Mở đầu
Đông-Bắc Campuchia
Mùa mưa tháng Chín năm 2006
Chiếc trực thăng của Hội Chữ Thập Đỏ hạ cánh đúng theo giờ quy định.
Đậu trên một dải đất cao được bao quanh bởi những cánh rừng, ngôi làng với khoảng một trăm mái nhà đơn sơ phần lớn được làm từ gỗ và cành cây. Vùng đất này dường như bị lãng quên, chẳng có khái niệm thời gian, cách biệt hẳn khỏi các khu du lịch của Angkor và Phnom Pênh. Bầu không khí bị bão hoà bởi độ ẩm và bùn bao phủ khắp nơi.
Viên phi công chẳng buồn tắt động cơ. Nhiệm vụ của anh: đón một nhân viên y tế nhân đạo về thành phố. Thông thường thì chẳng có gì phức tạp cả. Khong may, giờ đang là tháng Chín và những trận mưa như trút nước liên tục đổ xuống khiến việc điều khiển máy bay trở nên khó khăn. Còn nhiêu liệu, bình dự trữ có hạn, nhưng chắc cũng đủ để đưa mọi người về tới nơi an toàn.
Với điều kiện không được mất quá nhiều thời gian…
Hai bác sĩ phẫu thuật, một bác sĩ gây mê và hai nữ y tá từ trong trạm xá dựng tạm, nơi họ đã làm việc từ hôm qua, chạy ra. Mấy tuần nay, họ đã đi một lượt các ngôi làng quanh vùng, làm hết khả năng để giải quyết sự tàn phá của bệnh sốt rét, bênh AIDS hoặc bệnh lao, chăm sóc những bệnh nhân bị què cụt và lắp chân tay giả cho họ, trong cái xó xỉnh vẫn còn đầy những bãi mìn sát thương của đất nước này.
Theo tín hiệu của viên phi công, bốn trong số năm người đã chui vào trong trực thăng. Người cuối cùng, một người đàn ông khoảng sáu mươi tuổi, hơi tụt lại phía sau, ánh mắt còn hướng vào một nhóm người Campuchia đang vây quanh trực thăng. Ông không thể dứt ra để đi được.
– Phải đi thôi, bác sĩ! Viên phi công hét lên với ông. Nếu chúng ta không cất cánh ngay bây giờ, các ông sẽ không thể kịp chuyến bay được đâu.
Vị bác sĩ gật đầu. Ông vừa chuẩn bị lên trực thăng thì chợt bắt gặp ánh mắt của một đứa trẻ được bế trên tay một cụ già. Nó mấy tuổi rồi? Hai tuổi ư? Cùng lắm là ba. Khuôn mặt bé nhỏ bị biến dạng khủng khiếp bởi một vết dúm chạy dọc xuống xẻ đôi môi trên của nó. Dị tật bẩm sinh này sẽ buộc nó phải húp cháo hoặc bột quấy suốt đời và sẽ khiến nó không bao giờ nói ra nổi một từ nào.
– Khẩn trương lên! Một trong hai cô y tá khẩn khoản.
– Phải mổ cho đứa bé này, người bác sĩ cố hét lên át tiếng những cánh quạt đang quay trên đầu họ.
– Chúng ta không còn thời gian nữa! Các con đường đều không thể đi được nữa vì ngập lụt và trực thăng sẽ không thể quay lại đón chúng ta trong nhiều ngày.
Nhưng vị bác sĩ vẫn không hề nhúc nhích, ông không thể rời mắt khỏi cậu bé. Ông biết rằng ở vùng này, những em bé sơ sinh với một cái miệng "hở hàm ếch" đôi khi bị bỏ rơi bởi bố mẹ chúng theo những tập tục cổ truyền. Và một khi bị đưa vào trại trẻ mồ côi, dị tật đó cũng tước bỏ mọi cơ may để chúng được nhận về nuôi.
Cô y tá lại giục giã:
– Ngày kia người ta sẽ cần tới ông ở San Francisco, thưa bác sĩ. Ông có một lịch phẫu thuật kín đặc, những buổi hội thảo và…
– Cứ đi đi, đừng chờ tôi, cuối cùng người bác sĩ quyết định và rời xa chiếc trực thăng.
– Nếu vậy tôi ở lại với ông, cô y tá quyết định và nhảy xuống đất.
Cô tên là Emily. Đó là một cô gái trẻ người Mỹ làm việc trong cùng bệnh viện với ông.
Viên phi công lắc đầu thở dài. Chiếc trực thăng bay thẳng lên và dừng lại giây lát trên không trước khi cất cánh bay xa dần theo hướng Tây.
Vị bác sĩ ôm cậu bé trong vòng tay: nom cậu nhợt nhạt và co quắp. Có cô y tá đi cùng, ông bế đứa bé quay trở vào trạm xá, ông bắt đầu nói chuyện với nó để xua tan nỗi sợ hãi trước khi tiến hành gây mê. Sau khi đứa trẻ đã thiếp đi, ông cẩn thận dùng dao mổ lật lớp thịt ở hàm trên của nó lên và kéo dài ra để che lấp vết xẻ. Rồi cũng vẫn cẩn thận như vậy, ông tiếp tục tái tạo lại đôi môi và trả lại cho cậu bé một nụ cười thực thụ.
* *
Sau khi ca mổ kết thúc, vị bác sĩ bước ra ngoài và ngồi nán lại trên hiên nhà đầy các mảnh tôn và những chiếc lá khô. Ca mổ đã kéo dài rất lâu. Ông hầu như không chợp mắt từ hai ngày nay và cảm thấy sự mệt mỏi chỉ trong chốc lát đã bắt kịp ông. Ông châm một điếu thuốc và nhìn quanh. Mưa đã ngớt dần. Một khoảng trời đổ xuống một thứ ánh sáng chói chang với gam màu chủ đạo là cam và tía.
Ông không hối hận vì đã ở lại. Mỗi năm, ông đều dành nhiều tuần lễ sang châu Phi hoặc châu Á làm việc cho tổ chức Chữ Thập Đỏ. Những chuyến công tác nhân đạo này không bao giờ để cho ông trở về nguyên vẹn, nhưng chúng như trở thành một thứ gây nghiện, một cách để ông thoát ra khỏi cuộc sống trơn tru của vị trưởng khoa trong một bệnh viện ở California.
Trong lúc dụi tắt điếu thuốc, ông cảm thấy sự có mặt của ai đó phía sau lưng. Quay người lại, ông nhận ra người đàn ông nhiều tuổi đã bế đứa bé khi chiếc trực thăng chuẩn bị cất cánh. Đó là một người gần như trưởng làng. Trong bộ quần áo truyền thống, lưng ông hơi còng và khuôn mặt đầy nếp nhăn. Thay cho lời chào, ông chắp hai tay đưa lên sát cằm, đầu ngẩng cao và nhìn thẳng vào mắt vị bác sĩ. Rồi bằng một cái ngoắc tay ra hiệu, ông mời bác sĩ theo vào trong nhà mình. Ông rót một ly rượu gạo mời bác sĩ trước khi cất tiếng nói những lời đầu tiên:
– Tên nó là Lou-Nan.
Người bác sĩ đoán đó là tên của đứa bé và chỉ khẽ gật đầu.
– Cảm ơn ông đã trả lại khuôn mặt cho nó, ông già Campuchia nói thêm.
Vị bác sĩ phẫu thuật trân trọng đón nhận những lời cảm ơn, gần như lúng túng, ông đưa mắt đi chỗ khac. Qua cửa sổ không có kính, ông có thể nhìn thấy cánh rừng nhiệt đới, dày và xanh mướt, trải dài ngay sát đó. Ông có cảm giác rất lạ khi hiểu rằng chỉ cách đó vài cây số, cao hơn một chút trên dãy Ratanakiri, vẫn có những con hổ, rắn và voi đang sinh sống…
Chìm đắm trong luồng suy tưởng, khó khăn lắm ông mới hiểu được ý nghĩa những lơi vị chủ nhà đang hỏi ông:
– Nếu như ông có điều kiện được thấy một trong những điều ước của mình trở thành sự thật, thì ông sẽ chọn gì?
– Xin lỗi, ông nói gì?
– Ước muốn lớn nhất trong đời ông là gì, thưa bác sĩ?
Thoạt đầu vị bác sĩ cố thử tìm một câu trả lời hóm hỉnh, nhưng kiệt sức vì mệt mỏi và bỗng nhiên cảm thấy vô cùng xúc động, ông nhẹ nhàng đáp:
– Tôi muốn gặp lại một người phụ nữ.
– Một người phụ nữ ư?
– Phải, chỉ một người… người duy nhất có ý nghĩa đối với tôi.
Vậy là, ở một chốn vô cùng xa xôi, cách xa những con mắt phương Tây, có điều gì đó rất trang trọng đang hình thành giữa hai người đàn ông.
– Người phụ nữ đó, ông không biết bà ta ở đâu ư? Ông già Khmer hỏi, ngạc nhiên vì ước muốn quá ư giản dị.
– Cô ấy đã qua đời cách đây ba mươi năm.
Ông già người châu Á khẽ nhíu mày và mải miết suy nghĩ. Rồi sau một quãng thời gian
im lặng, ông kiêu hãnh đứng lên và đi về phía cuối phòng, nơi có những tầng giá tạm bợ, chất đầy một phần những nguyên liệu của ông: những con cá ngựa sấy khô, những rễ củ nhân sâm, những con rắn độc quấn vào nhau trong dung dịch phoóc-môn.
Ông lục một lát trong đống hỗn độn đó cho tới khi thấy thứ cần tìm.
Khi ông quay trở lại chỗ bác sĩ, ông chìa ra một cái lọ nhỏ xíu bằng thuỷ tinh thổi.
Cái lọ có chứa mười viên nhộng màu vàng…
Chương 1
Lần gặp đầu tiên
Một buổi tối đẹp trời khi tương lai được gọi tên quá khứ.
Cũng là khi ta quay lại và nhìn thấy tuổi trẻ của chính mình.
-LOUIS ARAGON-
Sân bay Miami
Tháng Chín năm 1976
Elliott 30 tuổi
Đó là một buổi chiều Chủ nhật tháng Chín, dưới bầu trời Florida….
Ngồi sau tay lái của chiếc Thunderbird mui trần, một cô gái chạy xe trên con đường dẫn tới sân bay. Mái tóc tung bay trong gió, cô lái rất nhanh, vượt qua nhiều chiếc xe khác trước khi dừng lại một chốc trước sảnh khởi hành. Khoảng thời gian chỉ đủ để cô có thể thả người đàn ông ngồi trên ghế bên cạnh xuống đó. Anh lấy chiếc túi để trong cốp xe rồi nghiêng người bên cửa sổ tặng cho cô gái lái xe một nụ hôn. Một tiếng sập cửa rồi anh đi vào trong toà nhà bằng kính và thép.
Anh là Elliott Cooper. Dáng người anh dong dỏng cao và vẻ ngoài duyên dáng. Anh là bác sĩ ở San Francisco, nhưng chiếc áo khoác da và mái tóc bù xù mang lại cho anh dáng vẻ của một thiếu niên.
Một cách máy móc, anh đi về quầy làm thủ tục để lấy thẻ lên máy bay chuyến Miami – San Francisco.
– Em dám cá là anh đã bắt đầu nhớ em…
Bất ngờ vì giọng nói thân thuộc, Elliott giật mình quay lại.
Cô gái đứng trước mặt anh đang ném cho anh một ánh mắt màu lục bảo, pha trộn giữa sự cứng rắn và mềm yếu. Cô mặc chiếc quần jean cạp trễ, áo khoác bằng da thuộc có in hàng chữ Peace and love và chiếc áo phông sặc sỡ kiểu Braxin, xứ sở gốc của cô.
– Lần cuối cùng anh hôn em là từ khi nào ấy nhỉ? Anh vừa hỏi vừa đặt tay lên cổ cô.
– Ít nhất cũng phải hơn một phút rồi.
– Một thiên niên kỷ…
Anh ôm lấy cô và ghì sát vào mình.
Cô là Ilena, người phụ nữ của đời anh. Anh quen cô đã được mười năm và nhờ có cô mà anh đạt được tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình: nghề bác sĩ của anh, sự cởi mở đối với những người khác và một số đòi hỏi trong cách tổ chức cuộc sống…
Anh ngạc nhiên thấy cô quay trở lại, vì họ vẫn luôn thống nhất với nhau để tránh kéo dài những cảnh chia ly, ý thức rất rõ ràng rằng được thêm một vài phút cuối cùng sẽ là sự trả giá bởi nhiều day dứt hơn là an ủi.
Câu chuyện của họ khá phức tạp. Cô sống ở Florida, còn anh ở San Francisco.
Tình yêu vượt khoảng cách của họ tồn tại vượt qua sự chênh lệch về giờ giấc, bắt nhịp bởi bốn múi giờ và bốn ngàn cây số ngăn cách bờ biển phía Đông với bờ biển phía Tây.
Tất nhiên, sau từng ấy năm, lẽ ra họ đã có thể chọn cách chuyển đến sống chung với nhau. Nhưng họ đã không làm như vậy. Ban đầu là do họ nghi ngại sự tàn úa theo thời gian. Bởi vì cuộc sống hàng ngày, trong một hoàn cảnh êm đềm hơn, sẽ tước bỏ của họ những xúc cảm nồng nhiệt từ trái tim mà họ có được mỗi lần gặp lại nhau và đã mang lại cho họ một luồng dưỡng khí.
Thế rồi, mỗi người đã tự xây dựng cho mình một cuộc sống trong môi trường công việc. Một người hướng về Thái Bình Dương, người kia lại hướng về Đại Tây Dương. Sau những năm dài đằng đẵng theo học ngành y, Elliott vừa được nhận vào vị trí bác sĩ phẫu thuật trong một bệnh viện ở San Fracisco. Còn Ilena, cô chăm sóc những chú cá voi và hải cẩu của mình trong Ocean World ở Orlando, công viên nước lớn nhất thế giới, nơi cô làm việc với cương vị là bác sĩ thú y. Từ một vài tháng gần đây, cô đã dành rất nhiều thời gian của mình cho một tổ chức bắt đầu nổi danh có tên gọi là Hoà Bình Xanh. Được thành lập cách đây bốn năm bởi một nhóm người đấu tranh cho hoà bình và môi trường sinh thái, liên minh của những "chiến sĩ cầu vồng" đã được biết đến nhờ sự đấu tranh chống lại những cuộc thử nghiệm hạt nhân. Song lý do chủ yếu khiến Ilena tham gia các hoạt động của tổ chức này là để chống lại việc giết hại cá voi và hải cẩu.
Vậy là mỗi người đều có một cuộc sống đầy bận rộn. Hầu như không có thời gian để buồn. Mặc dù vậy… Mỗi lần từ giã lại trở nên khó khăn hơn so với lần trước đó.
"Đã đến giờ lên máy bay của hành khách bay chuyến 711 tới San Francisco, cửa số 18…"
– Chuyến của anh phải không? Cô vừa hỏi vừa nới vòng tay.
Anh gật đầu xác nhận, và vì anh biết rõ tính cô:
– Em muốn nói gì với anh trước khi anh đi phải không?
– Phải. Em sẽ tiễn anh ra tới cửa phòng chờ, cô vừa nói vừa cầm lấy tay anh.
Rồi vừa bước đi bên cạnh anh, cô vừa nói một tràng bằng giọng chứa âm sắc Nam Mỹ mà anh vô cùng yêu thích:
– Em vẫn biết thế giới này rồi sẽ gặp phải thảm hoạ. Elliott, nào là chiến tranh lạnh, cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân…
Mỗi lần họ chia tay nhau, anh đều nhìn cô như thể đây là lần cuối cùng anh được gặp cô. Cô đẹp như một ngọn lửa.
– … sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên, đấy là còn chưa kể nạn ô nhiễm, sự phá huỷ các cánh rừng nhiệt đới hay…
– Ilena?
– Dạ?
– Em muốn nói chuyện gì vậy?
– Em muốn chúng ta có một đứa con, Elliott…
– Ở đây, ngay lúc này, giữa sân bay sao? Trước mặt tất cả mọi người à?
Đó là tất cả những gì mà anh tìm thấy để trả lời. Một chút hài hước để che giấu đi sự ngỡ ngàng của anh. Nhưng Ilena không hề có ý định đùa giỡn.
– Em không đùa đâu, Elliott. Thậm chí em còn khuyên anh nên suy nghĩ thật nghiêm túc về chuyện này, cô vừa nói vừa thả bàn tay anh ra và đi về phía lối ra.
– Chờ anh đã! Anh hét lên để níu cô lại.
"Đây là lần gọi cuối cùng, xin mời ông Elliott Cooper, hành khách đi chuyến bay số 711 đến…".
– Khỉ thật! Anh buột miệng và miễn cưỡng đi lên thang cuốn dẫn đến phòng chờ ra máy bay.
Lên gần đến bên trên, anh mới quay lại để vẫy tay chào cô lần cuối.
Ánh nắng tháng Chín tràn ngập sảnh khởi hành.
Elliott vẫy tay.
Nhưng Ilena đã biến mất từ lâu.
***
Trời đã tối khi máy bay hạ cánh xuống San Francisco. Chuyến bay kéo dài sáu tiếng và đã hơn 21 giờ ở California.
Elliott chuẩn bị ra khỏi sảnh sân bay và bắt một chiếc taxi nhưng anh chợt đổi ý. Anh sắp lả đi vì đói. Choáng váng vì lời đề nghị của Ilena, anh đã không hề đụng tới khay thức ăn được dọn ra trên máy bay và anh biết tủ lạnh nhà mình trống rỗng. Lên đến tầng hai, anh nhìn thấy một quán mang tên cầu Cổng Vàng Café, anh đã tới đây một lần cùng với Matt, người bạn thân nhất thỉnh thoảng cũng đi cùng anh đến bờ biển phía đông. Anh ngồi vào quầy và gọi một đĩa salat, hai cái bánh mì vòng và một ly chardonnay. Mệt mỏi vì chuyến bay này, anh dụi mắt trước khi yêu cầu cho anh một vài tấm thẻ để sử dụng máy điện thoại công cộng đặt ở cuối phòng. Anh quay số của Ilena nhưng không ai trả lời máy. Vì lệch giờ nên lúc này ở Florida đã là nửa đêm. Chắc chắn Ilena đang ở nhà nhưng rõ ràng cô không muốn trả lời anh.
Không nằm ngoài dự đoán…
Tuy vậy, Elliott không ân hận vì phản ứng của anh đối với đề nghị của Ilena. Sự thật là anh không muốn có con.
Vậy đấy.
Đó không phải là vấn đề tình cảm: anh rất yêu Ilena và tình yêu của anh đối với cô nhiều không kể xiết. Nhưng chỉ tình yêu thôi thì chưa đủ. Vì trong bầu không khí của những năm bảy mươi này, anh thấy nhân loại dường như vẫn còn chưa đi đúng hướng, và nói cho cùng, anh cũng không muốn gánh trách nhiệm sinh thành một đứa bé.
Điều này chắc chắn Ilena sẽ không muốn nghe.
Quay trở lại quầy, anh ăn nốt khẩu phần của mình rồi gọi một tách cà phê. Anh rất căng thẳng và bẻ các ngón tay kêu răng rắc một cách gần như vô thức. Trong túi áo vest, anh cảm thấy bao thuốc lá như đang ngọ nguậy hồi theo và anh không hề cưỡng lại ý muốn đốt một điếu.
Anh biết anh cần phải dừng hút thuốc. Xung quanh anh, người ta nói ngày càng nhiều về tác hại của thuốc lá. Từ khoảng mười lăm năm nay, những nghiên cứu về dịch tễ đã chỉ ra sự phụ thuộc vào chất ni-cô-tin, và là một bác sĩ phẫu thuật, Elliott biết rất rõ rằng những nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi, cũng như nguy cơ tai biến tim mạch sẽ rất cao đối với những người hút thuốc lá. Nhưng giống như rất nhiều bác sĩ khác, anh quan tâm đến sức khoẻ của người khác nhiều hơn đến sức khoẻ bản thân. Cần phải nói thêm rằng ở thời đại của anh, người ta vẫn có thể hút thuốc bình thường trong nhà hàng hay trên máy bay. Là thời đại mà thuốc lá vẫn còn là biểu tượng của sự quyến rũ lịch lãm và của tự do văn hóa và xã hội.
Mình sẽ sớm bỏ thôi, anh nghĩ trong lúc phả ra một làn khói thuốc, nhưng không phải tối nay… Anh cảm thấy quá chán nản để thực hiện nỗ lực lớn lao đó.
Không biết làm gì, anh đưa mắt nhìn qua vách kính và đó là lúc anh nhìn thấy ông ta lần đầu tiên: một người đàn ông mặc một bộ pyjama kỳ quặc màu xanh da trời có vẻ như đang quan sát anh từ bên kia lớp kính. Anh nheo mắt lại để nhìn ông cho rõ hơn. Ông khoảng sáu mươi tuổi, dáng vẻ vẫn còn tráng kiện và một bộ râu quai nón ngắn hơi ngả màu xám khiến cho ông trông hơi giống Sean Connery khi già đi. Elliott nhíu mày. Người đàn ông này làm gì ở đây, chân trần và mặc pyjama, vào cái giờ muộn màng này, lại ở giữa sân bay?
Lẽ ra thì anh bác sĩ trẻ chẳng cần bận tâm làm gì, nhưng có một sức mạnh vô hình nào đó buộc anh rời chỗ ngồi và đi ra khỏi quán. Người đàn ông có vẻ mất phương hướng, giống như vừa từ một nơi nào lạc đến. Càng tiến đến gần ông, Elliott càng bị xâm lấn bởi một cảm giác khó chịu mà anh không dám thừa nhận với bản thân. Người đàn ông này là ai? Có thể là một bệnh nhân vừa trốn khỏi bệnh viện hay một cơ sở điều trị… Trong trường hợp đó, là một bác sĩ, chẳng phải anh có bổn phận giúp đỡ ông ta sao?
Khi chỉ còn cách chưa đầy ba mét, anh bỗng hiểu ra điều gì khiến anh bấn loạn đến như vậy: người đàn ông trông giống bố anh một cách kỳ lạ, ông đã qua đời cách đây năm năm vì bệnh ung thư tuyến tuỵ.
Bối rối, anh tiến lại gần hơn nữa. Càng đứng gần, càng thấy giống đến mức ấn tượng: cũng khuôn mặt ấy, cũng một lúm đồng tiền trên má mà anh đã được thừa hưởng…
Và nếu đó đúng là ông thì…
Không, anh cần phải lấy lại bình tĩnh! Bố anh đã qua đời và mất thật rồi. Anh đã chứng kiến nhập quan và hoả táng.
– Tôi có thể giúp gì được cho ông, thưa ông?
Người đàn ông lùi lại một bước. Ông ta có vẻ cũng bối rối y như anh và ở ông toát ra một sự tương phản giữa sức mạnh và sự cùng quẫn.
– Tôi có thể giúp gì ông? Anh nhắc lại.
Người kia chỉ thì thầm:
– Elliott…
Sao ông ta lại biết tên anh? Và giọng nói này…
Nếu nói rằng bố anh và anh chưa bao giờ gần gũi nhau thì cũng không hẳn. Nhưng giờ khi bố anh đã qua đời, đôi khi Elliott cũng ân hận vì đã không nỗ lực nhiều trong quá khứ để tìm cách hiểu ông hơn.
Đứng ngây người và hoàn toàn ý thức được sự vô lý trong câu hỏi của mình, Elliott không thể kìm được và hỏi bằng giọng nghẹn ngào cảm xúc:
– Bố?
– Không, Elliott, tôi không phải là bố anh.
Thật lạ, câu trả lời hợp lý đó lại chẳng hề khiến anh cảm thấy yên tâm hơn một chút gì, giống như có một linh cảm đã mách bảo anh rằng điều đáng ngạc nhiên nhất vẫn còn đang ở phía trước.
– Vậy thì ông là ai?
Người đàn ông đặt tay lên vai anh. Một tia sáng quen thuộc ánh lên trong mắt người đàn ông, và ông ta ngập ngừng giây lát trước khi trả lời.
– Tôi là anh, Elliott…
Chàng bác sĩ lùi lại một bước rồi đứng sững như bị sét đánh; người đàn ông kết thúc câu nói:
– … tôi là anh, của ba mươi năm về sau.
***
– Tôi, của ba mươi năm sau?
Elliott khoát tay tỏ vẻ không hiểu.
– Ông nói thế là ý gì?
Người đàn ông mở miệng, nhưng chưa kịp có thêm lời giải thích nào: một dòng máu bỗng rỉ ra từ mũi ông và rơi thành giọt to xuống phần trên bộ pyjama.
– Ngửa đầu ra phía sau! Elliott ra lệnh và rút từ trong túi áo ra một chiếc khăn giấy mà anh đã máy móc nhét vào đó khi còn ở trong quán và rịt lên mũi người mà giờ anh đang coi như một bệnh nhân của anh.
– Sẽ ổn ngay thôi, anh nói bằng giọng chắc nịch.
Trong giây lát, anh thấy tiếc vì đã không mang theo mình túi cứu thương, nhưng máu đã cầm lại tương đối nhanh.
– Đi với tôi, cần phải cho ông một ít nước lên mặt.
Người đàn ông nối bước theo anh không nói năng gì. Nhưng khi họ đi đến toa-lét, bỗng nhiên người ông ta chợt rung lên, giống như đang bị lên cơn động kinh.
Elliott muốn giúp ông ta, nhưng ông ta vùng đẩy anh ra.
– Cứ mặc tôi! Ông yêu cầu và đẩy cánh cửa phòng vệ sinh.
Bị ngăn lại, Elliott quyết định đứng chờ bên ngoài. Anh cảm thấy mình có trách nhiệm với người đàn ông này và anh chưa yên tâm về tình trạng ông ta.
Chuyện này thật kỳ lạ. Trước hết là sự giống nhau về vẻ bên ngoài, rồi câu nói không đầu không cuối – tôi là anh của ba mươi năm sau – và giờ thì việc chảy máu cam và cơn run lẩy bẩy.
Khỉ thật, ngày gì thế này!
Nhưng còn lâu mới kết thúc một ngày, vì sau một hồi lâu, cảm thấy mình chờ như vậy đã khá lâu, anh quyết định bước vào trong toa-lét.
– Này ông?
Đó là một căn phòng rất dài. Trước tiên Elliott nhìn dãy bồn rửa tay. Chẳng có ai. Nơi này chẳng có cửa sổ mà cũng chẳng có cửa thoát hiểm. Vậy là ông ta ở trong một buồng vệ sinh.
– Ông có ở đó không, thưa ông?
Không nghe ai trả lời. Sợ ông ta bị ngất, bác sĩ vội vàng mở cánh cửa đầu tiên ra: không có ai.
Cánh cửa thứ hai, không có ai.
Cánh cửa thứ ba, thứ tư… rồi cánh cửa thứ mười: trống trơn.
Không còn cách nào khác, anh đưa mắt nhìn lên trần, không một tấm ván nào có vẻ bị di chuyển.
Đúng là không thể, nhưng đành phải thừa nhận một điều hiển nhiên – người đàn ông đã biến mất.
Chương 2
Tương lai hấp dẫn tôi: đó là nơi tôi đang
định trải qua những tháng năm sắp tới.
-WOODY ALLEN-
San Francisco
Tháng Chín năm 2006
Elliott 60 tuổi
Elliott mở choàng mắt. Ông đang nằm vắt ngang giường. Tim ông đập thình thịch và toàn thân ướt đẫm mồ hôi.
Cơn ác mộng đáng nguyền rủa!
Ông là người chẳng bao giờ nhớ nổi những giấc mơ của mình, vậy mà ông vừa mới có một giấc mơ vô cùng kỳ lạ: ông lang thang trong sân bay ở San Francisco, cho tới khi ông chợt gặp phải… một bản sao của chính mình. Nhưng là một bản sao trẻ hơn và anh ta có vẻ ngạc nhiên không kém khi nhìn thấy ông. Tất cả có vẻ như rất thật, đến mức khiến ông bối rối, giống như ông đã thực sự bị đưa tới ba mươi năm về trước.
Elliott nhấn vào nút bấm để rèm cửa sổ tự động mở ra rồi ném ánh mắt lo lắng về phía chiếc lọ đặt trên bàn đầu giường nơi để những viên nhộng màu vàng. Ông mở cái lọ ra: vẫn còn chín viên. Hôm qua, trước khi đi ngủ, ông đã tò mò uống thử một viên. Phải chăng nó là nguồn gốc dẫn đến giấc mơ bí hiểm của ông? Ông già người Campuchia đã đưa cho ông chiếc lọ nhưng chỉ nói mơ hồ về tác dụng của thuốc, cho dù cụ đã trịnh trọng khuyến cáo ông "không bao giờ được lạm dụng chúng".
Elliott khó nhọc đứng dậy và tiến lại gần cửa sổ rộng nhìn ra biển. Từ chỗ này, ông có được một góc nhìn tuyệt đẹp hướng ra đại dương, đảo Alcatraz và cầu Cổng Vàng. Mặt trời lúc bình minh chiếu xuống thành phố một làn ánh sáng đỏ liên tục đổi sắc thái mỗi phút đồng hồ. Ngoài khơi, những chiếc thuyền buồm và tàu thuỷ chạy xen kẽ nhau trong tiếng còi, và mặc dù mới sáng sớm song một vài người tập thể dục đã chạy bộ dọc theo Marina Green, một thảm cỏ dài nằm dọc theo bờ biển.
Nhìn những khung cảnh quen thuộc đó, ông cảm thấy bình tâm lại đôi chút. Những trăn trở của buổi đêm vừa qua chắc chắn sẽ nhanh chóng bị lãng quên. Ông vừa mới tự nhủ với mình như vậy thì lớp kính đã phản chiếu cho ông thấy một hình ảnh đáng kinh ngạc: một vết sẫm hiện lên trên vạt áo ngủ của ông. Ông cúi xuống để quan sát vết bẩn đó cho rõ hơn.
Máu ư?
Nhịp tim ông đổ dồn, nhưng điều đó kéo dài không lâu. Ông đã bị chảy máu cam trong đêm và đã mang cả biến cố đó vào trong giấc mơ. Đây là một chuyện hoàn toàn bình thường, chẳng có gì phải hoảng hốt lên cả.
Mới yên tâm được một nửa, ông đi vào buồng tắm để chuẩn bị tắm rửa trước khi đi làm. Ông điều chỉnh vòi hoa sen và đứng sững ra một lát, chìm trong luồng suy tư, trong khi buồng tắm bắt đầu ngập đầy hơi nước. Vẫn còn có điều gì đó khiến ông thấy băn khoăn. Nhưng là gì mới được? Ông bắt đầu cởi bỏ quần áo thì bỗng một trực giác xui khiến ông lục tay vào túi bộ pyjama. Trong túi có một tờ khăn giấy lấm lem máu. Sau những vệt huyết cầu tố còn vương lại, người ta vẫn có thể nhận ra được hình vẽ chiếc cầu nổi tiếng nhất thành phố và một dòng chữ vắt ngang: Quán cà phê cầu Cổng Vàng – Sân bay San Francisco.
Lại một lần nữa, tim ông đập rộn lên và lần này thì ông cảm thấy thật khó có thể lấy lại được bình tĩnh.
***
Có phải căn bệnh khiến đầu óc ông kém tỉnh táo rồi chăng?
Vài tháng trước, qua một lần xét nghiệm, ông biết được mình đã mắc bệnh ung thư phổi. Nói cho cùng, điều này chẳng hề khiến ông ngạc nhiên: người ta không thể hút hơn một bao thuốc mỗi ngày liên tục trong vòng bốn mươi năm mà lại không gặp trục trặc gì. Những hiểm hoạ, ông đã biết từ lâu và ông đã chấp nhận chúng. Vậy đấy, đó là rủi ro của cuộc sống. Ông chưa bao giờ tìm cách có một cuộc sống tinh khiết cũng như tự hào về mình bằng mọi giá để tránh khỏi những tổn thương trong cuộc sống. Bằng cáhc nào đó, ông tin vào số phận: mọi việc sẽ đến nếu như chúng phải đến. Và con người bắt buộc phải gánh chịu chúng.
Một cách khách quan, đây là một loại ung thư rất nguy hiểm: một trong những thể phát triển nhanh nhất và khó chữa trị nhất. Những năm gần đây, y học đã tiến bộ rất nhiều trong lĩnh vực này và những loại thuốc mới giờ đã cho phép kéo dài sự sống cho những người bệnh. Nhưng với ông thì đã quá muộn: khối u đã không được phát hiện đủ sớm và các xét nghiệm đã cho thấy sự di căn sang các cơ quan khác.
Người ta đã đề nghị ông theo điều trị một phác đồ điển hình – phối hợp giữa hoá trị và xạ trị – nhưng ông từ chối. Đến giai đoạn này, chẳng còn gì nhiều để thử nữa. Kết quả cuộc chiến đã được định sẵn: ông sẽ chết trong vài tháng nữa.
Cho tới giờ, ông đã thành công trong việc che giấu căn bệnh của mình, nhưng ông biết sẽ không thể tiếp tục như thế mãi. Các cơn ho của ông ngày một kéo dài, những cơn đau hai bên sườn và vai ngày một trở nên dữ dội và sự mệt mỏi đôi khi bất ngờ xâm chiếm ông, mặc dù ông vẫn nổi tiếng là người không bao giờ biết mệt.
Song đau đớn không phải là điều khiến ông sợ hãi. Điều đáng gờm nhất đối với ông là phản ứng của những người xung quanh. Đặc biệt là của Angie, đứa con gái hai mươi tuổi của ông, hiện đang là sinh viên ở New York, và của Matt, người bạn thân nhất mà ông vẫn thường chia sẻ mọi điều.
Ông bước ra khỏi vòi sen, nhanh chóng lau khô người và mở tủ quần áo. Hơn bao giờ hết, ông cẩn thận lựa chọn trang phục: áo sơ-mi bằng vải bông Ai Cập và com-lê Ý. Mặc quần áo xong, bóng đen của bệnh tật đã bị xoá bỏ để thay vào đó là một người vẫn còn trong độ tuổi sung mãn, dáng vẻ rất đàn ông. Cho tới gần đây, với sự quyến rũ không thể phủ nhận, thỉnh thoảng ông vẫn còn cặp với một vài phụ nữ trẻ đẹp đôi khi chỉ bằng nửa tuổi ông. Song những mối quan hệ đó không bao giờ kéo dài. Tất cả những ai đã từng thân cận với Elliott Cooper đều biết rằng chỉ có hai người phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời ông. Người thứ nhất là con gái ông, Angie. Và người thứ hai tên là Ilena.
Bà đã qua đời từ cách đây ba mươi năm.
***
Ông bước ra đường và được đón chào bởi ánh nắng, những đợt sóng và gió. Ông đứng lại giây lát để tận hưởng một ngày mới đang lên trước khi mở cánh cửa nhà để xe nhỏ. Rồi ông chui vào trong một chiếc Coccinelle kiểu cổ màu da cam, tàn tích cuối cùng của một thời hippi đã qua từ lâu. Hạ mui xe xuống, ông chậm rãi nhập vào dòng xe cộ trên đại lộ và chạy lên phố Fillmore về phía những căn nhà theo kiểu Victoria trên Pacific Height. Giống như trong các bộ phim, các con phố của San Francisco, quanh co và dốc đứng như đường tàu lượn. Nhưng Elliott đã qua cái tuổi thích chơi trò đánh võng mỗi khi tới chỗ ngoặt. Lên tới phố California, ông rẽ trái và gặp một chiếc xe điện đang chở những người khách du lịch đầu tiên về phía khu Chinatown. Trước khi chạy tới khu phố Tàu, ông chui thẳng vào một bãi đậu xe ngầm nằm cách Nhà thờ Grace hai toà nhà và đến Lenox Medical Center nơi ông làm việc từ hơn ba chục năm nay.
Là chủ nhiệm khoa phẫu thuật bệnh nhi, ông được coi như một trong những nhân vật có cỡ của bệnh viện. Nhưng ông mới chỉ được thăng chức cách đây không lâu và ông đạt được thành quả đó lúc đã có tuổi. Trong suốt cả sự nghiệp của mình, ông lúc nào cũng dành mọi ưu tiên cho bệnh nhân và luôn nỗ lực – một điều khá hiếm thấy ở một bác sĩ phẫu thuật – để không chỉ dừng lại ở những bài thuyết trình mang tính kỹ thuật, mà còn quan tâm cả tới phương diện tình cảm. Ông không bao giờ bị choáng ngợp bởi sự tôn vinh và cũng chẳng bao giờ tìm cách xây dựng cho mình một mạng lưới các mối quan hệ thông qua các buổi chơi golf hay các kỳ nghỉ cuối tuần bên hồ Tahoe. Mặc dù vậy, mỗi khi con cái của chính các đồng nghiệp của ông cần phải phẫu thuật, họ luôn tìm đến ông, một dấu hiệu không khi nào gây nhầm lẫn trong nghề này.
***
– Cậu có thể phân tích cái này cho tôi được không?
Elliott đưa cho Samuel Below, trưởng phòng xét nghiệm của bệnh viện, một túi nilon nhỏ trong đó ông đã gạt vào một chút bột vụn moi từ đáy chiếc lọ đựng thuốc.
– Cái gì thế này?
– Thì anh phải nói cho tôi biết mới được chứ…
Rồi ông nhanh chóng lướt qua căng-tin, nhập liều cafein đầu tiên rồi lên phòng mổ để thay đồ và tìm gặp kíp mổ của ông bao gồm một bác sĩ gây mê, một nữ y tá và một bác sĩ trẻ người Ấn do ông giám sát thực tập. Bệnh nhân là một trẻ sơ sinh yếu ớt mới bảy tháng tuổi tên Jack bị bệnh tim. Dị tật ở tim của em ngăn chặn sự chuyển hoá ô-xy trong máu khiến cho da em có màu tái xanh, các ngón tay cứng đờ và đôi môi thâm tím.
Trong khi chuẩn bị rạch dao vào lồng ngực đứa trẻ, Elliott không thể ngăn mình có một thứ cảm giác hồi hộp, giống như một nghệ sĩ trước lúc ra sân khấu. Đối với ông, những ca mổ tim luôn chiếm giữ một chút gì đó mầu nhiệm. Ông đã thực hiện được bao nhiêu ca mổ rồi? Hàng trăm, hàng ngàn thì phải. Năm năm trước, một đoàn làm phim truyền hình đã thực hiện một phóng sự về ông trong đó họ ca ngợi "những ngón tay vàng" có khả năng khâu lại những mạch máu mảnh như thân kim với những sợi chỉ không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nhưng lần nào cũng đều căng thẳng như thế, cùng một nỗi sợ hãi thất bại.
Ca mổ kéo dài hơn bốn tiếng, trong thời gian đó tim phổi tạm ngừng hoạt động và được thay thế bằng một chiếc máy. Giống như một người thợ sửa ống nước, Elliott bít lỗ hổng giữa hai buồng tim lại rồi mở một đường lên phổi để tránh cho máu xanh khỏi tràn vào động mạch chủ. Đây là một công việc tỉ mỉ đòi hỏi rất nhiều rèn luyện và tập trung cao độ. Đôi tay ông không hề run, nhưng một phần tâm trí của ông lại đang để ở nơi khác: nơi chính căn bệnh của bản thân mà giờ ông không thể tảng lờ đi được nữa và giấc mơ kỳ lạ đêm qua. Chợt ý thức được sự mất tập trung của mình, ông tự cảm thấy có lỗi và lại quay về với công việc mà ông phải hoàn thành.
Sau khi ca phẫu thuật kết thúc, Elliott giải thích với bố mẹ của bệnh nhi rằng giờ vẫn còn quá sớm để có thể đưa ra nhận xét về kết quả của ca mổ. Trong vòng vài ngày tới, đứa trẻ sẽ được theo dõi tại khoa săn sóc đặc biệt nơi vẫn tiếp tục được giúp thở bằng máy cho tới khi, từng chút một, các lá phổi và tim của bé phục hồi toàn bộ chức năng.
Vẫn còn trong trang phục phẫu thuật, ông đi xuống bãi đậu xe của bệnh viện. Mặt trời đã lên cao trên bầu trời, toả ánh nắng chói chang và trong một khoảnh khắc ông cảm thấy choáng váng. Ông mệt lử, kiệt sức, trong đầu đầy những câu hỏi: phủ nhận căn bệnh của mình như ông đang làm liệu có phải là một việc đúng đắn? Liệu có cẩn trọng khi tiếp tục phẫu thuật với nguy cơ mạo hiểm tính mạng của những người bệnh? Chuyện gì đã xảy ra sáng nay nếu ông bị choáng váng ngay giữa ca mổ?
Để tiếp sức cho dòng suy tưởng, ông châm một điếu thuốc và rít hơi đầu tiên với vẻ mãn nguyện. Đây là điều duy nhất chắc chắn đối với căn bệnh ung thư này: giờ thì ông có thể hút thuốc bao nhiêu tuỳ thích, việc đó chẳng hề thay đổi tiến triển của bệnh nữa.
Một làn gió nhẹ khiến ông rùng mình. Từ khi biết mình sắp chết, ông trở nên mẫn cảm hơn đối với tất cả mọi thứ xung quanh. Ông gần như có thể cảm nhận được hơi thở phập phồng của thành phố giống như đó là một cơ thể sống. Bệnh viện toạ lạc trên ngọn đồi nhỏ Nob Hill. Từ đây, người ta có thể mường tượng ra sự chuyển mình của mọi sự bên dưới khu cảng và trên các bến tàu. Ông rít một hơi cuối cùng trước khi dụi tắt điếu thuốc. Ông đã ra quyết định: ông sẽ dừng phẫu thuật vào cuối tháng này và sẽ thông báo để con gái và Matt biết về bệnh tình của mình.
Vậy đấy, thế là hết. Không thể nào quay lại được. Sẽ chẳng bao giờ ông còn thực hiện được công việc duy nhất mà trong đó ông cảm thấy mình thực sự sống có ích: chữa bệnh cho những người khác.
Ông cân nhắc thêm chút nữa về quyết định đột ngột đó và chợt cảm thấy mình già cỗi và đáng thương.
– Bác sĩ Cooper?
Elliott quay người lại và nhìn thấy Sharika, cô bác sĩ nội trú người Ấn đang đứng đối diện với ông. Cô đã thay đồ, cởi chiếc áo blouse trắng ra và mặc chiếc quần jean bạc phếch cùng chiếc áo hai dây mảnh mai. Gần như nhút nhát, cô đưa cho ông chiếc cốc nhựa đựng cà phê. Toàn thân cô toát ra vẻ đẹp, sự trẻ trung và sức sống.
Elliott nhận lấy cốc nước và cảm ơn cô bằng một nụ cười.
– Tôi đến để tạm biệt ông, thưa bác sĩ.
– Tạm biệt?
– Đợt thực tập của tôi ở Mỹ đến hôm nay là kết thúc.
– À phải, ông nhớ ra, cô sẽ quay trở về Bombay.
– Cảm ơn ông đã đón tiếp và đối xử tốt với tôi. Tôi đã học được rất nhiều với ông.
– Cám ơn sự giúp đỡ của cô, Sharika, cô sẽ là một bác sĩ giỏi.
– Còn ông, ông là một bác sĩ vĩ đại.
Elliott lắc đầu, gần như lúng túng trước lời khen.
Cô gái Ấn Độ tiến một bước sát đến chỗ ông.
– Tôi tự nhủ… tôi nghĩ có lẽ chúng ta có thể ra ngoài ăn bữa tối.
Trong vòng chưa đầy một giây, làn da màu đồng tuyệt đẹp của cô chuyển sang đỏ rực. Cô rất nhút nhát và đã phải cố gắng lắm mới có thể đưa ra lời đề nghị.
– Tôi xin lỗi, nhưng điều này thì không thể, Elliott trả lời và vô cùng ngạc nhiên vì câu chuyện đã xoay chuyển theo hướng đó.
– Tôi hiểu, cô nói.
Cô ngừng lại vài giây rồi nói thêm:
– Đợt thực tập của tôi chính thức kết thúc lúc mười tám giờ. Tối nay, ông sẽ không còn là cấp trên của tôi nữa và tôi cũng không phải tuân theo lệnh của ông. Nếu vì vậy mà ông cảm thấy ngại thì…
Elliott nhìn cô chăm chú hơn. Cô bao nhiêu tuổi nhỉ? Hai mươi tư? Cùng lắm là hai lăm. Ông chưa bao giờ cư xử khiến cô hiểu lầm và ông cảm thấy hơi lúng túng.
– Vấn đề không phải như vậy.
– Thật buồn cười, vậy mà tôi vẫn nghĩ rằng ông không hề thờ ơ với tôi…
Ông phải trả lời cô thế nào bây giờ? Rằng một nửa con người ông đã chết và nửa còn lại cũng sắp chết theo ư? Rằng người ta cứ bảo tình yêu không quan trọng tuổi tác, nhưng điều đó thật là vớ vẩn…
– Tôi chẳng biết nói gì với cô nữa.
– Vậy thì ông đừng nói gì cả, cô vừa nói thầm vừa quay gót.
Tự ái, cô bỏ đi song còn sực nhớ ra điều gì.
– À, tôi quên mất, cô nói song vẫn không quay người lại, tổng đài đã nhận được tin nhắn của người bạn ông tên là Matt: ông ấy đã chờ ông từ nửa giờ nay và bắt đầu thấy sốt ruột.
***
Elliott hối hả rời bệnh viện và vẫy vội một chiếc taxi. Ông đã hẹn ăn trưa với Matt và giờ đã trễ hẹn quá rồi.
Cũng giống như có những tình yêu sét đánh, đôi khi trong tình bạn cũng có những cú sét. Matt và Elliott đã gặp nhau cách đây bốn mươi năm trong hoàn cảnh thật đặc biệt. Nhìn bề ngoài, chẳng có gì khiến hai người có thể gần nhau: Matt là người Pháp, hướng ngoại, thích theo đuổi những cô gái đẹp và hưởng thụ cuộc sống; Elliott là người Mỹ, khá kín đáo và đơn độc. Họ đã cùng nhau lại một đồn điền trồng nho trong thung lũng Napa, trang trại Périgord de la Californie. Những loại rượu vang mà họ sản xuất – rượu vang đỏ của vùng Sauvignon và rượu chardonnay có vị dứa và mơ lông – đã có được tiếng tốt nhờ vào những nỗ lực kiên trì của Matt để quảng bá cho sản phẩm của họ trên khắp đất nước cũng như ở châu Âu và châu Á.
Với Elliott, Matt là người bạn vẫn còn ở lại kể cả khi xung quanh ông không còn người bạn nào nữa, là người ông sẽ gọi vào giữa đêm nếu một ngày nào đó ông cần phải giấu một cái xác.
Nhưng giờ thì Elliott đang trễ hẹn và Matt chắc sẽ càu nhàu đây…
***
Nhà hàng rất tao nhã Bellevue, nơi họ thường xuyên ăn trưa với nhau, nằm dọc theo phố Embarcadero và trông ra biển. Tay cầm ly rượu, Matt Delluca đã chờ từ nửa tiếng đồng hồ trên sân thượng không có mái che trông ra vịnh Bridge, đảo Treasure và những toà nhà chọc trời của khu phố thương mại.
Ông chuẩn bị gọi thêm ly thứ ba thì điện thoại của ông reo lên.
– Chào cậu, Matt, tớ xin lỗi, nhưng tớ sẽ đến muộn một chút.
– Cậu không cần vội, Elliott. Sau một thời gian, cuối cùng thì tớ cũng đã quen được với quan niệm đặc biệt của cậu về sự đúng hẹn…
– Tớ có nằm mơ không! Không phải cậu đang giận tớ đấy chứ?
– Ồ không, ông bạn thân mến: cậu là bác sĩ và việc cứu sống sinh mạng con người cho cậu mọi quyền, ai chẳng biết điều đó.
– Đúng như tớ nghĩ, cậu đang giận tớ…
Matt không thể không mỉm cười. Áp chặt điện thoại vào tai, ông rời khỏi sân thượng và bước vào trong gian phòng lớn của nhà hàng.
– Cậu có muốn tớ gọi thức ăn cho cậu không? Ông vừa đề nghị vừa tiến lại gần quầy đồ biển. Trước mặt tớ đang có một con cua bể đang giãy và nó sẽ rất vinh hạnh nếu được xuất hiện trong bữa ăn của cậu…
– Tớ tin tưởng cậu đấy.
Matt bỏ máy và gật đầu ra hiệu cho người phục vụ, số phận của con cua bất hạnh đã được định đoạt.
– Một con cua bể nướng, một thôi!
Mười lăm phút sau, Elliott chạy băng qua gian phòng rộng được trang trí bằng gỗ quý và gương. Sau khi đã vướng chân vào chiếc xe đẩy bốn bánh đựng đồ tráng miệng và vô tình va phải một cô phục vụ bàn, cuối cùng ông cũng tới được chỗ người bạn đang chờ ở bàn mà họ vẫn hay ngồi. Những lời đầu tiên của ông là giao hẹn:
– Nếu cậu vẫn còn coi trọng tình bạn của chúng ta, thì hãy tránh nói trong cùng một câu các từ "muộn" và "lại".
– Tớ có nói gì đâu, Matt trấn an. Chúng ta đã đặt bàn này cho giữa trưa, bây giờ là 13h20 nhưng tớ vẫn chưa nói năng gì. Thế nào, chuyến đi Campuchia của cậu ra sao?
Elliott vừa mới nói được vài lời thì bật ho thành tràng.
Matt rót cho bạn một cốc đầy nước khoáng.
– Chẳng phải cậu ho hơi nhiều sao? ông hoảng hốt.
– Cậu đừng lo lắng quá.
– Sao lại không chứ… Có lẽ cậu nên khám thử xem sao? Chụp cắt lớp hoặc cái gì đó tương tự thế…
– Tớ mới là bác sĩ, Elliott đáp và mở thực đơn ra. Thế nào, cậu đã gọi gì rồi?
– Nói cậu đừng giận, nhưng tớ thấy trông mặt cậu kém lắm.
– Sự tử tế này của cậu có kéo dài lâu không đấy?
– Đơn giản là tớ lo cho cậu thôi: cậu làm việc nhiều quá đấy.
– Tớ ổn cả, tớ nói với cậu rồi! Chỉ có điều chuyến đi Campuchia vừa rồi khiến tớ hơi mệt thôi!
– Lẽ ra cậu không nên đi, Matt vừa thẳng thắn nói vừa nhăn mặt. Với tớ, châu Á…
– Trái lại, chuyến đi rất bổ ích. Có điều ở đó tớ đã gặp phải một chuyện rất kỳ lạ.
– Tức là sao?
– Tớ đã gặp và giúp đỡ một cụ già người Campuchia và cứ như là một vị thần đèn, ông cụ đã hỏi tớ ước ao điều gì nhất…
– Thế cậu đã trả lời thế nào?
– Tớ đã xin một điều không thể.
– Cậu ước có thể thắng một trận golf ư?
– Thôi bỏ đi.
– Không, nói cho tớ nghe…
– Tớ đã nói với ông cụ rằng tớ muốn gặp lại một người…
Đến đây, Matt hiểu ra rằng bạn mình đang nghiêm túc và nét mặt ông biến đổi hẳn.
– Và cậu muốn gặp lại ai? Ông hỏi mặc dù đã biết trước câu trả lời.
– Ilena…
Một nỗi buồn chợt bao trùm lên hai người đàn ông. Nhưng Elliott không chịu để nỗi buồn xâm lấn. Trong khi người phục vụ bàn mang món khai vị tới, ông tiếp tục câu chuyện, kể lại cho bạn nghe điều kỳ lạ về chiếc lọ đựng những viên thuốc và cơn ác mộng bất thường mà ông đã gặp đêm hôm qua.
Matt tìm cách trấn an
– Nếu cậu muốn biết ý kiến của tớ thì hãy quên câu chuyện đó đi và bớt vơ việc vào mình đi thôi.
– Cậu không thể tưởng tượng được giấc mơ đó giống như thật và khiến tớ phải suy nghĩ đến mức nào đâu. Thật là lạ.. rất lạ khi gặp lại chính mình ở tuổi ba mươi.
– Cậu thực sự tin rằng chính những viên thuốc đã khiến cho cậu trở nên như vậy sao?
– Thế còn gì khác nữa?
– Rất có thể cậu đã ăn phải thứ gì đó không được tươi cho lắm. Matt đoán mò. Theo tớ, cậu đến cái cửa hàng bán đồ ăn Tàu đó hơi nhiều quá…
– Thôi đi…
– Tớ nghiêm túc đấy. Đừng có đặt chân tới chỗ lão Chow đó nữa: cái món vịt quay, tớ tin chắc là thịt chó đấy…
***
Phần còn lại của bữa ăn diễn ra trong không khí vui vẻ. Matt được phú cho biệt tài phân phát niềm vui xung quanh mình. Mỗi khi ở bên cạnh bạn, Elliott quên hẳn những ý nghĩ tối tăm và mọi lo âu. Cuộc trò chuyện đã bắt đầu chuyển sang giọng bông đùa và giờ đề cập tới những chủ đề phù phiếm hơn.
– Cậu có nhìn thấy cô gái ở gần quầy bar không? Matt vừa hỏi vừa ăn một miếng chuối nướng rượu. Cô ấy đang nhìn tớ phải không nhỉ?
Elliott quay về phía quầy rượu: một cô gái xinh đẹp quyến rũ, đôi chân thon dài và đôi mắt nai tròn đang mơ màng nhấm nháp ly rượu Martini.
– Gái gọi đấy, anh bạn ạ.
Matt lắc đầu.
– Không hề.
– Cậu muốn đánh cược không?
– Cậu nói thế là vì cô ấy nhìn tớ.
– Cậu đoán cô ấy bao nhiêu tuổi?
– Hai lăm.
– Còn cậu?
– Sáu mươi, Matt thừa nhận.
– Chính vì thế mà đó là gái gọi…
Matt im lặng một vài giây trước khi kịch liệt phản pháo.
– Chưa bao giờ tớ sung sức như bây giờ!
– Chúng ta già rồi, anh bạn ạ, như thế đấy, cuộc sống là như vậy và tớ nghĩ cậu nên bắt đầu chấp nhận nó đi.
Matt nghĩ về điều hiển nhiên đó với đôi chút lo âu.
– Thôi, tớ phải đi đây, Elliott vừa nói vừa đứng lên. Tớ sẽ đi cứu thêm vài sinh mạng nữa. Còn cậu? Cậu có chương trình gì cho chiều nay?
Matt ném một cái nhìn về phía quầy rượu rồi rầu rĩ nhận ra rằng cô gái đang tán gẫu với một khách hàng trẻ tuổi. Một vài năm trước, có thể ông đã tới nẫng cô gái xinh đẹp này khỏi tay anh chàng tốt mã vô duyên kia, nhưng giờ thì ông cảm thấy mình đã yếu thế, giống như một anh chàng đấm bốc sắp sửa tham gia một trận đấu vượt quá hạng cân.
– Xe của tớ đậu ở bãi, ông vừa nói vừa đuổi kịp Elliott. Tớ sẽ đưa cậu về bệnh viện. Một ông già như tớ có lẽ sẽ cần phải khám tổng quát một chút…
Chương 3
Hãy thử ngồi một giờ bên cạnh một cô gái xinh đẹp,
anh sẽ thấy chỉ bằng một phút.
Hãy thử ngồi một phút trên chiếc chảo nóng,
anh sẽ thấy lâu như một giờ.
Đó chínhh là tính tương đối.
– ALBERT EINSTEIN-
San Francisco, 1976
Elliott 30 tuổi
– Thế này không tốt sao? Matt vừa hỏi vừa nằm dài trên bãi cát và chỉ ra bờ vịnh rộng mêng mang được bao quanh bởi những dãy đồi đang trải dài ra trước mắt họ.
Vào thời đó, hai người bạn vẫn còn chưa phải là những người sung túc. Đối với họ không thể có chuyện mất thời gian vào nhà hàng dùng bữa trưa. Vào giờ ăn trưa, họ thường hẹn nhau trên bãi biển và nuốt vội một chiếc hot-dog trước khi quay trở lại làm việc.
Đó là một ngày đẹp trời, nắng chứa chan. Phía xa, được phủ bởi một làn sương mù nhẹ nhẹ, cầu Cổng vàng trông như đang trôi bồng bềnh trên một thảm mây màu sữa.
– Cậu có lý, ở đây tốt hơn trong tù! Elliott đồng tình và cắn một miếng bánh.
– Hôm nay tớ có một tin quan trọng cần thông báo với cậu, Matt tuyên bố lấp lửng.
– Thật sao? Tin gì vậy?
– Cứ kiên nhẫn một chút đi, chàng trai, đến món tráng miệng cậu sẽ có một sự ngạc nhiên…
Xung quanh họ, cũng đến để tận hưởng những tia nắng cuối cùng của mùa thu muộn, một nhóm thanh niên theo kiểu mốt nhất: các chàng trai mặc quần ống loe, áo lót vải sa-tanh và tóc mai vuốt cong; các cô gái mặc áo thụng màu sắc sặc sỡ, áo khoác màu vỏ đào đeo trang sức bằng vỏ ốc.
Matt bật chiếc đài bán dẫn của anh lên và gặp đúng một ca khúc đang thịnh hành: giai điệu cuốn hút của Hotel California được trình diễn bởi nhóm Eagles.
Vừa huýt sáo theo điệp khúc, anh vừa đưa mắt nhìn khắp bãi biển.
– Cậu có nhìn thấy cô gái phía bên phải cậu không, cô ấy đang theo dõi chúng ta phải không nhỉ?
Elliott kín đáo quay sang: nằm dài trên chiếc khăn tắm, một cô gái trẻ xinh đẹp, dáng vẻ mĩ miều như một nữ thần đang uể oải nhấm nháp một ly kem Ý. Cô ta vừa bắt chéo cặp giò dài bất tận vừa liếc về phía họ.
– Có thể lắm.
– Cậu thấy cô ta thế nào? Matt vừa hỏi vừa gật đầu chào lại cô gái.
– Tớ nhắc để cậu nhớ là tớ đã có ý trung nhân rồi.
Matt xua tay phản đối:
– Thế cậu có biết rằng chỉ có 5% các loài động vật có vú sống cặp đôi không?
– Thì sao?
– Cậu còn chờ gì nữa mà không gia nhập 95% còn lại, không muốn làm cuộc sống trở nên phức tạp bằng những nguyên tắc đó?
– Tớ không biết Ilena có ddồng tình với ý kiến của cậu không…
Matt nhét nốt miếng hot dog cuối cùng vào miệng và ném một cái nhìn lo ngại về phía bạn.
– Cậu có chắc là mọi chuyện ổn cả không? Trông mặt cậu hôm nay tệ lắm.
– Cậu có dừng ngay những lời khen ngợi đó lại không, cậu làm tớ lúng túng đây này.
– Đúng như điều tớ lo ngại: cậu làm việc quá nhiều.
– Lao động là sức khoẻ.
– Tớ hiểu rồi: cậu lại đến cửa hàng bán thức ăn sẵn của cái lão người Tàu ở ngay dưới nhà cậu…
– Ông Chow à?
– Phải. Cậu đã nếm thử cái món thịt vịt quay Bắc Kinh của lão ta chưa?
– Ngon tuyệt.
– Hình như đó là thịt mèo…
Một anh chàng bán kem rong ngắt lời họ:
– Các anh ăn kem gì: hạnh nhân? caramel? dừa?
Elliott để anh bạn đang vui vẻ mua kem cho cả hai. Anh chàng bán kem vừa đi khuất thì câu chuyện lại tiếp tục đúng chỗ vừa bị ngắt quãng:
– Kỳ nghỉ cuối tuần ở Florida của cậu thế nào? Cậu có vẻ băn khoăn điều gì…
– Tối qua tớ đã gặp một chuyện rất kỳ lạ, Elliott thừa nhận.
– Tớ nghe cậu đây.
– Tớ đã gặp một người ở sân bay.
– Một phụ nữ hả?
– Một người đàn ông… khoảng sáu chục tuổi.
Trong lúc Matt nhíu mày, Elliott kể lại cho bạn nghe về cuộc gặp kỳ lạ của anh với người khách bí ẩn đã biến mất trong toa-lét sân bay.
Matt để một vài giây trôi qua rồi nhăn mặt:
– Ui chà, vậy là còn nghiêm trọng hơn tớ nghĩ.
– Tớ thề với cậu là thật đấy.
– Tin tớ đi, anh bạn: cậu cần phải bớt ôm lấy việc vào mình đi thôi.
– Cậu đừng lo cho tớ.
– Sao cậu lại muốn tớ lo cho cậu, Elliott? Cậu bảo với tớ là một người khác cũng là cậu đã từ tương lai đến để chuyện vãn với cậu? Chuyện bình thường thôi mà, phải không?
– Được lắm, chúng ta nói chuyện khác vậy.
– Thế Ilena yêu quý của cậu thế nào rồi?
Elliott quay ra nhìn biển và trong giây lát ánh mắt của anh mất hút trong làn sương mỏng bảng lảng quanh những trụ chống kim loại của cầu Cổng vàng.
– Cô ấy muốn chúng tớ có một đứa con, anh nói vẻ trầm ngâm.
Khuôn mặt Matt sáng rỡ:
– Thật là tuyệt vời, tớ có thể làm cha đỡ đầu được không?
– Tớ không muốn có con, Matt.
– Vậy à? Sao thế?
– Cậu biết rõ rồi đấy: thế giới đã trở nên quá bất ổn, không lường trước được…
Matt ngước mắt lên nhìn trời.
– Cậu lẩn thẩn rồi, anh bạn ạ. Cậu sẽ luôn ở đó để bảo vệ nhóc con của cậu, rồi còn Ilena và cả tớ nữa cũng sẽ góp một phần. Đó chính là vai trò của bố mẹ, đúng không?
– Cậu nói thì dễ lắm: cậu sống như một gã dân chơi, cứ hai ngày lại đổi bạn gái một lần. Tớ chẳng thấy cậu có vẻ gì là đang chuẩn bị lập gia đình…
– Thì chính vì tớ không có may mắn gặp được một cô gái như Ilena. Những điều như thế chỉ toàn đến với cậu thôi. Trên đời này chỉ có một người như cô ấy và cậu đã nẫng tay trên mất rồi. Nhưng cậu quá ngốc nghếch để có thể nhận ra điều đó…
Elliott đưa mắt nhìn đi chỗ khác và không trả lời. Một đợt sóng lớn đổ ào lên bãi biển và hất văng một ít bọt biển về phía họ. Nhưng chỉ cần vài phút sau không khí vui vẻ đã xuất hiện trở lại và câu chuyện lại chuyển sang những chủ đề nhẹ nhàng hơn.
Rồi Matt cho rằng thời điểm để gây "ngạc nhiên" đã đến, anh lục tay vào túi và lôi ra một chai rượu sâm banh hồng.
– Chúng ta sẽ ăn mừng gì đây? Elliott hỏi.
Matt không thể giấu nổi sự phấn khích.
– Xong rồi, cuối cùng thì tớ cũng đã tìm thấy nó, anh bạn ạ! Anh thú nhận và bật nút chai.
– Người phụ nữ của đời cậu ư?
– Không!
– Cách giải quyết nạn đói trên thế giới ư?
– Mảnh đất của chúng ta, cậu ạ! Nông trại tương lai của chúng ta! Một mảnh đất tuyệt vời nằm trên đỉnh đồi với một ngôi nhà rộng bằng gỗ…
Matt đã thi lấy bằng lái máy bay cách đây vài năm. Anh đã mua một chiếc thuỷ phi cơ và kiếm sống rất tốt với việc đưa khách du lịch bay dạo phía trên khu vịnh. Nhưng từ lâu anh đã ấp ủ một dự định hơi điên rồ là cùng Elliott xây dựng một trang trại trồng nho trong lòng thung lũng Napa.
– Tớ cam đoan với cậu đây là thời điểm thích hợp để đầu tư, anh hào hứng giải thích thêm. Hiện nay, trong thung lũng chỉ còn lại có vài trang trại, trong khi rượu vang chính là tương lai của vùng California. Đó chính là vàng đỏ của chúng ta, cậu hiểu không… Nếu chúng ta khởi nghiệp ngay bây giờ, thì chúng ta sẽ giàu có!
Mặc dù chỉ tương đối bị thuyết phục nhưng hài lòng vì thấy bạn hạnh phúc, Elliott hứa sẽ tới thăm khu đất vào cuối tuần tới và thích thú nghe bạn say sưa với mộng làm giàu cho tới khi chuông báo thức từ chiếc đồng hồ đeo tay kéo anh trở về với thực tại.
– Thôi, tớ phải đi đây, anh vừa nói vừa vươn vai đứng lên, tớ phải đi cứu thêm vài sinh mạng nữa đây. Còn cậu? Chương trình chiều nay của cậu là gì?
Matt quay lại để xác nhận cô nàng mĩ miều vẫn chưa hề di chuyển. Cứ như đang nằm chờ anh, cô nàng ném cho anh một cái nháy mắt lộ liễu.
Matt cười rạng rỡ. Anh còn trẻ, đẹp trai và còn có cả cuộc đời ở phía trước.
– Tớ nghĩ có người đang yêu cầu tớ khám tim cho đây…
***
Bị ùn tắc trong dòng xe cộ, chiếc taxi lề mề lăn bánh dọc theo phố Hyde. Elliott trả tiền xe và sập cửa. Bệnh viện còn cách đây không xa lắm: với tốc độ này thì anh cuốc bộ còn nhanh hơn. Anh châm một điếu thuốc rồi rảo bước lên phố. Anh luôn cảm thấy có một nỗi lo lắng mơ hồ mỗi lần tiến gần đến nơi làm việc. Vẫn cùng những câu hỏi đó luôn làm anh trăn trở. Liệu anh có đưa ra được những quyết định đúng đắn không? Liệu anh có để mất bệnh nhân nào không?
Anh vẫn chưa đạt đến độ tuổi mà người ta tự cảm thấy mình rắn như thép. Anh chẳng có vỏ bọc, cũng chẳng có áo giáp trong người để tự vệ. Cho tới giờ, anh vẫn đi theo một lộ trình không hề phạm sai lầm: học rất giỏi ở Berkeley đến mức đã được đặc cách nhảy cóc hẳn một lớp, rồi theo học ngoại trú ở Boston, rồi bốn năm nội trú và theo học rất nhiều ngành chuyên sâu về nhi tại bệnh viện của anh. Mỗi lần kết thúc một kỳ, anh đều tốt nghiệp với những lời khen nồng nhiệt.
Tuy vậy, anh vẫn chưa thật tin tưởng là mình được sinh ra để làm nghề này. Tất nhiên, nó mang lại cho anh sự mãn nguyện khi được chăm sóc mọi người và tự cảm thấy mình có ích. Đôi khi, kết thúc một ngày đẹp trời, khi anh có cảm giác ca phẫu thuật của anh đã cứu được mạng sống choai đó, anh rời nơi làm việc với một cảm giác sảng khoái. Anh ra lấy xe và lái như bay dọc bờ biển. Anh đã đấu tranh vì sự sống và anh đã chiến thắng. Những tối như vậy, trong vài giờ đồng hồ, anh thường cảm thấy mình gần như ngang hàng với Chúa. Nhưng niềm hạnh phúc ấy thường không bao giờ kéo dài. Rồi luôn luôn có một ngày hôm sau, một ngày hôm sau nữa, khi bệnh nhân "lẽ ra không phải chết" lại vuột khỏi tay anh.
Anh nhìn đồng hồ, dụi tắt điếu thuốc lá và rảo bước. Bệnh viện giờ đã hiện ra chỉ còn cách anh khoảng trăm mét.
Có thật là mình sinh ra để làm việc này không? Lại một lần nữa anh tự đặt cho mình câu hỏi ấy.
Anh sẽ trở thành loại bác sĩ nào đây? Anh đã lựa chọn con đường này để hoàn thành một lời hứa cũ, sau khi một sự kiện quan trọng đã xảy ra trong đời anh. Anh không hối hận về lựa chọn của mình, nhưng có những ngày anh rất thèm có được một cuộc sống vô lo vô nghĩ như Matt. Từ mười năm nay anh đã chẳng còn thời gian cho việc gì nữa cả: không đọc sách báo, không chơi thể thao, chẳng còn quan tâm đến điều gì khác ngoài việc của mình.
Anh bước vào trong sảnh bệnh viện, vớ lấy áo blu và leo lên tầng ba. Tấm gương trong thang máy phản chiếu hình ảnh một người đàn ông mỏi mệt. Đã từ lâu lắm anh không được ngủ một mạch tám tiếng đồng hồ. Từ khi những ca trực đêm đã dạy cho anh cách ngắt giấc ngủ ra và cuộn người ngủ thành từng quãng mười phút một, anh không thể cố ngủ muộn vào buổi sáng được nữa.
Anh đẩy cánh cửa một gian phòng lát gạch vuông sáng loáng nơi Ling, một bác sĩ nội trú khoa cấp cứu, đang đợi anh.
– Tôi muốn hỏi ý kiến anh về một trường hợp bệnh nhi, bác sĩ Cooper ạ, anh ta vừa thông báo vừa giới thiệu anh với ông bà Romano, cặp vợ chồng đi cùng.
Ông chồng, một người Mỹ gốc Ý thấp nhỏ tóc nâu, dễ dàng gây thiện cảm ngay tức thì. Bà vợ, cao hơn, tóc vàng, gốc Bắc Âu. Một sự kết hợp tuyệt vời của những mặt đối lập.
Họ không đến đây khám bệnh, mà vì cô con gái Anabel vừa mới chuyển vào trong khoa và giờ đang nằm bất động trên một trong những chiếc giường trong phòng bệnh.
– Mẹ cô bé buổi trưa về nhà đã thấy con gái trong tình trạng này. Chúng tôi nghĩ rằng sáng nay cô bé đã không hề tỉnh giấc, Ling giải thích. Tôi đã yêu cầu kiểm tra toàn bộ và bác sĩ Amendoza đã thử cho chụp X-quang.
Đó là một cái máy chẩn đoán hình ảnh kiểu mới đang bắt đầu xuất hiện trong các bệnh viện trên thế giới với tên gọi là "scanner".
Elliott bước lại gần thân hình đang chìm trong hôn mê. Anabel là một cô bé khoảng mười lăm tuổi với mái tóc vàng giống mẹ và nét mặt chân thành giống bố.
– Thời gian gần đây cô bé có bị đau đầu hay buồn nôn gì không?
– Không, người mẹ đáp.
– Cháu có dùng chất gây nghiện không?
– Không!
– Liệu có khi nào cháu bị đập đầu trong lúc ngủ hoặc ngã từ trên giường xuống không?
– Cũng không.
Chưa cần khám cho cô bé, Elliott đã cảm thấy sự sống đang dần dần rời bỏ và cái chết, lẩn quất đâu đó trong một góc phòng, đang chờ đến lượt.
Tuy vậy, thoạt đầu mới dùng ống nghe, kết quả có vẻ khả quan: Anabel thở tốt, tim và phổi vẫn hoạt động bình thường. Tiếp tới Elliott thử phản xạ giác mạc. Cũng không có gì đáng chú ý.
Song mọi chuyện trở nên đáng lo ngại hơn khi anh chuyển sang khám đồng tử. Trong khi xoay nhẹ đầu bệnh nhân từ phải sang trái, Elliott nhận thấy mắt cô bé không hề chuyển động theo chiều quay đầu. Rồi khi anh nhấn thử vào xương ức, cổ tay cô bé rụt lại một cách đáng lo ngại.
– Đó không phải là dấu hiệu tốt, phải không? Ông Romano hỏi. Có phải có vấn đề gì về não không?
Elliott vẫn thận trọng:
– Vẫn còn quá sớm để kết luận. Chúng ta hãy chờ kết quả khám nghiệm.
Các kết quả đó được chuyển tới chỉ sau vài phút. Khi người bác sĩ gắn các tấm phim chụp lên bảng đèn, anh đã nghi ngờ về điều mình sẽ phát hiện được. Vì họ đang làm việc trong một bệnh viện đại học, nên anh để bác sĩ nội trú đưa ra chẩn đoán:
– Chứng phù tiểu não phải không ạ?
– Chính xác, Elliott miễn cưỡng xác nhận. Vết phù ở tiểu não gây xuất huyết.
Anh rời khỏi phòng tối để quay lại tìm bố mẹ Anabel.
– Thế nào, thưa bác sĩ? Họ đồng thanh hỏi khi vừa nhìn thấy anh bước qua cửa.
Anh nhìn họ đầy cảm thông. Anh rất muốn trả lời họ bằng một câu nào đó nhẹ nhàng như "mọi chuyện đều tốt đẹp, cô bé sẽ tỉnh lại bất cứ lúc nào". Nhưng đó không phải là sự thật.
– Tôi rất lấy làm tiếc, song con gái ông bà đã bị tai biến mạch máu não và tình trạng của cô bé rất tuyệt vọng.
Một khoảnh khắc im lìm, một thoáng yên lặng dường như kéo dài vô tận cho tới khi hai bậc phụ huynh ý thức được tầm quan trọng của thông tin đó. Người mẹ cố ghìm một tiếng thét còn người cha nhất định không bỏ cuộc:
– Nhưng cháu vẫn còn thở! Nó vẫn còn sống!
– Lúc này thì như vậy, nhưng cô bé có một vùng não bị phù và nó sẽ tiếp tục phình ra khiến cho khả năng hô hấp của cháu trở nên quá tải và cô bé sẽ ngừng thở.
– Chúng ta có thể đặt máy thở! người mẹ khẩn khoản.
– Phải, thưa bà, chúng ta có thể đặt máy thở, song điều đó sẽ chẳng thay đổi được gì.
Người bố loạng choạng bước tới bên đứa con gái
– Làm thế nào… làm sao nó có thể bị tai biến não được? Nó còn chưa đầy mười lăm tuổi…
– Điều đó có thể xảy đến bất cứ lúc nào và với bất kỳ ai, Elliott nói.
Ánh mặt trời chói loà xuyên qua cửa sổ, rọi bừng căn phòng bằng một thứ ánh sáng chói chang và như vuốt ve mớ tóc vàng óng của cô bé. Trông cô như đang say giấc và thật khó có thể tin được rằng cô sẽ không bao giờ tỉnh lại nữa.
– Nhưng ông không định thử phẫu thuật ư? Người mẹ ngạc nhiên và vẫn còn chưa tin vào sự thật.
Chồng bà tiến lại gần và cầm lấy tay vợ. Elliott đưa mắt nhìn bà và nói bằng giọng rất nhẹ.
– Đã hết rồi, thưa bà Romano, tôi rất lấy làm tiếc.
Anh rất muốn ở lại với họ lâu hơn nữa, gánh vác bớt cho họ một phần dù chỉ rất nhỏ trong nỗi bất hạnh này, tìm một vài lời an ủi, cho dù biết chẳng có lời nào có thể an ủi được trong lúc này.
Nhưng một cô y tá đã gọi anh. Anh có một ca mổ được định sẵn vào lúc 15 giờ và anh đã bị muộn.
Trước khi rời khỏi phòng, lẽ ra anh đã phải thực hiện đến cùng công việc của mình và hỏi xem bố mẹ bệnh nhân có đồng ý cho hiến nội tạng hay không. Sau đó sẽ là cả một cuộc tranh luận siêu thực tế để anh thuyết phục họ rằng cái chết của con gái họ có thể sẽ góp phần cứu được một vài sinh mạng. Phải, lẽ ra Elliott phải thực hiện công việc của mình đến cùng nhưng hôm nay anh cảm thấy không đủ dũng khí để làm điều đó.
Anh bước ra khỏi phòng, hoàn toàn kiệt quệ và đầy phẫn uất. Trước khi đi lên phòng mổ, anh dừng lại trong toa-lét để vã nước lên mặt.
Mình sẽ không bao giờ có con, anh tự thề và nhìn mình trong gương. Mình sẽ không bao giờ có con để chúng không bao giờ chết!
Và nếu Ilena không hiểu thì cũng đành chịu vậy…
Orlando, Florida
1976
Màn đêm buông xuống trên khu nuôi nhốt rộng mênh mông của Ocean World. Trong khi những tia nắng cuối cùng làm biến dạng bóng những cây bách, một dòng người thưa thớt đang dần dần rời khỏi công viên nước, phấn khởi vì cuộc gặp gỡ với những chú cá voi, những chú rùa khổng lồ và những con sư tử biển.
Ilena cúi người trên hồ nước của lũ cá voi sát thủ để khích lệ Anouchka, con thú to nhất trong những con "cá voi sát thủ", để nó tiến lại gần bờ.
– Xn chào người đẹp!
Cô gái túm lấy vây con thú và dụ nó nằm ngửa ra.
– Đừng sợ, tao sẽ không làm mày bị đau đâu, cô vừa an ủi nó vừa cắm một chiếc kim vào thịt để lấy máu.
Đây luôn luôn là một công việc tế nhị. Cho dù cá voi sát thủ là loài thông minh nhất trong họ cá voi, chúng cũng là loài dữ tợn nhất. Mặc dù có dáng vẻ bề ngoài rất dễ mến, song Anouchka vẫn là một quái thú với chiều dài sáu mét và nặng bốn tấn, có thể quật chết người bằng một cái quẫy đuôi và xé rời một phần cơ thể với cặp hàm sắc nhọn gồm khoảng năm chục chiếc răng. Mỗi lần cần đụng tới nó, Ilena đều cố gắng có được sự hợp tác tự nguyện của con vật, bằng cách khiến cho sự chăm sóc trở nên giống như trò chơi. Nói chung, mọi chuyện đều diễn ra tốt đẹp. Cô có sự nhạy cảm rất đặc biệt đối với các con thú khiến cho cô trở thành một người coi sóc thú rất xuất sắc.
– Đấy, xong rồi, cô vừa nói vừa rút kim ra.
Để thưởng cho con vật, cô ném cho nó một xô cá đông lạnh và ban cho nó một vài cái vuốt ve.
Ilena vô cùng say mê công việc của mình. Là một bác sĩ thú y thường trực, cô phụ trách sức khoẻ thể chất và tinh thần cho tất cả các con thú trong công viên. Cô giám sát việc bảo trì các hồ nước, sự chuẩn bị thức ăn, và còn tham gia vào cả việc đào tạo những người dạy thú. Việc đảm đương cùng một lúc nhiều trách nhiệm như vậy thật là hiếm thấy đối với một người ở độ tuổi của cô, hơn nữa lại còn là một phụ nữ. Cũng phải nói thêm rằng cô đã phải đấu tranh cật lực để có được vị trí này. Từ khi còn rất nhỏ, cô đã say mê thế giới biển và đặc biệt là đối với những loài thuộc bộ cá voi. Ngoài bằng bác sĩ thú y, cô còn theo chuyên sâu về sinh học loài vật. Nhưng trong lĩnh vực này, vị trí luôn đắt giá và những nơi có nhu cầu tuyển dụng cực kỳ hiếm hoi, cơ may được làm việc với cá voi mơ và cá voi sát thủ cũng ít ỏi như cơ hội được trở thành nhà du hành vũ trụ. Mặc dù vậy, cô vẫn đeo đuổi ước mơ của mình và cô đã có lý. Vì năm năm trước, vào năm 1971, Walt Disney đã chọn thành phố nhỏ Orlando để xây dựng Disney World, khu vui chơi giải trí lớn nhất của tập đoàn. Trước dòng khách du lịch đông đảo đổ xô tới thăm quan, Orlando đã từ một thành phố nông nghiệp nhỏ nhảy lên thành trung tâm vui chơi giải trí hấp dẫn bậc nhất của Florida. Ocean World đã nối bước Mickey khi xây dựng trong vùng này công viên đại dương lớn nhất nước. Một năm trước ngày khánh thành công viên, Ilena đã trực tiếp tới gặp ban giám đốc để rồi giành được vị trí mà trước đó họ đã từng hứa hẹn cho một bác sĩ thú y lớn tuổi hơn cô. Người ta đã quyết định nhận cô vào thử việc và cuối cùng thì cô đã được nhận vào làm công việc này thay vì người đồng nghiệp kia! Đó chính là khía cạnh tích cực của nước Mỹ: cuối cùng thì năng lực cũng bắt đầu chiến thắng thâm niên, giới tính hay tầng lớp xuất thân.
Cô vô cùng yêu thích nghề của mình. Không phải cô không biết những người bạn của cô ở Hoà bình xanh đôi khi chỉ trích về việc bắt giữ các con thú, song cũng phải thừa nhận rằng Ocean World không hề thờ ơ đối với vấn đề môi trường. Thậm chí mới đây Ilena còn được ban giám đốc cho phép phụ trách hỗ trợ về tài chính cho một dự án khổng lồ nhằm bảo vệ loài heo biển.
Cô gái rời khỏi khu vực hồ nước và đi sang khu hành chính. Cô dán nhãn vào chiếc lọ đựng mẫu máu con vật rồi đặt nó vào chiếc máy xét nghiệm nhỏ và bắt đầu phân tích. Trước khi bắt tay vào công việc, cô bỗng cảm thấy cần tạt qua toa-lét để vã lạnh nước lên mặt. Cả ngày hôm nay cô đã cảm thấy mình mệt mỏi.
Khi ngẩng lên soi mình trong tấm gương gắn bên trên bồn rửa, cô chợt nhận ra một giọt nước mắt đang lăn trên má. Điều này đã xảy đến mà cô hầu như không cảm thấy.
– Thật ngu xuẩn! Cô thốt lên và lấy tay dụi cặp mắt đỏ hoe.
Thật ra, cô biết rất rõ chuyện gì không ổn: cô vẫn không ngừng nghĩ tới cuộc tranh luận gần đây nhất với Elliott. Nghĩ tới phản ứng của anh khi cô nhắc với anh về việc muốn có một đứa con. Lần nào cũng vậy và cô không thể hiểu nổi sự ngần ngại của anh mà cô coi như một lời từ chối đính ước.
Mặc dù vậy, cô không mảy may nghi ngờ vào tình yêu của anh. Họ được gắn kết với nhau bằng một tình yêu cháy bỏng, được nuôi dưỡng bởi mong muốn lúc nào cũng làm cho người kia bất ngờ, kinh ngạc và mang lại hạnh phúc…
Nhưng liệu tình yêu đó có vượt qua được sự huỷ hoại của thời gian không? Cô sắp ba mươi tuổi, và trông bề ngoài cô vẫn còn rực rỡ: ở Florida này, các chàng trai vẫn lượn lờ xung quanh cô và cô ý thức được sức hấp dẫn của mình. Nhưng còn được bao nhiêu năm nữa? Tuổi trẻ của cô đang dần trôi qua. Ngay lúc này, cô đã cảm thấy mình không còn giữ được thể lực như trước, không còn vóc dáng và sự tươi trẻ như những thanh niên đang độ mười tám đôi mươi mà cô vẫn gặp trên các bãi biển hay trên các dãy ghế trong các buổi trình diễn.
Suy cho cùng, tuổi già tự nó cũng chẳng làm cho cô lo ngại đến mức đó. Nhưng xung quanh cô, mọi quan niệm đều đang biến đổi: người ta nói tới tình yêu tự do và cách mạng tình dục, và những biến chuyển đó không làm cô cảm thấy thích thú chút nào. Vì cô muốn mối quan hệ của họ phải bền vững dài lâu và cô hoàn toàn không hề muốn người đàn ông mà cô yêu sẽ thử qua tất cả các kiểu tư thế của Kama Sutra với những người phụ nữ khác.
Cô uống một chút nước và lau mắt bằng một chiếc khăn giấy Kleenex.
Phải chăng cô chưa chứng tỏ hết cho Elliott thấy cô gắn bó với anh đến mức nào. Cô là người bản tính kín đáo và những lời yêu thương không phải là sở trường của cô. Nhưng khi người ta yêu, chẳng cần thiết phải nhiều lời làm gì: điều đó có thể biết, có thể cảm nhận được, thế thôi. Còn nữa, khi một người phụ nữ đề nghị một người đàn ông trở thành bố của con mình, thì điều đó rõ quá rồi, chẳng phải vậy sao?
Cũng chính vì yêu anh mà cô muốn có một đứa con với anh. Cô không thuộc loại phụ nữ thích mang bầu đến mức phải có được một đứa con bằng mọi giá, chỉ để cho riêng bản thân mình. Cô muốn có một đứa con với Elliott, như một hệ quả của câu chuyện tình giữa hai người.
Chỉ có điều xem ra anh không hề muốn như vậy.
Và cô không hiểu nổi vì sao.
Cô ngờ rằng niềm mong mỏi có một đứa con có mối liên hệ rất mật thiết với việc trưởng thành và hoàn cảnh gia đình riêng của mỗi người. Ở Braxin, Ilena có may mắn được nuôi dạy trong một gia đình bình dân nhưng đầy tình thương và cô biết mình sẽ vô cùng hạnh phúc khi được làm mẹ. Còn Elliott, anh đã có những mối quan hệ đầy mâu thuẫn với bố mẹ. Phải chăng đó là nguyên nhân dẫn đến sự bế tắc của anh?
Tuy nhiên, cô không hề nghi ngờ khả năng mang lại hạnh phúc cho một đứa trẻ ở anh. Rất nhiều lần đến bệnh viện tìm gặp anh, cô đã nhìn thấy anh trong lúc làm việc. Anh là một bác sĩ phẫu thuật nhi và anh biết cách chiều lòng các bệnh nhân nhỏ tuổi. Anh là người cứng cỏi và cân bằng, không hề non nớt hay kích kỷ như một số người đàn ông mà cô biết. Cô dễ dàng hình dung ra anh trong vai trò một người cha đầy tình yêu thương, biết lắng nghe con cái. Đến mức cô đã nhiều lần nghĩ tới việc dừng uống thuốc tránh thai mà không nói cho anh biết và dàn dựng một "tai nạn" để đặt anh vào sự đã rồi, nhưng nếu làm như vậy, cô sẽ có cảm giác phá vỡ lòng tin mà họ đã dành cho nhau.
Vậy thì vấn đề nằm ở đâu?
Cô biết rất nhiều điều về anh: sự quyết đoán, lòng vị tha, sự thông minh, rồi mùi vị làn da anh, đường sống lưng của anh, lúm đồng tiền mỗi khi anh cười…
Song chẳng phải lúc nào cũng vẫn có một chi tiết mà ta không biết về người ta yêu hay sao? Và chẳng phải chính cái điều không biết đó lại khiến cho tình yêu trở nên bền bỉ ư?
Dù sao đi nữa, ít nhất cũng có một điều mà cô chắc chắn: người đàn ông của đời cô, người cha của những đứa con tương lai của cô, chắc chắn là anh chứ không phải ai khác.
Và đứa bé đó, cô sẽ sinh ra nó với anh hoặc sẽ không bao giờ có nó.
San Francisco
1976
Ngồi sau tay lái chiếc Coccinelle, Elliott trở về nhà, buồn bã. Tối nay, không thể có chuyện lái nhanh. Anh đã đấu tranh vì sự sống và anh đã thất bại. Anh không phải là Thượng đế, chỉ là một bác sĩ tài hèn sức mọn.
Màn đêm dần buông. Đèn đường và đèn ôtô đồng loạt bật lên. Mệt mỏi, bất ổn, người bác sĩ ôn lại trong tâm trí diễn biến hai ngày vừa qua: sự bất đồng của anh với Ilena, cuộc gặp gỡ ở sân bay, ngày hôm qua, với người đàn ông kỳ lạ và cô bé Anabel mà anh đã không thể cứu sống.
Tại sao lúc nào anh cũng có cảm giác sự sống đang tuột khỏi tay anh? Rằng anh không thực sự làm chủ được bản thân?
Chìm đắm trong suy tưởng, anh nhìn vào kính chiếu hậu hơi chậm trễ khi đi tới ngã giao nhau giữa đường Filmore và đường Union. Trong khi xe của anh hơi lạng lên vỉa hè, anh cảm thấy như có một lực cảm kèm theo một tiếng động trầm đục.
Lốp xe nổ chăng?
Anh tắt máy và bước ra khỏi xe. Anh kiểm tra bánh xe rồi thanh chắn.
Chẳng có gì.
Anh chuẩn bị đi tiếp thì chợt nghe thấy một tiếng kêu rên rỉ, đầy oán thán phát ra từ vỉa hè đối diện.
Anh ngẩng đầu lên và nhìn thấy một chú chó nhỏ đã bị cú va chạm hắt tung sang phía bên kia đường.
Lại còn thế nữa… anh thở dài.
Anh băng qua đường về phía con thú nhỏ, một con chó labrador lông màu be, nằm sóng sượt, cẳng chân phải phía trước gập lại.
– Thôi nào, cử động đi! Anh bảo chú chó, hy vọng mình không làm nó bị thương.
Nhưng chú chó con không mảy may động đậy.
– Biến đi! Anh nổi giận và tung một cú đá.
Lại một lần nữa, con vật kêu lên những tiếng nghèn nghẹn, chắc chắn do bị đau quá mức. Cẳng chân rỉ máu khiến nó không thể cử động được, nhưng Elliott vẫn không hề xúc động. Anh chưa bao giờ yêu quý loài vật. Công việc của anh là chăm sóc con người: đàn ông, đàn bà, trẻ em, người già… Tất cả các bệnh nhân mà anh điều trị ở bệnh viện. Nhưng thú vật thì…
Anh nhún vai và quay lưng lại với chú chó labrdor. Anh sẽ không mất thêm nhiều thời gian với con chó này nữa.
Anh quay lại xe và xoay chìa khoá khởi động không chút áy náy.
Tất nhiên, nếu ở địa vị anh, Ilena sẽ không bỏ đi như một tên trộm. Choáng váng, cô sẽ chăm sóc chú chó rồi xoay xở để tìm ra chủ nhân của nó.
Tất nhiên rồi, Ilena…
Cứ như có cô đang ngay cạnh anh, anh gần như nghe tiếng cô thì thầm: "Người không yêu quý loài vật nhất định không thực sự yêu quý con người".
Toàn điều vớ vẩn! Anh nghĩ và lắc đầu. Song anh vẫn dừng xe lại ở cách đó hai chục mét và quay trở lại một cách miễn cưỡng.
Ngay cả ở cách xa bốn ngàn cây số, người phụ nữ này vẫn có thể khiến anh phải thực hiện điều cô muốn!
– Thôi nào, anh bạn, anh vừa nói vừa đặt chú chó lên băng ghế phía sau, chúng ta sẽ dàn xếp chuyện này.
***
Ra đến bờ biển, Elliott thấy trong lòng nhẹ nhõm. Những dãy nhà nằm dọc theo bờ biển được pha trộn một cách đa dạng và khéo léo giữa kiến trúc đương đại và truyền thống. Những ngôi nhà với tháp nhỏ ốp sườn xen lẫn với những toà nhà hiện đại được xây dựng toàn bằng kính và thép, để tạo nên – không hiểu nhờ phép lạ nào – một quần thể không cân xứng nhưng lại rất hoà hợp.
Đêm đã xuống hẳn và gió thổi rất mạnh. Giữa bãi biển, trên thảm cỏ dài, một anh chàng lập dị dáng vẻ hippi đang say sưa tìm cách thả một con diều được trang trí bằng những lồng đèn.
Bác sĩ đậu xe trước cửa ra vào và thận trọng nhấc chú chó ra khỏi xe. Hai tay ôm cái "hành lý" ngọ nguậy đó, anh tiến về phía một ngôi nhà xinh xắn theo kiểu Địa Trung Hải.
Xoay khoá một vòng rồi Elliott bước vào trong căn hộ mà anh đã mua được nhờ vào món tiền thừa kế. Trông nó rất độc đáo: ngôi nhà được xây dựng đã năm chục năm nhưng đã được sửa sang lại hoàn toàn bởi kiến trúc sư John Lautner, một chuyên gia thiết kế nhà theo khuynh hướng tương lai lấy cảm hứng từ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng.
Elliott nhấn công tắc đèn và bên trong căn nhà nhuốm một thứ ánh sáng màu xanh bồng bềnh giống như những gợn sóng biển.
Rồi anh đặt chú chó labrdor lên tràng kỷ, vớ lấy túi thuốc cứu thương và bắt đầu khám cho con vật. Ngoài một vết thương hở miệng khá nghiêm trọng ở chân, nó còn bị đau đớn bởi một vài vết giập khác. Có điều lạ là nó không hề đeo vòng cổ và luôn nhìn anh bằng ánh mắt ngờ vực.
– Nghe đây, Rastaquoère, mày chẳng quý mến tao và ngược lại tao cũng vậy! Thế nhưng mày vẫn cần tao, cho nên hãy cứ nằm yên nếu muốn tao chữa cho mày…
Sau khi cảnh báo nó như vậy, anh sát trùng cho vết thương và bắt đầu băng bó.
– Được rồi, mày hãy nghỉ ngơi tối nay đi và ngày mai thì, cuốn gói về chuồng! Anh vừa lệnh cho nó vừa đi khỏi tràng kỷ.
Anh đi ngang qua gian khách và thư viện rồi vào đến bếp. Cả ba khoảng không gian này đều nằm chung trong một gian phòng rộng mênh mông trông ra một mảng vườn tiểu cảnh với một cây thông tuyết màu vàng giống Alaska mọc ngạo nghễ được làm nổi bật một cách khéo léo bởi hệ thống đèn chiếu sáng.
Elliott lấy từ trong tủ lạnh ra chai rượu vang trắng đang uống dở, rót cho mình một ly rồi lên tầng trên nhấm nháp. Ở đó, sau một lớp cửa kính đúp, là cái sân thượng mái bằng trải dài theo kiểu ụ nổi trên boong tàu và gây cảm giác như đang chuẩn bị lao ra biển.
Cầm ly rượu trên tay, bác sĩ ngồi vào một chiếc ghế bành bện bằng vỏ liễu và thả mình cho gió mặc sức quét qua mặt.
Trong giây lát, khuôn mặt Anabel Romano chợt lướt qua tâm trí.
Một ngày tồi tệ, anh vừa nghĩ vừa nhắm mắt lại.
Trong giây phút đó, anh không thể nào hình dung được rằng ngày hôm nay còn lâu mới kết thúc.
Chúc các bạn online vui vẻ !