chân đèo Bảo Lộc để lập trang trại. Nhiều người hỏi mỉa mai ông:
- Bộ hết chỗ sao ông lại chọn cái lòng chảo như chốn địa ngục này để lập ấp?
Ông Hồng Phát nói riêng với từng người, không để ba cậu con trai nghe:
- Mục đích của tôi là muốn ba thằng phá gia chi tử này sống cách ly với mọi người nên mới chọn nơi đây, chứ đâu phải không biết.
Nhìn ba cậu con trai tuổi sung sức, nhưng xem ra cậu nào cũng yểu điệu như thục nữ, mấy người bạn ngán ngẩm:
- Ba bảy hai mốt ngày là tụi nó bỏ trốn khỏi đây hết, lúc đó ông ở một mình với ma!
Ông Hồng Phát cười gượng:
- Đành phải thử xem sao, chứ hồi năm ngoái tôi đưa tụi nó về Cần Thơ. Vô tận trong chốn khỉ ho cò gáy vậy mà chỉ bốn ngày là chúng bỏ về Sài Gòn hết. Anh biết thằng lớn tên Thanh đó đã phá của tôi hết hai cái xe hơi, một căn phố lầu. Còn thằng Dương, em kế nó thì bán nguyên hai chiếc xe hàng chở cá. Thằng Ngọc là em út tưởng khá hơn, nhưng mới chưa đầy một năm nó đã ăn cắp bằng khoán nhà đem đi cầm cố đến hai lần, tôi phải đi chuộc về thiếu điều tán gia bại sản vì chúng nó.
Rồi ông thở dài, nói tiếp:
- Tất cả tiền của chúng đều đổ vô mấy đứa vũ nữ và sòng bạc Đại Thế Giới, Kim Chung hết.
Một người bạn lắc đầu:
- Đã chứng nào thì rồi vẫn tật nấy thôi. Ông có đưa chúng xuống đây thì rồi cũng có ngày chúng trốn đi thôi.
- Biết vậy, những dù sao thì cũng phải làm. Mà mấy ông nên nhớ, con đường từ trên lộ cái xuống đây chúng ta phải nhờ những người thượng dẫn đường, có lúc còn phải võng đưa đi thì mới vượt qua được mấy con suối, khe sâu vực thẳm. Tôi hy vọng sự hiểm trở này sẽ cầm chân chúng lâu hơn. Đợi cho đến lúc tôi với má nó bán hết tài sản, gom lại vốn rồi về quê làm ăn. Lúc đó chúng nó có về cũng chẳng sao.
Ông Hồng Phát tổ chức cũng khá hợp lý: Ông mướn người phát hoang năm mẫu đất rừng, sau đó cho trồng giống thông ba lá, là loại thông sắp tuyệt chủng ở Đà Lạt. Theo ông, việc trồng thông tuy lâu có huê lợi nhưng lại là cách tốt nhất để buộc chân ba cậu phá gia chi tử. Thanh lớn nhất làm nhiệm vụ cai quản chúng, Dương đã từng học ngành canh nông nên quán xuyến phần kỹ thuật. Riêng cậu út Ngọc thì lo việc điều động nhân công về giờ giấc, công việc, tiền công thì ông trả trực tiếp cho những người thượng ở trong núi để họ giúp việc trồng trọt, chăm sóc rừng, lại trả trước sáu tháng một lần, nên ba cậu con trai hầu như không ai nắm tiền để chi tiêu.
Ông cất một ngôi nhà lớn ở giữa trang trại để ba người cùng ở. Nhưng cả ba đều phản đối, đòi ở riêng. Ngọc nói:
- Con chỉ muốn ở một cái chòi nhỏ cũng được miễn là cái thế giới riêng của con, để con sáng tác thơ văn.
Biết đâu con út của mình có năng khiếu văn chương, nên ông Hồng Phát thuận theo, nhờ người dựng cho Ngọc căn nhà sàn rất xinh ở một góc vườn. Thanh thấy vậy cũng đòi:
- Con và Dương ở chung nhưng nhà có hai cửa cái hướng về hai hướng khác nhau, để mạnh ai nấy ra vào, sinh hoạt riêng tư. Con muốn có thì giờ nghiền ngẫm quá khứ để quên nó đi.
Dương cũng nói:
- Con sẽ tạo một khu vườn ươm riêng để nghiên cứu các loại giống cây trồng. Vậy ba mua về cho con các loại hạt, đủ loại hết.
Thấy các con đều có ý muốn trụ lại như vậy, ông Hồng Phát thấy yên tấm lòng vô cùng. Ông ra về lòng mừng thầm nghĩ rằng, hy vọng lần này kế hoạch của ông sẽ không thất bại.
Ông trở về Sài Gòn thu xếp công việc. Những dự tính như thu gom tài sản, bán nhà... không ngờ diễn ra nhanh hơn dự tính. Chỉ hai tháng sau là xong. Vợ chồng ông chuyển cả về Cái Răng, Cần Thơ lập nghiệp.
Ba tháng sau ông trở lên Bảo Lộc. Phải mất cả nửa ngày ông mới tới được trang trại. Và việc thấy đủ mặt cả ba cậu con trai làm ông vui sướng khôn tả. Nhất là tất cả họ lại trong trạng thái khỏe mạnh, vui vẻ, yêu đời hơn sự tưởng tượng của ông.
Ngọc mau mồm mau miệng nhất trong ba anh em, đã lên tiếng ngay:
- Ba khỏi lo gì nữa cho tụi con. Anh Dương đã gieo được lúa để có gạo ăn, ảnh còn trồng được nhiều rau, trái mà không đợi giống của ba đem lên. Tất cả đều do có người mang tặng. Còn anh Thanh thì ngày nào cũng đi vào núi để tìm thông giống và săn bắn, đồ ăn thừa, có thể bán nữa! Còn con thì… viết được gần nửa cuốn tiểu thuyết khi nào xong sẽ nhờ ba đem về Sài Gòn in.
Ngạc nhiên về chuyện đó, ông thử hỏi:
- Không đứa nào muốn bỏ về Sài Gòn sao?
Cả ba đều dứt khoát:
- Tụi con sẽ ở luôn nơi đây. Mà không chừng... cưới vợ sinh con nữa!
Nghe như chuyện cổ tích, ông Hồng Phát cười ngất tỏ vẻ không tin. Thanh xác nhận y như thật:
- Tụi con sẽ cưới vợ ở đây!
Ở lại trang trại ba ngày, ông Hồng Phát âm thầm tìm hiểu xem có phải ba đứa con mình đã tìm gặp các cô gái trong vùng núi này và kết họ? Nhưng ông chỉ mất công vô ích. Vùng vực sâu hẻo lánh này chỉ những người Thượng bản khai sinh sống, còn cô gái trẻ thì cô nào cũng mình trần, da mốc thâm sì và hầu như không bao giờ chịu tới gần người Kinh. Dứt khoát họ không phải là đối tượng của ba đứa con ông.
Cuối cùng ông cũng tìm ra một kết luận cho riêng mình: các con ông đã thích nghi với công việc và đã thật sự hồi tâm biết suy nghĩ, biết lo tu thân...
Khi ra về ông vui lắm...
Nhưng chắc chắn có một điều mà người cha tội nghiệp kia không bao giờ biết: Đó là cả ba đều đã thật sự có... người tình!
Bắt đầu chuyện của Ngọc, cậu út mê văn chương, tâm hồn lãng mạn...
Hôm đó vào giữa tháng, trăng tròn và sáng vằng vặc soi khắp khu thung lũng, đẹp như một bức tranh thủy mặc. Ngồi từ trong phòng trên nhà sàn nhìn ra, Ngọc bất giác buột miệng ngâm mấy câu thơ tình.
Chợt có người cất ngang dòng thi hứng của anh:
- Đúng là thi sĩ đa tình!
Giật mình, Ngọc quay lại nhìn và vô cùng sửng sốt khi thấy đứng giữa phòng riêng của mình là một cô gái mặc bộ quần áo lụa màu hồng đẹp như tiên nga!
- Cô… cô là…?
Thấy Ngọc lúng túng, cô gái tiến lại gần hơn và nhoẻn miệng cười đến đất trời cũng nghiêng ngả đắm say:
- Khách vào nhà mà chẳng mời ngồi sao?
Bấy giờ Ngọc mới ấp úng:
- Cô làm sao cô... vô phòng được, khi cửa phòng tôi đã cài then?
Quả nhiên cửa ra vào vẫn còn cài then bên trong. Cô gái lại giữ nguyên nụ cười:
- Chỉ vì như vậy mà tôi không được cho phép ngồi phải không?
Ngọc đành phải đứng lên nhường chiếc ghế duy nhất cho cô nàng ngồi, nhưng cô gái đã chủ động ngồi ngay lên giường ngủ vừa nũng nịu nói:
- Mệt muốn đứt hơi, lại bị lạnh nữa, phải chi được phép nằm nghỉ một lát có lẽ thích lắm đây.
Vừa nói cô nàng vừa ngả ra nằm tỉnh bơ như người quen thân. Ngọc càng khó xử hơn:
- Cô… cô là… cô là…
Cô gái mắt nhắm nghiền, giọng buồn ngủ thật sự:
- Người ta bị lạnh cả đêm, có thể là bị cảm lạnh rồi cũng nên...
Rồi cô ta thả hồn vào giấc điệp. Ngọc chẳng có cách nào khác, đành ngồi đó nhìn vị khách không mời. Lúc này anh chàng càng thẫn thờ, xao xuyến mãnh liệt hơn trước sắc đẹp phi thường của cô gái đang ngủ. Tưởng chừng như đây không phải là thực tế, mà là một giấc mơ nào đó... cho đến khi cô nàng lên tiếng mà mắt vẫn nhắm nghiền:
- Người ta sắp chết rồi sao nhẫn tâm không cứu vậy?
Như có sự thúc giục vô hình nào đó, Ngọc bước tới đưa tay sờ lên trán cô gái và định đi tìm thuốc cảm. Chợt cô gái đưa tay nắm chặt lấy tay Ngọc, giục giã:
- Hãy cạo gió giúp đi. Nhanh lên!
Ngọc nghe theo như cái máy. Anh hơi gượng khi kéo áo cô gái lên để thoa dầu, nhưng cô gái không e thẹn gì, còn rướn người lên để cho Ngọc dễ kéo áo lên. Phần da thịt cô ta hiện ra trước mắt trắng muốt, làm cho Ngọc như hoa mắt, mặt nóng ran, trống ngực đánh liên hồi...
Cạo xong phần lưng, tự động cô gái xoay lại phần ngực. Thấy Ngọc còn đang do dự, cô nàng giọng yếu ớt giục:
- Cạo luôn ngực nữa mới đỡ.
Ngọc làm theo và gần như lúc đó những ngón tay anh không còn do mình tự điều khiển nữa. Cứ nhìn vào bộ ngực phập phồng lên xuống hai mắt Ngọc lúc mờ, lúc tỏ hơi thở cũng phập phồng theo.
Đến một lúc tự dưng cô gái kêu lên:
- Em lạnh quá, lạnh đến chết mất!
Ngọc bừng tỉnh, đưa tay sờ vào da thịt cô nàng thì bất giác kêu lên:
- Lạnh như băng! Trời ơi...
Cô nàng vẫn nói:
- Không còn cách nào khác nữa. Phải nằm đè lên người em thì mới cứu được em thôi. Em chết mất, trời ơi!
Tiếng kêu của nàng như mũi kim xuyên con tim Ngọc, anh không còn tự chủ nữa, nhanh nhẹn leo lên nằm úp thân lên người cô gái.
Và cứ thế...
Lát sau Ngọc có cảm giác là toàn thân cô nàng đã ấm trở lại. Hơi thở cô ta đều hơn. Nhưng phần Ngọc thì từ từ chìm vào giấc ngủ sâu...
Ngọn đèn dầu đã cháy hết tim, từ từ tắt lịm...
Chuyện củaThanh thì bắt đầu từ một buổi trưa. Lúc đó Thanh đang nghỉ chân bên bờ suối sau một buổi sáng lội bộ đi gần khắp cánh rừng tìm cây giống. Không tìm được cây, Thanh quay sang săn bắn, công việc mà gần như ngày nào anh cũng làm. Nhưng thật không may, hôm nay Thanh bắn đến gần hai chục mũi tên mà chẳng làm bị thương một con thỏ. Chán nản Thanh đã ngồi nghỉ, rồi gió mát làm anh thiếp đi lúc nào không hay...
Chợt có tiếng ai rên gần đâu dó khiến Thanh choàng tỉnh. Trước mắt anh là một cô gái người Kinh tuổi chưa đến 20, đang ngã quỵ trên thảm cỏ xanh, máu ở một bên vai cô chảy ướt cả áo.
Chẳng thể nhận thức được là đang tỉnh hay mơ. Thanh lên tiếng:
- Cô bị sao vậy?
Đáp lại câu hỏi của Thanh chỉ là những tiếng rên yếu ớt. Xem chừng cô gái đã quá kiệt sức rồi, nên Thanh bước nhanh tới định đỡ nàng ta lên. Tuy nhiên, khi vừa chạm vàoThanh đã phải kêu lên:
- Cô lạnh quá! chắc là...
Thanh nhanh tay bế xốc cô gái lên định đưa về nhà mình. Nhưng vừa lúc ấy một cơn mưa to ập đến, nên dù không muốn Thanh cũng phải bế cô nàng đi ngược theo dòng suối, nơi anh nhớ rõ có một túp lều bỏ hoang của những thợ đốn gỗ.
Căn lều tuy đã cũ, cũng đã lâu không có người ở, tuy nhiên nó vẫn còn kín đáo, đủ sức che mưa. Đặt cô gái xuống, bấy giờ Thanh mới nhìn kỹ, cô ta đẹp như một cô gái thành thị, cách ăn mặc thì đúng là một người từ thành phố tới. Đã lâu lắm rồi không được nhìn thấy nhan sắc như thế này nên Thanh cứ ngồi nhìn mê mẩn, quên cả việc cứu chữa vết thương cho cô ta.
Mãi đến khi cô gái tỉnh lại, rên mấy tiếng nhỏ thì Thanh mới chợt giật mình, anh chạy ra ngoài tìm nhúm lá cây mà những người dân thiểu số quanh vùng chỉ dẫn dùng để trị thương, đem trở vô tìm cách kéo vai áo ra để đắp thuốc. Nhưng loay hoay mãi mà chẳng làm sao kéo được tay áo quá chật. Đột nhiên Thanh thấy người con gái đưa tay lên cởi nút áo và tuột nhanh cả phần trên, để lộ ra phần vai bị thương. Một vết thương khá sâu. Nhúm lá được đắp vào có hiệu quả tức thì, máu không còn chảy nữa. Lúc này cô gái cũng đã tỉnh lần. Cô lấy một mũi tên còn dính máu, đưa cho Thanh xem:
- Ai đâu mà quá ác độc, bắn em mũi tên này, may mà chưa chết…
Thanh giật mình khi nhận ra đó là mũi tên của mình. Anh lẩm bẩm:
- Lúc nãy mình bắn trúng con thỏ mà?
Cô gái nghe được giương mắt nhìn Thanh:
- Anh đã bắn?
Thanh càng lúng túng hơn:
- Tôi... tôi bắn con thỏ. Bắn trúng nó rõ ràng...
Lại một tiếng rên đau đớn. Cô gái dường như quá đau nên chụp cả hai tay vào người Thanh bóp mạnh. Dù rất đau nhưng Thanh cố chịu dựng và anh hơi yên tâm vì lúc ấy hai bàn tay cô gái đã không còn lạnh buốt như lúc nãy.
- Suýt giết người mà chỉ đắp chút thuốc là xong sao?
Thanh gỡ tay cô nàng ra, nhưng cô ta vẫn cố bấu chặt như cố tình giữ anh lại, lúc này Thanh mới pha trò được một câu:
- Tôi không bỏ đi đâu, đừng lo!
Vòng tay không còn bấu đau nữa mà là ôm nhẹ nhàng, rất dễ chịu. Thanh thầm mong cô ta cứ giữ yên như vậy...
- Anh là người Đà Lạt xuống đây đi săn?
- Không, tôi ngụ ở đây. Ở trang trại đàng kia. Còn cô? Sao lại lạc tới chỗ thâm sơn cùng cốc này?
- Tôi ở Sài Gòn, lên đây đi săn cùng bố tôi sáng nay và bị lạc và bị nạn. Giờ chẳng biết bố tôi ở đâu rồi?
Bấy giờ giữa họ đã có vẻ thân tình hơn, Thanh hỏi:
- Cô tên gì?
- Diệu Anh.
- Tôi là Thanh, anh cả của nhóm ba anh em độc thân ở trang trại này.
Giờ cô gái mới cười. Cô ta bật dậy như chưa hề bị thương và còn cười đùa:
- Tôi chỉ một mình mà đến ba hàng độc thân. Vậy biết chọn ai bỏ ai?
Thanh dang rộng hai vai như khoe thân hình to khỏe của mình:
- Như vầy chắc không đến nỗi tệ?
- Cái đó còn tùy...
Cơn mưa bên ngoài đã dứt. Cô gái có vẻ lo lắng:
- Bây giờ mới gay, chẳng biết làm thế nào để trở về Đà Lạt!
Thanh nhìn mặt trời thấy còn sớm, nên bảo:
- Tôi cũng chỉ mới lên xứ này chưa lâu nên không rành đường rừng núi quanh đây. Vậy cô nên ở lại, chờ vài bữa xem người nhà cô có trở lại tìm hay không. Còn nếu không thì tôi sẽ thuê người Thượng đưa cô đi...
Cô ta le lưỡi rùng vai:
- Ở lại nơi cái chòi này?
Thanh cười:
- Ai lại thế. Trang trại tôi có đủ tiện nghi, nếu cô Diệu Anh không ngại ba chàng độc thân thì về đó tạm mấy hôm, vừa điều trị thêm vết thương.
Từ phút ấy đúng là phút giây định mệnh của Thanh...
Dương dậy thật sớm, anh dặn hai anh em còn ở nhà:
- Tôi ra rừng, vô bản người Thượng để tìm giống cây và nghiên cứu thổ nhưỡng, lúc nào xong mới về.
Anh chàng nói vọng vào cho Thanh và Ngọc nghe chứ thật ra từ cả tuần rồi chưa hề thấy họ thức sớm như trước đây. Cứ đóng cửa phòng ở miết trong đó...
Anh còn nghe Ngọc nói vọng ra từ nhà sàn:
- Đã bảo rồi, đừng gọi mà.
Dương không đi sâu vào rừng mà đi ngược lại về phía thung lũng gần con đường đèo Bảo Lộc. Nơi đó có dòng suối chảy qua, nước quanh năm mát rượi, mà thường khi nếu không gấp gáp chuyện gì Dương vẫn thường hay đắm mình dưới dòng nước mát đó hàng giờ liền.
Buổi sáng hôm đó trời khá đẹp, ánh nắng rọi xuyên qua cành lá xuống mặt nước trong xanh, cộng với tiếng róc rách làm thành một âm thanh và cảnh sắc mà bất cứ ai nhìn thấy cũng phải rung động bồi hồi. Dương cảm thấy trong người uể oải nên thay vì đi tìm cây thuốc trước, anh lại nẩy ra ý nghĩ sẽ tắm suối một chặp để thư giãn.
Dòng nước mát quả có tác dụng rất tốt, chỉ ngâm mình vài phút Dương đã cảm giác thư thái, cứ muốn nhắm mắt ngủ một giấc. Do đã khá quen với đoạn suối này nên Dương ôm một gốc cây trôi giữa dòng rồi cứ thế thả mình lềnh bềnh theo nước trôi mà không cần quan sát hai bên bờ suối.
Chợt đến một đoạn nước nông. Dương cảm giác như va chạm một vật gì đó khác thường, anh nhìn lại kêu lên:
- Một người!
Quả là một người đang nằm vắt ngang thân thể nửa trên bờ nửa dưới suối. Lại là một phụ nữ!
Dương nhìn thấy dòng máu từ thái dương cô gái thì hốt hoảng gọi to:
- Cô ơi, có sao không?
Cô gái im lặng, nhưng nhìn hơi thở nhấp nhô ở ngực áo Dương hiểu là cô ta còn sống. Không chậm một giây. Dương bế xốc cô nàng lên và chuyển lên bờ, tìm một chỗ bằng phẳng đặt xuống. Việc đầu tiên là xé vạt áo lau khô chỗ vết thương ở thái dương và băng lại để cầm máu.
Khoảng năm phút sau cô gái tỉnh lại, nhìn thấy Dương, cô hoảng hốt bật dậy ngay:
- Ông là...
Dương cố tạo vẻ thân thiện:
- Tôi ở trang trại gần đây, vừa rồi nhân đi tắm suối thì gặp cô bị nạn.
Cô gái chưa hết vẻ sợ hãi, hai tay ôm ngực, mắt nhìn láu liên khắp nơi như sợ có ai theo đuổi. Dương phải trấn an:
- Nơi này ngoài cô và tôi ra thì không có một ai khác. Người ta gọi đây là thế giới khác mà.
Cô gái vẫn chưa yên tâm:
- Họ rượt đuổi theo tôi, họ sẽ bắt tôi lại, tôi...
- Họ là ai?
Cô gái im lặng hồi lâu mới kể lại chuyện:
- Tôi bị gia đình ép gả cho một tên nhà giàu lớn tuổi hơn cha mình. Ông ta mang tôi lên Đà Lạt, đi ngang qua đèo tôi lợi dụng xin đi tiểu và lao xuống vực.
Dương kêu lên:
- Sao cô dại vậy, cô có biết là mình đồng xương sắt mà rơi xuống đây cũng nát tan ra, nói chi con người.
Nhìn một lượt khắp người cô gái. Dương hỏi:
- Cô xem còn bị thương ở đâu nữa không?
Cô gái thử cử động chân tay rồi lắc đầu:
- Không sao cả. Có lẽ lúc sáng này tôi đã rơi lên một tàng cây rồi sau đó rơi xuống dòng suối sâu...
Dương chép niệng:
- May quá cho cô. Đúng rồi, ở cách đây vài trăm mét thượng nguồn của dòng suối này, nơi đó rất sâu, nước từ đó đổ về đây. Có lẽ cô đã rơi và trôi từ đó xuống tấp vô chỗ này...
Thấy cô nàng thương tích không nặng lắm nên Dương gợi ý:
- Thương tích của cô không biết thế nào hay là tôi đưa cô về trang trại nghỉ tạm, đợi người nhà cô tới tìm...
Cô gái cắt ngang:
- Không bao giờ! Nếu họ tới tìm thì tôi thà đi luôn vô rừng sâu cho hổ beo ăn thịt còn dễ chịu hơn.
Dương đưa tay cho cô ta nắm và đứng dậy:
- Cô đi được chứ?
Thử bước tới, chợt cô nhăn mặt có vẻ đau. Dương phải cúi người xuống bảo:
- Cô không thể đi được rồi, hãy lên lưng tôi cõng cho. Đừng ngại.
Mà cô gái chẳng chút ngại ngùng, bám trên lưng Dương một cách tự nhiên. Con đường từ suối về nhà ngót gần cây số lại gập ghềnh khó đi, nhưng sao cõng thêm một cô gái trên lưng mà Dương vẫn không hề thấy mệt. Anh thầm nghĩ và cười một mình...
Vì không muốn để Thanh và Ngọc nhìn thấy, nên Dương đưa ngay cô về phòng riêng. Và để cho cô gái an tâm. Dương bảo:
- Đây là nhà riêng của ba anh em chúng tôi. Mỗi người một thế giới riêng, chẳng ai phạm vào ai. Họ cũng chẳng thắc mắc gì việc có người lạ. Cô sẽ nghỉ trên giường kia, còn tôi sẽ ngủ ngoài hàng ba này, chỗ này đêm đêm tôi vẫn nằm đọc sách và ngủ quên nhiều lần.
- Nhưng...
- Cô đừng ngại, tôi chưa bao giờ làm điều gì xằng bậy với ai. Nhất là hiện tại tôi đang… tu tâm.
Nếu tinh ý Dương sẽ thấy cô gái quay đi chỗ khác và mỉm cười.
Dương thường khi rất ít nói, lầm lì nhất trong số ba anh em, vậy mà hôm nay anh ta lại hoạt bát lên hẳn. Vừa lăng xăng lo dọn dẹp phòng, chuẩn bị che chắn chung quanh giường ngủ vừa giải thích:
- Tuy đây là phòng riêng, nhưng còn có tôi nên cô cần phải riêng biệt hơn. Trong phòng này có đủ tiện nghi cả, nào phòng tắm, phòng vệ sinh và cả bếp riêng. Hai anh em khác của tôi cũng có thế giới như thế này nên mạnh ai nấy lo, không bao giờ họ sang đây. Nếu lỡ có gặp họ ngoài sân thì cô cứ nói là... bạn ở Sài Gòn lên. Mà cô quý danh là gì, tôi biết được chứ?
- Thu Nga.
- Tôi là Dương.
Đêm hôm đó lần đầu tiên trong phòng ngủ của Dương có mặt một người con gái. Đầu hôm Dương nằm ngủ ở hàng hiên, nhưng từ nửa đêm về sáng thì chẳng còn thấy bóng dáng anh chàng ở bên ngoài nữa...
Một tháng sau, ông Hồng Phát lại trở lên trang trại. Nhưng thay vì được những người thiểu số ở vùng núi đưa vượt rừng vượt thác, thì lần này ông Hồng Phát phải vô cùng khổ sở mò mẫm đi một mình đến gần nửa đoạn đường. Nguyên là bởi chẳng làm sao tìm được bóng dáng ai để mà nhờ. Tìm đến nhà cửa họ thì vắng tanh, kể cả nương rẫy của họ cũng không có người, kể cả người già và trẻ con cũng đi đâu mất cả.
Phải đến khi trời đứng bóng, lúc mà đôi chân ông Hồng Phát đã rã rời và đầy vết trầy xước thì ông mới gặp được một già làng. Người này đã khá quen mặt, những lần trước đã từng đưa cha con ông Hồng Phát vào trang trại. Hỏi về sự vắng mặt khó hiểu của mọi người ở phía ngoài kia, già A Dúp giọng đầy lo lắng:
- Họ đã bỏ làng chỉ bởi... sợ ma!
Thấy chuyện lạ ông Hồng Phát hỏi tới:
- Có chuyện như vậy sao?
Già Dúp kể:
- Cách đây gần nửa lần trăng tròn thì xảy ra chuyện hai thanh niên đi săn đã bị chết giữa rừng, mà người nào cũng bị moi ruột gan ra!
- Ai đã làm chuyện đó?
Già Dúp đưa hai tay lên trời:
- Chỉ có Giàng mới biết.
- Mấy con ma đó ở đâu mà ra? Sao mấy lần trước tôi lên lại không nghe nói.
Nhìn vào ông Hồng Phát với vẻ hơi lạ và mãi một lúc già Dúp mới nói tiếp:
- Nó ở chỗ mấy thằng con của ông!
- Cái gì? Tại sao là các con tôi?
Gà Dúp móc trong lưng ra một chiếc lắc đeo tay bằng bạc có khắc mấy chữ Thanh - Dương - Ngọc và nói:
- Có phải của con ông không?
Cầm vật chứng trên tay, ông Hồng Phát gật đầu xác nhận:
- Đúng là của con tôi rồi. Cả ba đứa, mỗi đứa đều đeo chiếc lắc giống như vầy từ nhỏ. Nhưng ông lấy ở đâu ra?
Kéo ông Phát tới một gốc cây to, già Dúp chỉ về phía trước và nói:
- Đêm nào người làng tôi cũng nhìn thấy ba cái bóng trắng xõa tóc dài chạy lướt trên mặt cỏ từ trong trại của ông ra ngoài. Chúng đi vào các làng của chúng tôi và phá phách. Hễ đàn ông nào vô phước đi ra ngoài thì đều gặp nguy. Chính tôi đã liều bám theo chúng mấy đêm liền... cho đến cái đêm mà hai thằng con trai nhà bà Hơnen bị hại thì tôi nhặt được chiếc vòng này bỏ lại chỗ đó.
Không thể tin được những điều vừa nghe, ông Phát xua tay:
- Không thể nào như thế. Các con tôi ở với nhau, làm gì có con gái nào vô đó? Hay là ma rừng ma xó gì đó trong bản làng của các ông?
Già Dúp giận dữ:
- Ma của người chúng tôi không ác độc như vậy! Và ma của chúng tôi không mặc đồ trắng, xõa tóc dài như ma của người Kinh các ông.
Nghĩ nếu có hỏi thêm chỉ rối trí, ông Hồng Phát nhờ già Dúp đưa mình vào trang tại. Nhưng già Dúp chỉ hứa:
- Tôi chỉ đưa ông vô tới đầu thung lũng thôi, tôi không vô trang trại ông nữa.
Mặt trời hơi ngả về Tây thì họ tới nơi. Ông Phát một mình vô trang trại và cũng hơi ngạc nhiên bởi sự vắng lặng khác thường nơi đây. Thấy cửa nhà của Thanh và Dương đều khóa chặt ông đi sang nhà sàn của Ngọc thì cũng thấy cửa đóng, tuy không khóa ngoài nhưng dường như không có Ngọc ở nhà.
Ông cất tiếng gọi đến lần thứ ba vẫn không nghe trả lời, nghĩ có lẽ các con ông đã ra rừng nên ông Phát bước tháo lui. Chợt có một thứ âm thanh nghe là lạ phát ra từ trong nhà. Giống giọng của Ngọc?
Hoảng hốt, ông Phát bước lên thang chạy tới đẩy cửa vào. Trước mắt ông một cảnh tượng hãi hùng: Ngọc nằm trên sàn nhà, người trần truồng, còn trên cổ thì hai dòng máu chảy ra đã đông đặc lại.
Đưa tay sờ mũi thấy Ngọc vẫn còn thở. Ông Phát hét to lên:
- Thanh ơi! Dương ơi! Sang đây.
Mặc cho ông kêu gào, chẳng thấy bóng dáng Thanh, Dương đâu. Linh tính điều không lành. Ông Phát chạy sang tông cửa phòng họ và một lần nữa ông kinh hãi khi thấy cả hai nằm thiêm thiếp trên gường, người gầy rạc.
Phải mất cả giờ gào thét khản cả cổ, cuối cùng ông Phát mới thấy già Dúp xuất hiện cùng một số dân bản. Già Dúp nhìn ba chàng trai trong tình trạng đó, đã có nhận xét:
- Họ bị ma quỷ hại rồi. Đích thị là ba cái bóng ma áo trắng đó chứ chẳng ai vô đây.
Nhìn kỹ trên gối ở cả ba phòng ngủ của ba chàng trai đều còn vương lại nhiều sợi tóc phụ nữ dài và đen. Nhưng khi đưa lên mũi ngửi thì già Dúp cảm thấy mùi tanh rất khó chịu. Ông già kêu lên:
- Mùi này giống như mùi xác chết!
Ông Hồng Phát cũng có cảm nhận như vậy. Nhưng vì quá lo cho sự an nguy của các con nên ông giục mọi người:
- Kệ những sợi tóc đi, hãy giúp tôi đưa các con tôi đi cứu chữa giùm, tôi lạy các ông.
Già Dúp tỏ ra khá rành chuyện tà ma, ông nói:
- Bị chuyện này có chở đi nhà thương cũng vô ích. Để tôi chữa cho.
Ông đích thân đi ra rừng, hơn nửa giờ sau trở vô với một nhúm cỏ và nắm lá trên tay. Ông bảo mọi người:
- Trong lúc tôi đổ thuốc cho họ thì ai đó hãy giúp tôi nấu ba con gà, lấy nước cất cho họ uống khi tỉnh lại.
Phương pháp chữa bệnh ấy tỏ ra có hiệu quả. Khoảng vài giờ sau thì cả ba đều tỉnh lại. Trong số đó có Ngọc là yếu hơn và tỏ ra vẫn còn kinh hoàng khi nhìn thấy mọi người. Anh kêu thét lên từng chặp:
- Đừng! Đừng hút máu tôi!
Riêng Thanh và Dương thì cứ mở mắt ra rồi lại nhắm nghiền lại, ai thính tai lắm thì mới nghe họ gọi rất khẽ trong miệng:
- Đừng đi, Thu Nga. Đừng đi...
- Diệu Anh, anh muốn chết cùng em, chờ anh với!
Ông Hồng Phát cũng muốn phát điên với ba đứa con của mình. Ông bất lực nhìn họ như nửa sống nửa chết, như điên như dại mà thở dài...
Già Dúp và đám dân bản lần lượt ra về. Trước khi đi già Dúp còn nói với lại:
- Nơi này không ở được đâu, hãy đốt trại mà đi đi!
Không trả lời, nhưng trong ý nghĩ của ông Hồng Phát cũng đã tính tới điều tương tự như vậy...
Trên đường lên Đà Lạt, không lần nào Thái gặp rắc rối như lần này chuyến xe đò anh đi đang chạy bon bon từ Sài Gòn lên một cách ngon lành, bỗng dở chứng khi lên đến giữa đèo Bảo Lộc. Chính bác tài xế cũng ngạc nhiên càu nhàu:
- Chiếc xe mới làm lại máy, nó chạy hai chuyến rồi đâu có triệu chứng hư hỏng gì...
Bác tài xuống xe, dở nắp capô kiểm tra máy thấy không có gì bất thường, lại leo lên xe nổ máy thử. Xe nổ máy ngon lành! Lúc đó Thái và hành khách đang xuống nghỉ chân, được kêu gọi trở lên xe đi tiếp. Thái bước lên sau cùng...
Tuy nhiên điều lạ đã xảy ra: lúc Thái vừa lên xe thì máy đang nổ bỗng tắt. Bác tài đề lại thì vẫn không chạy. Lại yêu cầu xuống xe tránh cho xe tuột dốc và Thái là khách đầu tiên bước xuống. Lạ thay khi Thái vừa đặt chân xuống đất thì tự nhiên máy xe lại nổ! Thái bực dọc bước trở lên và... máy xe lại trở chứng!
Việc này lặp lại đến lần thứ tư. Đến Thái cũng ngạc nhiên, anh thử không lên xe lần sau cùng và bảo tài xế.
- Anh thử tắt máy rồi đề lại xem sao?
Tắt, mở máy một cách dễ dàng như chẳng có gì xảy ra. Nhưng hễ Thái bước lên là máy lại cứ ì ra đó, làm cách nào cũng không hoạt động. Cuối cùng một vị khách lớn tuổi phải có ý kiến:
- Hình như cậu này quá nặng bóng vía!
Một người khác cũng góp vào:
- Thường mấy người nặng vía đi xe hay gặp trục trặc lắm.
Thái phát cáu lên:
- Làm sao biết nặng hay nhẹ? Tôi đi xe cũng trả tiền như mọi người và đã đi hơn chục năm nay trên con đường này mà có gặp gì đâu?
Đến lần thứ sáu vẫn còn rắc rối, đợi đến khi Thái bước xuống xe, bác tài xế phải lên tiếng năn nỉ Thái:
- Cậu làm ơn giúp mọi người đi về nhà sớm. Tôi trả tiền xe lại cho cậu, lát nữa còn mấy chuyến xe nữa lên cậu đi giùm…
Một hành khách ngồi gần Thái đã chủ động chuyển chiếc túi xách của anh xuống như một thái độ dứt khoát đuổi vị hành khách xúi quẩy xuống cho rồi!
Dù muốn phản đối, nhưng trước tình thế đó Thái đành phải chấp nhận, Anh ngán ngẫm đứng một lúc rồi lê bước từ từ lên đỉnh đèo, hy vọng đón được chuyến xe khác để về nhà nghỉ ngơi.
Đi chưa được trăm mét bỗng một cơn mưa như trút nước đổ xuống. Mưa trên vùng cao là vậy, chợt đến không đoán trước được.
Nhìn quanh tìm một nơi khả dĩ có thể đứng trú mưa, chợt Thái nhìn lên phía núi và thấy một cái miếu. Không chút lưỡng lự, Thái cố leo lên các bậc đá thật nhanh để lên đó. Anh nghĩ, dù sao vẫn tốt hơn đứng chịu trận giữa đèo trơ trọi như thế này.
Lên đến nơi thì đôi chân Thái đã mỏi nhừ, anh thấy cửa miếu không đóng nên bước luôn vào. Bên trong tối om, thoạt nhìn không thấy gì...
Mùi ẩm mốc xông lên mũi đến khó chịu, nhưng Thái vẫn cố chịu, bởi giờ phút này ngoài nơi đây thì không còn nơi nào khác để trú mưa.
Ngồi khoảng mười lăm phút thì mắt đã quen với bóng tối. Thái đảo mắt một lượt. Không có bệ thờ, cũng không tượng hay bất cứ vật gì thường thấy của một ngôi miếu. Ngoại trừ...
Thái chú ý đến mấy vật gì đó như túi xách đang đặt dưới sàn còn ngổn ngang.
- Như vậy là có người ở?
Sẵn bao diêm trong túi, Thái vừa bật lên vừa lên tiếng:
- Có ai trong miếu không, tôi xin tá túc...
Chẳng có ai đáp. Khi đó Thái đã nhìn rõ có ba chiếc túi xách và một bao căng đầy những vật gì đó bên trong...
Đưa tay chạm vào thì thấy bụi đã bám, chứng tỏ chúng đã được để ở đó khá lâu.
Chợt anh kêu lên:
- Cái này...
Một trong ba túi xách gây sự chú ý của Thái. Anh bước tới cầm lên và thấy rõ cái thẻ nhỏ ghi mấy chữ Thiên Hương trên đó.
- Của Thiên Hương!
Thái không thể lầm được, chính anh cùng Hương đã đi mua chiếc túi này tại chợ Đà Lạt khi Thiên Hương còn học nội trú trên đó. Đánh bạo mở túi ra, rõ ràng đều là quần áo của Hương. Thái kêu lên thảng thốt:
- Thiên Hương, em ở đây mà! Hương ơi!
Trời đang mưa, sấm rền vậy mà tiếng gọi to của Thái vẫn vang ra bên ngoài. Anh gọi đến hơn mười lần đến khàn cả cổ mà vẫn chẳng ai đáp lại. Thái như điên cuồng thoát chạy ra ngoài bất chấp gió mưa. Vừa chạy vừa gào thét, gọi tên Thiên Hương. Như anh đã gọi trong tuyệt vọng từ sáu tháng trước, khi hay tin Hương mất tích.
Cho đến khi cơn mưa dần tạnh thì Thái cũng lả người đi, anh quỵ ngã ngay trước cửa miếu.
Chuyến xe chót lên Đà Lạt vù chạy, bỏ lại hai hành khách vừa mới xuống xe trước đó mười lăm phút khi xe bị hỏng máy.
Tuấn bực tức nói:
- Họ đổ thừa tại mình mà xe chết máy trên đèo và lợi dụng lúc mình đi vệ sinh đã bỏ chạy, quân khốn kiếp!
Phú bình tĩnh hơn, chỉ chép miệng than:
- Từ đây về tới thị trấn Bảo Lộc cũng mất cả năm bảy cây số, biết đi làm sao đây?
Tuấn vẫn còn ấm ức vì bị vu cho là người nặng bóng vía, anh đấm đấm tay lên trời:
- Xe họ hư máy là tại xe cũ, chứ sao lại đổ thừa mình chứ!
Phú nhớ lại và bất giác nói:
- Mà kể cũng lạ thật, tại sao mỗi lần hai người mình bước lên xe thì máy lại không nổ nữa. Hễ mình bước xuống thì máy lại nổ? Họ đã thử đến hơn chục lần chứ bộ... Anh có thấy kỳ không anh Tuấn?
- Ờ thì cũng kỳ... nhưng mình không tin chuyện dị đoan bậy bạ đó.
Phú cười như mếu:
- Nhưng cánh tài xế họ tin và cả các hành khách họ cũng nghĩ như vậy mới chết mình!
Tuấn nhìn đồng hồ tay và càng lo thêm:
- Đã hơn năm giờ rồi, làm sao về Đà Lạt đây? Thái chờ trên đó chắc là lo lắm đây, mình đã hẹn Thái chắc chắn là bọn mình sẽ cùng gặp ở nhà Thủy Tạ mà...
Nghe nhắc đến Thái. Phú hỏi:
- Mình chưa biết mặt Thái, nhưng nghe anh Tuấn nói thì Thái tội Iắm phải không?
Tuấn thở dài:
- Kề từ khi Thiên Hương mất tích cùng với Vân Hạnh và Thu Hà, thì Thái gần như điên như dại, bỏ cả học hành, cứ đi lang thang khắp chốn để tìm. Mình và cậu tuy cũng đau khổ nhưng vẫn còn bình tĩnh hơn nó...
Phú nghe nhói trong tim khi nghe Tuấn nhắc lại chuyện đau lòng. Anh cúi gầm mặt không nói gì... mãi hồi lâu anh mới bảo Tuấn:
- Cám ơn anh Tuấn đã lặn lội lên tận vườn trà cho em hay chuyện Vân Hạnh. Nếu không chắc là còn lâu lắm, em vẫn đinh ninh Hạnh vẫn còn ở nhà.
Tuy cơn mưa vừa ngớt nhưng gió vẫn thổi mạnh và lạnh hơn. Phú có kinh nghiệm sống ở vùng này hơn, nên bảo:
- Trời này sẽ còn mưa nữa đây, mà mưa lớn nữa. Mình liệu mà tìm chỗ trú mưa, kẻo...
Chợt Phú kêu lên:
- Ở trên kia có cái gì giống như nhà!
Tuấn nhìn theo thì cũng nhận ra lờ mờ một ngôi miếu, anh chán nản:
- Chỉ là một ngôi miếu hoang, mình từng nhìn thấy mỗi lần đi qua đây.
Nhưng Phú vẫn tỏ ra quan tâm:
- Một ngôi miếu lúc này có vẫn hơn không. Mình lên đó trú mưa đi. Tuấn không hề muốn, nhưng lúc này chẳng còn cách nào hơn nên sau vài giây do dự, anh gật đầu:
- Được rồi, mình cứ lên trên đó khi nào nhìn thấy có ánh đèn xe đi lên thì mình chạy xuống chặn họ lại quá giang.
Trời không còn sáng nữa, nên việc leo lên dốc có hơi vất vả. Phải hơn năm phút sau họ mới lên tới gần ngôi miếu, Tuấn đi trước, chợt anh khựng lại nhìn thấy có vật gì đó trước cửa miếu, anh kêu lên:
- Có người kìa!
Rõ ràng có người nằm sóng soài trước cửa miếu. Phú nhanh chân hơn, bước tới cúi xuống và reo lên:
- Anh ta còn thở anh Tuấn ơi!
Tuấn bước đến sát hơn và lần này đến lượt anh kêu lên:
- Thái đây mà!
Họ đỡ Thái vô trong miếu. Bật diêm sáng lên, soi rõ mọi vật. Tuấn không kiềm chế được xúc động khi nhìn thấy chiếc túi xách màu đỏ:
- Đây là...
Anh lao tới mở vội túi xách ra và nhận từng món trong đó. Tất cả là của Thu Hà. Đúng là của Thu Hà rồi!
Phú cũng lấy chiếc túi xách màu đen còn lại, vừa mở ra thì chính Tuấn hét lên:
- Cái đó là của Vân Hạnh!
Vừa lúc đó Thái cũng vừa tỉnh lại. Anh vô cùng ngạc nhiên khi thấy hai người.
- Sao lại...
Tuấn mừng lắm:
- Cậu đã tìm gặp họ rồi phải không?
Thái ngơ ngác:
- Gặp ai?
- Thiên Hương, Vân Hạnh, Thu Hà.
Thái nhìn sang những chiếc túi xách và bất giác kêu to:
- Thiên Hương!
Niềm hy vọng vừa lóe lên trong Tuấn và Phú đã tắt lịm sau khi Thái kể chuyện đã chạy tìm khắp nơi mà chẳng có tăm hơi gì.
Tuấn nhìn bụi bặm bám bên ngoài các túi xách, anh càng thất vọng hơn:
- Họ đã ở đây khá lâu rồi,cứ nhìn bụi bặm thì biết.
Phú lục lọi túi thức ăn và xác nhận điều đó:
- Thức ăn đã hư thối từ lâu rồi, chứng tỏ họ chưa ăn đã...
Thái không dám tin vào sự thật:
- Nhưng họ để đồ đạc ở đây rồi đi đâu? Họ là con gái thì đi đâu xa được.
Tuấn cũng nói:
- Khi đi Vân Hạnh lái xe. Vậy để xe ở đâu mà lại lên đây? Hay là...
Mấy lời nói của Tuấn đã làm cho Thái và Phú sững sờ. Họ nhìn nhau không nói gì nhưng hình như đều có chung một ý nghĩ...
Tuấn kéo tay hai bạn:
- Đi! Ta xuống dưới kia!
Họ lao xuống đường rất nhanh. Tuấn vẫn là người dẫn đường, anh giục:
- Hồi nãy trước khi lên đây tôi nhìn thấy một chiếc xe bỏ nằm bên vách núi, ta tới đó xem.
Đường đèo dốc quanh co, lại tối thăm thẳm, vậy mà ba chàng trai vẫn băng băng lao đi. Khoảng hai mươi phút sau thì tới chỗ chiếc xe. Họ thất vọng ngay, bởi đó là một chiếc xe tải nhẹ cũ.
Quá thất vọng, họ đều ngồi bệt xuống cạnh chiếc xe. Lát sau có ánh đèn pha từ dưới dốc quét lên. Rồi một chiếc xe tải nặng chạy lên khá chậm. Khi nhận ra có người bên cạnh chiếc xe chết máy, tài xế hỏi với xuống:
- Xe “ban” hả? Có cần giúp đỡ gì không?
Tuấn nhanh miệng:
- Không phải xe của chúng tôi. Tôi muốn hỏi, gần đây anh có thấy chiếc xe du lịch nào bỏ lại đây không?
Một chị đi buôn ngồi bên cạnh tài xế vọt miệng nói:
- Không có xe nào bỏ lại, chỉ có một chiếc lọt xuống vực này mà thôi. Nhưng lâu lắm rồi...
Cả ba chàng đều lao ra bám cửa xe, hỏi dồn:
- Chị nói rõ hơn được không. Tai nạn thế nào?
Chị kia giục tài xế:
- Tới chỗ bằng phẳng kia dừng lại một chút.
Chị ta thuộc loại người lắm điều thích huyên thuyên chuyện thiên hạ, nên đây là dịp để trổ tài:
- Tui đi buôn bán qua lại con đường này thường ngày nên chyện gì xảy ra tôi cũng biết. Chuyện chiếc xe lao xuống vực đó ít người biết lắm, chỉ có tôi đã vô tình nghe được một người dân thiểu số dưới thung lũng bên dưới đèo kể lại. Họ thấy chiếc xe lao xuống và nhiều người rơi ra.
Thấy ba chàng trai đang lo lắng tội nghiệp, nên bác tài xế đề nghị:
- Các cậu leo lên xe, tui đưa giúp về Đà Lạt rồi tính sau. Chuyện của bà này kể đâu đã xác thực gì.
Cả ba đều buông tay cùng lúc không bám cửa xe nửa.
Phú khoát tay:
- Cám ơn, anh đi đi, tụi tui ở lại có chút việc.
Bác tài cảnh giác:
- Trời này mà ở lại trên đèo là nguy hiểm lắm đó nghen.
Mặc cho lời cảnh báo, cả ba vẫn thẫn thờ đứng trơ trọi giữa đêm đen với nỗi lòng nặng trĩu...
Họ tìm cách xuống thung lũng. Phú là người mở đường bởi anh là người sống ở vùng rừng núi lâu năm. Đầu tiên họ theo hướng phía gần chân đèo đi ngược lên. Đây là con đường xa và nguy hiểm, nhưng chẳng còn cách nào hơn, bởi bấy giờ đang là mùa mưa, nước ở các dòng suối dâng cao và luôn gây nguy hiểm cho người vượt qua nó.
Cũng may cho họ, vừa rời khỏi chân đèo một quãng hơn cây số họ đã gặp một người dân địa phương. Anh ta là người thiểu số nói được tiếng Kinh nên sau khi nghe Phú hỏi về tung tích những chiếc xe bị rơi, anh ta chỉ tay về phía trước:
- Cách đây hơn năm cây số ở đó thường có tai nạn rơi xe. Người ở thung lũng đều tránh xa không dám dựng nhà nơi ấy...
Có người dẫn đường nên việc đi đứng của ba người đỡ nguy hiểm hơn.
Trong số họ có Thái là tỏ ra suy sụp hơn cả. Từ lúc tỉnh dậy đến giờ lúc nào Thái cũng luôn miệng gọi Thiên Hương và đi đứng cứ như người mộng du. Tuấn phải nhắc nhở:
- Cậu như thế thì làm sao đi tìm kiếm cho được. Dù sao cũng đã đến nước này rồi, phải dũng cảm đương đầu với thực tế chứ...
Tuy mạnh miệng nói với Thái như vậy nhưng trong lòng Tuấn tan nát, rối bời không hơn gì bạn. Tình yêu đối với Thu Hà đã làm cho Tuấn sống mà như chết suốt gần sáu tháng qua. Anh đã bỏ cả suất đi Pháp du học theo lệnh cha mẹ và bỏ nhà đi tìm Vân Hạnh và Thu Hà ở khắp mọi nơi. Anh đã từng lên Đà Lạt mấy lần và do đó mới gặp được Thái và nảy ra ý nghĩ tìm Phú để cùng đi tìm những người họ yêu thương.
Chỉ có Phú là lúc nào cũng im lìm luôn giấu tình cảm của mình, dù trong lòng anh cũng chẳng khác gì hai bạn cùng cảnh ngộ. Nhất là lúc anh bị ông bà Nguyễn Đình làm áp lực buộc anh phải chấp nhận lưu đày lên đồn điền trà, nơi mà sự khắc nghiệt không thua gì thung lũng dưới vực sâu này. Anh đã chịu đựng sự chia lìa với Vân Hạnh đến hơn sáu tháng, nhưng luôn tin tưởng rằng người yêu anh sẽ chờ đợi và cuối cùng sẽ được tái hợp cùng nhau.
Người dẫn đường đưa họ vượt qua một thác nước nhỏ, men theo con suối nước chảy siết đưa về phía gần chân đỉnh đèo, anh ta bảo:
- Ở đoạn đó xe thường xuyên rơi xuống, có lúc có xác người trôi về phía này, người làng vớt được và đem chôn ở chỗ kia.
Anh ta chỉ về một đồi thấp, nơi có hơn chục ngôi mộ cỏ đã mọc xanh rì. Phú sốt ruột hỏi:
- Làm cách nào đi về phía đó nhanh hơn?
Người dẫn đường xua tay:
- Nơi đó không tới được đâu. Xe trên đèo lúc nào cũng có thể rơi xuống đầu các anh.
Tuấn cương quyết:
- Anh cứ đưa chúng tôi tới gần nơi đó, rồi chúng tôi sẽ tự đi.
Khoảng một giờ sau họ tới giữa con suối, ngước nhìn lên trên thăm thẳm, Tuấn bất giác than:
- Như thế này mà xe rơi xuống làm sao sống nổi!
Cả ba người đều không ai bảo ai, đã lặng người mấy mươi giây. Thái, người yếu đuối hơn cả, nắm lấy tay Tuấn giọng run run hỏi:
- Làm sao bây giờ anh Tuấn?
Tuấn chưa biết tìm lời gì để an ủi, chỉ nghe Phú kêu lên:
- Có một chiếc xe trong hốc đá đằng kia!
Theo hướng tay của Phú, Tuấn nhìn theo và hốt hoảng:
- Xe đó là xe của Vân Hạnh!
Chiếc Simca 9 sơn hai màu xanh và đen nổi bật giữa hốc đá, cả bảng số xe nữa, đứng cách hơn năm mươi thước vẫn nhìn rõ. Tuấn chẳng ngại chướng ngại phía trước, vạch cỏ gai bước nhanh về phía chiếc xe. Lại gần mới nhận ra phần đầu xe đã bị giập nát, các cửa xe đều bung ra, nhưng phần đuôi xe thì vẫn nguyên vẹn.
Cả ba người trong trạng thái lo sợ, bước từng bước đến bên xe đưa mắt nhìn vào trong... Trong xe chẳng hề có ai, dù là một bộ xương người.
Thái đã khóc ngất từ nãy, anh vịn vào vai Tuấn như nhờ sự tiếp sức, miệng thì lẩm bẩm:
- Thiên Hương có thể còn sống không, anh Tuấn?
Phú tỏ ra rành hơn:
- Thường những người ngồi trong xe rơi xuống vực đều bị bắn tung ra ngoài. Ta hãy tìm chung quanh đây...
Một cuộc lùng sục cật lực cho đến lúc trời xế trưa vẫn chưa thấy gì. Hơi nản lòng, Tuấn đề nghị:
- Chúng ta vào trong bản kia nghỉ trưa, chiều tìm tiếp.
Thái chưa muốn đi khiến Tuấn phải nhắc lại lần nữa:
- Họ đã rơi xuống đây sáu tháng rồi, có tìm gặp cũng chỉ là...
Tuấn bỏ lửng câu nói, cả ba cùng đi về phía làng. Người dẫn đường còn chờ họ trên đồi, anh ta chỉ về phía một trang trại lớn:
- Muốn nghỉ ngơi thì vô trang trại bỏ hoang kia kìa.
- Trang trại sao lại bỏ hoang?
Phú hỏi. Anh dẫn đường nói rõ:
- Đây là trang trại của một ông từ Sài Gòn lên lập cho ba người con trai. Nhưng họ chỉ ở được ba bốn tháng thì suýt bỏ mạng...
Tuấn ngạc nhiên:
- Sao vậy?
- Họ bị ma bắt hồn!
Cả ba bị cuốn hút vào câu chuyện ma. Khi anh ta kể đến việc có ba con ma nữ thì Thái là người nhạy cảm hơn cả, đã kêu lên:
- Thiên Hương không thể là ma được!
- Nhưng có ai bảo Thiên Hương là ma bao giờ? - Tuấn bảo.
Tuy nhiên càng nghe người dẫn đường kể thì chính Tuấn cũng thấy giống những người yêu của họ. Cho đến khi được đưa lên ngôi nhà sàn thì chính Thái đã reo lên khi nhìn thấy chiếc lược cài tóc nằm trên giường:
- Cái này là của Thiên Hương!
Chính Thái đã mua tặng Hương chiếc lược màu tím có hình con bướm vàng với hai chữ TH lồng vào nhau.
Đúng là Thiên Hương từng sống ở đây? Cô ấy còn ở đây! Thái chạy khắp trong ngoài nhà lùng sục, vừa kêu to:
- Thiên Hương! Hương ơi.
Anh chàng dẫn đường lắc đầu:
- Anh ta điên rồi! Chính cô gái ma từng vào căn nhà sàn này và làm cho con trai út ông chủ trang trại gần mất mạng, sao lại là người yêu của anh chàng này!
Ở những căn phòng khác. Tuấn và Thái đều tìm gặp những vật dụng của Thu Hà và Vân Hạnh. Cầm trên tay chiếc khăn quàng cổ màu hồng nhạt mà khi lên đồn điền. Hạnh đã choàng cũng như đã từng quàng cho Phú lúc Phú bệnh. Ở một góc khăn còn hằn rõ hai chữ VH do chính tay Phú ghi.
Tuấn thì nhặt được một chiếc đồng hồ đeo tay để trên bàn viết của một căn phòng. Chiếc đồng hồ đó là quà tặng của anh cho Thu Hà lúc hai người quen nhau được một tháng nhân lần Tuấn đưa người yêu đi chèo ghe ở Phú Định.
Người dẫn đường kể đầy đủ chuyện ba con ma nữ hại ba đứa con trai chủ trang trại Hồng Phát. Câu chuyện ông kể làm Tuấn, Phú và Thái nghe lạnh cả người...
Cuối cùng thì chính Phú cũng tìm được ba bộ xương người nằm ở một bãi đá phía hạ nguồn dòng suối. Anh nhận ra sợi dây chuyền mặt vàng có lộng hai chữ VH còn đeo ở xương cổ.
Họ mang cả ba bộ xương lên và ngay hôm đó họ đặt giữa miếu hoang một mâm nhang đèn trịnh trọng. Lễ cúng chỉ với những nải chuối rừng và cả ba chàng trai đều ngồi ở các góc phòng trên tay ôm ba bộ xương, người thừ ra, mắt nhìn về phía trời xa...
Ngày hôm sau và cả tuần sau nữa, họ vẫn như những người hóa đá ngồi lặng yên trong miếu...
Rồi đến một hôm bỗng dưng họ biến mất chẳng để lại chút tăm hơi nào...
Có tin đồn rằng cả ba do quá đau khổ và chán chường đã mang theo xương cốt người yêu đi sâu vào vùng rừng núi để chôn chặt cuộc đời còn lại...
Cũng có tin nói rằng trong một đêm tăm tối, mưa gió bão bùng, vì quá tuyệt vọng cả ba đã lao mình xuống vực...
Chẳng ai biết điều nào là đúng. Chỉ có điều là kể từ khi ấy những người chạy xe qua đèo Bảo Lộc đều kháo nhau rằng đêm đêm họ thấy có ánh đèn trên ngôi miếu hoang. Thỉnh thoảng còn có tiếng khóc trên đó vọng xuống...
Có người còn quả quyết rằng chính họ đã từng nhìn thấy ở đoạn đèo gần ngôi miếu thỉnh thoảng xuất hiện ba bóng con gái mặc toàn đồ trắng. Họ đứng ủ rũ bên đường gần bờ vực. Có khi lại thấy họ đứng giữa ngã ba như chờ đón xe lên xuống.
Nhiều tài xế nói rằng nếu lái xe qua đó mà không thành tâm khấn vái thì rất dễ hoa mắt, xe rất dễ bị rơi xuống vực.
Có người còn quả quyết rằng dù gia đình ông Nguyễn Đình và Phát Đạt không biết cụ thể về cái chết của các con họ, nhưng tự dưng họ rất sợ đi qua đường đèo Bảo Lộc.
Rồi chẳng biết do ai mà ngôi miếu hoang trên núi đã được trùng tu, có bệ thờ, có bàn hương và có người thường xuyên đến lễ cúng, và ngay cạnh miếu mọc lên ngôi mộ bia, nhưng ai cũng biết để chôn tượng trưng ba cô gái chết oan. Cũng từ đó người ta gọi ngôi miếu ấy là Miếu Ba Cô và mộ ba oan hồn...
Gọi riết thành danh. Sự linh ứng cũng ngày càng tăng. Dân đi buôn rất tin tưởng và thường dừng xe lại cúng.
Không nghe có sự phá phách nào từ những oan hồn trong miếu…
MA ĐỎ ĐEN
Sòng bạc Đại Thế Giới một chiều cuối năm 1955...
Vì là ngày cuối tháng, lại cận Tết, nên khách chơi ở các bàn trong toàn khu Casino lớn bậc nhất Sài Gòn hơi ít người hơn thường lệ. Đặc biệt là các sòng Roulette, nơi các tay chơi tài tử thường có mặt...
Do đó khi có hai người khách bước tới đặt tiền thì các hồ-lì vui ra mặt. Những tiếng “hối a” vang lên báo hiệu vòng quay Roulette bắt đầu, gây chú ý cho các tay chơi đang còn lưỡng lự chưa biết phải ghé vào bàn chơi nào. Cuối cùng họ cũng tấp vô bàn đang có hai vị khách một nam một nữ đang hào hứng chơi.
Người nữ tuổi trên dưới ba mươi, nhưng trông dáng như gái mười tám đôi mươi. Cô nàng ăn mặc bộ sườn xám bằng gấm Thượng Hải màu vàng anh trông nổi bật, vừa sang trọng quý phái. Còn trang sức trên người cô ta thì bất cứ ai thoạt nhìn cũng phải lóa mắt, bởi hai chiếc vòng tay bằng bạch kim nạm mấy chục viên kim cương sáng óng ánh. Còn hai bên tai thì long lanh đôi hoa tai hồng ngọc lớn cỡ ngón tay cái mà bất cứ dân sành nữ trang nào cũng đều mơ ước, thèm thuồng...
Đặc biệt nàng ta mang theo tiền mặt thật nhiều chứa căng cả chiếc ví tay loại lớn. Đánh thì khiến cho các người bên cạnh tối tăm mặt mũi khi cô ta đặt mỗi cây bài đến cả xấp tiền phỉnh trị giá lớn.
Đã qua bốn vòng Roulette, cô nàng đặt trước sau bốn lần mà lần sau đều gấp đôi lần trước. Cô ta đều thắng. Các “hồ-lì” đã bắt đầu run, họ ngầm đưa mắt cho nhau để báo cho quản lý cuộc chơi đang đứng gần đó. Nhưng hầu như ban quản lý bất lực, bởi luật chơi ở sòng nếu không phát hiện khách có biểu hiện gian lận, thì họ có thắng đến đâu thì cũng không có quyền ngăn họ lại.
Đến ván thứ năm thì vị khách nữ này đặt hết số phỉnh đã thắng từ đầu vào một tụ duy nhất. Các khách chơi khác nãy giờ chứng kiến vận hên của cô nàng nên chẳng ai bảo ai đều nhất loạt đặt đúng vào tụ đó. Số tiền lên quá cao, khiến cho cô hồ-lì hơi chùn tay. Bởi nếu cô nàng tiếp tục thắng ván này nữa thì có nguy cơ phải báo cho giám sát cuộc chơi đưa thêm tiền ra chung. 30 giây... 20giây... 15glây... 10 giây...
Theo quy định thì đúng 30 giây sau khi khách đặt đủ tiền, Roulette phải quay để biết thắng thua. Chỉ còn khoảng 4 giây sau cùng bỗng người khách nam mặc bộ veston mà trắng nãy giờ đứng cạnh người đẹp, vội đặt tay vào tụ bài phía bên kia, từ phía bên số chẵn, ngược với số lẻ mà cô nàng đang đặt tiền. Tổng số tiền mà vị khách nam này bỏ ra ngang bằng với đối thủ.
Khi anh chàng giơ tay lên thì cả sòng ồ lên kinh ngạc!
Có người buột miệng thốt lên:
- Kỳ phùng địch thủ!
Cô hồ-lì thở phào nhẹ nhõm. Bởi như thế có nghĩa là, nếu kết quả vòng Roulette có thế nào thì nhà cái cũng không hề thua đồng nào, ăn bên này chung sang bên kia.
“Hối a” lại vung lên và mọi người nín thở chờ đợi vòng Roulette từ từ dừng lại...
Và ai đó đã kêu lên:
- Bên chẵn!
Vị khách nam điềm tĩnh đưa tay gom hết số tiền cả vốn lẫn lãi về phía mình. Người phụ nữ chẳng quan tâm, lại móc từ túi ra một xấp tiền dày, tiếp tục đặt vào làn số lẻ. Các người chơi khác lúc này đang phân vân chưa biết nên theo ai... có một số thì thấy anh chàng mặc veston trắng đang hên nên theo. Nhưng cũng có nhiều người khoái theo người đẹp nên lại theo về bên số lẻ.
- Hối a!
- Hối a!
- Hối a!
Ba lần vòng Roulette quay rồi ngừng thì đủ ba lần nữa chàng trai lại thắng. Đến lúc này không cần chú ý cũng đã thấy đôi tay người phụ nữ hơi run run khi bàn tay cô từ trong túi móc ra chỉ còn một xấp tiền mỏng.
Nàng ta cởi hết nữ trang đeo trên người ra, bảo cô hồ-lì:
- Ở đây ai đổi những thứ này ra tiền mặt?
Cô hồ-lì đưa tay chỉ về một quầy:
- Ở đàng kia họ sẵn sàng mua hoặc cầm thế.
- Tôi muốn bán đứt và chơi hết!
Giọng cô ta chẳng tỏ vẻ gì nuối tiếc hay mất bình tĩnh. Cô hồ-lì ra hiệu cho một nhân viên ở gần đó:
- Dẫn cô này tới quầy thu đổi!
Chợt chàng trai mặc veston đưa tay ra hiệu:
- Xin phép, tôi có thể đổi cho cô. Được chứ?
Nhìn sang người đang gom hết tiền của mình, thoáng một chút khó chịu, nhưng bỗng cô nàng gật đầu:
- Được!
- Cô muốn lấy bao nhiêu? Đống tiền này khoảng bốn triệu, cộng thêm một chi phiếu sáu triệu nữa, cô đồng ý?
(Đồng tiền thời ấy trị giá khá lớn, có thể lên đến trên 100 lượng vàng).
Một thoáng chau mày, rồi cô nàng gật đầu mà không nhìn vào anh chàng nọ. Anh chàng nói với cô hồ-lì:
- Cô cứ cho chúng tôi đặt bằng tiền này, tôi sẽ chịu trách nhiệm về cuộc chơi này.
Anh ta lẳng lặng móc trong ví ra một tờ chi phiếu ghi sẵn số tiền sáu triệu. Loại chi phiếu chi trả cho người cầm phiếu. Đặt nó vào chung với cả số phỉnh đã thắng từ nãy giờ và vẫn cứ đặt bên số chẵn.
Cô hồ-lì sắp sửa khui thì chợt cô nàng đổi ý:
- Tôi muốn đổi bên, ông đồng ý?
Đây là lần đầu tiên nàng ta nhìn sang đối thủ và nhận ngay một nụ cười và cái gật đầu:
- Tùy cô chọn.
Đống tiền và số nữ trang quý giá hoán đổi cho nhau nhanh gọn.
- Hối a!
Roulette quay nhanh rồi chậm lại và...
- Số lẻ!
Trong khi mọi người đổ dồn vào nhìn anh chàng thắng cuộc thì chẳng ai để ý khi cô nàng thất thểu rời sòng bạc bước thẳng ra cửa.
Đến khi gom xong tiền vào chiếc cặp to mang theo sẵn, anh chàng lao vút theo ra.
Chiếc taxi dừng lại, cô nàng mở cửa sau vừa leo lên thì ở cửa phía ngoài đường cũng có người leo lên theo. Đó là anh chàng vừa thắng canh bạc lớn.
- Ai cho phép ông!
Cô nàng gắt lên vừa định bảo ông tài xế đừng chạy, thì chiếc xe đã chồm lên và lao vút theo đại lộ hướng về phía Đông thành phố. Giọng anh chàng nghe dễ mến:
- Xin lỗi cô, tôi không có ý làm phiền nhưng trong tình thế này tôi cũng không thể đứng chờ xe ở bên vệ đường, sẽ nguy hiểm. Xin cô cho tôi quá giang một đoạn.
Cô nàng hầu như không còn đủ sức để tranh luận, nhẹ khép đôi mắt lại, ngã lưng ra sau như đang tìm giấc ngủ, trước khi dặn tài xế:
- Chạy lên cầu Bình Lợi!
Khi xe chạy ra gần tới chợ Bà Chiểu thì anh chàng mới chợt hiểu: “Cầu Bình Lợi... nơi thiên hạ thường nhảy sông tự tử!”
Nhìn sang cô nàng, thấy cô ta vẫn nhắm nghiền, anh chàng kín đáo ra dấu cho anh tài xế quẹo về hướng khác.
Đến một Hotel hạng sang, anh chàng bảo taxi dừng lại định lay gọi cô nàng dậy, bỗng anh ta giật nảy mình khi phát hiện trên tay cô nàng đang cầm một tuýp thuốc ngủ!
Không nhờ ai giúp, đích thân anh ta bế xốc cô nàng lên và đi thẳng vào khách sạn. Năm phút sau họ đã ở trong một phòng đầy đủ tiện nghi. Lúc ấy cô nàng vẫn ngủ say. Nhìn ống thuốc ngủ còn lại khá nhiều, anh chàng hơi yên tâm nói một mình:
- Cô ta chỉ mới uống đủ để ngủ một giấc thật ngon chớ chưa thể chết được.
Đứng nhìn cô nàng ngủ, anh ta khẽ cười, nụ cười lạ và đầy thỏa mãn. Rồi rất nhẹ nhàng anh ta đặt túi bạc, cả tiền mặt, số nữ trang và cả tấm chi phiếu và một mảnh giấy nhỏ ghi hai chữ Vũ Đạt... bên cạnh cô nàng. Xong xuôi anh nhẹ đưa tay cởi từng nút áo và... cuối cùng thì trên thân thể cô nàng chỉ còn da thịt.
Trong hoàn cảnh này thì mọi người đàn ông đều sẽ hành động giống nhau: Chiếm đoạt thân xác cô nàng đang vô phương chống đỡ kia!
Nhưng thật lạ, anh ta chỉ nhìn ngắm một hồi rồi thốt một câu khó hiểu:
- Sòng phẳng nhé, Kiều Thu!
Rồi anh ta bước ra khỏi phòng, khóa cửa lại, số tài sản khổng lồ vẫn để yên bên cạnh cô nàng...
Sáng hôm sau người ta phát hiện cô nàng tên Kiều Thu nằm chết trên giường với ống thuốc ngủ đã uống đến viên cuối cùng. Tờ giấy có tên Vũ Đạt bị vò nát vứt dưới chân giường...
Ngoài những người trong gia đình nạn nhân thì không còn ai biết điều bí ẩn sau cái chết của Kiều Thu. Cô nàng vốn là con gái rượu của một vị quan đại thần của triều đình. Nhà giàu nổi tiếng của Sài Gòn thời ấy. Từ tấm bé cô nàng đã được cha mẹ hứa gả cho con trai của một vị đồng liêu. Tuy nhiên, khi cả hai lớn lên thì Kiều Thu theo gia đình vào Sài Gòn tiếp tục cuộc sống giàu sang, còn anh chàng Vũ Đạt thì lại không may phải sống trong gia cảnh ngày càng khánh kiệt, đến nỗi phải bỏ xứ tha phương, cầu thực. Khi cả hai lên mười tám tuổi thì bà mẹ già nua thất thế mới bảo con trai tìm đến gia đình người bạn đồng liêu năm xưa để nhắc lại lời hứa thời trước. Hy vọng ít nhất họ cũng còn chút tình nghĩa, giúp đỡ cho Vũ Đạt lập thân.
Nào ngờ khi Vũ Đạt tới đưa phong thư lúc lâm chung cha anh để lại gửi cho người bạn đồng liêu cựu thượng thư bộ lễ Ngô Quý thì bị một gáo nước lạnh vào mặt.
Người ta chẳng những không nhớ lời hứa xưa mà còn nặng lời xua đuổi Vũ Đạt đi như đuổi tà, kèm theo những lời miệt thị nào là nghèo hèn không biết thân phận, nghèo mà còn muốn mơ màng chuyện viễn vông!
Cũng đúng cái ngày Vũ Đạt bị xua đuổi đó, anh chàng đã đau lòng chứng kiến hôn lễ của Kiều Thu, người đáng ra là ý trung nhân của chàng, với một gã nhà giàu lớn.
Kiều Thu chẳng hề biết mặt Vũ Đạt. Cô nàng chỉ nghe kể chuyện nên hôm đó cô ta đã âu yếm ôm eo người chồng giàu đi qua trước mặt người con trai đau khổ...
Vũ Đạt ôm mối hận lòng ra đi với lời thề độc: Sẽ trả thù con người bội bạc kia.
Trong khi đó, sau khi lấy chồng giàu, sống hạnh phúc chỉ được nửa năm, rồi là những ngày trong địa ngục. Chồng Kiều Thu lấy cô ta chỉ là để moi tiền trong nhà vợ và thậm chí đem vợ ra để mồi chài các quan chức quyền thế trong các phi vụ làm ăn bất chính. Kết quả là mặc cho chồng lao vào các vụ làm ăn đen tối, những cuộc tình vụng trộm đầy tội lỗi... Còn Kiều Thu thì buồn chán, nhắm mắt theo những cuộc đỏ đen thâu đêm suốt sáng... Mà kết cục canh bạc Roulette ở Đại Thế Giới hôm đó...
Cuộc trả thù cay độc của Vũ Đạt, lúc ấy đã trở thành một Thần bài từ Ma Cau.
Mười năm sau...
Trong giới tay chơi của Sài Gòn thời đó, Vũ Đạt nổi lên như một đại gia. Làm ăn lớn thành đạt, lại là tay chơi cỡ bự trong các trà đình, tửu điếm. Đặc biệt chủ của nhiều con ngựa đua nổi tiếng. Hôm ấy là chiều chủ nhật...
Buổi đua ngựa “Độ Hội” sẽ diễn ra vào độ thứ ba của độ đua trong chiều này. Dân “tuyệt phích” đều bàn tán xôn xao về Độ Hội khi trong danh sách tám con tuấn mã có tên những con ngựa lừng danh đương thời. Nhưng vẫn có người bàn về con ngựa Bạch Hồ Điệp. Một người bảo:
- Đây là con ngựa què, đã nghỉ đua từ hơn một năm nay nên hầu như dân cá độ quên hẳn tên của nó rồi, nay đem ra đua lại chẳng qua là làm trò cười mà thôi!
Khi cuộc đua chính bắt đầu, thì quả nhiên dân đánh cá đều dồn tiền mua vé những con ngựa lừng danh. Chỉ riêng một người làm ngược lại, ông ta mua hết số vé ở một quầy vé cho cặp 2x8. Số 8 là con ngựa lừng danh, còn số 2 là con Bạch Hồ Điệp. Kết quả là Vũ Đạt trúng lớn chưa từng thấy, bởi chỉ duy nhất ông ta mua tập vé 2x8.
Rời trường đua vào chập tối. Vũ Đạt tự lái chiếc ôtô Peugeot 504 về thẳng nơi nuôi và huấn luyện cho ngựa Bạch Hồ Điệp, ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn. Khoảng hơn một giờ sau thì con ngựa vàng cũng được đưa về tới.
Nhìn nét mệt mỏi của con ngựa, Vũ Đạt thương nó vô cùng. Ông vỗ về con ngựa cưng và nói với chú nài ngựa Tư Hơn:
- Chú mày giỏi lắm, cú doping này tao sẽ nhớ đời!
- Đây tiền thưởng cho tài năng của chú.
Ông ta còn nựng nịu con ngựa cưng thêm một lúc nữa rồi mới ra xe đi về.
Nhưng khi vừa mở cửa xe, Vũ Đạt chợt nghe một tiếng hí vang, nghe thảm thiết của chú ngựa ngoài chuồng!
- Chuyện gì vậy Tư Hơn?
Chú nài chạy hớt hãi kêu lớn:
- Con ngựa... ông chủ ơi!
Bước lại chuồng, Vũ Đạt kịp nhìn thấy con ngựa nằm lăn lóc trên nền đất. Và chỉ trong vòng chưa đầy nửa phút, phần thịt da của con ngựa đã nhanh chóng biến mất giống như bị bốc hơi. Cuối cùng nơi nó nằm chỉ còn một bộ xương trắng!
Sự việc diễn ra quá nhanh chóng, bất ngờ, nên từ người quản gia cho tới Vũ Đạt đều sững sờ, ngơ ngác. Là ông chủ thật sự chi tiền nuôi ngựa và làm độ, nhưng đây là lần đầu tiên Vũ Đạt lúng túng và bị động. Mãi sau đó ông ta mới quyết định:
- Các ngươi đừng loan truyền chuyện này ra ngoài.
Nói xong ông ta ra xe chạy ngay về Sài Gòn. Trong lúc bước lên xe do quá vội nên Vũ Đạt đã không để ý gì phía sau, mãi đến lúc xe ra đường lớn thì bất ngờ có một giọng nói làm cho ông ta giật mình:
- Kính chào nhà tỷ phú.
Chưa kịp quay lại thì đã có một bàn tay đặt lên vai như câu nói ra lệnh:
- Nên tập trung lái xe thì hơn, chúng ta sẽ còn thì giờ để nói chuyện.
Giọng phụ nữ này nghe quen quen nhưng nhất thời Vũ Đạt chưa thể nhận ra, ông ta nhìn qua kính chiếu hậu thì chỉ thấy một người mặc trang phục toàn màu đen, đầu và mặt hầu như được che kín bởi chiếc nón rộng vành.
Xe về gần ngã tư Bảy Hiền thì người phụ nữ bảo:
- Chạy thẳng đến trước, chỗ khu vực đất Thánh Tây.
Lúc này Vũ Đạt mới lên tiếng hỏi:
- Cô là ai và tới chỗ đó để làm gì?
Một giọng cười khô và lạnh:
- Biết sớm làm gì để mất thú vị đi. Ông là người có máu lạnh, trầm tĩnh bậc nhất để thắng đối thủ trong các sòng bạc mà, ông Thần bài!
Đã gần mười năm rồi không ai gọi mình bằng hai từ Thần bài, nên khi vừa nghe Vũ Đạt đã không còn tự chủ được, ông ta quay nhanh lại nhìn. Và... mấy tiếng thắng gấp của vài chiếc xe xung quanh bởi do mất tập trung nên suýt nữa Vũ Đạt đã lạc tay lái đâm vào dòng xe đang lưu thông đi ngược chiều.
Giọng người nọ nghiêm khắc hơn:
- Tôi bảo ông phải cẩn thận. Chưa thể chết như thế này đâu!
Khi xe đến ngang đất Thánh Tây người ngồi sau bảo:
- Dừng đây được rồi!
Chiếc xe chưa dừng hẳn thì cửa sau đã mở ra và khi Vũ Đạt quay lại thì đã thấy bóng người áo đen đã rất nhanh bước về phía nghĩa địa và phút chốc mất hút phía trong.
Dù trời đã tối nhưng khu nghĩa địa sang trọng này đèn sáng trưng, nên Vũ Đạt dễ dàng nhìn thấy người phụ nữ vào phía trái, nơi những ngôi mộ của những người quý tộc.
Một chút ái ngại, nhưng chẳng hiểu sao Vũ Đạt lại xuống xe và đi nhanh theo. Người bảo vệ nghĩa trang vẫn còn ngồi ở gần cổng, mà đúng ra ông ta sẽ ngăn không cho khách vào nghĩa địa ban đêm, nhưng thấy đi xe hơi sang trọng nên không chận lại.
Vũ Đạt bước nhanh cố bắt kịp người phụ nữ kỳ lạ phía trước. Tuy nhiên, khi đến dãy mộ thứ ba thì chẳng còn thấy bóng dáng cô ta đâu.
Quay một lượt tìm khắp nơi cũng chẳng thấy gì, ông ta hơi nản, định quay ra, thì chợt phát hiện có một chiếc nón rộng vành. Loại nón dành cho các bà quý tộc đội đang nằm trước một ngôi mộ cẩn đá cẩm thạch. Nhờ ánh đèn soi sáng rõ nên vừa bước đến gần, Vũ Đạt đã đọc được ngay trên mộ bia dòng chữ “Nơi an nghỉ của Ngô thị Kiều Thu”
- Kiều Thu!
Đứng lặng người khá lâu. Vũ Đạt tự dưng nghe lạnh khắp người, ông ta rùng mình lảo đảo...
Câu chuyện truyền miệng liên quan đến độ ngựa về ngược ở trường đua Phú Thọ, mà người trúng tiền triệu đã được ca tụng hết lời. Có người đã tỏ ra rành chuyện đã kể rằng:
- Vũ Đạt là Thần bài, ngày trước đã từng dùng con mắt thôi miên để thắng trận Roulette ở Đại Thế Giới, khiến một mệnh phụ phu nhân phải tự sát vì thua hết sản nghiệp!
Người khác thì thêu dệt đủ điều về cái tên tỷ phú Vũ Đạt. Họ ngạc nhiên về sự đánh đâu thắng đó và cả việc làm ăn cũng thế, hễ bước vào lĩnh vực nào thì hầu như ông ta chỉ có thắng chứ chưa bao giờ thua. Và người ta bắt đầu vừa nể phục vừa sợ con người này.
Cho đến một tuần lễ sau độ ngựa về ngược lịch sử, thì chuyện con chiến mã Bạch Hồ Diệp tự dưng mất tích đã đồn ra ngoài.
Lời đồn không dừng lại ở chuyện con ngựa bị chết bí hiểm. Mà đặc biệt hơn còn có một chuyện kể rằng nhà tỷ phú Vũ Đạt bị quỷ ám nên cứ thỉnh thoảng lại đi vào nghĩa địa đất Thánh Tây hẹn hò với một hồn ma! Chuyện này do chính người bảo vệ nghĩa trang kể cho nhiều người nghe.
Có nhiều người tò mò theo dõi và đã cũng xác nhận lời đồn kia là hoàn toàn đúng. Chính vợ của ông ta đã âm thầm bám theo vào tận nghĩa địa và nhìn tận mắt cảnh Vũ Đạt quỳ gối trước một ngôi mộ có tên mộ bia là Kiều Thu!
Và cũng từ đó việc làm ăn của Vũ Đạt tự dưng sa sút đến khó hiểu. Liên tiếp ba chuyến hàng nhập khẩu của công ty ông ta đều gặp tai họa! Chuyến thứ nhất gồm một nghìn tấn hóa chất chở trên một tàu hàng quốc tế bị chìm khi đang đi trên vùng biển khơi. Chuyến thứ hai gồm máy móc và hàng điện tử trị giá hàng tỷ đồng đã bị thiêu trụi trong một trận hỏa hoạn khi đã bốc lên khỏi tàu chờ chuyển đi. Và chuyến hàng thứ ba gồm hàng gia dụng, đá quý trị giá đến hơn bốn tỷ đồng đã bị đánh cướp khi tàu đi qua eo biển Malacca!
Mà xui xẻo hơn là tất cả số hàng hóa trong các tai nạn đều có vấn đề khai man nhập khẩu nên đã không được bảo hiểm quốc tế bồi thường!
Nhưng tai họa kỳ lạ nhất là chuyện cháy cao ốc mười tầng của ông ta tại Ma Cau. Đó là tòa cao ốc văn phòng một công ty hải ngoại của Vũ Đạt kiêm luôn sòng Casino lớn. Đêm đó có một người nhìn thấy một phụ nữ thua bài đã lên sân thượng của tòa nhà lao mình xuống tự vẫn. Khi người ta la lên báo động thì cũng đúng lúc lửa ở tầng ba phát lên dữ dội, trong phút chốc cả nhà cao ốc đồ sộ đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Lạ một điều là sau đó chẳng có ai tìm thấy thi thể của người phụ nữ nhảy lầu.
Vũ Đạt từ ấy gần như là người bị tâm thần. Trái hẳn với một nhà doanh nghiệp trung niên thành đạt, hoạt bát, kênh kiệu trước đây. Bây giờ ông ta trở thành một con người phờ phạc, chán chường và hầu như không muốn nói gì với ai.
Một buổi tối cuối tuần...
Trên tầng năm của một khách sạn sang trọng, tại một bàn ở góc ngoài cùng sát chỗ nhìn xuống đường, có một phụ nữ vận dạ phục màu toàn đen ngồi sẵn đó như chờ đợi ai...
Mười lăm phút sau thì từ cầu thang có một người đàn ông trung niên chậm bước đi lên, tiến lại chiếc bàn đó...
Người phụ nữ không ngẩng lên vẫn biết có người tới, đã lên tiếng:
- Ngồi đi!
Nhưng người mới tới không ngồi vào chiếc ghế trống mà lại bất thần quỳ gối xuống, mặt cúi gằm.
Người phụ nữ lẳng lặng móc trong túi ra một tờ giấy nhỏ đặt lên bàn rồi đứng lên. Trước khi đi bà ta nói một câu ngắn gọn:
- Trả lại ông tờ chi phiếu ngày trước ông có lòng tặng nó cho tôi. Tôi đã không dùng, đúng hơn là không kịp dùng thì đã bị chết. Ông nhận lại nó vì nó là của ông…
Bà ta nói xong bỏ đi và mất bóng rất nhanh sau lùm cây kiểng của tầng thượng...
Sáng ngày hôm sau, hầu hết các báo đều đăng tin về một người đàn ông nhảy từ lầu năm của khách sạn tự tử. Theo giấy tờ tùy thân thì đó là nhà tỷ phú Vũ Đạt...
LỜI NGUYỀN
Sự việc xảy ra thật đột ngột, khiến ngay cả các đào kép cùng diễn trên sân khấu đêm đó cũng không thể ngờ: Cô đào mới nổi tiếng, rất được khán giả ái mộ, khi vừa bước ra sân khấu, hát chưa được mấy câu vọng cổ thì đã lăn đùng ra, mồm thổ huyết và tắt thở ngay khi vừa được khiêng vô hậu trường. Người nhắc tuồng vốn nép nơi cánh gà để nhắc từng lời thoại cho diễn viên, đã thuật lại:
- Tôi không thấy vẻ gì bất thường nơi cô Cúc Hương cả. Lúc cô bước ra sân khấu còn dặn nhỏ tôi rằng, nhắc giùm lớn lớn một chút bởi đoạn cô diễn có tiếng kèn, tiếng trống rùm beng, nhắc nhỏ khó nghe. Tôi còn thấy cô ấy nheo mắt cười nữa... Vậy mà chỉ nửa phút sau, khi vừa ca đến câu “...Anh hãy nhớ giây phút này ở tại bến sông đêm trăng vằng vặc có người con gái sẽ mãi mãi đợi anh ngày trở lại với trọn con tim nồng cháy tình yêu...”, khi bàn tay cô vừa đặt lên ngực trái chỗ trái tim thì bỗng lảo đảo, tiếng ca đứt đoạn và ngã lăn ra chết liền.
Cả đoàn hát xôn xao bàn tán. Có người nói rằng cô đào Cúc Hương bị lao lực quá nhiều, nên khi cố gắng diễn đoạn chia ly người yêu đã quá xúc động và bị tai biến... Nhưng người khác thì cãi lại, nói rằng đó chỉ mới là đoạn mở đầu cho một trường đoạn bi thương, chưa có gì là gay cấn, vậy nguyên nhân làm cho cô ấy thổ huyết không phải là do quá lao lực hay xúc động!
Ông chủ đoàn hát Huỳnh Bá thì rối bời tâm trí trước biến cố này. Bởi đoàn hát của ông chỉ mới chuyển đến hát ở thị trấn này có một đêm, khán giả còn thưa thớt, thu chưa đủ số bỏ, vậy mà nay lại gặp phải tai nạn này thì không cách nào tránh khỏi cái đói cả đoàn.
Cúc Hương là đào chính rất ăn khách ở đoàn Trăng Thanh, ông bầu Huỳnh Bá phải chuộc với số tiền không phải nhỏ, nay mất cô ta thì làm sao tìm người thay thế?
Đạo diễn Lệ Kim hiến kế:
- Ông phải lên ngay Mỹ Tho, tìm tới gánh Hương Đồng thương lượng mượn về cô đào trẻ nhiều triển vọng Mộng Huyền thì mới hy vọng cứu vãn tình thế.
Ông Huỳnh Bá lo lắng:
- Đó là đào chiến của họ, dễ gì họ nhả ra cho mình.
Lê Kim tỏ ra rành chuyện:
- Đúng là đào chiến nhưng bên đó còn có hai cô nữa tuy mới nổi nhưng cũng ăn khách nhất nhì hiện nay. Họ là chỗ thân tình, tôi nói có lẽ cũng không khó...
Lê Kim được giao nhiệm vụ thuyết khách. Và quả nhiên anh ta đã thành công.
Chỉ một ngày sau Lê Kim đã từ Mỹ Tho về với người đẹp Mộng Huyền đi cùng. Cả đoàn phấn khởi vô cùng, tạm quên đi cái tang cô đào Cúc Hương còn mới đó... Ông Huỳnh Bá dõng dạc tuyên bố.
- Mộng Huyền sẽ cứu đoàn của chúng ta, nên anh chị em không sợ đói nữa!
Đạo diễn Lê Kim cho đào Mộng Huyền tập ngay vở “Lời hẹn ngày xưa” mà Cúc Hương đóng dở dang.
Dĩ nhiên vai chính của Cúc Hương bây giờ là Mộng Huyền. Khi tập đến đoạn lời ca mà Cúc Hương đang lên giọng thì ngã ra thổ huyết, anh nhắc tuồng Trần Thanh nhắc lại:
- Đó… đó, chính ở đoạn này!
Đạo diễn Lê Kim ngại Mộng Huyền sợ nên gạt ngang:
- Nhắc làm gì chyện đó!
Nhưng Mộng Huyền đã cười to:
- Lời ca ngọt như thế có gì đâu mà sợ. Chắc tại chị Hương có bệnh gì đó...
Các buổi tập trơn tru... Mộng Huyền chứng tỏ khả năng bằng cách vào vai khá ấn tượng. Bầu Huỳnh Bá rất phấn khởi:
- Cô ta còn sáng sân khấu hơn cả Cúc Hương nữa!
Trần Thanh cũng phụ họa:
- Cô này sáng dạ hơn hẳn, lời thì chỉ đọc qua vài lần đã thuộc lòng không phải nhắc từng chữ như mấy người kia. Cổ ca cũng ngọt và dài hơi hơn Cúc Hương.
Tóm lại mọi người đều ưng ý, kỳ vọng nhờ cô đào mới này mà khán giả sẽ đến rạp đông hơn.
Đêm diễn đầu tiên của vở “Lời hẹn ngày xưa” khá thành công khi mới bảy giờ tối mà khán giả đã kéo đến đầy rạp. Đạo điễn Lê Kim mừng quá có dịp tâng công:
- Quả mình chọn người không sai. Mộng Tuyền đúng là cứu tinh của gánh Huỳnh Bá rồi!
Buổi diễn bắt đầu. Chỉ mười phút sau là vai chính Mộng Huyền xuất hiện, và câu vọng cổ cảnh chia ly lanh lảnh cất lên: “...Có người con gái sẽ mãi mãi đợi anh ngày trở lại với con tim nồng cháy tình yêu...” Và khi bàn tay Mộng Huyền vừa đặt lên ngực trái thì cũng là lúc cô ta lảo đảo máu trong miệng trào ra!
- Trời ơi!
Khán giả kêu lên. Tuy nhiên cũng có người tưởng đó là một cảnh tạo ra của vở tuồng, nên vỗ tay tán thưởng tài diễn xuất sống động của cô đào chính!
Chỉ có người ngồi hai bên cánh gà là tái mặt! Ông bầu Huỳnh Bá hốt hoảng:
- Lại có chuyện nữa rồi!
Lê Kim chứng kiến từ đầu, ông nhảy đại ra sân khấu bế xốc Mộng Huyền vào, giục ầm ĩ:
- Mau đưa đi bệnh viện!
Nhưng không còn kịp nữa rồi. Cũng giống như trường hợp của Cúc Hương hơi thở của Mộng Huyền đã ngừng hẳn.
Các bác sĩ ở bệnh viện sau khi đã khám nghiệm kỹ cả hai trường hợp của hai cái chết trước sau đều có cùng một nguyên nhân: Bị vỡ mạch máu não.
Như vậy gánh hát không gặp rắc rối về hình sự. Tuy nhiên có điều rất khó hiểu, bởi cả hai Cúc Hương và Mộng Huyền đều không bị chứng bệnh về tim mạch, lại là người có sức khỏe rất tốt. Như vậy là tại sao?
Câu chuyện không dừng lại ở đó. Chỉ một ngày sau thì khắp nơi đều đồn ầm lên rằng hai cô đào hát đã làm gì đắc tội với người cõi âm nên họ bẻ cổ, bắt hồn ngay trên sân khấu!
Một đồn mười, mười đồn trăm, câu chuyện lan rộng ra khắp nơi. Đến nỗi không còn ai dám đi xem hát nữa!
Gánh hát Huỳnh Bá lâm vào hoàn cảnh bi đát: Đào kép nghỉ hát, không tiền ăn, nên ai nấy phải tính tiền đào thoát các nơi tìm kế sinh nhai.
Ông bầu Huỳnh Bá như ngồi trên lửa. Ông năn nỉ hết người này đến người kia hiến kế giúp ông gỡ thế bí.
Trong số người thân cận thì đạo diễn Lê Kim là người có nhiều sáng kiến nhất. Anh suy nghĩ mãi rồi cuối cùng đưa ra ý kiến:
- Trước tiên ta phải tìm cách giữ chân đào kép rồi sau đó mới tính tới chuyện mở màn hát trở lại.
Ông bầu chán nản:
- Tiền ăn còn không có nói gì đến chuyện giữ chân đào kép. Đó là chưa nói lấy ai làm đào chính để diễn?
Lê Kim tự tin bảo:
- Vậy mà có! Ông bầu có nhớ ông chủ nhà máy xay lúa ở bên kia sông không?
- Ông Thuận Phát giàu nhất vùng này?
- Và cũng là mạnh thường quân, nhất là rất mê hát cải lương, ái mộ đào hát!
Bầu Huỳnh Bá có vẻ quan tâm:
- Ta nhờ ông ta giúp. Nhưng gánh ta đâu còn đào chính để thúc đẩy ông ấy mặn mà giúp?
Lê Kim quả quyết:
- Trong đoàn vẫn còn cô đào thứ sắc vóc ưa nhìn, từng được ông Thuận Phát cầm tiền lên sân khấu tặng hồi ta về đây diễn lần trước!
- Anh nói con Cẩm Hường.
- Đúng y chang! Ta cùng dẫn con nhỏ đó sang gặp thì ắt xong việc.
Họ kéo nhà sang sông. Quả đúng như suy đoán của Lê Kim. Vừa trông thấy Cẩm Hường, ông Thuận Phát đã phấn khởi ra mặt, mời mọi người ra phòng khách thết trà, bánh.
Lê Kim giỏi tài ăn nói, đã rào đón một hồi rồi đi thẳng vào đề:
- Chắc ông chủ đã biết đoàn chúng tôi chẳng may gặp nạn ở địa phương này và hiện nay không còn kinh phí để chuyển đoàn đi nơi khác trình diễn. Các đào kép lâm vào bế tắc, bữa đói bữa no, mà trong số đó khó khăn hơn hết là cô Cẩm Hường đây...
Đã được hướng dẫn trước, Cẩm Hường đã “vào vai” thật ngọt bằng cách ngồi khóc y như thật! Ông chủ Thuận Phát đã vuốt tóc thần tượng của mình vỗ về:
- Có qua ở đây rồi, đừng lo!
Rồi ông quay sang bầu gánh:
- Chuyện quan trọng như vậy sao ông không báo cho tôi ngay! Được rồi! tạm thời các ông chở năm bao gạo về, khô, mắm có sẵn cùng với một ít tiền lo cho anh chị em. Riêng cô Cẩm Hường ở đây tối tối đàn ca giúp vui cho nhà máy chúng tôi.
Lê Kim nháy mắt cho Cẩm Hường nhận lời. Khi họ ra về. Cẩm Hường bằng lòng ở lại, ngay tối hôm đó. Và trong mỗi buổi đàn ca giúp vui tại sân nhà máy Thuận Phát. Cẩm Hường đã chọn ngay bài vọng cổ trong vở “Lời hẹn ngày xưa”, bài hát của Cúc Hương và Mộng Hyền đã hát. Điều này phải chăng là ngẫu nhiên?
Thật ra Cẩm Hường rất thích bài này, chứ cô không nghĩ gì khác khi chọn nó để giúp vui đêm nay. Khán giả là dân trong xóm và công nhân nhà máy xay xát, họ ủng hộ nhiệt tình, vỗ tay rào rào khi Cẩm Hường vừa mới xuất hiện, chưa cất tiếng ca. Đến lúc lời ca bắt đầu cất lên từ đôi môi duyên dáng của cô đào trẻ thì không khí im phăng phắc, say mê theo dõi...
Đến đoạn... “Mãi mãi đợi anh ngày trở lại với con tim nồng cháy tình yêu...” thì không khác gì hai lần trước, Cẩm Hường cũng ngã lăn ra và trào máu, nằm bất động!
Trong lúc bầu Huỳnh Bá và đạo diễn Lê Kim hồn vía chẳng còn, lòng dạ rối như tơ vò trước những chuyện động trời cứ liên tiếp xảy ra, thì vào buổi sáng hôm sau có một cụ già trông rất lạ mặt đã ghé vào quán cà phê trước chỗ đoàn hát tạm thời trú ngụ, bước tới bàn của ông bầu và Lê Kim ngồi, ông ta nói thẳng:
- Sao các ông biết mà vẫn để cho người ta chết oan như vậy?
Lê Kim ngơ ngác:
- Ông nói gì vậy?
Ông già lạ gằn giọng:
- Ba mạng người đã chết còn quá ít với các ông sao?
- Ông nói... các cô đào hát?
- Chớ còn ai nữa hãy bỏ ngay vở tuồng đó đi, chính nó là thủ phạm giết người đó!
Ông ta nói xong bỏ đi thẳng. Sau mấy mươi giây ngẩn ngơ Lê Kim mới nói:
- Ông ta biết rõ điều gì mà nói như vậy? Tại sao lại là vở tuồng “Lỗi hẹn ngày xưa”?
Suy nghĩ một lúc nữa, chợt bầu Huỳnh Bá hốt hoảng kêu lên:
- Đúng rồi!
- Ông nói đúng cái gì?
- Vở tuồng... Bài ca vọng cổ... Này, ông có nhớ lời ca của câu một không?
Lê Kim gật đầu:
- Đoạn cuối của câu một.
Ông bầu vẻ lo lắng:
- Cả ba cô đào đều chết khi ca đến đúng đoạn đó. Ông không thấy có gì lạ sao?
- Ờ… ờ…
Lê Kim đáp và bắt đầu nổi gai khắp người. Điều rõ ràng như vậy mà ông không nghĩ ra! Ông Huỳnh Bá hỏi:
- Vở tuồng này anh mua của ai vậy, mà nay vẫn chưa thấy soạn giả tới gặp chúng ta?
Lê Kim lẩm bẩm:
- Đúng là của anh ta...
- Của ai vậy?
- Một soạn giả rất nổi tiếng nhưng lâu nay buồn chuyện nhân tình thế thái nên mai danh ẩn tích không xuất hiện. Vở “Lời hẹn ngày xưa” là ông ta viết riêng cho mình, chứ chưa từng diễn ở đâu cả.
Còn đang chưa biết phải làm gì thì từ dưới bờ sông có một cậu bé tuổi khoảng mười lăm, mười sáu bước tới lễ phép hỏi:
- Các ông cần đi Long Hựu?
Ông bầu gánh chau mày hỏi lại:
- Đi Long Hựu làm gì? Mà sao em hỏi vậy?
Chỉ tay về phía sông, cậu bé đáp:
- Dạ, ông lão kia bảo rằng cần chở các ông tới Long Hựu để gặp một ai đó tên là Trần Hạo.
Vừa nghe tới tên Trần Hạo, Lê Kim đã giật mình:
- Ông ta ở đâu?
- Ai? Ông lão hả?
- Không phải, Trần Hạo?
Thằng bé lắc đầu:
- Cháu cũng không rõ, ông lão đưa địa chỉ này ở Long Hựu và nhờ cháu đưa các ông đi.
Mở tờ giấy ghi địa chỉ ra, Lê Kim đọc được dòng chữ viết rất nắn nót: “Hãy bắt ông ta đền mạng!” Không suy nghĩ gì thêm, cả hai theo thằng nhỏ xuống chiếc xuồng nhỏ đậu ở bến. Hỏi ông lão đâu, nó bảo dặn bảo xong thì ông ta đi đâu chẳng rõ.
Thằng bé tỏ ra thành thạo sông nước, chỉ chưa đầy hai giờ sau nó đã đưa khách tới xã Long Hựu. Chuyện tìm ra địa chỉ của Trần Hạo cũng không khó, bởi ở xứ này hầu như ai cũng biết nhà soạn tuồng cải lương từng nổi tiếng một thời.
Tiếp họ trong căn nhà lá chật hẹp Trần Hạo không tỏ vẻ gì phấn khởi, mà chỉ nói trống không:
- Mất thì giờ quá đi!
Ông bầu Huỳnh Bá lên tiếng ngay:
- Tôi là bầu gánh, tôi đang diễn vở tuồng của anh.
Lê Kim chen vô:
- Tôi được bầu gánh Trăng Thanh chuyển cho vở tuồng, nói là anh chỉ muốn được diễn ở gánh chúng tôi, nên dù chưa được gặp anh chúng tôí cũng phấn khởi cho tập và diễn ngay. Nhưng...
Trần Hạo giờ mới tỏ vẻ quan tâm tới câu chuyện:
- Bộ vở tuồng không ăn khách hay sao?
- Dạ không. Trái lại là đàng khác. Chỉ có điều...
Trần Hạo nhìn lên và hỏi Lê Kim:
- Anh là đạo diễn phải không? Vậy Cúc Hương diễn thế nào? Cúc Hương...
Bầu Huỳnh Bá chen vô:
- Ông soạn giả không hay chuyện gì xảy ra sao?
Trần Hạo vẻ bất cần đời:
- Tôi chán mọi thứ nên lui về đây và thề là không đọc báo, không bàn chuyện cải lương. Vả lại ở xứ này không một ai nói chuyện với tôi nên dù trời có sập ở đâu đó thì tôi cũng không biết!
- Thảo nào… Vậy ông cũng không nghe tin Cúc Hương...
Trần Hạo giật mình:
- Cúc Hương sao rồi?
- Đúng là ông ta không hề biết.
Lê Kim đem chuyện thuật lại khá chi tiết, Nghe xong Trần Hạo thảng thốt kêu lên:
- Tôi đã giết con bé rồi!
Ông ta suy sụp hoàn toàn lúc đó. Lê Kim nói cách gì Trần Hạo cũng chỉ ôm đầu đau khổ. Thỉnh thoảng đôi vai ông ta run lên nhè nhẹ...
Bầu Huỳnh Bá nói thêm:
- Chẳng riêng gì Cúc Hương, mà cả hai cô đào trẻ sau khi ca câu vọng cổ số một cũng đều chết như vậy. Có người nói câu vọng cổ đó phạm phải lời nguyền, đúng không?
Trần Hạo ngẩng lên sau câu hỏi đó và thật bất ngờ, ông ta bật dậy như bị điện giật chạy thẳng đến kệ sách và rút ra một tập giấy.
- Trời ơi!
Ông ta vừa cầm một tờ giấy đã ngả màu thời gian, đọc lại và buông thõng hai tay:
- Oan nghiệt chi lắm hả trời!
Và một lần nữa ông ta đổ sụp hoàn toàn. Lê Kim nhặt tờ giấy ố vàng lên, ông ta ngạc nhiên đưa cho Huỳnh Bá xem: Bài vọng cổ “Bến chia ly”!
Dòng chữ “mãi mãi đợi anh ngày trở lại...” đập ngay vào mắt họ, bởi bên dưới dòng chữ đó có gạch bút màu rất đậm.
Không tiện hỏi thêm nên Huỳnh Bá và Lê Kim nhẫn nại ngồi đợi. Một lúc khá lâu, Trần Hạo ngẩng lên với nước mắt ràn rụa trong mắt.
- Tôi đâu có nhớ đó là một lời nguyền. Đúng là cô ấy đã hận tôi, đã nguyền.
Lê Kim hỏi lại:
- Ông nói ai nguyền? Một lời nguyền độc địa chăng?
Con người ta trong cơn đau khổ tột cùng thường không dấu giếm.
Trần Hạo sau một tiếng thở dài đã thổ lộ:
- Chuyện cũ, có đến 30 năm rồi... Bài vọng cổ này do chính cô ấy viết. Sau này khi soạn tuồng. Hẹn ước ngày xưa, tôi đã đem lồng vào mà không ngờ...
Ông ta dừng kể, mặt càng nhòe lệ, giọng nghẹn lại:
- Đó là Lệ Hằng người đã yêu tôi ngày xưa. Cô ấy là một đào hát thanh sắc vẹn toàn, tiếng tăm lừng lẫy đương thời. Có biết bao vương tôn công tử theo đuổi, cung phụng tiền tài, vậy mà cô ấy đều từ chối, chỉ vì cô ấy trót yêu một soạn giả nghèo như tôi. Người thời đó ca tụng mối tình của chúng tôi là chuyện tình đẹp nhất giới sân khấu. Nàng hãnh diện về điều đó, vậy mà...
Trần Hạo ngừng kể để lau vội nước mắt và phải chờ cho cơn xúc động mạnh lắng bớt ông mới tiếp:
- Một ngày kia, khi đoàn hát đi lưu diễn ở một tỉnh xa, trong một buổi tiệc sau đêm hát tôi đã uống quá chén cùng bè bạn, tôi đã vào lộn phòng của một cô đào hát khác tên là Yến Phi trong lúc cô này đang ngủ say. Tôi tưởng Yến Phi là nàng của mình nên ngồi lên giường vừa đưa tay vuốt nhẹ tóc cô ta, vừa ngân nga câu vọng cổ mà mới buổi chiều hôm đó chính Lệ Hằng đã viết và tập cho tôi hát. Bài “Bến chia ly” là tác phẩm đầu tay cũng là duy nhất mà Lệ Hằng đã viết dành tặng tôi với ý nguyện là tiếp sau đó sẽ tiếp tay tôi trong sự nghiệp sáng tác bởi cô ấy cũng không muốn làm đào hát chỉ nổi tiếng rồi nhanh chóng lụi tàn như hoa phù dung... Khi tôi đang hát đến đoạn “... mãi mãi đợi anh ngày trở lại với con tim nồng cháy tình yêu...” thì bất chợt ngoài cửa phòng có tiếng người la lớn: “Cô Lệ Hằng, cô sao vậy... khi tôi chạy ra thì thấy Lệ Hằng ngất xỉu đang được cấp cứu. Biết mình bị nhầm tai hại, tôi bế Hằng về phòng riêng thì cũng vừa lúc cô ấy tỉnh lại. Tôi nhớ mãi ánh mắt căm hờn mà cô ấy nhìn tôi và chẳng nói một lời, cô ấy vụt chạy ra ngoài. Rồi...
Trần Hạo ngừng kể, ông nấc lên như chưa bao giờ được khóc. Khi dịu lại ông tiếp giọng buồn vô cùng:
- Cô ấy phóng chạy ra ngoài như điên loạn rồi đâm thẳng vào một chiếc xe đang chạy tới và... khi tôi ra tới thì Hằng đang nằm trên vũng máu, mắt mở ra nhìn vào tôi mà cho đến giờ tôi không làm sao quên được, ánh mắt căm hờn, trách móc... Tôi cúi xuống đỡ cô ấy lên thì nghe được giọng thều thào của Lệ Hằng: “Tôi hận các người, lời các người vừa hát coi như một lời nguyền, để tôi coi các người sẽ phải trả giá! Tôi đời đời không quên...”
Trần Hạo ngừng lại lần nữa nén xúc cảm rồi mới lại tiếp:
- Sau đó hỏi ra thì tôi mới hay lúc tôi say xỉn ngồi hát ra cho Yến Phi ngủ, cũng là lúc Lệ Hằng xuất hiện tình cờ, cô nhìn thấy lại cho rằng tôi và Yến Phi có tình ý nên máu ghen nổi lên và... sự thể bi thảm đã xảy ra! Tôi đã sơ xuất chết người, bởi Lệ Hằng là người có máu ghen.
Ngừng kể rất lâu... trước khi cất tờ giấy chép bài vọng cổ “Bến chia ly” vào kệ sách, Trần Hạo mới tiếp lời:
- Một sự tình cờ tôi phát hiện trên sân khấu của các anh có cô đào Cúc Hương, vừa thoạt nhìn tôi đã suýt kêu lên vì lầm tưởng đó là Lệ Hằng! Cúc Hương giống Lệ Hằng đến tôi cũng phải lầm... Do vậy tôi nảy ra ý tưởng viết vở tuồng “Hẹn ước ngày xưa” và chỉ gửi riêng cho gánh các anh để chỉ Cúc Hương hát. Tôi muốn đời vẫn còn được nghe lời ca do chính Lệ Hằng viết, ý nguyện của tôi là vậy, nào ngờ...
Lê Kim chép miệng:
- Oan nghiệt!
Ông bầu Huỳnh Bá than thở:
- Sự thể bây giờ khiến đoàn hát chúng tôi phải điêu đứng chắc là phải cho rả gánh...
Trần Hạo thở dài:
- Tôi nghiệm ra rồi lời cuối cùng Lệ Hằng nói với tôi chính là một lời nguyền của cô ấy trong cơn ghen. Không ngờ lại ứng nghiệm tai hại như thế này. Tôi không tin đồn, nhưng chuyện như thế này thì có lẽ...
Ông đứng lên, tới kệ sách lấy ra một tập giấy khá dày, đưa cho bầu gánh Huỳnh Bá:
- Tôi đưa vở tuồng khác để đổi lại vở “Hẹn ước ngày xưa”. Ông cứ dùng vở này mà không phải trả bất cứ khoản tiền nào. Còn vở kia tôi thu hồi và vĩnh viễn tiêu hủy nó. Ông cũng nhớ dặn các cô đào khác từ nay về sau đừng bao giờ hát lại bài vọng cổ “Bến chia ly”.
Ông lặng lẽ đốt nén nhang, đứng giữa sân khấu vái một hồi... Lê Kim nghe được trong lời khấn có tên Lệ Hằng...
XÀ TINH
Thời ấy khi Tây mới xâm chiếm nước ta, trên con đường đi từ Rạch Giá đến Hà Tiên rất ít cư dân sinh sống. Hầu hết những người ngụ cư đều là những kẻ tha phương cầu thực những người xâu lậu thuế tìm đến để ẩn náu.
Tuy nhiên vào một năm người ta thấy có một ngôi nhà mái ngói rất bề thế mọc lên ở khoảng giữa lộ vắng, hai bên cách chục cây số mới có nhà láng giềng. Nghe đâu chủ nhân ngôi nhà một đại điền chủ có máu mặt ở ngoài tỉnh thành. Ông ta xây nhà lớn với mục đích sẽ khai khẩn vùng đồng cỏ, rừng tràm quanh đó thành một đồn điền tầm cỡ.
Nhà xây xong làm lễ tân gia rất lớn, có đàn ca xướng hát linh đình suốt mấy ngày liền. Cuộc phô trương thanh thế khá ấn tượng, khiến mọi người tấm tắc khen chủ nhân là người biết thời thế, nhạy bén kinh doanh. Bởi vùng đất Tám Ngân - Cà Bây Ngộp đó sẽ là một mỏ vàng vô tận...
Nhưng chuyện đời không đơn giản như sự toan tính của con người. Sau lễ tân gia chưa đầy hai tháng, bỗng có đám gia nhân được gia chủ thuê ở giữ nhà đã đồng loạt nghỉ việc mà chẳng ai biết nguyên nhân.
- Việc gì đã xảy ra?
Ông Phủ hàm Phan Hớn là chủ nhân ngôi nhà đã hoảng hốt tìm hiểu nguyên do. Và bốn trong số hơn hai mươi nhân công đã kể lại cho ông nghe các chi tiết mà họ cho là có cho đống vàng thì họ cũng không dám trở lại sống trong ngôi nhà ấy!
- Họ tiết lộ điều gì?
Hãy nghe Sáu Nhơn kể lại:
- Tôi được giao ngủ giữ ngôi nhà lớn nên đêm nào sau khi chốt chặt cửa vô, tôi đi ngủ sớm. Đêm đầu tiên tôi chỉ ngủ được có nửa giấc thì phải giật mình dậy, bởi có những tiếng động gì đó rất lạ ở dưới nền nhà... Ban đầu sau khi lắng nghe tôi cho rằng đó là tiếng côn trùng kêu, nhưng nghe kỹ thì hoàn toàn không phải. Các tiếng động phát ra như tiếng thở phì phò của cả chục người. Tưởng đám gia nhân khác ngủ gần đó ngáy nên ngồi dậy đốt đèn đi tìm. Chẳng có một ai ngủ gần tôi, bởi theo phân công thì trong gian lớn chỉ một mình tôi có mặt. Lúc tôi dậy soi đèn thì tiếng phì phò giảm bớt. Tuy nhiên khi tôi tắt đèn nằm ngủ lại thì âm thanh ấy lại có trở lại. Chưa hiểu nguyên nhân nhưng vì buồn ngủ nên tôi có dở giấc ngủ lại. Vừa chợp mắt bỗng tôi có cảm giác như cạnh tôi có ai đó chen vào nằm chung.
- Ai vậy?
Tôi hỏi nhỏ vừa đưa tay sang sờ thì... đụng một thân thể thịt da mát lạnh. Mắt nhắm mắt mở nhưng tôi cũng bật dậy được để đốt cây đèn dầu lên xem cho rõ. Chẳng có ai cả, ngoài một vật gì đó to hơn bắp tay đang bò nhanh vào xó nhà. Một con rắn màu đỏ rất lạ thường!
Tay chân tôi rụng rời, thần tứ hoang mang, tôi kêu báo động với mọi người. Tuy vậy khi mọi người nghe tôi kể chuyện đều cười ồ, cho là tôi nhát gan, giàu tưởng tượng.
Khi mọi người tản ra rồi tôi không tài nào ngủ lại được bởi hễ tắt đèn là y như rằng những âm thanh quái dị kia lại trỗi lên...
Người thứ hai kể lại là Tư Thơm, một nông dân được tiếng là gan dạ:
- Tôi thay Sáu Nhơn lên nhà lớn ngủ, bởi Nhơn sợ quá đã xin ra nhà kho quét dọn và ngủ ở đó. Tôi tự nhủ có ma quỷ gì thì đêm nay cứ ta ngủ chung cho vui. Và đêm đầu tiên tôi đã nếm đủ mùi kinh dị. Ban đầu tôi chỉ nghe những tiếng động lạ, từ nhỏ rồi lớn dần và sau cùng thì nền nhà dưới lưng tôi như đang rung chuyển. Tôi vừa định mở mắt ra thì hai mí mắt đang bị ai đó bít kín lại không tài nào mở ra được. Tôi quờ quạng tay chân thì va vào một thân thể ai đó mát lạnh đến rợn người. Mà chẳng phải một, có đến hai nằm hai bên tôi. Tôi vốn có thói trăng hoa, thích gần phụ nữ, nhưng lúc ấy thú thật là thần tứ tôi đang hoảng loạn thật sự, không nghĩ gì khác ngoài tìm cách bật dậy.
Tư Thơm ngừng lại lấy hơi, cũng là để trấn tỉnh trước khi kể tiếp:
- Cuối cùng thì tôi vùng dậy được và trong cơn vùng vẫy tôi đã làm sập chiếc mùng. Đốt đèn sáng lên, tôi nhìn quanh không hề thấy gì khác thường... Sau khi trấn tỉnh lại tôi kéo mùng định ngủ tiếp thì chợt kêu thét lên, bởi nằm trong mùng tôi lúc ấy là hai con rắn cực to, da vẩy của nó phát ra những ánh ngũ sắc lạ thường! Trong đời tôi chưa từng nhìn thấy con rắn nào to và kỳ dị như vậy. Hai con rắn nhìn thấy tôi chúng không hề tỏ ra sợ sệt hay có phản ứng hung dữ gì, mà chỉ từ từ bò ra khỏi chiếu, sóng đôi nhau tiến về phía vách tường và biến mất!
Một người nãy giờ ngồi nghe kể đã thốt lên:
- Những con xà tinh thường là như vậy. Chúng không cắn người mà chỉ nuốt người vào bụng thôi.
Ông Phủ Nhơn nạt ngang:
- Để nghe nó kể tiếp, nói tào lao hoài!
Tư Thơm vẫn còn sợ hãi:
- Tôi không bỏ chạy như Sáu Nhơn, nên đêm sau nữa tôi trải chiếu trên giường để ngủ.Thay vì tắt đèn khi đi ngủ, tôi lại treo một cây đèn bão sáng cả gian nhà để có thể yên tâm hơn.Tôi ngủ được một giấc khá ngon và thức dậy vào nửa đêm. Đưa mắt nhìn lên trần nhà tôi không còn tin vào mắt mình nữa, bởi trên trần lúc ấy đang có hai... mỹ nữ mặc áo hồng, áo tía đang đu trên cây xà ngang. Một trong hai cô nàng còn nhoẻn miệng cười khi bắt gặp ánh mắt của tôi.
Câu chuyện hấp dẫn làm ông Phủ Hơn cũng chen vô:
- Mày là thằng háo sắc có tiếng mà, lúc ấy có cười cợt lại với các nàng không?
Tư Thơm đưa tay ôm lấy ngực:
- Tim muốn rụng ra ngoài, còn tâm trí đâu mà háo với sắc! Lúc đó tôi dụi mắt vì không tin vào mình, có thể là do ảo giác hoặc là mộng mị... Nhưng vừa lúc ấy thì chiếc đèn treo vụt tắt. Cả căn phòng tối thui. Hoảng quá tôi tìm ống quẹt đốt lên. Phải mất cả phút sau thì đèn mới sáng trở lại, và... thay vào chỗ hai cô gái lúc nãy, giờ chỉ còn là hai con rắn to đang treo đung đưa trên xà ngang. Rồi trong phút chốc hai con rắn biến mất thật kỳ lạ.
Tư Thơm ngừng kể rồi mà Phủ Hơn vẫn còn chưa hết hồi hộp. Ông lắc đầu ngao ngán:
- Tao vốn sợ rắn, gặp trường hợp đó chắc là tao đứng tim mà chết mất.
Tư Thơm nói dứt khoát:
- Con xin ông cho nghỉ việc, con không thể nào...
Chín Hải ngồi cạnh nãy giờ, đã lên tiếng:
- Hai anh Sáu Nhơn, Tư Thơm chỉ gặp có một hai con yêu tinh, còn tôi mới tợn người hơn. Tôi gặp cả một bầy!
Anh ta đã cố ngăn xúc cảm khi kể lại:
- Sau khi hai người kia không ai còn dám ngủ trên nhà lớn thì cả bọn chúng tôi đều cương quyết không lên ngủ ở đó nữa. Tôi giữ lẩm lúa nên đêm nào nếu không mưa đều trải chiếu ở bộ ván kê gần cửa kho để ngủ cho mát. Ngủ cả tháng rồi đâu có gì xảy ra... Vậy mà hai đêm sau khi Tư Thơm thấy mấy con rắn tinh thì đến lượt tôi. Đêm ấy khi đang ngủ say, chợt trong mơ màng tôi thấy có nhiều bóng người lướt qua bên ngoài mùng. Nghĩ là bọn trộm lúa nên tôi bật dậy, tay chụp cây xà gài cửa định đối phó. Nhưng như có một sức mạnh vô hình nào đó đẩy tôi nằm trở lại. Mắt tôi hướng ra ngoài nên nhìn rất rõ, có đến cả chục bóng người đang đi lại. Họ không hấp tấp không ra dáng kẻ trộm đạo, mà biết đi nhẹ nhàng, uyển chuyển, dường như là lướt trên mặt đất!
Nhìn kỹ hơn tôi vô cùng kinh ngạc, bởi những người kia là các cô gái. Quần áo họ mặc toàn bằng tơ lụa, đủ sắc, nên lấp lánh dưới ánh trăng đêm. Tôi định kêu lên nhưng không tài nào mở miệng ra được.
Ngoài kia sau một hồi lui tới nhởn nhơ, những bóng con gái ngồi xếp vòng tròn rất trật tự. Chợt từ đâu có một cô gái khác mặc toàn trắng dáng đi thướt tha bước ra.
Dường như đó là đầu lĩnh của các cô gái nên vừa trông thấy tất cả đã đồng loạt cúi mọp đầu xuống vô cùng cung kính. Người áo trắng bước vào ngồi ngay giữa vòng tròn và đảo mắt một vòng như để điểm danh. Sau đó tất cả họ lại im lặng... Tôi cố vểnh tai nghe ngóng thì phát hiện ra họ đang đọc điều gì đó trong miệng, những tiếng thì thầm nhưng do có nhiều người nên âm thanh phát ra thành tiếng phì phì quái dị! Họ cầu nguyện chăng? Hay là một cách luyện phép? Chẳng thể nào hiểu được. Phải mất hơn mười lăm phút sau thì cái vòng tròn ấy mới tản ra. Các bóng áo hồng áo tím đi về phía tôi. Người mặc áo trắng đi trước như dẫn đường. Tôi cố thét thật lớn, bởi biết các bạn tôi đang ngủ gần đó. Nhưng tiếng thét của tôi chẳng thể nào phát ra được. Tôi lại vùng vẫy...
Trong khi đó các mỹ nhân kia đang tiến rất gần, tôi đành bất lực chờ điều bất hạnh gì đó xảy ra.
- Chín Hải!
Đó là tiếng gọi của một người bạn ngủ gần đó. Và đó chính là cứu tinh của tôi. Sau tiếng gọi, tôi như được giải thoát. Tay chân tôi như được cởi trói và miệng có thể phát ra tiếng kêu.
Lúc đó khi mọi người bu lại hỏi thì tôi chỉ còn đủ sức thuật lại sơ lược câu chuyện đã chứng kiến. Sau đó tôi gần như ngất đi.
Trời sáng, lúc đó tôi và mọi người mới nhìn thấy khắp trong sân có nhiều dấu vết của vật gì đó. Một người sành về rắn đã quả quyết:
- Dấu vết này chính là do nhiều con rắn bò qua bò lại. Cả vài chục con chứ không ít!
- Tới lúc đó tôi vẫn còn cảm giác lạnh xương sống. Tôi rùng mình và bỏ đi. Thề sẽ không bao giờ trở lại ngôi nhà kinh hoàng ấy.
Ông Phủ Hơn lại thở dài...
Người thứ tư, chính là cháu rể của ông, được cử tới để làm tài phú. Anh chàng còn độc thân nên quyết vào ngủ ở nhà lớn, mặc cho lời cảnh báo của nhiều người.
Hai Hữu tên của anh chàng, đã cương quyết:
- Tôi chẳng tin chuyện hoang đường. Mấy anh không dám ngủ trong đó, thì tôi sẽ ngủ. Phòng tôi ở chứa nhiều sổ sách nên cấm không ai được tự tiện vô đó cả ngày lẫn đêm.
Nhiều người ngao ngán lắc đầu. Bởi họ biết nếu có nói cũng vô ích đối với anh chàng ngạo mạn này.
Hai Hữu kể lại đầu đuôi cho Phủ Hơn nghe:
- Con vào phòng riêng ngủ, đóng cửa phòng lúc ngủ nên tin chắc là sẽ không thể có chuyện gì xảy ra. Con cũng mang theo con chó vện vốn rất dữ và giỏi phát hiện kẻ xấu, kẻ lạ. Chỉ ngay đêm đầu tiên là con gặp ngay thử thách, khi vào nửa đêm từ trên trần nhà có vật gì đó ngọ nguậy, uốn éo sà xuống thấp ngay nóc mùng của con. Do chuẩn bị từ trước nên con thủ sẵn cây đèn pin lớn, lúc đó con chụp lấy đèn chĩa lên nóc mùng và... có mấy vệt màu tím vụt biến đi rất nhanh, làm cho con không nhận ra đó là gì? Nhưng có một mùi tanh khó chịu còn vương vất đâu đó, con phải mở cửa phòng để xua hôi tanh đi và... chẳng hiểu sao con lại bất tỉnh ngay lúc đó.
Ngừng lại nhìn sang mấy người có mặt ở đó vào đêm xảy ra chuyện. Hai Hữu bảo:
- Anh Năm Tròn kể lại chuyện tiếp theo đi.
Năm Tròn vốn thật thà, ít nói, nhưng khi được khuyến khích, anh sôi nổi hẳn lên:
- Khi sáng lại, thấy mặt trời lên cao mà cậu Hai Hữu chưa dậy, con mới vào để gọi cậu. Thấy cửa phòng mở, còn cậu Hai thì đang nằm im dưới nền nhà. Con hoảng quá vội tri hô lên, khi mọi người chạy vô thì mới phát hiện trên giường của cậu Hai ngủ có 2 bộ da rắn lột, nằm xếp thẳng hàng như nằm ngủ.
Kể tới đây Năm Tròn hơi ngập ngừng, nhìn sang Hữu. Anh chàng này cũng khó nói ra điều gì đó. Phải đợi ông Phủ Hơn lên tiếng:
- Chuyện gì thì cứ nói ra tao nghe, ngại gì?
Lúc này Năm Tròn mới tiếp lời:
- Con nhìn vào quần của cậu Hai thì thấy ở phía giữa của cậu Hai ướt cả...
Phủ Hơn hỏi lại:
- Phần giữa là phần nào?
Năm Tròn lúng túng đưa tay chỉ vào chỗ của mình:
- Dạ, chỗ này nè...
- Bộ nó sợ quá đái trong quần hả?
Năm Tròn cãi:
- Không phải. Chú Hai bị... bị xuất... cái đó.
Ông Phủ Hơn càng ngạc nhiên hơn:
- Sao lại xuất thứ đó, nó còn độc thân mà?
Lúc này Hai Hữu mới thú nhận:
- Con nhớ lại rồi, lúc con bị té ngất đi thì trong mơ màng con thấy có hai cô gái cúi xuống chỗ con. Con không kháng cự được, nên...
Hiểu ra. Phủ Hơn than trời:
- Trời ơi, mày điên rồi Hữu ơi! Quan hệ với ma quỷ, yêu tinh này mày biết hậu quả sẽ ra sao không?
Hai Hữu lặng thinh để thấm thía nỗi đau. Bởi sau phút đó anh đã phải nằm bệnh viện tỉnh đến gần một tháng trời để chữa chứng mất sinh lực do bị rút sinh khí quá nặng.
Như thế thì đã quá rõ, tất cả bốn người kể trên, từng trường hợp họ đã gặp phải chuyện lạ thường. Nghe họ kể có người bài bác, cho đó là sự hoang đường, tưởng tượng hay mộng mị, ảo giác mà ra...
Người có niềm tin thì lại nghĩ khác. Họ quyết:
- Những chuyện như vậy vẫn xảy ra đây đó hằng ngày, có điều người ta không kể lại hoặc không ai ghi chép mà thôi.
Với ông Phủ Hơn thì sự việc nghiêm trọng hơn. Nếu không phá vỡ sự kỳ bí này thì coi như cơ ngơi, sản nghiệp của ông sẽ tiêu tan hết bởi hiện nay chẳng còn một gia nhân nào chịu ở lại ngôi nhà mà họ gọi là nhà ma! Cả làng ở đó cũng đồn nhau và không một ai dám bén mảng tới gần. Trong một thời gian dài ngôi nhà ngói bề thế đó bị bỏ hoang.
Cho đến một hôm, lúc đang ngồi xe ngựa từ nhà ở thị xã ra chợ Huyện chợt có một cụ già râu tóc bạc phơ chặn đường Phủ Hơn và nhẹ nhàng bảo:
- Ông đang bị ma ám phải không?
Quá đỗi ngạc nhiên trước một người lạ mà lại biết rõ chuyện của mình. Phủ Hơn vội xuống xe rồi lễ phép thưa:
- Thưa bác, quả có chuyện ấy. Chẳng hay bác có cao kiến gì?
Cụ già cười hiền hòa:
- Tôi không trị được tà ma, cũng không tin là có ma quỷ trên đời này. Nhưng lúc nãy nhìn thấy ánh mắt lo lắng của ông, cũng như khuôn mặt xạm đi, đoán là ông gặp nạn. Tôi là một nhà bói toán, đồng thời là… thầy thuốc rắn.
Quả là buồn ngủ gặp chiếu manh, Phủ Hơn reo lên:
- Vinh hạnh cho tôi quá. Tôi đang ra chợ Huyện để tìm ông thầy rắn Tám Thông, may mà gặp ông.
Cụ già gật đầu:
- Tôi là Tám Thông đây, ông khỏi phải đi tìm.
Mừng quá, Phủ Hơn ôm chầm lấy cụ:
- May cho tôi quá, vậy mời thầy về nhà, tôi trình bày mọi chuyện để thầy giúp cho.
Nhường cho khách lên xe trước, nhưng cụ Tám Thông lại xua tay từ chối:
- Tôi sẽ nói ngay đây, bởi tôi đã nghe và biết hết chuyện ở ngôi nhà ma ở Cà Bây Ngộp của ông.
- Vậy cụ có cách nào?
Cụ Tám Thông nói ngay:
- Tôi sẽ giúp ông. Ngày mai tôi sẽ có mặt ở đó.
Nói xong cụ quay bước đi ngay. Phủ Hơn nói với theo:
- Để tôi đưa thầy đi. Và còn tiền công nữa…
Cụ Tám nói mà không nhìn lại:
- Xưa nay tôi hành nghề không lấy tiền công và cũng không lệ thuộc ai. Khi nào xong việc tôi sẽ nói chuyện với ông.
Ông già đi nhanh và biến mất sau lũy tre, bí hiểm y như lúc tới...
Việc đầu tiên của cụ Tám Thông là đi quan sát khắp ngôi nhà, ông xem từ ngoài vườn, từ gốc chuối, bụi tre, bờ cỏ xem kỹ những dấu vết xung quanh. Cuối cùng là bên trong ngôi nhà. Ông đưa tay gõ gõ nhiều lần xuống nền nhà lót gạch tàu, ở một góc trong cùng, ông gỡ lên một viên gạch và thốt lên:
- Mọi thứ là ở đây!
Cùng có mặt lúc ấy. Phủ Hơn lên tiếng:
- Nhà tôi mới xây, vậy tại sao lại có một viên gạch tróc lên như vậy?
Thầy Tám cúi sát mặt xuống chỗ viên gạch vừa được bóc ra, ông ngẩng lên bảo:
- Đây là miệng hang và bọn chúng ở bên dưới.
- Bọn nào?
Cụ Tám đáp không cần suy nghĩ:
- Lũ rắn.
Phủ Hơn quay sang hỏi mấy người ở giữ nhà:
- Mấy đứa có phát hiện cái hang này không? Thường thì rắn lấy hang chuột làm hang của chúng, nhưng nhà này là nhà mới, đâu có chuột làm hang?
Anh gia nhân không trả lời được, Thầy Tám Thông chợt bảo:
- Không phải hang chuột, mà là hang do người tạo nên!
Phủ Nhơn kinh ngạc:
- Ai đã đào cái hang này?
Quay sang các gia nhân:
- Có đứa nào làm chuyện này không?
Tất cả đều chối hết. Cụ Tám bảo:
- Không phải họ đâu.
Rồi ông quay sang hỏi Phủ Nhơn:
- Lúc xây ngôi nhà này ông có gây thù chuốc oán gì với đám thợ xây hoặc có ai muốn ám hại ông không? Ông Phủ Hơn bóp trán suy nghĩ, chợt ông kêu lên:
- Có! Có một thằng.
Rồi ông kể:
- Thằng thầu xây nhà này thiếu nợ tôi một số tiền lớn, trước khi khởi công tôi đã nói là xây xong sẽ trừ hết nợ trong tiền công. Nó phản đối, nhưng cuối cùng nó cũng phải chấp nhận bởi số tiền nó nợ tôi quá lớn và tôi còn dọa nếu không chịu theo điều kiện ấy thì tôi sẽ gọi người khác đến xây. Vì vậy suốt trong thời gian xây nhà thằng đó cứ mặt lớn mặt nhỏ với tôi...
Thầy Tám gật đầu:
- Lần này ông Phủ có nghe người ta nói chuyện các nhà thầu, thợ xây ếm chủ nhà bằng cách này hay cách khác chưa?
- Có có nghe nhiều…
Thầy Tám bảo:
- Tôi không tin lắm chuyện thư ếm. Nhưng chắc chắn ở đây ông đã bị họ phá bằng cách đào sẵn một cái hố lớn phía dưới nền nhà, sau đó họ tạo điều kiện cho rắn vào sinh nở và phát triển. Trước đây cái hang này bị bịt kín khiến cho lũ rắn nhiều ngày không ra ngoài được, chúng đói và hễ có dịp thoát ra là chúng quậy phá.
- Nhưng chuyện chúng thành tinh, thành ma?
Thầy Tám có vẻ trầm ngâm:
- Tôi không tin chuyện ma quỷ. Trong trường hợp này có thể do ảo giác, nhưng biết đâu cũng là chuyện thật... Thôi, bây giờ tôi không nói đến chuyện đó nữa, quan trọng hơn là tìm cách diệt lũ rắn này...
Ông Phủ Hơn mừng quá đỗi:
- Ông làm ơn giúp ngay giùm. Tôi cảm ơn lắm lắm...
Thầy Tám Thông bảo mọi người:
- Xin ra ngoài hết, chỉ một mình ông Phủ ở lại đây với tôi thôi.
Chờ khi mọi người ra ngoài hết, Thầy Tám lấy ra bốn, năm chiếc bao tải lớn và dặn ông Phủ:
- Tôi sẽ bắt rắn cho vào bao, khi bao đầy ông cột chặt lại giùm.
Phủ Hơn rùng mình:
- Tôi ớn mấy con rắn lắm.
Thầy Tám trấn:
- Không sao, khi tôi bắt nó ra thì nó như tê liệt thần kinh, không thể làm hại ai cả.
Hơi yên tâm, Phủ Hơn cầm bao đứng đợi. Thầy Tám nhắm mắt lại trong giây lát, miệng đọc thầm điều gì đó sau cùng ông lấy một loại nước gì đó màu vàng thoa đều lên hai tay.
Dùng bàn tay trái vỗ vỗ ba cái lên miệng hang, rồi lại dùng tay phải vỗ bảy lần nữa. Bất chợt nghe từ phía dưới có tiếng chuyển động dữ dội như một cuộc rượt đuổi, đánh với nhau. Và sau đó thì là sự im lặng đến ngạc nhiên... Trong lúc Thầy Tám bình thản chờ đợi thì ông Phủ Hơn lại vô cùng căng thẳng, hồi hộp...
Thế rồi, như một phép lạ, con rắn đầu tiên màu xám như ánh bạc từ từ bò ra. Nó bò chậm như mất hết sinh khí. Và Thầy Tám chỉ việc đưa tay tóm ngang cổ nó kéo lên cho vào bao.
Con tiếp theo màu đen tuyền, trên cổ có mấy vằn quấn ngang. Rồi con thứ ba mình vàng có khoan đen, chúng đi thành một cặp, con kia mình đỏ vằn đen. Tất cả chúng đều ngoan ngoãn đến lạ thường, chui vào tay Thầy Tám và vô bao. Ông Phủ Hơn chỉ đứng vịn bao thôi mà mồ hôi đã vã ra từng hồi. Ông nghe lạnh cả sống lưng...
Đến lượt những con rắn đủ màu sắc khác bò ra, theo thứ tự trước sau, thứ bậc, con nhỏ trước con lớn sau. Đếm hơn hai trăm con rồi mà Thầy Tám vẫn còn chờ. Đã có hai bao tải được cột chặt, nhưng lạ một điều là chúng không hề ngọ nguậy, mà nằm im trong đó như đã chết.
Đến con thứ ba trăm. Thầy Tám đếm lớn lên:
- Con cuối cùng, con thứ ba trăm. Đây là lũ rắn hội đủ cả trăm loài có mặt ở xứ này!
Thầy vừa định xoa tay đứng lên, chợt há hốc mồm kinh ngạc khi từ trong hang lại một con rắn nữa chui ra.
Con này màu trắng như tuyết, lớn nhưng gầy đến trơ xương. Thầy Tám lại đưa tay chụp ngang cổ nó, vuốt nhẹ theo sống lưng như thường lệ để kéo nó ra.
Bỗng Thầy bật ngã ra sau, mặt tái đi, mồm há hốc như vừa gặp điều kinh hoàng nhất! Ông Phủ Hơn nhìn rõ, con rắn màu trắng đó vẫn nằm im, nhưng có một vật gì đó rất nhỏ bám trên lưng nó thì cử động. Nhìn kỹ mới thấy đó là một con rắn rất nhỏ, màu trắng có điểm những chấm đỏ lạ mắt...
- Một con rắn cõng con rắn!
Ông Phủ Hơn kêu lên vừa lùi lại theo phản ứng tự nhiên. Lúc này Thầy Tám mới ngồi dậy. Không nói không rằng ông vỗ vỗ mấy cái cho con rắn trắng bò trở vào. Rồi liền theo đó ông đích thân mở từng bao tải, thả hết lũ rắn trong đó lại. Lúc này lũ rắn dường như bừng tỉnh chúng bò rất nhanh, phát ra tiếng kêu phì phì nghe đến rợn người!
Đến gần nửa giờ sau con rắn cuối cùng mới thoát khỏi bao. Thầy Tám lấy viên gạch đặt lại chỗ cũ và thẩn thờ rời khỏi chỗ ngồi.
Ông Phủ Hơn gọi giật lại:
- Thầy Tám! Không lẽ Thầy không bắt chúng?
Tám Thông vẫn chưa hoàn hồn, giọng ông run run:
- Mạng tôi còn lớn nên mới không chết bởi con rắn chúa đeo trên lưng con bạch xà.
- Rắn chúa?
Thầy Tám nghiêm giọng:
- Nó tuy nhỏ nhưng là chúa của bầy rắn. Nó có thể thành tinh như truyền thuyết, ở đây nó đeo trên lưng con rắn lớn trơ xương kia để rút tinh lực từ con rắn màu trắng để sống. Nó độc đến nỗi chỉ cần một nhát cắn nhẹ có thể giết chết một con voi. Nếu mang tội đoản thì lúc nãy khi vuốt lưng con bạch xà, con rắn chúa đã cắn tôi. Đó là cái bẫy mà nhiều thầy rắn đã mất mạng!
Nói xong ông quỳ xuống chấp tay lạy ba lạy về phía hang rắn. Sau đó ông bỏ đi thẳng và mất dạng...
Ông Phủ Hơn ngơ ngác đứng nhìn... Mãi một lúc sau ông mới chợt nhớ ra và vụt chạy ra khỏi nhà như bị ma đuổi!
Ngôi nhà từ đó bị bỏ hoang luôn.
Chuyện một đồn mười, mười đồn trăm. Đến nỗi cả những cư dân ở các làng lân cận cũng phải dời nhà đi thật xa. Nghe nói ngôi nhà đó vào lúc chiến tranh đã bị máy bay Pháp dội bom sập hoàn toàn...
Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!