Chương 4
Hãy giữ lấy những giấc mơ (…).
Không bao giờ bạn biết được khi nào mình sẽ cần đến chúng.
-CARLOS RUIZ ZAFON-
San Francisco
Tháng Chín năm 2006
Elliott 60 tuổi
Khi Elliott ra đến bờ biển thì đêm đã xuống từ lâu. Ông đậu xe trên lối đi và bước vào trong căn nhà xinh xắn theo kiểu Địa Trung Hải nơi ông đã sống từ ba chục năm nay. Ngay khi ông bước vào, thiết bị dò biết sự hiện diện đã lập tức tự khởi động hệ thống đèn chiếu sáng bên trong: một luồng ánh sáng màu xanh bồng bềnh tạo cảm giác như gian phòng đang chìm trong những gợn sóng.
Bác sĩ đi ngang qua gian khách và thư viện rồi vào đến bếp. Từ khi con gái ông chuyển tới New York, căn nhà trở nên trống trải và tĩnh mịch. Rastaquoère, con chó labrador già của ông, đã chết cách đây mười hai năm và ông đã chẳng hề thay thế nó bằng bất cứ vật nuôi nào khác, Elliott lấy từ trong tủ lạnh ra một chai vang trắng và rót cho mình một ly. Với cơn đau đang vò xé vùng thắt lưng, ông khó nhọc leo lên những bậc thang bằng kim loại dẫn lên tầng trên. Ông dừng lại vài giây trong phòng đầu giường và mở ngăn kéo bàn ngủ để lấy chiếc lọ đựng những viên thuốc mà ông vẫn không ngừng nghĩ đến suốt cả ngày.
Rồi ông bước ra mảnh vườn tiểu cảnh với một tầm nhìn tuyệt đẹp trông ra cảng du thuyền và vịnh.
Ông thích thú lắng nghe tiếng rúc quen thuộc của Wave Organ, một công trình kiến trúc đặc biệt nằm ngay đầu con đê chắn sóng nơi phát ra những âm hưởng ngẫu hứng do nhịp sóng biển vỗ vào những lòng ống.
Một thứ như thế chỉ có thể tồn tại ở San Francisco, ông vừa nghĩ vừa ngồi vào chiếc ghế bành cũ kết bằng vỏ liễu.
Từng đợt sóng lướt qua mặt khiến ông rùng mình. Cũng giống như buổi sáng, ông nhìn chín viên thuốc còn lại trong vỏ với vẻ vừa như bị thôi miên lại vừa như ngờ vực.
Ông hoàn toàn không biết nó được làm từ nguyên liệu gì, nhưng ông rất muốn thử lại thí nghiệm của ngày hôm trước. Thật ra mà nói, ông không hề tự huyễn hoặc mình: có thể những viên thuốc này chẳng hề có liên hệ gì với giấc mơ của ông đêm hôm trước.
Nhưng ông vẫn muốn thử lại…
Chậm rãi, ông đổ một viên thuốc ra lòng bàn tay và thoáng ngập ngừng.
Thế nếu đây là thuốc độc hoặc một trong những của nợ kỳ quặc có thể khiến ông bị mất trí thì sao?
Có thể lắm, nhưng suy nghĩ cho cùng ông có gì để sợ đâu? Dù sao đi nữa, ông cũng sắp bị căn bệnh ung thư khuất phục rồi.
Sớm một chút hay muộn một chút thì cũng thế thôi… ông vừa nghĩ vừa nuốt viên thuốc bằng một ngụm rượu vang.
Thoạt tiên, chẳng có gì xảy ra cả. Ông ngồi sâu vào trong lòng ghế bành và chờ đợi. Căn bệnh khiến cho ông cảm thấy mình già nua và cùn mòn.
Ông hồi tưởng lại diễn biến những giờ vừa qua, nghĩ tới quyết định đột ngột và xót xa rằng ông sẽ dừng phẫu thuật kể từ cuối tháng trở đi.
Một ngày tồi tệ, ông vừa nghĩ vừa nhắm mắt lại.
Rồi ông thiếp đi…
Chương 5
Lần gặp thứ hai
San Francisco
Tháng Chín năm 1976
Elliott 30 tuổi
– Thế nào, đang nghỉ ngơi hả?
Elliott mở choàng mắt và bật dậy đột ngột đến mức ngã ra khỏi chiếc ghế bành. Ngã sấp mặt xuống đất, anh ngước mắt nhìn lên. Một cái bóng mờ mờ hiện ra trong ánh sao: bóng của người đàn ông mà anh đã gặp hôm qua tại sân bay. Hai tay khoanh trước ngực, ông ta nhìn anh với một nụ cười tủm tỉm, rõ ràng là thích thú với cú đùa ngoạn mục vừa xong
– Ông làm cái trò gì trên sân thượng nhà tôi vậy? anh bác sĩ trẻ nạt nộ.
– Nhà anh cũng là nhà tôi… vị khách kỳ lạ vặc lại.
Cảm giác lẫn lộn giữa ngạc nhiên và tự ái, Elliott bực bội đứng lên. Hai tay nắm chặt, anh tiến về phía người đang nói chuyện với mình và trong vài giây, hai người im lặng gườm gườm nhìn nhau. Họ có chiều cao tuyệt đối giống nhau.
– Tôi có thể biết ông đang diễn trò gì được không? Elliott hỏi bằng giọng đe doạ.
Người kia lẩn tránh câu trả lời bằng cách hỏi lại nhẹ nhàng:
– Cậu không muốn hiểu ra, phải không?
– Không hiểu ra gì cơ?
– Sự thật…
Elliott nhún vai.
– Thế sự thật là gì vậy?
– Sự thật, tôi chính là cậu.
– Sự thật, ông đúng là một lão khùng!
– Còn cậu, anh bạn trẻ, đầu óc chậm chạp quá đấy.
Elliott chăm chú nhìn người đàn ông đang đứng đối diện với anh.
Tối nay, ông ta không còn mặc bộ pyjama nhàu nát như hôm qua nữa, mà là quần âu áo sơ mi sạch sẽ và áo vest cắt rất khéo. Ông ta trông thật tự tin và có nét quyến rũ. Nếu không có những lời nói vô nghĩa ấy, trông ông ta giống một doanh nhân nhiều hơn là một bệnh nhân tâm thần mới trốn khỏi nhà thương điên.
Elliott dùng giọng thuyết phục nhất có thể để tìm cách khuyên giải ông ta.
– Ông nghe này, tôi nghĩ ông đang bị bệnh. Có lẽ có một bác sĩ nào đang theo dõi ông và…
– Chính tôi là bác sĩ đây.
Ái chà, không xong rồi, Elliott vừa nghĩ vừa gãi đầu. Anh phải làm gì trong tình cảnh này bây giờ? Gọi cảnh sát ư? Hay xe cứu thương? Hay gọi cứu hộ nói bị người điên tấn công? Trông vẻ bề ngoài, người đàn ông này không có vẻ gì hung dữ, nhưng ông ta rất có thể sẽ nổi khùng lên.
– Chắc chắn những người thân cận với ông đang lo lắng lắm. Nếu ông cho tôi biết tên, tôi có thể tìm ra địa chỉ và đưa ông về nhà.
– Tên tôi là Elliott Cooper, người kia bình thản đáp.
– Không thể nào.
– Tại sao lại không chứ?
– Bởi vì tôi mới là Elliott Cooper.
– Anh có muốn xem giấy tờ của tôi không? Ông già đề nghị và rút ví ra.
Tất cả những chuyện này khiến ông có vẻ thích thú.
Elliott xem xét giấy tờ ông ta đưa cho và không tin được vào mắt mình: trên chứng minh thư có ghi cùng một cái tên và ngày sinh như của anh! Duy có tấm ảnh là trông già hơn khoảng ba chục tuổi.
Điều này chẳng nói lên gì cả, anh tìm cách tự trấn an, bất cứ ai cũng có thể làm giả giấy tờ.
Nhưng ai lại đi mất công làm chuyện đó và với mục đích gì?
Nếu nghĩ cho kỹ, chỉ có thể có một lý do: tất cả những chuyện này là một trò đùa do Matt bày ra. Thoạt tiên anh cố tin vào giả thiết này, song cũng không cảm thấy thật sự thuyết phục. Chắc chắn Matt là người thích đùa giỡn và cậu ta hay nghĩ ra những trò quỷ quái. Nhưng dù sao thì cũng không đến mức độ này. Và nếu cậu ta muốn bỡn cợt anh, thì cũng sẽ chẳng chọn một trò khiến anh phải nhức óc thế này, mà chỉ đơn giản như vỗ một cái vào mông là xong.
Nếu đùa, thì kiểu của Matt sẽ là gửi đến nhà mình một đám vũ nữ thoát y hay một cô gái gọi hạng sang, Elliott nghĩ, chứ sẽ không phải là một ông già sáu chục cứ khăng khăng tự nhận là mình.
Mải suy nghĩ mông lung, Elliott hơi chậm trễ khi nhận ra rằng người đàn ông đã bước đến ngay bên cạnh anh. Khuôn mặt ông ta trở nên nghiêm nghị hơn. Ông túm lấy cánh tay anh và nhìn anh đăm đăm.
– Nghe đây, anh bạn trẻ, cho dù chuyện này có vẻ như không thể nào tin được, xong tôi thực sự đã tìm ra cách để quay trở lại ba mươi năm về trước.
– Đúng vậy.
– Cậu phải tin tôi, khỉ gió!
– Nhưng điều ông đang nói thật vô nghĩa!
– Nếu như điều đó là vô nghĩa, thì cậu thử giải thích xem tại sao tôi lại có thể biến mất trong toa-lét sân bay mà cậu không hề nhìn thấy?
Lần này thì Elliott không biết phải trả lời ra sao. Quả thật, rất có thể ông ta bị điên nhưng ông ta biết cách lập luận vô cùng sắc bén.
– Thưa ông… anh mở lời, nhưng người kia lập tức cắt ngang:
– Cậu bỏ ngay cái Thưa ông khách sáo đó đi, có được không?
Đúng lúc đó, một tràng sủa rền rĩ cất lên từ phía bên kia lớp kính. Bác sĩ liếc nhìn sang và tỏ vẻ ngạc nhiên. Chúa mới biết vì sao, chú chó labrador đã tìm cách lết được lên tận tầng trên mặc dù đang bị thương, nó vẫn cất những tiếng sủa vui vẻ để báo hiệu rằng nó đang ở đó.
– Rastaquoère! Người đàn ông thốt lên như thể vừa nhìn thấy một hồn ma.
Cuống quít vì mừng rỡ, con chó nhảy phốc lên tay ông ta và bắt đầu liếm hai bàn tay rồi đánh hơi khắp người ông, giống như đó đã trở thành một tập quán quen thuộc giữa họ với nhau.
– Ông đã từng gặp con chó này rồi sao? Elliott hỏi, càng lúc càng hoang mang.
– Tất nhiên rồi, nó là con chó của tôi!
– Của ông ư?
– Phải, của chúng ta.
Đến điên đầu lên mất thôi! Giờ thì người đàn ông này bắt đầu khiến anh cảm thấy căng thẳng thần kinh. Nhưng để tống cổ ông ta đi thì có lẽ phải sử dụng chiến thuật khác: vờ như đồng tình với ông ta.
Anh chờ một vài giây, rồi hỏi với vẻ hết sức nghiêm túc:
– Vậy là ông thực sự từ tương lai tới?
– Có thể nói như vậy cũng được.
Elliott làm ra vẻ đồng tình rồi tiến vài bước ra sân thượng và chống khuỷu tay lên ban công. Từ đây, anh chăm chú nhìn xuống đường giống như đang tìm kiếm thứ gì đó nhưng vô vọng.
– Lạ thật, một lát sau anh nói, tôi chẳng thấy cỗ máy thời gian của ông đâu cả. Ông đã đậu nó ngoài phố hay trong phòng khách của tôi?
Người đàn ông không thể giấu nổi một nụ cười mỉm:
– Phải, khéo đùa lắm. Cậu chưa từng nghĩ đến việc tạo dựng sự nghiệp one man show (1) sao?
Thay cho câu trả lời, Elliott gằn giọng:
– Nghe đây, ông bạn, tôi không hề quen ông, cũng chẳng biết ông từ đâu lạc đến, nhưng tôi nghĩ ông không hề điên như những lời ông nói. Thật sự, tôi biết chắc ông đang diễn kịch.
– Nhưng với mục đích gì?
– Tôi hoàn toàn không biết, nhưng nói thật với ông, tôi chẳng buồn để tâm. Tất cả những gì tôi muốn lúc này, là ông rời khỏi nhà tôi ngay và tôi báo để ông biết đây là lần cuối tôi đề nghị ông một cách nhã nhặn.
– Cậu yên tâm đi, tôi cũng chẳng ở lâu nữa đâu.
Nhưng thay vì bỏ đi, ông ta lại ngồi xuống ghế bành rồi lục tìm trong túi và lấy thuốc lá ra: một bao thuốc màu đỏ và trắng với nhãn hiệu nổi tiếng viết bằng chữ đen.
Elliott nhận ra đó là thứ thuốc mà chính anh cũng quen hút, nhưng anh chẳng quan tâm: nhãn hiệu thuốc cao bồi này cũng khá thông dụng.
– Này cậu, ông ta vừa nói vừa phả ra một vòng tròn khói thuốc rồi đặt bật lửa xuống trước mặt, tôi hiểu rất rõ rằng cậu không tin tôi. Cùng với thời gian, người ta sẽ đánh mất dần những niềm tin chắc chắn của mình, nhưng tôi vẫn nhớ khi còn trẻ mình là người như thế nào: một nhà khoa học chỉ luôn nói chuyện bằng lý lẽ.
– Vậy còn bây giờ, ông là người thế nào?
– Một con người có tín ngưỡng.
Một làn gió quét nhẹ qua sân. Trời buổi tối đầu thu thật đẹp. Vào cái thời bầu khí quyển ô nhiễm như thế này mà bầu trời lại có thể trong veo lạ thường, đẹp tuyệt với hàng ngàn vì sao và vầng trăng, tròn đầy và gần gũi, toả ra một thứ ánh sáng phơn phớt xanh. Như bị cuốn hút bởi sự êm dịu của đêm trăng tròn, người đàn ông hút hết điếu thuốc trước khi di nó trong chiếc gạt tàn đặt ngay trước mặt.
– Có lẽ đã đến lúc anh nên nhìn nhận tôi đúng như vai trò của tôi, Elliott ạ: tôi là đồng minh của anh.
– Một kẻ quấy rối thì đúng hơn.
– Nhưng là một kẻ quấy rối biết mọi điều về cậu.
Bác sĩ nổi cáu:
– Tất nhiên rồi: ông biết mọi thứ về tôi vì ông chính là tôi. Đó chính là điểm điên khùng của ông! Nhưng thực ra ông biết được gì về tôi cơ chứ? Hiệu thuốc lá tôi hay hút, ngày sinh của tôi… Còn gì nữa?
Elliott đã bắt đầu nổi cáu vì anh thấy sợ. Một cách mơ hồ, anh cảm nhận được tình thế đã bắt đầu xoay chuyển và anh đoán người đàn ông này vẫn còn chưa bắn đến viên đạn cuối cùng. Như để tán thành suy đoán của anh, ông ta tiếp tục bằng giọng nghiêm nghị:
– Tôi biết những điều mà cậu chưa từng nói với ai bao giờ, cả với người bạn thân nhất của cậu, cả với người phụ nữ mà cậu chia sẻ mọi điều trong cuộc sống.
– Ví dụ như điều gì?
– Những điều mà cậu không muốn nghe.
– Thôi đi, ông cứ thử nói ra xem nào. Tôi chẳng có gì để giấu giếm cả.
– Chắc chứ?
– Ông đang muốn nói đến chuyện gì mới được?
Người đàn ông nghĩ ngợi một lát rồi đề nghị:
– Cậu có muốn chúng ta nói chuyện về bố cậu không?
Câu hỏi này là một cú đánh như trời giáng mà anh không hề chuẩn bị tinh thần đón nhận.
– Bố tôi thì có liên quan gì tới chuyện này?
– Cho dù chưa bao giờ chịu thừa nhận, song bố của cậu là một người nghiện rượu, có phải không?
– Không đúng!
– Tất nhiên là có. Trong mắt mọi người, đó là một doanh nhân đáng kính, một người chồng yêu vợ và một người cha mẫu mực. Song khi đóng cửa nhà lại, đối với mẹ cậu và cậu, thì đó lại là một con người hoàn toàn khác, hả?
– Ông không biết gì hết.
– Cậu còn bảo tôi không biết à. Lúc về già ông ấy đã bớt đi nhiều, nhưng khi cậu còn bé, ông ấy táng cậu ra trò, cậu nhớ không?
Vì Elliott không lên tiếng, người đàn ông lại tiếp tục:
– Điều đó thường xảy ra vào những buổi tối, sau khi ông ấy đã nốc cạn vài ly. Mỗi lúc say mèm, ông ấy rất dễ nổi nóng và thượng cẳng chân hạ cẳng tay là một cách để giải toả…
Như một võ sĩ quyền anh đứng giữa vòng dây quanh võ đài, Elliott hứng trọn những lời nói trên mà không hề phản kháng.
– Trong rất nhiều năm, cậu đã chịu đựng. Thậm chí có đôi khi, cậu còn khiêu khích ông ấy nữa phải không nào? Bởi vì cậu biết nếu ông ấy trút bớt lên người cậu, ông ấy sẽ không đổ dồn vào mẹ cậu.
Người đàn ông ngừng lại trong vài giây rồi hỏi:
– Cậu có muốn tôi nói tiếp không?
– Cút đi cho khuất mắt tôi!
Ông nghiêng người nhìn anh bác sĩ trẻ và nói thầm vào tai anh như tiết lộ bí mật:
– Năm lên mười tuổi, một buổi chiều từ trường về, cậu đã nhìn thấy mẹ mình, hai cổ tay bị cứa đứt, máu chảy lênh láng ra bồn tắm…
– Khốn nạn, Elliott gào lên và túm lấy cổ áo người đàn ông.
Nhưng người kia, không hề nao núng, vẫn kết thúc điều ông đang nói dở:
– Cậu đã kịp về để cứu sống mẹ. Cậu đã gọi cấp cứu, nhưng mẹ đã bắt cậu hứa không được tiết lộ điều gì và cậu đã làm đúng như vậy. Cậu đã giúp mẹ đập vỡ cửa kính trong buồng tắm và mẹ đã nói với những người cứu thương rằng mẹ đã bị đứt tay vì trượt chân trên sàn ướt. Đó là bí mật của hai người. Không một ai biết được điều đó.
Giờ thì hai người đã đứng đối diện và nhìn thẳng vào mắt nhau. Elliott đã bị nhắm trúng tim. Anh không hề nghĩ rằng bí mật gia đình lại bị phơi bày ra như vậy. Không phải tối nay, không phải như thế này. Những kỷ niệm này đã bị chôn vùi, đẩy sâu vào quá khứ, song lại vẫn sống động như ngày nào.
Nhức nhối.
– Thoạt đầu, cậu nghĩ mình đã làm đúng, chỉ có điều hai năm sau đó mẹ cậu đã nhảy lầu từ tầng mười hai của toà nhà nơi cậu sống.
Lần đầu tiên sau một thời gian rất dài, anh muốn bật khóc. Anh cảm thấy mình yếu đuối, tan nát, bị đo ván như trời trồng.
– Từ đó, cậu không khỏi trăn trở rằng mình có một phần trách nhiệm trong việc mẹ tự sát, rằng mọi thứ có thể sẽ khác đi nếu như cậu nói ra sự thật. Bởi vì mẹ có thể sẽ được hỗ trợ về tâm lý hoặc được đưa vào viện chăm sóc. Tôi nói tiếp chứ?
Elliott muốn mở miệng phản đối nhưng không một âm thanh nào phát ra.
Mặc dù chính ông cũng có vẻ vô cùng xúc động, song người đàn ông vẫn tiếp tục lội sâu hơn vào dòng xoáy của sự thật. Ông ta nung nấu điều tiết lộ cuối cùng và tung ra như một đòn ban ơn:
– Cậu vẫn luôn biện hộ với những người xung quanh rằng cậu không muốn có con vì thế giới ngày nay đã trở nên quá khủng khiếp và tương lai có vẻ như đang tiến tới gần tận thế, nhưng đó không phải là nguyên nhân thật sự, Elliott ạ…
Anh chàng bác sĩ nhíu mày. Đến giờ thì chính anh cũng không biết người đang nói chuyện với mình muốn đi đến đâu.
– Cậu không muốn có con vì cậu vẫn luôn nghĩ rằng bố mẹ không yêu cậu. Và giờ đây, đến lượt cậu, cậu lại sợ rằng mình sẽ không thể yêu thương được những đứa con của chính mình. Lý trí của con người đôi khi hoạt động một cách kỳ lạ quá, phải không?
Elliott không phủ nhận. Vậy đấy, chỉ cần có ba phút thôi mà một người đàn ông anh trước đó chưa hề gặp đã đập tan mọi niềm tin chắc chắn trong con người anh và khiến anh nghi ngờ tất cả. Một đống những bí mật đáng tội nghiệp, đó là tất cả những gì mà chúng ta đang có đây.
Một cơn gió mạnh đổ ào xuống sân thượng. Người đàn ông dựng cổ áo lên, bước lại gần Elliott và đặt bàn tay lên vai anh, như để an ủi.
– Đừng có đụng đến tôi! Người bác sĩ trẻ nói và lùi về phía lan can. Anh cảm thấy ngạt thở và trong đầu anh mọi thứ quay cuồng. Nhất là anh cảm thấy như có một điều cơ bản mà anh vẫn chưa nắm bắt được: mục đích thật sự của việc bóc trần những sự thật này.
– Cứ cho là tất cả những điều đó đều đúng, anh vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào người khách bí ẩn, thì ông muốn gì ở tôi?
Ông già lắc đầu:
– Tôi chẳng muốn gì ở anh cả, anh bạn ạ. Rất xin lỗi vì khiến anh thất vọng, nhưng tôi ở đây không phải vì anh.
– Vậy thì…
– Tôi quay trở lại là để gặp cô ấy…
Một lần nữa ông ta lại rút ví ra, nhưng lần này để lấy ra một tấm ảnh đã phai màu và đưa cho Elliott.
Một tấm ảnh chụp Ilena ở Central Park đang ném một nắm tuyết, nét mặt rạng ngời và hai má ửng hồng. Đó là tấm ảnh mà anh thích nhất. Nó đã được chụp vào mùa đông năm ngoái và kể từ lúc đó nó không bao giờ rời khỏi ví của anh.
– Làm thế nào mà ông có được tấm ảnh này? Cứ thử đến gần Ilena dù chỉ một lần và tôi sẽ đấm vỡ mặt ông cho đến khi…
Người đàn ông đứng lên mà không chờ anh doạ hết câu. Giống như đã đến lúc ông ta phải ra đi, ông vuốt ve đầu con chó rồi đi vài bước về phía bức tường kính. Lúc này Elliott chợt nhận ra ông ta đang run rẩy giống như lần trước ở sân bay, ngay trước khi ông ta biến mất.
Lần này anh sẽ không để ông ta ra đi như vậy nữa!
Anh vội vã bước tới định tóm lấy ông ta, nhưng… đã quá muộn! Ông ta đã rời khỏi sân thượng và đóng ngay cánh cửa kéo lại sau lưng.
– Mở ngay cánh cửa chết tiệt này ra! Bác sĩ vừa hét lên vừa đập tay vào tấm vách kính chạy dọc theo sân thượng.
Nhờ một lớp sơn huỳnh quang, buổi tối đến tấm kính được nhuộm bằng một màu xanh lá trông rất hài hoà. Phát minh này của kiến trúc sư đã biến tấm kính trở thành một dạng gương trong suốt. Bị kẹt lại ngoài sân thượng, Elliott đứng ở phía bất lợi hơn của tấm gương: anh không thể nhìn được phía bên kia, chỉ có người ở bên kia nhìn thấy anh.
– Mở ra! Anh lại hét lên.
Một quãng yên lặng, rồi giọng nói phía sau cánh cửa thì thầm:
– Đừng quên điều tôi đã nói với cậu: tôi là đồng minh của cậu, không phải kẻ thù.
Anh không thể để cho ông ta đi mất được. Giờ thì anh muốn biết nhiều hơn nữa. Không còn cách nào, anh bèn quờ lấy một chiếc ghế bằng sắt uốn và dùng hết sức lực ném mạnh vào bức tường kính khiến nó vỡ toang thành muôn ngàn mảnh nhỏ lấp lánh. Anh lách vào nhà, xuống cầu thang, lùng khắp các phòng và thậm chí còn ra cả ngoài phố.
Chẳng có ai.
Khi anh quay trở lại sân thượng, chú chó labrador, buồn rầu tiu nghỉu, đang tru lên trong đêm.
– Sẽ ổn thôi, anh vừa nói vừa ôm chú chó vào lòng, xong cả rồi.
Nhưng tự đáy lòng, anh lại tin chắc vào điều ngược lại. Những rắc rối vừa mới chỉ bắt đầu thôi.
Chương 6
Tôi rất muốn anh nhớ lại những ngày hạnh phúc khi chúng ta còn là bạn của nhau.
Quãng thời gian đó, cuộc sống tươi đẹp hơn và mặt trời toả sáng rực rỡ hơn hôm nay.
-JACQUES PREVERT – JOSEPH KOSMA-
1976
Elliott 30 tuổi
Một tay cắp con chó, Elliott chạy vội ra xe. Anh phải kể cho Matt nghe về chuyện vừa xảy ra với mình. Thoạt đầu anh đã định gọi cho Ilena, nhưng anh đã gác máy trước khi cô kịp trả lời. Làm thế nào để kể cho cô nghe mọi chuyện mà không bị cô coi như một gã ngớ ngẩn bây giờ? Không, tốt nhất là nên chờ để biết thêm vài thứ trước khi khiến cô phải lo lắng.
Anh mở cửa chiếc Coccinelle và đặt người bạn mới lên băng ghế phía sau. Anh bắt đầu cảm thấy gắn bó với chú chó labrador lúc này đang có vẻ chấn động chẳng kém gì anh sau những gì vừa trải qua.
Elliott rời khỏi bờ biển và rẽ vào khu phố Italie. Trời đã khá khuya và xe chạy rất thoải mái trên đường. Anh chạy vào đường Lombard và khéo léo lượn theo tám ngã rẽ hình zíc zắc khiến cho con đường vành đai này được gọi tên là con phố ngoắt ngoéo nhất thế giới. Đoạn đường này đẹp vô cùng và không hổ danh so với tên gọi của nó, có điều tối nay Elliott có quá nhiều mối bận tâm để có thể để mắt tới những thảm hoa và những ánh đèn trang trí.
Vội vã muốn đến nơi cho mau, anh lao thật nhanh qua North Beach, phóng vụt qua những ngọn tháp đôi của Nhà thờ Italie – nơi trước đó một vài năm Marilyn Monroe đã làm đám cưới với Joe Di Maggio – rồi lên tới đỉnh đồi Telegraph.
Những con phố dốc đứng của San Francisco hoàn toàn không phải chỉ có trong truyền thuyết. Lên đến đỉnh đồi, anh xoay xở để đậu ngang xe, quay bánh vào phía trong vỉa hè đúng theo quy định của thành phố.
– Rồi, giờ mày nằm lại đây, anh ra lệnh cho chú chó.
Con vật phát ra một tiếng kêu ư ử như phản đối, nhưng bác sĩ không hề mềm lòng.
– Xin lỗi mày, nhưng không thể mặc cả được, anh vừa nói dứt khoát vừa sập cửa xe.
Anh tiến vào một ngõ nhỏ nằm giữa hai hàng bạch đàn và đi xuống một dãy bậc thang có hàng rào hoa nở rộ xuôi theo chiều dốc sườn đồi Telegraph. Vùng này quả là quyến rũ và siêu thực, cứ như một góc nông thôn đã rơi lạc vào giữa lòng thành phố. Đứng ở đây, cả thành phố như nằm ngay dưới chân bạn, với hậu cảnh là ngọn tháp Coit toả ánh sáng trắng lung linh. Thảm thực vật um tùm và rực rỡ sắc màu, làm thành một chiếc tổ lớn cho mọi loại chim: vẹt, sẻ, sáo, chim hét… Elliott men theo cầu thang gỗ chạy uốn khúc giữa những bụi đỗ quyên,hoa chuông, hoa giấy dẫn tới những căn nhà gỗ bài trí theo kiểu nghệ thuật nằm vắt vẻo trên sườn đồi. Đi được nửa đường, anh dừng lại trước cánh cổng của một khu vườn ngổn ngang. Như mỗi lần tới đây, anh trèo qua hàng rào và đứng ngay trên bậc thềm của một ngôi nhà bằng gỗ sơn nơi uể oải phát ra một đoạn điệp khúc của Marvin Gaye. Anh định gõ cửa, nhưng thấy cửa mở, anh vào luôn không gọi trước, rất nóng ruột muốn thổ lộ những mối bận tâm của mình với người bạn.
– Matt, cậu có đó không? Anh hét lên khi bước vào phòng khách. Cậu không thể đoán được chuyện gì đã xảy ra với tớ đâu…
Anh dừng phắt lại. Trên chiếc bàn thấp gần cửa sổ, anh vừa nhìn thấy hai chiếc ly dùng để uống rượu sâm banh đặt cạnh một đĩa bánh hạnh nhân. Mùi hương Ấn Độ dìu dịu rất dễ chịu. Elliott nhíu mày và đưa mắt nhìn quanh phòng rồi phát hiện ra một đôi giày cao gót chỏng chơ gần lò sưởi, một chiếc áo lót màu hồng phấn vất vưởng trên đi-văng và một chiếc quần lót đăng ten mắc lại lửng lơ trên một bức tượng nhỏ. Xem ra Matt không chỉ có một mình. Mà như thế còn hơn là anh chàng xỏ vào người tất cả những thứ đồ lót này, nếu quả thật như vậy thì đúng là anh chịu không thể nhận ra bạn mình được nữa! Elliott chuẩn bị nhón chân bỏ đi thì…
– Chào anh.
Anh quay phắt lại như vừa bị bắt quả tang. Trước mặt anh, trong trang phục Eva, là cô gái trước đó anh đã gặp trên bãi biển.
– Ờ… Xin chào, anh vừa ấp úng vừa đưa mắt nhìn đi chỗ khác, rất xin lỗi vì…
Một tay hờ hững che ngực, tay kia che dưới ngực, cô gái uốn éo đến gần anh, đầy vẻ phô diễn và gợi cảm.
– Matt không hề nói cho tôi biết anh cũng sẽ tham dự cuộc vui, cô tinh nghịch nói.
– Không, ờ… Tôi thậm chí không muốn biết cô đang nghĩ gì. Tôi chỉ đến để…
– Cậu làm gì ở đây vào giờ này? Matt cắt lời anh khi xộc vào phòng chỉ với một tấm ga trải giường quấn quanh bụng.
– Xem ra tớ đang làm phiền, Elliott nhận xét.
– Theo tớ thấy thì cậu tinh ra phết! Dù sao thì cũng để tớ giới thiệu với cậu Tiffany, cô ấy đến thành phố để tham dự buổi tuyển chọn diễn viên cho vai nữ chính trong phim James Bond.
– Rất hân hạnh, hừm… Tôi sẽ không bắt tay cô vì hai tay cô còn đang bận.
Tiffany nở một nụ cười để lộ lớp men răng trắng bóng chắc chắn không dính cao răng.
Elliott quay về phía bạn:
– Nghe này, Matt, tớ cần cậu giúp đỡ…
– Ngay bây giờ, ở đây ư! Có thể chờ ngày mai được không? Chàng trai người Pháp hỏi và lo lắng khi thấy cuộc vui của anh với cô gái mỹ miều này có thể bị trì hoãn.
– Cậu nói đúng, mai tớ sẽ gọi cậu, Elliott nhượng bộ, vẻ thất vọng. Thứ lỗi cho tớ vì đã quấy rầy cậu.
Anh vừa đi được vài bước về phía cửa thì Matt chợt hiểu ra có điều gì đó nghiêm trọng đang làm cho bạn mình phải lo lắng, anh liền chộp lấy vai bạn.
– Chờ đã, anh bạn, kể cho tớ nghe cậu gặp chuyện gì.
Ở đầu kia căn phòng, Tiffany đã nhặt đồ của mình lên, và cảm giác bị bỏ rơi, cô thấy đã đến lúc ra về.
– Thôi chào các anh, tôi để các anh ở lại đây với nhau, cô vừa nói vừa mặc nốt quần áo. Nếu các anh thích cuộc chơi giữa các anh chàng với nhau hơn thì…
– Không, không, không, không, không! Matt lo cuống tìm cách giữ cô lại, điều em nghĩ HOÀN TOÀN không đúng. Elliott là một người BẠN.
– Đừng lo, anh yêu, cô vừa trấn an anh vừa bước ra khỏi nhà, chúng ta đang ở San Francisco, em biết mà…
Nửa người trần trùng trục, Matt đuổi theo cô ra tận vườn, vừa đi vừa thề thốt rằng anh không phải người đồng tính và tìm cách lấy số điện thoại của cô, nhưng cô gái quá tự ái vì bị bỏ rơi, từ chối không chịu cho anh. Matt ra sức năn nỉ nhưng một đợt gió từ Thái Bình Dương thổi ào tới cuốn phăng tấm ga giường anh đang dùng để che thân. Trần như nhộng, anh tóm ngay lấy chậu cây gần nhất mà tay anh có thể với tới – một cây xương rồng thân dẹp – và dùng nó để che vội chỗ kín. Anh kiên trì chạy theo Tiffany một đoạn nữa trong khi cô gái, mặc dù đi giày gót cao, song vẫn nhanh nhẹn sải bước như một con hươu. Trong căn nhà kế bên, ánh đèn bật sáng và một cánh cửa sổ bật mở. Thoáng thấy dáng vẻ bực bội của bà hàng xóm, Matt vội vã tháo lui thật nhanh vào nhà. Anh đã gần đến cửa thì trượt chân ngay trên bậc thềm cuối cùng và ngã sóng soài, thân xương rồng gai góc cắm ngay vào chỗ nhạy cảm nhất trên cơ thể anh.
Thét lên vì đau, anh đóng sập cánh cửa lại sau lưng rồi chỉ tay vào Elliott vẻ buộc tội:
– Tớ hy vọng là cậu có một lý do RẤT CHÍNH ĐÁNG để phá hoại phi vụ vừa rồi của tớ!
– Tớ đang phát điên lên đây, như vậy liệu đã đủ chưa?
– Cậu muốn làm tớ hài lòng chứ: đừng có nhìn tớ như vậy nữa! Và nhất là đừng có mở miệng ra đấy!
– Tớ có nói gì đâu, Elliott vừa trấn an vừa cố kiềm chế để khỏi bật cười.
– Được rồi, cứ tiếp tục đi, Matt nói với chui vào phòng ngủ. Tớ mặc quần áo đã rồi chúng ta sẽ nói về vấn đề của cậu.
Elliott vào bếp và đặt nước để pha cà phê. Mặc dù đã hứa song anh vẫn không thể ngăn mình hét lên với Matt:
– Nếu cậu muốn một lời khuyên: hãy dùng nhíp nhổ!
***
Trong ngôi nhà nhỏ, sự căng thẳng đã giảm đi một chút. Matt đã được "chăm sóc" và đã mặc vào một chiếc quần bò và áo pull. Tươi tỉnh và sảng khoái, anh ngồi vào bàn nơi bạn anh đang đợi.
– Nào, cậu kể cho tớ nghe chứ? Anh vừa nói vừa tự rót cho mình tách cà phê.
– Ông ấy quay lại, Elliott nói đơn giản.
– Để tớ đoán nhé: vị du khách vượt thời gian của cậu, phải không?
– Phải, ông ta hạ cánh ngay tại nhà tớ, trên sân thượng.
Matt nhăn mặt khi nếm thử món đồ uống và thả hai viên đường vào trong tách.
– Ông ta vẫn lải nhải chuyện lần trước à?
– Ông ấy tự nhận là tớ, có điều nhiều hơn ba mươi tuổi.
– Thật là một triệu chứng lạ, phải không, bác sĩ?
– Thật ra thì cũng rất đáng phải suy nghĩ: ông ta biết rất nhiều thứ về tớ. Toàn chuyện rất riêng tư, cá nhân…
– Ông ấy muốn tống tiền cậu à?
– Không chứ, ông ấy bảo ông ấy quay lại là để gặp Ilena.
– Dù sao đi nữa, nếu một lần nữa gặp lại ông bạn từ tương lai tới, cậu đừng có quên hỏi ông ta một vài tin tức về kết quả các trận thể thao sắp tới hoặc giá một vài loại chứng khoán nhé…
Một lần nữa, Matt nhăn mặt khi uống một ngụm cà phê. Anh cho thêm ba viên đường và một thìa đầy sữa rồi nói nốt câu:
– … cốt để kiếm được ít tiền nhân dịp này ấy mà.
– Cậu không tin tớ, phải không? Elliott bực mình nhận xét.
– Có chứ, tớ tin rằng có một gã nào đó đang quấy rầy cậu, nhưng không, tớ không tin ông ta đến từ tương lai.
– Giá mà cậu thấy ông ta biến mất như thế nào… Elliott nói, vẻ suy tư.
– Cậu biết không? Cậu bắt đầu làm tớ lo thật rồi đấy. Tớ nhắc để cậu nhớ, trong hai đứa mình, tớ mới là người hay đùa giỡn…
Matt đứng lên đổ nước trong tách vào bồn rửa và càu nhàu:
– Khiếp, cà phê của cậu đúng là xúp bít tất.
Rồi anh lấy lại giọng phân tích:
– Tớ mới là đứa điên rồ và lố lăng, tớ mới là người được quyền làm những điều gàn dở và kể những chuyện đùa không được tế nhị lắm. Còn cậu, cậu là hiện thân của lý trí và sự thông thái. Thế nên, cậu đừng có tìm cách đảo ngược vai trò.
– Nói thì nghe hay lắm, song chẳng phải vì thế mà tớ không có một dự cảm chẳng lành về ông ta. Ông ta làm tớ sợ và cho dù ông ta có nói gì đi chăng nữa thì tớ cũng vẫn không thật tin là ông ta sẽ chỉ muốn cho tớ toàn điều tốt.
– Trong trường hợp đó, chúng ta phải tìm cho được ông ta và doạ một mẻ cho ông ta phát hoảng, Matt vừa nói vừa vớ lấy chiếc gậy bóng chày nằm lăn lóc trên tràng kỷ.
– Để cái đó xuống đi, Elliott thở dài, ông ta gấp đôi tuổi chúng mình đấy.
– Thế cậu có sáng kiến gì để có thể lần ra ông ta?
Elliott nghĩ ngợi giây lát rồi nhận định:
– Những điều ông ta nói điên khùng đến mức chỉ có thể có hai đáp án: hoặc ông ta bị loạn óc…
– Hoặc là sao?
– Hoặc ông ta nói đúng.
– Nếu cậu muốn, chúng ta sẽ dừng lại ở khả năng thứ nhất.
– Trong trường hợp này, chúng ta cần liên lạc với các bệnh viện và các trại tâm thần trong vùng để xem họ có bị thiếu bệnh nhân nào không.
– Nào, chúng ta bắt tay vào làm ngay đi! Anh chàng người Pháp nói và cầm điện thoại lên. Nếu ông ta có tồn tại thật, tớ hứa với cậu là chúng ta sẽ tìm ra.
Elliott mở những cánh cửa kính của tủ đựng sách và lôi ra cuốn danh bạ điện thoại. Trên giá, thay vì các tuyệt tác văn học là một bộ sưu tập đầy đủ Playboy và một vài cuốn sách nói về nghề trồng nho.
– Cậu có biết trên đời này còn có những vấn đề khác cũng thú vị ngoài phụ nữ và rượu vang không? Anh nói với bạn.
– Thật sao? Matt hỏi nửa đùa nửa thật, vì tớ đã nghĩ nhiều lắm rồi mà vẫn chẳng nghĩ ra thứ gì.
Sau khi đã tìm được số điện thoại, hai người bạn bắt đầu gọi tất cả các cơ sở y tế ở California xem người đàn ông mà họ đang tìm kiếm có nằm trong danh sách những người mới xuất hiện thời gian gần đây mà chưa được phép của bác sĩ. Phải nói thêm rằng từ vài năm nay, các bệnh viện tâm thần đều được khuyến khích thả bớt một phần bệnh nhân điều trị nội trú của họ ra ngoài. Để giảm mức thuế, đúng là Thống đốc Bang – một người tên Ronald Reagan – đã quyết định cắt giảm triệt để ngân sách của họ. Một chính sách mà ông ta định sẽ triển khai trên diện rộng nếu một ngày nào đó ông ta đắc cử tổng thống.
Elliott và Matt không hề tiếc sức, nhưng sau khoảng một tiếng đồng hồ, họ buộc phải thừa nhận rằng họ vẫn không hề có chút manh mối nào. Công việc quá khó khăn và thời điểm này của ngày chẳng hề thích hợp để tiến hành công việc chút nào.
– Cái lão già đó đúng là người có phép tàng hình, Matt than thở và thả rơi điện thoại. Cậu có muốn tiếp tục không?
– Tớ nghĩ chúng ta đã làm không đúng cách. Thật ra tất cả những gì tớ muốn có là một bằng chứng.
– Bằng chứng gì cơ?
– Bằng chứng là ông ta không phải tớ.
– Cậu điên rồi, anh bạn ạ. Đây là lần đầu tiên tớ nhìn thấy cậu trong tình trạng này và trong lúc này thú thật tớ không muốn để cậu phẫu thuật cho tớ chút nào. Hãy thư giãn đi, bạn ơi! Hãy lấy một tuần nghỉ phép, đưa Ilena đi Hawaii phơi nắng một tuần và cậu sẽ thấy ngay toàn bộ thế giới nhỏ bé của cậu lại trở nên hợp lý như cũ thôi.
Matt thả rơi người xuống tràng kỷ và bật tivi lên đúng vào lúc bộ phim Columbo đang chiếu dở chừng. Trên màn hình, vừa kể một hai câu chuyện về bà vợ của mình, viên trung uý nổi tiếng vừa tìm cách dồn thủ phạm phải tự thú tội bằng cách đẩy hắn vào chỗ mâu thuẫn trong lời khai.
– Thật tiếc là ông ta đã chẳng để lại thứ gì ở nhà cậu. Matt vừa nói vừa ngáp dài.
– Cậu muốn nói gì thế?
– Người du khách vượt thời gian của cậu, thật tiếc là ông ta đã không để lại nhà cậu vật gì có in dấu tay ông ta trên đó. Nếu có thì chúng ta đã có thể phân tích nó, giống như trong phim ấy.
Elliott ngập ngừng một lát, nhớ lại chi tiết buổi gặp gỡ của anh với "người khách", rồi túm chặt lấy vai bạn.
– Matt, cậu đúng là một thiên tài, cậu biết không?
– Đúng vậy, anh chàng người Pháp thừa nhận. Thật tiếc là vì cậu là người duy nhất biết điều đó. Nhưng thật ra tại sao cậu lại nói với tớ như vậy?
– Ông ta đã bỏ lại một cái bật lửa! Tớ gần như chắc chắn đấy: ông ta đã hút một điếu thuốc trước mặt tớ và đặt chiếc Zippo lên bàn trên sân thượng.
Phấn khích tột độ, Elliott vớ vội lấy áo khoác và chùm chìa khoá.
– Tớ về nhà đây.
– Tớ đi với cậu, Matt nói và đuổi kịp anh ở cửa. Tớ không muốn cậu lái xe trong tình trạng hiện giờ.
– Cảm ơn cậu đã quan tâm.
– Hơn nữa, tớ không thể bỏ rơi cậu đúng lúc mọi chuyện bắt đầu trở nên thú vị.
Hai người bạn ra khỏi nhà và bước lên bậc thang gỗ.
– Chúng ta đi xe của tớ nhé, Matt đề nghị, tớ luôn gặp vấn đề với cái xế hộp của cậu.
Nhưng khi họ ra đến bãi đậu xe, họ thấy chiếc xe Chevrolet Corvette tuyệt đẹp của Matt đã bị Tiffany phá. Một dòng chữ rất to viết bằng son đỏ chạy dọc trên tấm kính chắn gió:
BASTARD (Khốn nạn).
– Cô bạn gái của cậu dễ thương ghê, Elliott nhận xét.
– Cậu sẽ thấy là cuối cùng thì cô ấy cũng để lại cho tớ số điện thoại, Matt vừa nói vừa rút một tấm danh thiếp được gài vào thanh gạt nước. Chắc chắn ở tớ phải có một cái gì đó hấp dẫn không cưỡng lại được.
Trong khi anh bạn ra sức chùi lớp kính, Elliott quay trở lại xe của mình để tìm chú chó labrador.
– Giờ thì cậu lại còn nuôi cả chó nữa cơ à? Matt ngạc nhiên trợn tròn mắt. Tớ cứ tưởng cậu và lũ thú chẳng yêu thích gì nhau cơ mà.
– Cứ coi như nó là một con chó đặc biệt đi.
Matt ngồi vào sau tay lái và cài dây an toàn.
– Nó có gì đặc biệt cơ chứ? Nó biết lái xe và cậu dùng nó thay tài xế chắc?
– Đúng thế và thậm chí tớ còn dạy cả nó nói nữa cơ đấy.
– Nghiêm túc chứ?
– Được rồi, mở máy đi và nếu cậu ngoan ngoãn thì có thể nó sẽ hát cho cậu nghe bài La Marseillaise (Quốc ca Pháp) đấy.
Matt nhấn ga và chiếc Corvette Roadster lao đi trong màn đêm. Elliott cảm thấy trong người nhẹ nhõm, giống như vừa trút bỏ được một gánh lo nặng ba tấn. Chỉ cần vài phút là tinh thần anh lại lao vút lên như một mũi tên. Đúng là anh đã lo sợ, quả thật, người đàn ông đó đã biết cách làm anh bất ổn bằng cách bới ra hai, ba điều bí mật trong gia đình. Nhưng giờ thì niềm tin và tâm trạng phấn khởi đã quay trở lại. Anh sẽ lấy được chiếc bật lửa và gọi điện cho một người bạn cảnh sát. Phân tích sẽ chứng tỏ ra rằng những dấu vân tay của người đàn ông đó hoàn toàn khác với dấu vân tay của anh và tất cả mọi thứ sẽ lại đâu vào đấy. Lúc đó anh có thể gọi điện cho Ilena và cùng cô cười khi kể chuyện này. Trong lúc chờ đợi, anh vẫn có thể trêu chọc Matt.
– Cậu biết không, cậu không nhất thiết phải cặp kè với những cô nàng mang chỉ số thông minh của loài ốc sên.
– Vì sao cậu lại nói thế?
– Vì cô nàng hấp dẫn ban nãy, cô ta chẳng có vẻ gì là phát minh ra nước ấm cả, cậu hiểu ý tớ chứ.
Matt đón nhận câu nói đó với vẻ hoàn toàn bình thản và đáp lại:
– Sao cũng được, cậu đã thấy cô ấy có một…
– Số đo vòng ngực không phải là yếu tố duy nhất để quyết định chọn phụ nữ đâu, Elliott cắt ngang. Cậu đã ba chục tuổi rồi, tớ nghĩ cậu đã vượt qua cái ngưỡng tuổi trẻ con, nhưng hoá ra lại chẳng phải chút nào.
Matt không hề đồng tình:
– Yếu tố thể chất cũng quan trọng chứ.
– Phải, quan trọng đối với điều mà cậu đang nghĩ tới, nhưng sau đó thì sao?
– Sau đó là gì?
– Thì trò chuyện, quan tâm tới nhau, trao đổi quan điểm…
Matt nhún vai:
– Nếu tớ muốn trò chuyện, tớ sẽ gọi cho cậu. Làm gì phải đi chơi với một cô gái được giải Nobel nếu chỉ cần có thế.
– Ờ… Trong lúc chờ đợi, cậu vừa mới bỏ lỡ lối rẽ vào nhà tớ.
– Không hề, Matt đáp, vẻ tự ái, tớ chỉ muốn đi một lối tắt mà cậu chưa biết thôi.
Lối tắt đó dẫu sao cũng khiến cho quãng đường bị kéo dài thêm vài cây số. Mãi mười phút sau họ mới về tới bãi biển. Elliott sôi lên vì nóng ruột, nhưng anh đủ lịch sự không hề nói năng gì.
Xe vừa đỗ lại trước cửa nhà thì anh đã vội vã chạy vào trong, leo thang bốn bậc một lên tận gác thượng. Giờ thì anh chỉ sợ có mỗi một điều: chiếc bật lửa đã biến mất.
Rất may là điều đó đã không xảy ra. Chiếc Zippo vẫn còn nằm đó, ngay trên mép bàn.
– Ở đây đã xảy ra chuyện gì thế này? Matt hỏi khi nhìn thấy những mảnh kính vương vãi trên mặt đất. Cậu đánh nhau với King Kong à?
– Tớ sẽ giải thích với cậu sau. Giờ thì tớ phải gọi điện cho một người đã.
– Hẵng gượm: bây giờ là hai giờ sáng! San Francisco không phải là "thành phố không bao giờ ngủ", cậu đã nhầm rồi đấy! Vào giờ này, đa số những người đầu óc không có vấn đề đều đã yên giấc.
– Tớ gọi điện cho cảnh sát, Matt ạ.
Elliott gọi điện tới đồn cảnh sát trung tâm và hỏi thanh tra Malden có trực đêm nay không. Đúng là ông có trực và người ta lập tức nối máy cho anh nói chuyện với phòng cảnh sát điều tra.
– Chào chú, chú Malden, Elliott Cooper ở đầu dây, rất xin lỗi vì làm phiền đến chú nhưng cháu rất cần chú giúp cho một việc.
***
Trong lúc chờ đợi viên thanh tra, hai người bạn quay trở lại sân thượng.
– Tớ không hề biết cậu có bạn làm trong ngành cảnh sát, Matt tỏ vẻ ngạc nhiên. Làm thế nào mà cậu quen được ông ấy?
– Chính ông ấy là người đã điều tra vụ tự tử của mẹ tớ, Elliott trả lời qua loa. Thời gian đó ông ấy đã giúp tớ rất nhiều và sau này tớ vẫn còn giữ liên lạc với ông ấy. Rồi cậu sẽ thấy, ông ấy là một người rất tốt.
Hai chàng trai tiến lại gần và cùng chăm chú quan sát chiếc bật lửa bị bỏ quên bởi người tự nhận là "du khách vượt thời gian". Đó là một kiểu bật lửa Zippo bằng bạc có khảm những ngôi sao nhỏ lấp lánh và khắc dòng chữ: Millenium Edition (Dòng sản phẩm Thiên niên kỷ).
– Thật là lạ, cái dòng chữ này, Elliott nói.
– Phải, Matt đồng tình và quỳ xuống để nhìn vật đó cho rõ hơn. Cứ như là cái bật lửa này đã được sản xuất với số lượng có hạn cho một dịp kỷ niệm nào đó…
– … bước sang năm 2000, Elliott nói nốt câu và chợt nhận ra điều anh vừa nói thật là quá thể.
– Thôi bỏ đi, chúng mình bắt đầu huyên thuyên rồi! Matt quyết định và đứng lên.
Vài phút sau, một chiếc xe cảnh sát dừng lại trước cửa nhà và Elliott vội vã chạy ra đón thanh tra Malden. Đó là một viên cảnh sát trông cổ điển, kiểu như anh chàng Humphrey Bogatt (Tên một tài tử Mỹ nổi tiếng những năm 50) nhưng già hơn, mặc áo khoác vải mưa và đội mũ phớt song lại có vóc dáng của một võ sĩ Anh. Ông đã bắt đầu sự nghiệp của mình từ nấc thang thấp nhất và học nghề từ trường học đường phố. Từ gần bốn chục năm nay ông rong ruổi trên các con đường và thành phố San Francisco chẳng còn gì là bí mật đối với ông nữa cả.
Nhưng viên thanh tra không chỉ tới một mình. Ông giới thiệu với Elliott đồng nghiệp mới của ông, nhân viên điều tra Douglas tốt nghiệp trường cảnh sát, và được đào tạo bài bản về tội phạm học. Mái tóc được chải chuốt cẩn thận hất ra phía sau, trông Douglas thẳng đuỗn, được bọc gọn gàng trong một bộ com-lê cắt rất khéo và một chiếc cà-vạt thắt hoàn hảo, ngay cả vào lúc hai giờ sáng.
– Cậu gặp phải chuyện gì vậy, Elliott? Malden hỏi khi bước lên sân thượng và chỉ vào đống kính vỡ. Cậu đã bị một quả tên lửa bắn trúng cửa sổ hay sao?
– Cháu muốn chú lấy những dấu tay trên chiếc bật lửa này, Elliott ngây ngô giải thích, giống như điều này chỉ là một thủ tục thông thường.
Giống như một học trò thuộc bài, Douglas đã lập tức rút ra một cuốn sổ và một cây bút.
– Có dấu hiệu bị phá cửa hay đột nhập không? Anh ta hỏi.
– Không hẳn, Matt đáp. Chuyện này phức tạp hơn thế nhiều…
– Nếu các anh không đưa đơn khiếu nại thì chúng tôi sẽ chẳng thể làm gì được cả! Anh chàng thanh tra trẻ nói bằng giọng pha chút khó chịu.
– Bình tĩnh nào, Douglas! Malden can thiệp.
Elliott bắt đầu hiểu ra rằng anh khó có thể từ chối đưa ra một lời giải thích. Lấy cớ đi pha cà phê, anh kéo người cảnh sát già vào trong bếp để nói chuyện riêng.
– Giờ thì, Elliott, hãy giải thích cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra, Malden vừa yêu cầu vừa châm một điếu xì gà nhỏ.
Chàng bác sĩ trẻ lặng thinh không nói gì, Malden đã bắt đầu nhớ lại buổi đầu tiên họ gặp nhau. Mới đó mà đã gần hai mươi năm, song ông vẫn còn nhớ như mới chỉ ngày hôm qua.
Một tối trời mưa, ông được gọi tới chứng kiến vụ tự tử của một người phụ nữ đã nhảy lầu tại toà nhà Downtown. Ông đã tìm thấy giấy tờ trên thi thể của bà ta – bà ta tên là Rose Cooper – rồi ông có trách nhiệm phải thông báo cái tin khủng khiếp đó cho người chồng và cậu con trai của bà.
Khi mẹ cậu tự tử, Elliott chưa đầy mười hai tuổi. Malden vẫn còn nhớ đó là một cậu bé đáng yêu, thông minh và nhạy cảm. Ông đã gặp người cha của cậu bé: một doanh nhân xem ra chẳng hề bị chấn động khi được báo tin về cái chết của người vợ. Malden còn nhớ nhất là những vết xước và vết bầm tím mà ông đã thấy trên cánh tay của đứa trẻ.
Thật ra, những dấu vết đó, ông đã đoán ra được thì đúng hơn là nhìn thấy. Đó có lẽ là bản năng đã giúp ông trở thành một cảnh sát giỏi: ông "cảm thấy" nhiều điều. Và trong trường hợp đó, ông lại càng cảm thấy rõ ràng hơn vì chính ông cũng có một người bố từng thường xuyên bắt ông phải chịu những trận đòn thắt lưng mỗi khi trở về nhà sau một ngày làm việc ở nhà máy.
Tất nhiên, ông hoàn toàn có thể nhắm mắt cho qua: vào thời đó, người ta vẫn còn chưa thực sự coi trọng những điều này. Song ông đã quay trở lại gặp Elliott ngày hôm sau và cả sau đó nữa. Ông đã tận dụng những lần đó để buông vài câu với người bố tỏ ý cho ông ta hiểu ông "đã biết" và từ giờ trở đi, ông sẽ còn để mắt tới. Chính nhờ vậy mà từ ngày này qua ngày khác, Malden tiếp tục theo dõi Elliott và quan tâm tới việc học của cậu bé. Đó chính là cái quan niệm hơi có chút không tưởng của ông về nghề nghiệp: cảnh sát phải gần dân và không chỉ dừng hành động của mình ở việc bắt giữ tội phạm.
Viên cảnh sát đón lấy tách cà phê mà chàng bác sĩ đưa cho và dụi mắt để xua đi những kỷ niệm đang trỗi dậy. Ông cần phải tập trung vào thời điểm hiện tại.
– Nếu cậu không nói gì, Malden nói, tôi làm sao giúp cậu được.
– Cháu biết chứ, Elliott gật đầu, nhưng…
– Nhưng sao?
– Khi mẹ cháu qua đời, chú đã bảo cháu hãy tin ở chú và chú đã hứa khi nào cháu cần giúp đỡ, chú sẽ có mặt để giúp cháu…
– Điều đó vẫn còn đúng, con trai ạ.
– Vậy thì hôm nay là lúc cháu cần đến chú. Cháu không chỉ cần đến người cảnh sát, mà còn cần cả người bạn nữa: người cảnh sát sẽ giúp cháu tìm ra những dấu tay còn người bạn sẽ tin tưởng cháu cho dù cháu không thể giải thích bất cứ điều gì trong lúc này.
– Ôi chao, Malden thở dài, cậu nói toàn những lời hay ho nhưng tôi không thể tiến hành điều tra dấu tay như thế được! Cần phải lấy được giấy phép, lập báo cáo. Rồi phải điều cả một đội bên phòng thí nghiệm của bộ phận khoa học hình sự tới. Hơn nữa, việc này có thể kéo dài nhiều ngày, thậm chí vài tuần…
– Nhưng cháu cần phải có kết quả rất nhanh!
Malden gãi đầu suy nghĩ khoảng hơn một phút. Thời gian gần đây, ngôi sao may mắn của ông đã lu mờ dần trong đồn cảnh sát. Người ta công khai chỉ trích ông không tôn trọng cấp trên và thường xuyên sử dụng những phương thức không chính thống cho lắm để đạt được mục tiêu. Nhưng nhất là người ta đã không bỏ qua việc ông đã đi quá xa trong một cuộc điều tra về tham nhũng có liên quan tới rất nhiều nhân vật của toà thị chính. Malden biết giờ ông đã bị đặt vào tầm ngắm và anh chàng phụ tá mới của ông thực chất được cử tới chủ yếu để giám sát và chỉ chờ ông đi một bước sai lầm. Có quá nhiều lý do khiến ông phải thận trọng, song ông lại phải thực hiện một lời hứa. Một lời hứa mà ông đã hứa cách đây hai mươi năm, với một đứa trẻ vừa mới mất mẹ.
– Có lẽ tôi có một cách để lấy các dấu tay mà không cần phải thông qua các trình tự thông thường, đột nhiên ông tuyên bố.
– Bằng cách nào?
– Rồi cậu sẽ thấy, ông đáp vẻ bí ẩn. Cách này hoàn toàn không theo thông lệ một chút nào, nhưng có thể sẽ được.
Quay trở lại phòng khách, ông bảo Douglas chạy đi mua một tuýp keo loại mới, nhãn hiệu Super Glue mới xuất hiện trên thị trường.
– Tôi kiếm đâu ra cái của đó vào lúc hai giờ sáng? Douglas làu bàu.
Malden đưa cho anh trợ lý địa chỉ của một hiệu bán máy ảnh mở cửa qua đêm và có bán loại keo này, vì nó được sản xuất bởi nhãn hiệu Kodak.
Trong khi Douglas thi hành nhiệm vụ, viên thanh tra quỳ xuống và quan sát dòng chữ kỳ lạ được khắc trên bật lửa.
– Millenium Edition à? Thế có nghĩa là sao? ông vừa hỏi vừa quay về phía Matt.
– Cháu cũng chẳng biết gì hơn chú, Matt vừa thú nhận vừa bật nắp một lon Coca-Cola.
– Ít nhất các cậu cũng chưa đụng tay vào nó chứ? Nếu không thì xin tạm biệt các dấu tay…
– Chú cho tụi cháu là lũ ngốc hay sao! Matt thốt lên. Tụi cháu cũng có theo dõi Starky và Hutch (Một sêri phim truyền hình về cảnh sát hình sự rất nổi tiếng trong những năm 1970) đấy.
Malden nhìn xoáy vào chàng trai rồi quay về phía Elliott.
– Tôi cần có một cái hộp bằng bìa các tông.
– To cỡ nào?
– Một hộp đựng giày có thể dùng được rồi.
Elliott vào trong phòng lục tìm trong tủ và tìm thấy một hộp các tông đựng đôi giày Stan Smith.
Trong khi đó, Malden lấy cây đèn nhỏ đặt trên chiếc bàn thấp trên sân thượng. Ông tháo chụp đèn ra và đặt bàn tay lên bóng đèn vẫn còn sáng để thử độ nóng.
Một vài phút sau, Douglas quay trở lại, hãnh diện giơ ra một tuýp keo Super Glue. Lúc đầu, anh cứ cho rằng Malden là một người lỗi thời, nhưng rồi anh buộc phải công nhận sự tài giỏi của viên cảnh sát già khiến anh ngạc nhiên mỗi ngày và chỉ trong vài tuần làm việc với ông, anh đã học được nhiều hơn cả những gì được đào tạo trong ba năm.
– Tất cả đã sẵn sàng, Malden thông báo, buổi diễn có thể bắt đầu.
– Chú định lấy dấu tay bằng một hộp các tông và một tuýp keo hay sao? Matt hỏi vẻ không tin.
– Chính xác. Và điều này thì, chàng trai của tôi ạ, cậu chưa bao giờ thấy được trên tivi, ngay cả trong Starky và Hutch.
Malden bảo Matt đưa cho ông vỏ lon Coca-Cola mà anh vừa uống hết. Viên cảnh sát rút từ trong túi ra một con dao nhíp và dùng nó để cắt đáy lon nhôm. Rồi ông đổ toàn bộ keo trong tuýp vào đáy hộp vừa lấy được và đặt nó bên cạnh chiếc bật lửa.
Rồi ông cầm lấy chiếc đèn bàn và dùng hơi nóng toả ra từ bóng đèn để hơ lớp keo. Rất nhanh chóng, một làn hơi khó ngửi toả ra khắp phòng. Malden dùng hộp các tông chụp lên toàn bộ các thứ đó rồi hài lòng quay về phía cử toạ.
– Vài phút nữa là có thể thử được rồi, ông thông báo, một nụ cười mãn nguyện nở trên môi.
– Thật ra chú làm gì thế? Matt hỏi, có vẻ không tin tưởng lắm.
Vẫn để mắt tới cái hộp, Malden dùng giọng rất chuyên nghiệp để giải thích:
– Tên khoa học của Super Glue là cyanoacrylate…
– Rất hân hạnh được biết điều này, Matt chế nhạo.
Malden ném cho anh chàng một ánh mắt sa sầm ngụ ý ông sẽ không để cho anh mở miệng cắt ngang lời giải thích của ông lần nữa và Matt nắm bắt ngay được thông điệp đó.
– Dưới tác dụng của hơi nóng, làn hơi khí cyanoacrylate sẽ bị hút bởi các axit amin và chất béo là những thành phần chủ yếu cấu tạo nên mồ hôi của con người vẫn còn đọng lại trong những dấu tay.
– Và rồi sẽ có sự thẩm thấu, Elliott thốt lên khi bắt đầu hiểu ra.
– Thẩm-cái gì? Douglas hỏi và cảm thấy càng lúc bị rớt lại phía sau.
– Thẩm thấu, Malden giải thích. Điều đó có nghĩa là hơi bốc ra từ Super Glue sẽ bám trên những dấu vân tay vốn không thể nhìn thấy bằng mắt thường và tạo thành một dạng vỏ bọc vừa khiến cho dấu tay hiện lên lại vừa có thể bảo vệ được chúng.
Matt và Douglas ngơ ngác nhìn viên cảnh sát già. Mặc dù vậy họ đang chứng kiến một thí nghiệm mang tính đột phá mà chỉ vài năm sau đó sẽ tạo ra cuộc cách mạng đối với công tác điều tra trên toàn thế giới.
Về phần mình, Elliott vẫn không rời mắt khỏi cái hộp các tông, tỏ ra lo lắng vì những gì nó sắp giúp anh khám phá ra.
Một lúc sau, Malden cho rằng cuộc thí nghiệm đã kéo dài như thế là đủ và nhấc chiếc hộp lên: một lớp màu trắng và cứng đã phủ lên ba nơi trên chiếc bật lửa, cho thấy rõ ràng ba dấu vân tay.
– Vậy là công việc đã xong, Malden vừa nói vừa cúi xuống. Thoạt nhìn thì chúng ta có một dấu vây tay tuyệt vời của ngón cái trên một mặt, và mặt bên kia thì theo tôi… một đầu ngón trỏ và ngón giữa.
Ông cẩn thận gói vật chứng vào trong một chiếc khăn mùi xoa và nhét nó vào trong túi áo khoác của ông.
– Nếu tôi không nhầm, ông vừa nói vừa quay về phía Elliott, thì cậu muốn tôi so sánh các dấu tay này với những dấu tay mà chúng tôi đã lưu trong hồ sơ.
– Không hẳn như vậy, bác sĩ chữa lại: cháu muốn chú so sánh chúng với dấu tay của cháu.
Rồi với một cử chỉ như để minh hoạ cho lời nói, anh rút từ trong túi áo vest ra một chiếc bút máy và để mực chảy một chút ra bàn rồi dùng từng ngón tay của anh chấm vào đó và in những dấu vân tay của chính anh lên một trang giấy trắng vừa xé ra từ cuốn sổ tay.
Malden cầm lấy tờ giấy và nhìn thẳng vào mắt Elliott.
– Mặc dù tôi không hiểu rõ lắm tính logíc của tất cả những chuyện này, tôi cũng sẽ làm điều đó, bởi vì chính tôi cũng có lòng tin đối với cậu.
Bác sĩ im lặng gật đầu, cũng là một cách riêng anh để nói lời cảm ơn với viên cảnh sát. Về phần Matt, cuối cùng anh cũng đánh liều hỏi thêm một câu:
– Liệu việc so sánh hai nhóm vân tay có mất nhiều thời gian không?
– Tôi sẽ bắt tay vào việc ngay lập tức, Malden trấn an. Vì các dấu tay khá rõ, nên tôi hy vọng sẽ nhanh chóng có kết quả.
Elliott tiễn hai người cảnh sát ra bậc thềm. Trong khi Douglas đi lấy xe, Malden hứa với anh:
– Tôi sẽ gọi cho cậu ngay khi nào xong.
Rồi sau đó một thoáng ngập ngừng, ông hỏi:
– Này, quan hệ của cậu với cái cô người Braxin, cô bé Ilena, vẫn tốt đẹp chứ?
– Vẫn tốt đẹp ạ, Elliott đáp, hơi ngạc nhiên vì câu hỏi này. Giữa cháu và cô ấy…
Dừng lại ngay giữa chừng vì ngượng ngập, anh không nói hết câu, song Malden đã nắm được ý chính.
– Tôi hiểu rồi, ông vừa nói vừa cúi đầu, khi một người phụ nữ bước vào trái tim cậu, cô ta sẽ ở đó mãi mãi…
Elliott xúc động nhìn người cảnh sát già đi xa dần. Anh biết đã từ vài năm nay, ông vẫn sát cánh bên vợ ông trong cuộc chiến vô vọng chống lại căn bệnh Alzheimer.
Và giờ phút cuối cùng của cuộc chiến cũng điểm.
***
Đã ba giờ sáng, nhưng Elliott không thấy buồn ngủ. Anh đã lái xe đưa Matt về nhà và lấy lại chiếc Coccinelle của mình. Anh dừng lại ở một trạm xăng đường Market. Đầu óc vẫn còn đắm chìm trong luồng suy tư, anh đã đổ đầy bình xăng trong khi một người đàn bà đã móm cả hàm răng chợt đến bắt chuyện với anh. Bà đẩy một chiếc xe chất đầy đồ vớ vẩn và giẻ rách, có vẻ như bà ta vừa phê thuốc hoặc đang say mèm. Bà trút một tràng chửi rủa vào anh nhưng anh chẳng buồn quam tâm. Cứ mỗi tháng hai ngày, anh làm việc như một bác sĩ tình nguyện tại Free Clinic, một trung tâm chăm sóc của thành phố dành cho người nghèo và anh biết rằng khi đêm xuống cả bộ mặt thành phố liền thay đổi. Trong các cuốn sách quảng bá cho du lịch và các bộ phim, San Francisco luôn được giới thiệu dưới ánh sáng ban ngày hào nhoáng và những khu phố đẹp như tranh vẽ, với quy mô rất nhân bản và rất nhiều không gian xanh. Người ta luôn nhắc đi nhắc lại rằng thành phố này đúng là biểu tượng của tự do cho chủ nghĩa hippi. Quả đúng là "Frisco" cũng đã từng có những giờ phút huy hoàng cách đây mười năm, vào thời mà hàng trăm flower-children (Là một từ dùng để ám chỉ những người theo trào lưu hippi, bắt nguồn từ sự kiện hàng chục ngàn người đã tụ họp tại San Francisco vào mùa hè năm 1967, còn được giọ là Summer of Love (Mùa hè của Tình yêu). Họ đội trên đầu những tràng hoa tượng trưng cho hoà bình và tình yêu, phân phát hoa cho tất cả những người qua đường và cùng nhau ca hát, nhảy múa liên tục trong vòng ba ngày làm nên một "ngày hội của âm nhạc, tình yêu và hoa") đã theo bước Janis Joplin (Là một phụ nữ da trắng thuộc tầng lớp trung lưu đã hát nhạc blue cùng với ban nhạc Big Brother tại San Francisco. Từ một ban nhạc địa phương, họ đã trở nên nổi tiếng trên khắp đất nước sau khi họ trình diễn năm 1967 tại Liên hoan nhạc Pop Monterey) và Jimi Hendrix (Một nghệ sĩ ghi-ta điện nổi tiếng trong những năm 1960) tới định cư trong các ngôi nhà kiến trúc kiểu Victoria tại Haight Ashbury.
Song Summer of Love đã bị lùi vào quá khứ dĩ vãng. Phong trào hippi đã lặng dần xuống, bị nhấn chìm bởi chính sự thái quá của nó. Joplin và Hendrix đều đã qua đời, khi chưa đầy hai mươi bảy tuổi. Jimi đã tự nhồi mình bằng một đống thuốc ngủ và chết ngạt khi nôn chúng ra; còn Viên Ngọc Trai (Pearl (Viên Ngọc Trai) là biệt danh của Janis Joplin) thì đã chết do sốc thuốc khi sử dụng heroin quá liều.
Vào cuối năm 1976 này, tình yêu tự do và cuộc sống cộng thể đã chẳng còn hấp dẫn được mấy người. Nạn nghiện ngập đã gây ra nhiều hậu quả không thể tưởng tượng được. Được cho rằng có thể khiến cho con người cởi mở tâm hồn và giải thoát họ khỏi sự ức chế, những chất LSD (Lysergic acid diethylamide: tên gọi chung chỉ chất gây nghiện tổng hợp), methedrine và heroin lại khiến cho con người rơi vào vòng phụ thuộc trước khi từ từ giết chết họ. Ở bệnh viện, Elliott đã được chứng kiến những sự huỷ hoại tàn khốc của chúng: quá liều, viêm gan do sử dụng những kim tiêm bẩn, viêm phổi, những cơn bad trips (Từ dùng để chỉ những cơn khủng hoảng do sốc khi sử dụng chất gây nghiện) kết thúc một cách tầm thường bằng việc nhảy lầu tự tử.
Thêm vào đó là những vấn đề của các cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam, hàng trăm người đã quay trở về để gia nhập đội ngũ những người vô gia cư và họ ngày càng trở nên đông đảo hơn. Quân đội Mỹ đã rút khỏi Sài Gòn từ cách đây một năm, và rất nhiều cựu chiến binh, vẫn còn khiếp đảm bởi những gì họ đã phải trải qua "ở đó", giờ sống vất vưởng trong cảnh cùng quẫn tại các khu phố nghèo thuộc ngoại ô thành phố.
Elliott trả tiền xăng và lái xe chạy xuyên thành phố, cửa sổ xe mở toang, suy nghĩ về cuộc chạm trán khó tin mà anh đã gặp phải tối nay. Sau khi chia tay với Matt, anh lại cảm thấy cô độc và bị tước bỏ mọi vũ khí. Vì anh buộc phải thú nhận với bản thân: tất cả những gì người đàn ông đó nói với anh đều đúng, từ những trận đòn mà bố vẫn thường trút xuống đầu anh cho tới cảm giác tội lỗi khi mẹ anh tự tử.
Tại sao chưa bao giờ anh nói tất cả những chuyện này với Ilena? Tại sao chưa bao giờ anh nghĩ tới chuyện phơi bày những điểm yếu của mình với người phụ nữ mà anh yêu?
Rồi còn Matt? Anh cũng chẳng bao giờ kể cho bạn nghe. Có phải chỉ vì sự ngượng ngùng của đàn ông? Sự thật là như thế dễ dàng hơn. Với Matt, tất cả mọi thứ đều hời hợt và phù phiếm. Ở bên cạnh Matt là một cách dễ chịu để đương đầu với tất cả những sự thật phũ phàng của cuộc sống và để tự tiếp sức cho mình khi những trách nhiệm trong công việc của anh trở nên quá nặng nề.
Suy cho cùng, cho dù người ta vẫn chưa tìm thấy gì tốt hơn tình yêu và tình bạn để khiến cho cuộc sống trở nên dễ chịu, thì cũng vẫn có những tình huống mà con người buộc phải một mình vượt qua.
***
Ở cách đó một vài cây số, thanh tra Malden miệt mài làm việc trong phòng làm việc của ông ở Sở Cảnh sát trung tâm. Vài phút trước, ông đã lời qua tiếng lại với người phụ tá khi anh ta trách ông đã sử dụng giờ làm việc để giải quyết việc riêng. Malden biết Douglas là một anh chàng đầy tham vọng và anh ta chẳng hề che giấu việc muốn mau chóng loại bỏ ông để chóng được thăng chức. Khi anh chàng ngu xuẩn đó dọa sẽ viết một bản báo cáo, Malden đã nói thẳng vào mặt anh ta những gì ông nghĩ và tống cổ anh ta vào một phòng làm việc cách xa chỗ ông. Thật đáng tiếc: Douglas đã có thể trở thành một cảnh sát tốt với tất cả những ưu điểm của anh ta, song anh ta đã không biết cách chọn đúng đắn để đạt được mục tiêu đó. Vào thời của ông, người ta không hề tìm kiếm thành công bằng mọi giá và sẵn sàng loại bỏ mọi người trên đường tiến thân của mình. Song cũng có thể Malden đã trở nên già nua. Có thể thế hệ trẻ ngày nay có những giá trị mới: nhiều tham vọng hơn, nhiều sáng kiến cá nhân hơn, giống như thỉnh thoảng thống đốc Reagan vẫn kêu gọi trên truyền hình.
Malden uống nốt cà phê. Lần này, ông không còn nghi ngờ gì việc anh chàng sẽ thực hiện lời đe doạ. Mặc lệ. Nếu như Sở Cảnh sát cứ tiếp tục làm ông điên đầu như thế này, ông sẽ bỏ việc để có nhiều thời giờ túc trực trong bệnh viện bên cạnh Lisa hơn. Dù sao đi nữa, ông cũng sắp đến lúc nghỉ hưu. Trong khi chờ đợi, ông sẽ giúp Elliott lần cuối cùng bằng cách thực hiện công việc mà anh đã yêu cầu.
Ông bắt đầu bằng việc nhuộm màu những dấu vân tay hiện lên trên chiếc bật lửa bằng một thứ phẩm huỳnh quang. Rồi ông dùng máy ảnh chụp lại một loạt ảnh mà ông định sẽ rửa rồi phóng to ra. Chỉ sau đó, công việc phân tích mới thực sự được bắt đầu. Ông lo lắng nhìn đồng hồ. Một công việc công phu đang chờ đợi ông. Một đêm chắc sẽ không thể đủ.
***
Trước khi quay trở lại bờ biển, Elliott dừng lại trong một siêu thị nhỏ ở Van Ness mở cửa 24/24h. Anh mua thuốc lá và một bao thức ăn khô cho chó.
– Chào mày, Rastaquoère, anh vừa gọi vừa đẩy cửa vào nhà.
Anh vừa bước chân qua ngưỡng cửa ra sân thượng thì chú chó labrador đã chạy đến liếm các ngón tay anh giống như nó đã làm hai tiếng trước đó với người khách lạ.
– Mày không cần phải nịnh bợ như thế, anh vừa đe nó vừa đổ thức ăn khô vào trong một khay thức ăn tự chế.
Anh ngồi một lúc ngắm nhìn con chó, vô cùng ngạc nhiên khi thấy mình bắt đầu thích thú với sự hiện diện của nó. Sau đó anh quét dọn đống kính vỡ và hút vài điếu thuốc, mắt mơ màng nhìn vào khoảng không vô định và tâm trí bắt đầu lang thang trở về với thời thơ ấu của mình. Cứ năm phút một, anh lại lo lắng liếc về phía điện thoại để chờ đợi lời tuyên án mà việc phân tích các dấu tay sẽ đưa ra. Cho dù toàn bộ câu chuyện này chẳng có chút cơ sở nào cả, song anh vẫn không thể kiềm chế nổi cảm giác bồn chồn như đang chờ đợi kết quả xét nghiệm y khoa có thể sẽ cho anh biết sự tồn tại của một căn bệnh chết người.
***
Phó thanh tra Douglas xé tan bản báo cáo mà anh vừa gõ xong trên máy chữ. Anh đứng dậy và đi xuống tầng trệt, vào căn phòng được dùng làm phòng giải lao cho cảnh sát. Tối nay, Sở Cảnh sát yên tĩnh một cách kỳ lạ. Douglas pha hai tách cà phê rồi lại leo lên tầng ba và gõ cửa phòng làm việc của Malden.
Thay cho câu trả lời, Malden phát ra một tràng làu bàu khiến Douglas quyết định hiểu đó như một lời mời vào.
– Ông có cần giúp một tay không? Anh vừa hỏi vừa thò đầu qua ô cửa.
– Cũng có thể… ông thanh tra già trả lời bằng giọng cộc cằn.
Douglas chìa cho người đồng nghiệp một tách cà phê và bắt đầu chăm chú nhìn xung quanh.
Trên tường có đính khoảng một chục tấm ảnh được phóng to nhiều lần làm thành một chuỗi dài những dấu vân tay. Cảnh sát bao giờ cũng yêu thích các dấu tay: "những người tố giác duy nhất không bao giờ lừa lọc hay dối trá", trong nghề người ta vẫn quen nói như vậy. Được đặt sát cạnh nhau, những bức ảnh làm thành một tấm thảm kỳ quặc giống như một tấm bản đồ địa hình khổng lồ: những dốc thoải, những lối rẽ đồi, những đường phân thuỷ, những cụm đảm nhỏ có thể phối ngẫu với nhau thành vô vàn những khả năng khác. Mỗi dấu vân tay là một tác phẩm nghệ thuật độc nhất ở mỗi người, đã được hình thành trong suốt quá trình từ khi còn là bào thai. Từ khi còn trong bụng mẹ, bào thai đã phải chịu vô số những tình huống gây áp lực diễn ra một cách ngẫu nhiên nối tiếp trên đầu các ngón tay. Tất cả những điều này xảy ra trước tháng thứ sáu của thai kỳ. Sau đó, các hình thù đó sẽ cố định và sẽ không bao giờ thay đổi cho tới tận lúc chết.
Ở trường cảnh sát, Douglas đã học được rằng mỗi ngón tay có khoảng một trăm năm mươi điểm đặc trưng. Để có thể quyết định hai dấu tay có trùng khớp nhau không, chỉ cần tìm ra những điểm tương đồng giữa những hình dạng đặc thù. Để kết quả xác định có giá trị pháp lý, cần phải tìm được khoảng mười hai điểm trùng hợp.
– Bắt tay vào việc thôi, anh nói với cấp trên.
Douglas có đôi mắt rất tinh tường.
Malden có sự kiên nhẫn.
Cả hai người kết hợp lại thành một tổ rất ăn ý.
***
Khi mặt trời lên, Elliott quyết định đi tắm. Anh thay quần áo sạch rồi rời khỏi nhà để bắt đầu ca trực tại bệnh viện. Trên đường, anh phải bật đèn pha và cần gạt nước lên. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ, thời tiết đã hoàn toàn biến đổi. Bầu trời hôm trước vẫn còn trong trẻo là thế, vậy mà giờ đã đầy mây hứa hẹn một buổi sáng mưa dầm báo hiệu mùa đông.
Anh bật đài để nghe tin thời sự. Toàn những tin tức đáng lo ngại: một trận động đất khiến nhiều người thiệt mạng ở Trung Quốc, đàn áp quân sự ở Achentina, thuỷ triều đen ở Pháp, tàn sát do phân biệt chủng tộc ở Soweto, Nam Phi. Trong khi tại Houston, một kẻ điên loạn bị chặn lại trong nhà đã tìm cách nã súng vào đám đông.
Trong khi đó, tại châu Mỹ với vụ Watergate, chiến dịch bầu cử tổng thống đang đến hồi quyết định Carter hoặc Ford ai sẽ là người nắm quyền định đoạt số phận của đất nước.
Quá chán nản, Elliott đổi sang tần số khác và đi nốt chặng đường còn lại cùng với ban nhạc Beatles và Let It Be.
Anh vừa mới bước vào sảnh bệnh viện thì người gác cửa gọi lại.
– Có điện thoại cho bác sĩ đây!
Elliott cầm lấy chiếc điện thoại ông đưa cho.
– Tôi có kết quả cho cậu rồi đây, Malden thông báo với anh.
Bác sĩ hít một hơi thật sâu trước khi hỏi:
– Thế kết quả ra sao?
– Các dấu tay hoàn toàn trùng khớp.
Elliott ngừng lại vài giây để tiếp nhận thông tin này.
– Chú có chắc về kết quả đó không?
– Chắc chắn. Chúng tôi đã kiểm tra nhiều lần rồi.
Cho dù vậy, Elliott vẫn chưa sẵn sàng chấp nhận sự thật hiển nhiên đó.
– Nếu tính tuyệt đối, anh hỏi, thì có bao nhiêu khả năng để hai người khác nhau có dấu tay giống hệt nhau?
– Một trên vài chục tỷ. Ngay cả anh em sinh đôi cũng có dấu tay khác nhau.
Thấy anh bác sĩ không có phản ứng gì, Malden khẳng định lại kết luận của mình cho thật rõ.
– Tôi không hiểu vấn đề của cậu là gì, Elliott, nhưng hai dấu tay là của cùng một người. Không thể nghi ngờ gì được nữa. Và người đó chính là cậu.
Chúc các bạn online vui vẻ !