Chương 7
Tôi đẩy lùi cái chết bằng cách cố sống,
chịu đau đớn, phạm sai lầm,
liều lĩnh, cho đi và mất mát.
-ANAIS NIN-
Tháng Chín năm 2006
Elliott 60 tuổi
Bức tường kính dẫn ánh sáng vào bên trong nhà, để mặt trời quét lên tường trước khi hắt xuống mặt sàn bằng gỗ hồ đào California.
Mặc một chiếc quần jean đã cũ và một chiếc áo len đan kiểu vặn thừng, Elliott đi theo cầu thang bằng kim loại dẫn xuống bếp. Hôm nay là ngày nghỉ của ông nên đương nhiên ông có ý định dùng bữa sáng một cách từ tốn. Tắm rửa và cạo râu sạch sẽ xong, ông cảm thấy mình khoẻ hẳn ra. Sáng hôm nay, căn bệnh không hành hạ ông như thường lệ như thể bóng ma của cái chết đã bị đẩy lùi nhờ vào giấc mơ kỳ diệu mà ông đã có đêm hôm qua.
Ông tự chuẩn bị cho mình một ly nước cam và một bát ngũ cốc để ra vườn nhấm nháp. Trời hứa hẹn sẽ rất đẹp. Một vài hình ảnh của chuyến du lịch buổi đêm vẫn còn lộn xộn trong đầu ông. Không còn thấy bối rối nữa, ông đặc biệt cảm thấy phấn khích. Ông vẫn còn chưa biết trong những viên thuốc đó có gì, dù là gì đi nữa thì nó cũng vẫn rất hiệu nghiệm! Đặc biệt, "chuyến đi" lần thứ hai này đã giúp ông làm sáng tỏ nhiều điều. Giờ thì ông cảm thấy đã hiểu hơn một chút về những chuyến trở về quá khứ của ông.
Trước hết, cú nhảy ngược thời gian của ông mỗi lần đều giống nhau: ba mươi năm không lệch một ngày. Đêm đầu tiên, ông đã nhìn ngày hiện trên tấm bảng đèn ở sân bay và hôm qua, tờ nhật báo đặt trên bàn đã cho ông biết thông tin.
Sau đó, rõ ràng ông có thể mang theo cả đồ vật về quá khứ vì quần áo của ông đều theo ông trong mỗi chuyến đi. Tương tự, ông có thể mang theo các đồ vật về thời đại của mình: chiếc khăn mùi xoa lấm máu là bằng chứng thuyết phục nhất.
Ngược lại, có điều gì đó vẫn khiến ông cảm thấy băn khoăn: sự ngắn ngủi của quãng thời gian lui lại trong quá khứ. Mỗi lần chỉ khoảng hai chục phút, thật ít ỏi. Chỉ đủ thời gian để trao đổi một vài câu hỏi với "bản sao của ông" là ông đã bắt đầu bị chi phối bởi những cơn run rẩy toàn thân báo hiệu sự quay trở về tương lai.
Nhưng có thể vẫn còn quá sớm để tìm ra được logíc thật sự của điều này. Suy cho cùng, có một điều chắc chắn: ông có thể du hành vượt thời gian thông qua những giấc mơ.
Quay trở vào nhà, ông ngồi trước màn hình máy vi tính. Ông là một bác sĩ phẫu thuật, song ông biết được những gì về giấc ngủ và những giấc mơ? Thật ra cũng không nhiều. Ông đã ngốn hàng tấn kiến thức khi còn đi học, nhưng ông đã quên rất nhiều. Để ôn lại, ông kết nối vào mạng và suốt cả tiếng đồng hồ sau đó ngồi tra cứu Bách khoa toàn thư y học trên mạng.
Giấc ngủ được tạo thành bởi nhiều giai đoạn nối tiếp nhau và lặp đi lặp lại suốt cả đêm.
Được rồi, đồng ý, điều này thì ông nhớ. Còn gì nữa?
Giấc ngủ nông tương ứng với các giai đoạn của Giấc ngủ với Tần sóng ngắn và giấc ngủ sâu tương ứng với các giai đoạn của Giấc ngủ Nghịch.
Giấc ngủ Nghịch ư? Ông còn nhớ láng máng…
Khái niệm này chỉ một giai đoạn của giấc ngủ trong đó hoạt động của bộ não trở nên tích cực nhất trong khi toàn bộ cơ thể lại hoàn toàn thả lỏng với tất cả các cơ đều thư giãn từ gáy tới chân.
Rồi, thế còn những giấc mơ thì sao?
Trong cuộc đời của chúng ta, trung bình chúng ta bỏ ra hai mươi lăm năm để ngủ và khoảng một chục năm để mơ. Tức là tương đương với từ 100.000 đến 500.000 giấc mơ.
Elliott ngồi trầm ngâm trước con số trên. Như vậy là cuộc sống con người phải trải qua tới hàng trăm ngàn giấc mơ! Thật vừa đáng ngạc nhiên lại vừa đáng lo ngại. Cảm thấy mình đang đi đúng hướng, ông tự cho phép mình châm một điếu thuốc rồi tiếp tục đọc:
Giai đoạn Giấc ngủ Nghịch cứ cách chín mươi phút lại diễn ra một lần và kéo dài khoảng mười lăm phút. Thời gian này chính là lúc những giấc mơ xuất hiện rõ rệt nhất.
Thông tin cuối cùng này khiến ông ngồi không yên trên ghế. Tất cả đều phù hợp: hôm trước, ông đã thiếp đi vào lúc 22 giờ để rồi "xuất hiện" vào ba mươi năm trước lúc đó khoảng 23 giờ 30. Như vậy là chuyến đi của ông đã kéo dài 90 phút: cùng khoảng thời gian để cơ thể đạt tới giai đoạn đầu tiên của giấc ngủ sâu!
Ra thế, chuyện đã diễn ra theo cách đó: trong giai đoạn này khi bộ não hoạt động, cái chất có trong viên thuốc đã có tác dụng đẩy ông ngược về quá khứ. Tất cả những chuyện này có vẻ như hoàn toàn điên rồ, song ông đã sống đến một giai đoạn của cuộc đời mà cùng với việc không tin vào bất cứ điều gì nữa, ông lại sẵn sàng tin mọi chuyện.
Nhấp chuột thêm vài lần nữa, ông tiếp tục khai thác cái thế giới bí ẩn đó để nhận ra rằng mặc dù khoa học đã khám phá ra rất nhiều điều về con người mơ như thế nào thì nó lại chẳng nói được gì nhiều về lý do tại sao. Xét nhiều mặt, giấc mơ vẫn là một điều bí ẩn. Như tất cả các hoạt động có tổ chức của cơ thể hoặc của bộ não, chắc chắn giấc mơ cũng phải có một chức năng, một mục đích nào đó…
Nhưng là chức năng, mục đích gì?
Vẫn chưa có ai đưa ra được một câu trả lời khoa học cho câu hỏi này.
Tuy nhiên, vẫn có tất cả những hoang tưởng bí hiểm lưu truyền từ thời Ai Cập cổ đại cho rằng những giấc mơ là những tín hiệu được gửi tới bởi các vị thần hoặc từ một thế giới vô hình. Song làm sao có thể tin được vào những chuyện nhảm nhí đó?
Elliott đang nghĩ về những giả thiết khác nhau thì một cú điện thoại cắt ngang dòng suy tưởng của ông. Ông nhấc máy lên và nhận ra giọng nói của Samuel Below, trưởng phòng thí nghiệm của bệnh viện, người ông đã đưa cho những cặn thuốc tìm thấy trong đáy lọ.
– Tôi đã có kết quả phân tích cho anh, Below thông báo.
1976
Elliott 30 tuổi
Cũng vào giờ đó, ba mươi năm trước, Elliott uống nốt tách cà phê trong phòng nghỉ giải lao của bệnh viện Lenox.
Anh bác sĩ trẻ đã xem đi xem lại đến lần thứ mười nội trong buổi sáng những dấu vân tay mà Malden đã cho người mang đến cho anh. Giờ thì anh buộc phải tin vào điều không thể tin được: từ một nơi nào đó thuộc về tương lai, một "bản sao khác của chính anh" đã tìm ra cách để du lịch vượt thời gian và tới thăm anh.
Còn để biết ông ta thực hiện điều đó như thế nào… thì lại là chuyện khác!
Elliott chưa bao giờ là người say mê truyện khoa học viễn tưởng, nhưng hồi còn học đại học anh đã nghiên cứu Enstein và thuyết tương đối của ông. Và ngài Enstein đã nói gì về du lịch vượt thời gian ấy nhỉ? Rằng điều đó hoàn toàn có thể… với điều kiện duy nhất là có thể vượt qua vận tốc ánh sáng. Ôi, anh khó mà hình dung nổi người khách kỳ lạ của anh có thể bay vòng quanh Trái đất với vận tốc 300.000 km/s, giống như một Siêu nhân già.
Vậy là câu trả lời nằm ở chỗ khác.
Có thể là ở những lỗ đen chăng? Anh đã từng xem một phóng sự trên tivi nói về những ngôi sao đang tiến dần đến tận diệt, chúng có một trường trọng lực có khả năng làm uốn cong chiều thời gian. Về lý thuyết, chẳng có gì ngăn cản tưởng tượng ra một cơ thể bị hút bởi một trong những lỗ đen đó có thể bắn ra trong một thời đại khác hoặc một thế giới.
Cũng hợp lý… chỉ có điều, cho tới nay chưa ai quan sát thấy một lỗ đen nào và thật khó có thể tin là một cơ thể con người có thể đi qua một khu vực như vậy mà không bị xé tan hoặc nghiền nát thành bụi.
Hơn nữa, đó là còn chưa kể đến rất nhiều những nghịch lý về thời gian khác đã làm chủ đề cho rất nhiều bộ phim và cuốn sách thuộc thể loại này. Và nếu như trong khi quay trở về quá khứ, anh đã ngăn cản việc bố tương lai của anh gặp mẹ tương lai của anh thì sao? Và nếu anh giết chết bố mẹ đẻ của mình trước khi họ sinh ra anh thì sao? Đến lúc đó ta sẽ rơi vào một vòng luẩn quẩn giữa sự tồn tại và không tồn tại:
Tôi đã giết tổ tiên của mình.
Vậy là tôi không được sinh ra.
Vậy thì tôi không giết tổ tiên của mình.
Vậy thì tôi đã được sinh ra.
Vậy là tôi đã giết tổ tiên của mình.
Vậy thì…
Elliott thở dài: suy cho cùng, chấp nhận giả thiết về một chuyến du lịch như vậy tương đương với việc vi phạm hàng loạt các định luật vật lý và phủ định mọi nguyên tắc về quan hệ nhân quả cũng như mọi liên kết logíc.
Thế nhưng…
Thế nhưng đang cầm trên những tấm ảnh mà anh có trong tay lại đúng là bằng chứng cho thấy rằng tất cả những câu chuyện này là có thật. Bằng chứng khoa học cụ thể nhất, anh vừa nghĩ vừa nhớ đến việc dấu vân tay của mỗi người đều là duy nhất.
Tâm trí còn để đi nơi khác, anh nghịch chiếc bật lửa mà Malden đã gửi trả lại cho anh, khiến nó làm bật ra những chùm tia sáng. Rồi anh đóng nắp chiếc Zippo lại và vụt đứng dậy khỏi ghế. Không thể ngồi một chỗ được! Những giờ vừa qua, anh đã phải tự nhồi cho mình đến hơn chục tách cà phê. Sự sợ hãi mà anh cảm nhận được đêm qua vẫn chưa biến mất, song giờ nó lại được pha trộn với sự phấn khích vì được trải qua một điều gì đó vượt quá tầm hiểu biết của anh. Anh chỉ là một người bình thường song lại đang gặp phải một sự kiện hoàn toàn đặc biệt. Tất cả những chuyện này rồi sẽ đưa anh đến đâu? Anh không hề hay biết. Từ giờ trở đi, anh bước chân vào một chốn xa lạ và không dám chắc mình sẽ biết cách đương đầu với những gì đang chờ đợi.
Anh lại rót thêm cho mình một tách cà phê và mở cửa sổ nhìn ra phố. Vì trong phòng chỉ có một mình anh, anh bồn chồn châm một điếu thuốc lên và rít ở đầu môi đồng thời thận trọng để khỏi đánh động máy báo cháy. Từ vài phút qua, một câu hỏi cứ lẩn quẩn trong đầu anh. Liệu anh có thể liên lạc được với bản sao kia của mình đang sống ở thế giới tương lai hay không? Tại sao lại không? Nhưng làm thế nào và gửi thông điệp gì đi bây giờ?
Anh suy nghĩ một lát về vấn đề đó và không tìm ra được lời giải nào thoả đáng. Rồi như một ánh sao chổi loé lên từ đâu đó, một ý tưởng điên rồ thoáng qua đầu anh, nhưng anh liền từ bỏ ngay lập tức. Không, không được hành động tùy tiện, anh cần phải bình tĩnh lại, gạt chuyện này sang bên một lát và quay trở lại với công việc.
Đầy vẻ quyết đoán, anh ngồi vào bàn, trước một chồng hồ sơ để kết thúc nốt một số báo cáo phẫu thuật. Tuy vậy, chỉ chưa đầy hai phút, anh đành chịu không thể giả vờ được nữa. Làm sao anh có thể tập trung được sau những gì vừa trải qua! Anh nhìn đồng hồ: anh sẽ không có ca mổ nào trong vòng hơn hai tiếng nữa và nếu may mắn, anh sẽ tìm được ai đó chịu trực ca này hộ anh. Anh cởi áo blouse ra, vớ lấy áo khoác và rời nơi làm việc.
Năm phút sau, anh đã ra khỏi bệnh viện.
Trên đường từ bãi đậu xe ra, anh gặp một trong những chiếc xe tải rất đặc trưng của hãng Federal Express. Quá say sưa bởi những gì đang trải qua, anh nhún vai đầy vẻ thách thức.
Cho dù là FedEx hay UPS thì anh cũng mặc kệ.
Anh, Elliott Cooper, đang chuẩn bị gửi một thông điệp tới tương lai ba mươi năm sau…
2006
Elliott 60 tuổi
– Tôi đã có kết quả xét nghiệm cho anh, Below thông báo.
– Kết quả thế nào?
– À thì đó cũng là một thứ đồ ngoại lai thôi: một hỗn hợp từ cây cỏ, chủ yếu là từ lá dâu và lá sơn trà.
Elliott không tin nổi vào tai mình.
– Không có gì khác ư?
– Không. Nếu anh muốn nghe ý kiến của tôi, thì cái loại thuốc đó chắc sẽ chẳng chữa được bệnh gì ghê gớm đâu: chỉ đơn giản là một liệu pháp tâm lý thôi.
Ngơ ngác, vị bác sĩ bỏ máy. Như vậy là chẳng có một thành phần kỳ diệu nào trong những viên thuốc. Ông già người Campuchia, câu chuyện về một điều ước, niềm hy vọng được gặp lại Ilena… Tất cả chỉ là truyền thuyết. Có lẽ căn bệnh ung thư đã di căn lên não ông. Cuộc gặp gỡ với bản sao của ông, ba mươi năm về trước, chắc chắn chỉ tồn tại trong đầu ông: sự hoang tưởng của một con người đã đi tới chặng cuối của cuộc đời và là người sợ chết.
Vậy ra chức năng của giấc mơ là như thế đấy! Chẳng việc gì phải tìm kiếm trong lĩnh vực khoa học, chỉ cần dùng phép phân tích tâm lý. Mơ chỉ là sự thể hiện những mong ước thầm kín bị dồn nén, một dạng van an toàn để diễn đạt trạng thái vô thức mà không gây nguy hiểm cho cân bằng tâm lý. Elliott đã gõ đúng cánh cửa của Albert Enstein và đích thân Sigmund Freud đã mở cửa cho anh!
Thế là chỉ cần một cú điện thoại thôi đã có thể đưa ông trở lại với thực tế. Phép màu nhiệm đã hoàn toàn biến mất, và trong ánh sáng ban ngày trần trụi, những gì diễn ra buổi đêm mà trước đó ông cảm thấy rất thật giờ chỉ còn là một ảo tưởng điên rồ. Ông đã rất muốn tin vào điều đó, nhưng không… Cuộc phiêu lưu đẹp đẽ, chuyến đi ngắn ngủi xuyên thời gian hoá ra chỉ là sự tưởng tượng trong tâm trí của ông. Căn bệnh và cái chết cận kề đã đẩy ông tới mức ảo tưởng tới sự quay trở lại một thời kỳ đẹp đẽ trong quá khứ của ông.
Sự thực là ông đang sợ chết khiếp. Ông từ chối ông muốn chấp nhận sự thật rằng cuộc sống của mình đang dần kết thúc. Tất cả đều đã trôi qua quá nhanh: tuổi thơ, thời niên thiếu, tuổi trẻ, tuổi trưởng thành… Chỉ vài lần chớp mắt mà đã phải ra đi rồi sao? Khỉ thật, sáu mươi tuổi là còn quá sớm! Ông vẫn còn chưa có cảm giác mình già đi. Trước khi phát hiện ra căn bệnh ung thư này, ông vẫn còn tràn trề sinh lực. Trong những chuyến đi vì mục đích nhân đạo, ông vẫn rong ruổi qua các ngọn núi, bỏ lại phía sau đám trẻ chỉ mới ba chục tuổi hoặc bốn chục tuổi. Rồi Shakira, cô bác sĩ nội trú trẻ tuổi người Ấn xinh đẹp như mộng, vậy mà cô lại muốn đi chơi với ông, chứ không phải là với một anh chàng trẻ tuổi đang chập chững bước chân vào nghề!
Nhưng tất cả những thứ đó đều đã chấm dứt, đã qua rồi. Phía trước, chỉ còn có cái chết và sự sợ hãi đang đón chờ ông.
Nỗi sợ khi thấy cơ thể mình suy yếu dần.
Nỗi sợ phải chịu đau đớn và đánh mất khả năng tự chủ.
Nỗi sợ sẽ chết cô độc trong một căn phòng lạnh lẽo của bệnh viện.
Nỗi sợ sẽ phải bỏ lại đứa con gái của mình trên cái thế giới đầy bất ổn này.
Nỗi sợ rằng suy cho cùng, cuộc đời của ông đã chẳng có chút ý nghĩa nào.
Và nỗi sợ điều sẽ chờ ông sau đó. Một khi ông đã từ bỏ linh hồn và dấn sâu vào thế giới bên kia.
Khỉ thật…
Ông lau đi một giọt nước mắt phẫn nộ đang lăn dài trên má.
Lúc này, một cơn đau ghê gớm nổi lên như cào xé ruột gan ông. Ông đi vào trong phòng tắm, lục lọi trong tủ đựng thuốc để tìm một viên thuốc giảm đau và vã một chút nước lên mặt. Trong gương, người đàn ông đang nhìn ông có một đôi mắt sáng quắc và vằn những tia máu.
Ông còn bao nhiêu thời gian nữa? Vài ngày? Vài tuần? Hơn bao giờ hết, ông cảm thấy cần phải sống gấp, phải chạy, phải thở, phải trao đổi, phải yêu…
Không thể nói rằng ông đã thất bại trong cuộc sống: ông là cha của một cô gái mà ông rất mực yêu thương, ông đã sống có ích, ông đã đi du lịch, đã nhiều lần biết đến cảm giác tự hài lòng và đã trải qua những giờ phút vui vẻ với Matt.
Song ông vẫn luôn cảm thấy thiếu một điều gì đó.
Ilena…
Kể từ khi cô qua đời, cách đây ba mươi năm, ông đã sống một cuộc sống đứt quãng, giống như một khán giả hơn là một diễn viên thực sự trong sự tồn tại của bản thân. Và đúng là những ngày gần đây, ông đã cảm thấy dễ chịu với ý nghĩ về chuyến du lịch vượt thời gian.
Chỉ với niềm hy vọng hơi điên rồ là có thể gặp lại Ilena trước khi chết.
Nhưng giờ thì ảo tưởng đã tan biến và ông cảm thấy đau đớn khi đã để cho mình mù quáng như vậy. Ngươi sẽ thôi đau đớn khi nào ngươi dừng hy vọng, một câu ngạn ngữ dân gian đã nói như vậy.
Và Elliott không muốn đau đớn thêm nữa.
Vậy thì, để vĩnh viễn dập dắt chút hy vọng cuối cùng còn le lói trong tim, ông liền ném cái lọ nhỏ đựng những viên thuốc vào trong bồn cầu.
Ông ngập ngừng trong giây lát…
… rồi kéo cần gạt nước.
1976
Elliott 30 tuổi
Elliott đậu chiếc Coccinelle trong quận Mission, dọc theo đường Valencia. Vào giờ này trong ngày, khu phố Tây Ban Nha của San Francisco đang hoạt động nhộn nhịp. Với những cửa hàng giá rẻ như bèo, các quầy taquerias (Quầy bán đồ ăn nhanh, chỉ có thể mua mang đi) và quầy hoa quả, Mission là một trong những khu đẹp rực rỡ nhất thành phố.
Anh chàng bác sĩ len lỏi theo các con phố giữa đám đông ồn ào và ăn mặc sặc sỡ. Khắp phố, những bức tranh vẽ trên tường với màu sắc loè loẹt trang trí cho mặt tiền của các toà nhà. Elliott dừng lại một vài giây trước những bức tranh đầy ấn tượng với dấu ấn của Diego Rivera (Hoạ sĩ người Mêhicô, đồng sự với Frieda Kahlo, tác giả của những bức tranh tường với chủ đề xã hội). Nhưng anh không đến đây để thăm quan du lịch. Anh tiếp tục đi và rảo bước nhanh hơn. Cả khu này toát ra một bầu không khí ồn ào và sôi sục dễ cuốn hút tất cả những ai thích la cà đàn đúm, nhưng nó cũng có mặt xấu đại để như mấy tên đầu gấu đang thoá mạ người qua đường làm tổn hại đến bầu không khí nồng hậu của khu này.
Đến ngã giao với đường Dolores, sau khi đi qua một dãy các câu lạc bộ salsa và các quầy bán đồ tín ngưỡng, cuối cùng anh mới thấy cái biển hiệu mà anh đang tìm kiếm.
BLUE MOON: TRANG SỨC VÀ XĂM MÌNH
Anh đẩy cánh cửa hiệu và đụng ngay phải bức ảnh phóng to hơi cổ lỗ của Freddy Mercury. Cải trang thành một cô gái, chàng ca sĩ của ban nhạc Queen đang mô phỏng tư thế tình dục một cách quá khích. Trên mặt quầy, cạnh máy tính tiền, một chiếc máy quay đĩa 33 vòng đang mở to hết cỡ một điệu nhạc nhảy mang âm hưởng Tây Ấn của Bob Marley mà người ta bắt đầu yêu thích kể từ năm ngoái khi Eric Clapton hát lại bài I shot the sheriff (Tôi đã bắn viên cảnh sát trưởng).
Elliott thở dài. Anh chẳng cảm thấy thoải mái khi đến đây, song không phải vì thế mà anh từ bỏ ý định của mình.
– Kristina? Anh vừa gọi vừa tiến về phía sau quầy.
– Bác sĩ Cooper! Ái chà, đúng là bất ngờ quá!
Một người phụ nữ cao lớn tóc vàng hiện ra trước mặt anh trong trang phục choáng ngợp: quần da kiểu đua xe cao quá đùi, áo chẽn da và một hình xăm gợi cảm ở ngay phần lưng dưới.
Elliott đã gặp cô tại bệnh viện cách đây sáu tháng khi anh mổ cho cậu con trai của cô bị dị tật ở thận. Từ đó, anh vẫn tiếp tục theo dõi bé, một cậu bé người Hoa mà Kristina đã nhận nuôi cùng với bạn đời của cô là Leila, một nữ y tá làm việc trong cùng khoa với anh. Ngay từ lần đầu tiên gặp cô, Elliott đã cảm thấy tò mò bởi sự khoáng đạt ở người phụ nữ này, từng tốt nghiệp trường Berkeley, một chuyên gia về các nền văn minh châu Á, nhưng lại thích mở một cửa hàng xăm mình hơn là giảng dạy trong trường đại học. Kristina sống một cuộc sống đúng như cô thích và không hề che giấu mình là người đồng tính. Điều đó chẳng phải là vấn đề ở San Francisco: đã từ vài năm nay, những người đồng tính luyến ái đã hất cẳng giới hippi và trở thành điểm sáng của cả thành phố. Bị thu hút bởi thái độ khoan dung của thành phố này, hàng chục ngàn người đồng tính đã đổ tới đây định cư trong các khu phố ở Castro và ở thung lũng Noe.
– Hai phút nữa tôi là người của anh, cô vừa nói vừa đưa tay chỉ một chiếc ghế cho anh.
Bác sĩ ngồi vào một ghế bành bên cạnh một người Nam Mỹ đã chuyển đổi giới tính đang chờ xỏ nốt lỗ tai. Hơi lúng túng, anh xin phép sử dụng điện thoại và gọi cho Matt để thông báo những tin tức mới nhất. Khi Elliott cho bạn biết về kết quả xét nghiệm các dấu tay, bạn anh chẳng có vẻ gì là ngạc nhiên quá mức.
– Cái gã đàn ông đó, ngoài cậu ra, chưa ai nhìn thấy ông ta bao giờ, anh nói. Nếu cậu muốn biết ý kiến của tớ, thì câu chuyện này chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của cậu thôi.
– Thế đấy, trong trí tưởng tượng của tớ! Elliott nổi cáu. Thế còn cái bật lửa Millenium Edition, với chính những dấu tay của tớ, cũng là trong trí tưởng tượng của tớ à?
– Nghe đây, anh bạn, cái bật lửa, chắc chắn là cậu đã mua nó, nhưng cậu không nhớ ra, thế thôi.
Elliott ngạc nhiên:
– Vậy là cậu không tin tớ?
– Không, Matt thừa nhận, và tớ hy vọng nếu tớ kể cho cậu nghe một chuyện như thế thì cậu cũng đừng có tin lời tớ mà sẽ tìm cách làm tớ thức tỉnh.
– Cảm ơn vì sự ủng hộ của cậu! Anh đáp lại.
Rồi anh bỏ máy, vô cùng bực bội.
– Thế nào bác sĩ, tôi làm gì được cho anh đây? Kristina vừa hỏi vừa mời anh ngồi xuống. Anh có muốn xăm một hình Thiên Thần Địa Ngục hay một con rồng thật to lên lưng không?
– Cái này cũng không mà cái kia cũng không, anh vừa nói vừa xắn tay áo lên. Thật ra, tôi chỉ muốn có một hình xăm nho nhỏ trên vai, ở đây này.
– Anh không muốn có một cái gì thẩm mỹ hơn à? Cô vừa nói vừa chuẩn bị kim. Anh nhìn hình này xem.
Kristina hơi dạng chân để lộ một hình quỷ sứ Nhật Bản được xăm từ mép đôi tất ở chân cô kéo dọc thật cao lên đến đùi và biến mất trong sự bí ẩn của vùng kín.
– Quả là một tác phẩm nghệ thuật thực thụ, Elliott thừa nhận, song kiểu đó không hoàn toàn phù hợp với tôi.
– Thật đáng tiếc, anh là một người đàn ông đẹp trai và không có gì gợi cảm hơn một hình xăm trên cơ thể của người tình!
– Tôi không nghĩ bạn gái của tôi sẽ đồng tình với quan điểm đó.
– Phụ nữ luôn giữ kín những điều bất ngờ.
– Riêng điều đó thì tôi hoàn toàn đồng ý.
Anh móc một cây bút từ trong túi áo ra và viết vội vài chữ vào mặt sau một tờ tạp chí.
– Tôi muốn cái này, anh vừa nói vừa đưa tờ tạp chí cho Kristina.
Cô gái nhíu mày:
– Cái câu của anh là một loại ngôn ngữ mã hoá thì phải!
– Cứ cho đó là một thông điệp riêng gửi cho một người bạn.
Cô thợ xăm kiểm tra lại các cây kim trong bộ đồ nghề.
– Lúc đầu sẽ hơi đau một chút nhưng sẽ dịu đi ngay. Anh không hối tiếc chứ?
Elliott nhắm mắt trong giây lát. Liệu con người có thực sự giao tiếp được giữa hiện tại và tương lai hay không? Điều này có vẻ như vô lý, song anh vẫn phải thử thôi. Để tiếp thêm dũng khí cho bản thân, anh hình dung ra trong đầu vẻ mặt của bản thân ở thời tương lai sau ba mươi năm nữa, khi nhận được thông điệp của anh.
– Không ân hận, anh quả quyết.
Trong tiếng máy rít tràn ngập khắp căn phòng, Kristina tuyên bố như một định lý:
– Cơ thể chúng ta là một trong những không gian cuối cùng của tự do.
2006
Elliott 60 tuổi
Sau khi đã giật nước cho cái lọ trôi hẳn, Elliott, vẫn còn trong tâm trạng thất vọng, liền ra góc phòng khách nằm dài trên tràng kỷ. Trưa nay, ông có hẹn với Angie và ông không muốn đến gặp con gái với bộ mặt của một xác chết. Hai mắt nhắm nghiền, ông lắng nghe hơi thở của mình và rất muốn nghe thấy tiếng trong và đều đặn, song những âm thanh đó lại khò khè và đứt quãng. Ông cảm thấy mình nghẹt thở, không thể lấy hơi được nữa. Căn bệnh đang phát triển bên trong cơ thể ông rất tương phản với sự dịu dàng của ánh sáng lọt qua song cửa. Qua cửa sổ mở toang, ông nghe thấy tiếng biển và tiếng chim hót líu lo. Bên ngoài, cuộc sống vẫn đang tiếp diễn, song ông cảm thấy mình không có phần trong đó nữa. Mặc dù trời đang nắng nhưng ông cảm thấy toàn thân lạnh run, chắc chắn là người ông đang lên cơn sốt cao. Cùng lúc đó, ông cảm thấy hơi vương vướng ở cánh tay, ngay ở bắp tay. Không thể gọi đó là cảm giác đau thông thường, đúng hơn là cảm giác bị kim châm. Ông dùng tay xoa lên lớp cơ bắp đang tê dại. Song chẳng có tác dụng gì. Ông liền đứng lên, cởi áo len ra và kéo cánh tay áo phông mặc bên trong lên.
Thoạt đầu ông chẳng nhìn ra gì cả: một vệt mờ có vân màu xanh vỏ chai, có vẻ như đang lan ra trên vai ông. Ngạc nhiên, ông đứng trước tấm gương to trong buồng tắm. Nhìn vào gương, ông hiểu ra rằng những vết màu sẫm đó thật ra là những chữ cái đang nối tiếp nhau dần dần hình thành!
Trong giây lát, ông đứng ngẩn người ra, tự hỏi chuyện gì đang xảy ra với mình. Rồi rốt cuộc, ông hiểu ra…
– Ái chà, cái anh chàng ngốc này! Ông thốt lên.
Trái tim ông gõ nhịp như đánh trống, nhưng ông cảm thấy nhẹ người. Không, ông không điên. Tất cả những chuyện này chẳng phải chỉ tồn tại trong đầu ông. Ba mươi năm trước, cậu nhóc đang tìm cách gửi cho ông một bức điện bằng cách xăm một cái gì đó lên da.
Không ngốc chút nào, cậu nhóc này… Ông vừa nghĩ vừa ghé sát vào gương.
Ông nhìn thẳng vào mắt mình và thấy chúng sáng lấp lánh. Thật ngốc, song ông đang khóc vì mừng rỡ. Không còn nghi ngờ rằng ông sắp chết, song trước khi chết, ông chưa phải là người lẫn thẫn!
Trên vai ông hiện lên một dòng chữ in thành một câu ngắn gọn:
WAITING FOR YOUR NEXT VISIT (Tôi đang chờ chuyến thăm sắp tới của ông)
Phải, tất nhiên là sẽ có một chuyến thăm nữa, chỉ có điều… ông đã ngu ngốc đến mức vứt những viên thuốc đi mất rồi!
Hoảng hồn, ông quỳ xuống bên cạnh bồn cầu và thọc sâu bàn tay xuống tận đáy bồn, hy vọng mặc dù không mấy tin tưởng rằng cái lọ đã không bị cuốn trôi mất.
Không, đừng có nằm mơ.
Ông thất vọng đứng lên, song cố thử bình tĩnh suy nghĩ. Nước chảy thoát ra đâu? Ông cũng không rõ lắm: công việc sửa chữa ống nước chưa bao giờ là thế mạnh của ông. Tuy vậy, ông vẫn chạy xuống nhà để xe và ngước mắt nhìn lên trần và phát hiện ra một hệ thống ống thoát nước chằng chịt. Ông lần theo ống cái cho tới tận một cái hộp gang: chậu làm tan mỡ. May ra thì cái lọ có thể bị mắc lại ở chỗ này. Ông nhấc cái nắp bằng kim loại lên và khoắng tay trần vào trong đống bầy nhầy đó mà không tìm thấy gì.
Vậy là cuộc phiêu lưu đã kết thúc. Có lẽ chiếc lọ đã tiếp tục trôi theo dòng chảy ra tận trạm lọc nước và sẽ chẳng bao giờ ông tìm thấy nó nữa.
Khỉ thật, ông đã làm hỏng tất cả chỉ vì một chút bực mình!
Liệu ông có thể thử làm cái gì nữa bây giờ? Không còn cách nào khác, ông chạy ra phố và bấm chuông nhà hàng xóm gần nhất, một cặp vợ chồng già kiểu DHEA-Viagra (Một sự ám chỉ những người thích trẻ hoá, tương đương với "cưa sừng làm nghé".), nhiều da căng thẩm mĩ hơn là da nhăn nheo, bị ám ảnh bởi việc chăm sóc cơ thể và vấn đề dinh dưỡng.
– Xin chào Nina, ông cất tiếng chào bà hàng xóm ngay từ bậc thềm.
– Chào Elliott, ông tới có việc gì vậy? Bà ta vừa hỏi vừa nhìn ông từ đầu đến chân, ngạc nhiên khi thấy ông sang nhà với hai tay dính đầy một thứ bùn bốc mùi hôi hám.
Bình thường bà ấy đã chẳng quý mến mình lắm, ông nghĩ, mình là một tội phạm luôn phả khói, nốc cà phê thứ thiệt và ăn những món thịt đầy cholesterol…
– Không biết Paul có thể cho tôi mượn một vài thứ dụng cụ được không?
– Paul đi bơi rồi, nhưng ông có thể vào kho xem có tìm được gì không.
Elliott liền theo bà ta vào trong nhà kho và rất mừng rỡ khi may mắn tìm thấy một dụng cụ có hình dáng như kiểu rìu chữa cháy.
– Ừm… ông có chắc là mọi chuyện đều ổn cả không Elliott? Bà hàng xóm hỏi khi nhìn thấy ông vớ lấy cái rìu có lưỡi sáng trắng.
– Tốt cả Nina ạ, ông khẳng định và cười với bà theo kiểu của Jack Nicholson trong Shining (Phim kinh dị phỏng theo tiểu thuyết cùng tên của Steven King, nhân vật bị phát điên và trở nên hoảng loạn đến mức sát nhân).
Ông rời khỏi đó và quay trở lại nhà để xe. Ông bắt đầu lần lượt đập phá tất cả những gì có vẻ ít nhiều giống với ống thoát nước. Toàn bộ công cuộc phá dỡ đó kéo dài khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ, nước tràn ra ngập khắp gian phòng. Mỗi lần đập một cái ống, ông lại kiểm tra xem cái lọ có bị mắc trong một khúc quanh nào không.
Đừng bỏ qua bất cứ chi tiết nào. Hãy cố gắng chừng nào còn hy vọng.
Ông vẫn luôn làm như vậy trong quá trình làm việc và trong suốt ba mươi lăm năm hành nghề, cũng có những lần ông đã cứu được những ca tuyệt vọng.
Vậy thì tại sao lại không phải hôm nay?
Với rìu trong tay, nước ngập tới tận đùi, nhìn Elliott người ta rất dễ nhầm với một người điên. Giờ mà cảnh sát tới đây, chắc mình sẽ khó thoát khỏi trại thương điên, ông nói, đầu óc tỉnh táo, và hăng hái đập thêm một ống nước nữa.
Mà xem ra, có thể chính ông như thế thật: một người điên, song người điên luôn nghĩ mình thông thái và chính nhà thông thái cũng tự nhận mình chỉ là một kẻ điên. Ai đã nói câu đó nhỉ? Shakespeare? Chúa Jesus? Đức Phật? Cho dù là ai thì cũng đều đúng cả.
Và thậm chí kể cả nếu ông có điên, thì ít ra ông còn cảm thấy mình đang sống.
Sống.
SỐNG.
Một cú vung rìu cuối cùng phá tan nốt ống nước còn lại.
Kiệt sức, Elliott khuỵu gối xuống vũng nước lạnh như băng.
Ông quỳ như vậy mất một lúc, mệt mỏi và tuyệt vọng. Thôi, thế là hết. Các viên thuốc đã vĩnh viễn biến mất rồi.
Thế rồi, đột nhiên…
Nó hiện ra: một cái lọ bằng thuỷ tinh, hình trụ, đang nhẹ nhàng trôi trên mặt nước.
Elliott nhảy bổ vào chiếc lọ cứ như nó là Đức Thánh Graal (Một vị thánh hoá thân thành chiếc chén rộng miệng, sâu lòng, biểu tượng cho sự thần diệu của Đạo Cơ đốc). Run rẩy, ông chùi tay vào áo sơ-mi trước khi mở nút lọ. Tám viên thuốc vẫn còn nguyên đó, hoàn toàn khô ráo.
Hổn hển, quỳ ngập trong nước, hai tay nắm chặt chiếc lọ con, Elliott trút một tiếng thở phào nhẹ nhõm.
Có thể ông chỉ còn sống được vài tuần, song ông vừa mới tìm thấy một điều cốt yếu.
Hy vọng.
Chương 8
Bạn có thể làm, nghĩ và tin mọi thứ,
tinh thông mọi ngành khoa học trên thế giới,
song nếu bạn không biết yêu, bạn chẳng là gì cả.
-MARCELLE SAUVAGEOT-
2006
Elliott 60 tuổi
Elliott nhìn qua cửa sổ chờ chiếc taxi mà ông đã gọi. Sau khi đã lội bì bõm trong vũng nước ứ đọng bẩn thỉu trong nhà xe, ông cứ tưởng mình sẽ chẳng bao giờ có thể trút bỏ được cái mùi thum thủm đang bám chặt vào da thịt, song chỉ cần xối nước và thay quần áo sạch là ông đã trở lại dáng vẻ lịch sự. Để nước ngừng tuôn xối xả, ông đã phải khoá nguồn nước lại và buộc phải dùng nhờ buồng tắm nhà hàng xóm. Ông chỉ còn việc gọi thợ sửa ống nước tới, song việc này có thể để vài tiếng nữa làm cũng được. Ưu tiên lúc này của ông là vào thành phố để gặp con gái ông đang từ sân bay đến thẳng chỗ hẹn.
Ông nhìn mình trong gương. Trông vẻ bề ngoài, ông vẫn có thể khiến người ta lầm tưởng, song "bên trong" tất cả đều đã rệu rã: những cơn đau tức lồng ngực, nhức mỏi cơ, cảm giác đau rát ở dưới sống lưng… Căn bệnh ung thư đang hoành hành, chậm rãi nhưng chắc chắn.
Để tìm cho mình một chút kích thích, ông lục ngăn kéo chiếc tủ gỗ sơn mài và lấy ra một điếu thuốc hút dở không chỉ có thuốc lá bên trong. Ông lục tìm trong túi áo nhưng không thấy bật lửa đâu: chiếc Zippo mà con gái ông đã tặng vào dịp bước sang thiên niên kỷ mới. Bực bội, ông vào tận trong bếp và châm điếu thuốc có trộn cỏ thơm (Cỏ kích thích, một loại cỏ thuốc phiện có khả năng gây nghiện) bằng một que diêm. Ông hoàn toàn không phải là người nghiện ngập và cũng không đấu tranh để bảo vệ tác dụng y học của cây gai dầu (Một loại thuốc phiện). Cho dù như vậy thì hôm nay ông vẫn tự cho phép mình dùng một liều. Ông hít hai ba hơi liền và cảm thấy mỗi lúc một khoẻ khoắn hơn. Rồi ông nhắm mắt để thả lỏng toàn thân, cho tới khi tiếng còi xe kéo ông ra khỏi cơn mơ màng.
***
Ông đến Loris’ Diner, nhà hàng mà con gái ông thích nhất, sớm vài phút so với giờ hẹn. Ông lên tầng trên và được cô phục vụ dẫn tới một bàn nhỏ cạnh lớp kính trông ra đường Powell. Ngồi vắt vẻo trên một chiếc ghế cao, Elliott thích thú quan sát vũ điệu của những đầu bếp đang nướng thịt bò bít tết, đập trứng và rán vàng những lát giăm bông trên một khay nướng khổng lồ. Đây là một chỗ rất đặc biệt, hoàn toàn được trang trí theo phong cách những năm năm mươi, phục vụ những suất ăn đầy ắp toàn những món cổ truyền của Mỹ trước thời kỳ có cholesterol và những món ăn kiêng. Những món mà người ta rất thích lớn tiếng gièm pha song ai cũng ngấm ngầm thèm thuồng: bánh mì tròn kẹp thịt, khoai tây rán hảo hạng, kem và sinh tố đánh kem sữa. Ở chính giữa phòng, một máy hát tự động màu sặc sỡ đang phát những bài hát của Elvis trong khi từ góc phòng, phía trên một dãy máy đánh bóng flipper, một chiếc Harley Davidson chính cống được treo trên trần bằng một hệ thống dây dợ chằng chịt.
Mỗi lần tới đây, Elliott luôn có cảm giác như đang ở trong bộ phim Trở về thời tương lai, và mỗi lần cánh cửa bật mở ra, ông gần như chờ đợi sự xuất hiện của Marty McFly theo sau là bác sĩ Brown và chú chó trung thành Einstein (Hai nhân vật (và chú chó của họ) trong bộ phim nói trên). Ông cũng vừa mới nghĩ tới điều đó thì một người khách mới bước vào trong nhà hàng. Song đó không phải là Marty…
Đó là một cô gái trẻ với mái tóc vàng và thẳng thả xuống xung quanh cô như một chùm ánh sáng.
Một cô gái khoảng hai mươi tuổi.
Một cô gái trẻ.
Con gái ông.
Angie.
Ông nhìn thấy cô từ đằng xa và trong giây lát ông nhìn cô mà cô không hề biết có người đang quan sát mình.
Không thể phủ nhận được, trông cô rất đẹp trong chiếc áo len dài bằng lông dê ca-sơ-mia ôm sát người, chiếc váy nhung ngắn – mà ông cho là quá ngắn – với đôi tất da chân đen ánh và đôi bốt da. Thật không may, ông không phải là người duy nhất trong phòng đang ngắm nhìn cô: từ bàn bên cạnh, một anh chàng nhút nhát đang ngây ngất trước đám bạn bè khi nhìn thấy "quả bom nguyên tử" đang đi về phía họ. Elliott ném cho cậu ta một ánh mắt đe doạ. Trong vai trò một người cha, ông căm ghét mà không loại trừ bất cứ một anh chàng nào mang trong người hóc-môn nam tính chỉ nhìn con gái ông như một phương tiện tình dục.
Cuối cùng Angie cũng nhìn thấy ông và hoan hỉ giơ một cánh tay lên vẫy ông.
Trong lúc cô đi về phía ông, rạng rỡ và tung tăng, ông bỗng ý thức rất rõ rằng con gái mình chắc chắn là điều mà ông đã thành công nhất trong cả cuộc đời mình. Đương nhiên, ông chẳng phải người cha đầu tiên có cảm giác đó, song điều đó lại mang một ý nghĩa rất đặc biệt vào lúc này khi ông đang bị hành hạ bởi căn bệnh và cái chết sẽ thắng trong trận chiến cuối cùng này.
Vậy mà trong suốt một thời gian dài ông đã không muốn có con!
Ông đã lớn lên trong một bầu không khí gia đình ngột ngạt, giữa chứng nghiện rượu của bố và sự yếu đuối về tinh thần của mẹ. Chẳng phải là một tuổi thơ khiến cho người ta muốn được trở thành bố. Ngay cả đến bây giờ, những kỷ niệm sống động nhất mà ông còn giữ được về thời kỳ đó vẫn là những hình ảnh về bạo lực và sợ hãi, và ông biết chúng đã khoá trái cánh cửa dẫn tới ý muốn trở thành một người cha trong ông. Thật khó để giải thích vì sao: rất có thể là do sự nghi ngại mình sẽ không biết cách yêu thương và sẽ lại làm cho đứa trẻ đau đớn…
Dù sao đi nữa thì cũng có một điều chắc chắn: ý nghĩ trở thành một người cha khiến ông nhớ lại những nỗi đau tuổi thơ đến mức ông đã từ chối có một đứa con ngay cả với người phụ nữ duy nhất mà ông yêu thương.
Và nghĩ lại điều đó ông cảm thấy trái tim mình tan nát không thể nào chịu đựng nổi.
Rồi Ilena qua đời và trong suốt mười năm kể từ ngày cô ra đi, ông đã sống trong một cơn ác mộng dài đằng đẵng. Ông đã ngập chìm trong một đường hầm đầy tuyệt vọng, chỉ giữ được cái đầu còn nổi trên mặt nước nhờ vào sự hiện diện của Matt và nhờ công việc mà ông cố bấu víu vào như một chiếc phao.
Tất nhiên, ông cũng đã gặp những người phụ nữ khác, nhưng họ đã đi qua đời ông mà chẳng hề dừng bước và chính ông đã thận trọng để không níu kéo họ. Nhưng rồi một ngày, trong một đợt hội thảo chuyên ngành tại Ý, ông đã gặp một nữ bác sĩ chuyên khoa tim từ Verona tới. Đó là một cuộc phiêu lưu ngắn ngủi, chỉ kéo dài trong một kỳ nghỉ cuối tuần, và họ cũng chẳng giữ liên lạc với nhau. Có điều chín tháng sau, cô đã thông báo với ông rằng cô vừa mới cho ra đời một bé gái và nó là con của ông. Lần này thì ông bị đặt trước sự đã rồi. Chẳng có cách nào trốn chạy được, chưa kể người mẹ cũng chẳng phải là một người nặng tình mẫu tử và cô hoàn toàn không có ý định một mình nuôi đứa nhỏ. Ba tháng sau ngày sinh của bé, Elliott đã sang Ý đón Angie và họ đã thoả thuận với nhau rằng cô bé sẽ chỉ gặp lại mẹ trong những kỳ nghỉ hè.
Chẳng hề được chuẩn bị trước, ông đã trở thành cha và cuộc sống của ông đã biến đổi hoàn toàn. Sau một quãng thời gian đắm chìm trong bóng tối, ông đã tìm lại được ý nghĩa cho sự tồn tại của mình. Từ đó, mỗi tối trước khi đi ngủ, công việc cuối cùng của ông là kiểm tra để chắc chắn rằng giấc ngủ của con gái được bình yên. Từ đó, khái niệm "tương lai" lại xuất hiện trong từ ngữ của ông, chiếm một vị trí rất đẹp bên cạnh các từ "bình sữa", "bỉm" và "sữa trẻ em".
Tất nhiên, môi trường vẫn ô nhiễm hơn bao giờ hết, tầng ô-zôn vẫn bị huỷ hoại, thế giới vẫn chậm rãi tiến dần đến sự suy thoái, xã hội tiêu thụ càng ngày càng khiến ông khó chịu và công việc chẳng để cho ông có được một phút rảnh rỗi nào. Song tất cả những điều đó đều chẳng còn trọng lượng gì khi đặt cạnh một bé gái chỉ nặng vài cân, với đôi mắt sáng rỡ và nụ cười mong manh.
Giờ đây, khi nhìn con gái đang đi về phía mình trong nhà hàng này, ông vẫn còn hình dung ra những năm đầu tiên, khi ông một mình nuôi dạy cô, chẳng hề có một người phụ nữ nào ở bên giúp đỡ. Thoạt đầu, ông cứ nghĩ mình sẽ chẳng thể làm được và ông đã thoáng hoảng sợ. Làm thế nào để trở thành một người cha được nhỉ? Ông không biết mà cũng chẳng ở đâu có lời giải thích. Đúng vậy, ông là một bác sĩ phẫu thuật bệnh nhi, nhưng điều đó chẳng giúp được gì nhiều cho ông trong cuộc sống hàng ngày. Nếu như cô bé cần ông khâu một chỗ hở tâm thất hoặc phẫu thuật một động mạch vành thì ông còn có thể có ích, đằng này lại chẳng phải như thế.
Thế rồi ông hiểu ra một bí mật lớn lao: người ta không sinh ra để làm cha, mà phải trở thành một người cha. Bằng cách từng ngày từng ngày một đưa ra những quyết định đúng đắn cho đứa con của mình.
Ông đã phải chờ đợi bốn mươi năm để hiểu được rằng chẳng hề có một câu trả lời nào, chẳng có giải pháp nào ngoài tình yêu.
Đó chính là điều mà ngày xưa Ilena vẫn luôn nói với ông, song hồi đó ông vẫn thường trả lời cô: "Cứ như dễ lắm ấy".
Vậy mà lại đúng thế thật.
***
– Bố, Angie vừa chào vừa cúi xuống hôn bố.
– Chào con, Wonder Woman (Người phụ nữ tuyệt vời), ông vừa đáp vừa ám chỉ chiếc váy ngắn và đôi bốt da của cô. Chuyến bay của con thế nào?
– Rất nhanh: con đã ngủ suốt cả chuyến!
Angie ngồi xuống chếc ghế đối diện với ông, đặt lên bàn một chùm chìa khoá to tướng và một chiếc điện thoại di động nhỏ xíu sơn màu bạc.
– Con đói ngấu rồi đây! Cô vừa nói vừa với lấy thực đơn và tìm xem món bánh mì tròn kẹp thịt mà cô yêu thích nhất có còn trong đó hay không.
Khi đã yên tâm về điểm này, cô liền lao vào một bài diễn thuyết nồng nhiệt được điểm xuyết bằng rất nhiều dẫn chứng về việc học tập chuyên ngành y khoa của cô cũng như về cuộc sống của cô ở New York. Angie là một cô gái thông minh và rộng lượng, rất có lý tưởng và luôn luôn cố gắng làm tốt mọi công việc của mình. Elliott chưa bao giờ thực sự hướng cô đi theo ngành y, song cô luôn hướng tới những người khác và cô khẳng định rằng mình đã được thừa hưởng đức tính đó từ ông.
Ông thấy cô rất thư giãn, rạng rỡ và tuyệt vời.
Bị cuốn theo những tràng cười trong trẻo của cô, ông tự hỏi làm sao có thể thông báo với cô về căn bệnh của ông. Thật chẳng dễ dàng gì với một cô bé hai mươi tuổi bỗng nhiên được biết bố mình đã mắc căn bệnh ung thư giai đoạn cuối và ông chỉ còn sống được hai hoặc ba tháng…
Elliott biết rõ con gái. Kể cả từ khi cô bé chuyển tới New York sống, hai bố con vẫn rất gần gũi với nhau. Mặc dù khá cao lớn và đã ra dáng một người phụ nữ, song cô vẫn còn là một đứa trẻ dễ xúc động và ông sợ rằng cô sẽ không thể giữ được bình tĩnh khi nghe thấy điều mà ông sắp phải nói với cô.
Trong nghề của ông, rất nhiều lần mỗi tuần, ông phải thông báo với những người đang ngập chìm trong nước mắt rằng con cái của họ, vợ chồng họ hay bố mẹ họ đã không vượt qua được một ca phẫu thuật. Đó luôn là những giây phút khó khăn, song theo thời gian ông đã học được cách chấp nhận khía cạnh đó của công việc.
Phải, là một bác sĩ, mỗi ngày ông đều phải kề cận với cái chết, nhưng đó là cái chết của những người khác không phải của chính ông…
Tất nhiên, ông cũng hơi sợ hãi về cái điều sẽ đến với ông. Ông không thật sự tin vào cuộc sống vĩnh cửu cũng như vào một sự luân hồi nào đó, Ông biết cái đang chờ đợi phía trước không chỉ là sự chấm dứt cuộc sống của ông trên trái đất, mà còn là sự kết thúc vĩnh viễn của cuộc sống ấy. Thân thể ông sẽ cháy rụi trong một lò hoá thân, chắn chắn Matt sẽ mang tro của ông đi rải ở một nơi nào đó khá đẹp đẽ và thế là xong! Cuộc chơi kết thúc!
Và đây là điều mà ông muốn bình tĩnh giải thích với con gái: cô không nên lo lắng cho ông, vì ông sẽ biết cách đối diện với hoàn cảnh đó. Hơn nữa, nếu suy nghĩ một cách khách quan, cái chết của ông hoàn toàn không phải là một điều kinh khủng: ông sẽ chẳng từ chối nếu sống thêm được vài chục năm nữa, nhưng ông cũng đã có thời gian để nếm trải mọi cay đắng ngọt bùi của cuộc sống, đã nhận đủ mọi niềm vui, nỗi đau, sự bất ngờ…
– Còn bố, bố khoẻ chứ ạ? Đột nhiên Angie hỏi, kéo tuột ông ra khỏi dòng suy nghĩ.
Ông nhìn cô trìu mến trong khi cô đưa tay vén một lọn tóc loà xoà che đôi mắt màu xanh.
Ông cảm thấy cổ họng nghẹn lại và cảm xúc trào dâng.
Khỉ thật, giờ không phải là lúc yếu đuối!
– Bố có chuyện phải nói với con, con gái yêu…
Trong một thoáng, nụ cười của Angie mờ đi, giống như cô đã linh cảm thấy một tin xấu.
– Có chuyện gì vậy bố?
– Bố có một khối u trong phổi.
– Gì cơ? Cô nói vẻ ngỡ ngàng.
– Bố bị ung thư, Angie ạ.
Choáng váng, cô lặng đi trong trong vài giây rồi hỏi bằng giọng nghẹn ngào:
– Bố, bố sẽ… qua khỏi chứ?
– Không con ạ, nó đã di căn ra khắp nơi rồi.
– Trời ạ…
Bàng hoàng, cô đưa tay ôm lấy đầu rồi từ từ ngước lên. Một giọt nước mắt lăn dài trên má, nhưng cô vẫn chưa hoàn toàn từ bỏ mọi hy vọng.
– Nhưng… bố đã tới khám các bác sĩ chuyên khoa chưa? Ngày nay có rất nhiều kỹ thuật mới để điều trị ung thư cho từng tế bào. Rất có thể…
– Quá muộn rồi… Ông ngắt lời bằng giọng cả quyết.
Cô lấy tay áo chùi nước mắt, song chẳng ích gì: những giọt nước mắt cứ lã chã rơi xuống mà cô chẳng thể nào ngăn lại được.
– Thế bố biết từ lúc nào?
– Hai tháng nay.
– Nhưng… sao bố không nói gì cho con biết?
– Để bảo vệ con, để không làm con buồn…
Cô nổi giận:
– Vậy là từ hai tháng nay, mỗi lần nói chuyện với con qua điện thoại, bố cứ để mặc cho con kể đủ thứ chuyện linh tinh mà chẳng hề cho rằng cần phải nói cho con biết bố bị ung thư!
– Con mới bước vào ngoại trú năm thứ nhất, Angie, đây là một thời kỳ căng thẳng đối với con và…
– Con ghét bố! Cô hét lên và đứng dậy rời khỏi bàn.
Ông cố giữ cô lại, nhưng cô đẩy ông ra và chạy ra khỏi nhà hàng.
***
Mưa rơi như trút nước khi Elliott chạy ra bên ngoài. Bầu trời được che kín bằng một dải mây đen và sấm đang gầm gào. Bác sĩ thấy tiếc vì đã không cầm theo ô hoặc áo mưa, vì chiếc áo khoác bằng vải lanh của ông đã ướt sũng chỉ trong vòng chưa đầy hai giây. Ngay lập tức, ông hiểu ra rằng ông khó có thể tìm được Angie. Giao thông đang tắc nghẽn, taxi và xe buýt chen chúc trên đường.
Thoạt đầu ông định tìm cách đi ra bến xe điện ở ngã giao nhau giữa đường Powell và đường Market, nhưng rất nhanh chóng ông buộc phải từ bỏ ý định đó: mưa đã không làm nhụt chí từng đoàn khách du lịch đang hối hả về phía đó để xem những người điều khiển đang dùng tay xoay chuyển những chiếc xe. Ông áng chừng sẽ phải chờ rất lâu và quyết định tốt hơn là đi về phía Union Square với hy vọng có thể bắt kịp một trong những khoang xe đang chạy. Hai khoang đầu tiên lướt qua chất đầy người đến nỗi ông chẳng buồn thử đuổi theo. Tuy vậy, ông đã bắt kịp khoang xe thứ ba đúng vào đoạn nó chuẩn bị leo lên dốc.
Ông ngồi trong khoang xe điện cho tới trạm cuối cùng: Fisherman’s Wharf, một cảng cá cũ của San Francisco, nay bị lấn chiếm bởi các nhà hàng dành cho khách du lịch và các cửa tiệm bán đồ lưu niệm. Run lẩy bẩy vì lạnh, Elliott băng qua các quầy đồ hải sản nơi những người bán cá đang hồ hởi xé mai những con cua bể còn sống nguyên trước khi nhấn chúng vào trong những chiếc nồi khổng lồ xếp dọc theo vỉa hè. Khi ông tới quảng trường Ghirardeli thì mưa càng trở nên nặng hạt. Ông đi ngang qua khu xưởng lâu đời chuyên sản xuất sô-cô-la để tới pháo đài Mason.
Lập cập và run rẩy vì cái lạnh thấu xương, ông tiếp tục rảo bước. Gió rít thành từng cơn chói tai trộn lẫn nước mưa quất vào mặt ông. Vì phải cố sức, các vết thương trong phổi và bên dưới thắt lưng lại càng trở nên rát bỏng, song chúng chẳng thể ngăn ông thôi tìm con gái. Ông biết có một nơi cô thường hay tìm tới những lúc buồn.
Cuối cùng ông cũng ra được đến bờ cát nằm giữa Marina Green và một vùng đất xưa kia là bãi chiến trường thuộc Crissy Field. Biển động dữ dội và những đợt sóng lừng hắt tung bọt biển lên xa hàng chục mét. Elliott nheo mắt nhìn: cầu Cổng vàng gần như đã biến mất trong đám sương mù và những làn mây thấp lè tè. Bãi biển vắng tanh, hoàn toàn bị bao phủ bởi một làn mưa dày đặc. Ông tiến nhanh hơn về phía trước và hét điên cuồng:
– Angie! Angie!
Thoạt đầu, chỉ có tiếng gió đáp lại lời ông. Đôi mắt ông nhoà đi và ông chợt cảm thấy mình yếu đuối, mệt mỏi, gần như kiệt sức.
Rồi dường như ông thấy tiếng cô, mà không nhận rõ ra được từ nơi nào vọng tới, cho tới khi ông nghe thật rõ:
– Bố!
Angie đang chạy về phía ông, xuyên thủng màn mưa đang đổ xuống như trút nước.
– Bố đừng chết! Cô van vỉ. Bố đừng chết!
Ông ôm chặt cô vào lòng và hai cha con đứng ôm nhau như vậy hồi lâu, ướt sũng, kiệt quệ, tan nát bởi nỗi đau và cảm xúc.
Vừa tìm cách an ủi con gái, Elliott vừa tự hứa với mình phải cố gắng hết sức để chống chọi cái chết và đẩy lùi nó tới tận cùng giới hạn.
Rồi tới giờ phút thiên định ấy, ông sẽ ra đi, tâm hồn thanh thản, vì ông biết rằng vẫn còn một phần nào đó của ông còn lưu lại ở bên kia cõi vĩnh hằng.
Và ông hiểu ra rằng có lẽ vì thế mà người ta cần người nối dõi.
Chương 9
Bạn bè và sách là những thứ chỉ cần có ít, nhưng phải tốt.
-Ngạn ngữ dân gian-
1976
Elliott 30 tuổi
Elliott vừa mới kết thúc phiên trực đêm và chuẩn bị rời bệnh viện trong cái lạnh của buổi sớm mai. Chìm đắm trong dòng suy tưởng và băn khoăn với nhiều nỗi lo, anh không nhận ra ngay đám đông đang tụ tập trong bãi đỗ xe. Đứng ngay giữa những xe cấp cứu và một chiếc xe cứu hoả, Matt đang trình diễn hết mình trước khán giả là một nhóm nữ y tá. Elliott nhìn bạn nửa thích thú, nửa bực bội: với bộ com-lê bằng vải nhung màu kem và một chiếc áo sơ-mi khoét cổ với cổ áo như hình lưỡi xẻng, trông Matt thật nực cười. Giống y như anh chàng Travolta trước giờ biểu diễn, cậu bạn anh đang uốn éo theo nhịp nhạc phát ra từ chiếc đài trong ôtô. Trời vẫn còn tối, song ánh sáng từ những ngọn đèn pha của chiếc Corvette cũng đủ để rọi sáng cho sân khấu tự tạo của anh.
– You Should Be Dancing! (Cậu nên nhảy mới phải) Anh nói bằng giọng the thé theo kiểu của BeeGees.
Một nụ cười khoe hàm răng sáng loá khiến anh trông rất hồn nhiên và lôi cuốn, khiến Elliott không khỏi ngưỡng mộ bạn trước sự bạo dạn và đơn giản của anh.
– Cậu làm gì ở đây thế? Anh vừa hỏi vừa bước lại gần chiếc xe.
– You Should Be Danciiiiiing! Anh chàng người Pháp lặp lại và ôm lấy vai bạn.
Anh ta tìm cách lôi bạn vào vũ điệu của mình, song bác sĩ từ chối tham gia vào cuộc chơi:
– Cậu vừa uống xong hay sao? Anh lo lắng khi ngửi thấy hơi thở của bạn nồng nặc mùi rượu.
– Cho tớ xin một phút để chào khán giả rồi tớ sẽ giải thích tuốt tuột cậu nghe.
Elliott nhíu mày và ngồi vào trong chiếc Corvette trong khi Matt thực hiện nốt bước nhảy cuối cùng. Bị chinh phục bởi nét đáng yêu của nhân vật chính, đám nữ y tá vỗ tay hoan hô buổi trình diễn của anh một cách thành thực trước khi bỏ đi để quay lại với công việc của họ.
– Thưa các cô, tôi rất hân hạnh! Anh vừa nói chắc vừa kết thúc màn diễn bằng một điệu chào cúi gập người.
Rồi hân hoan vì thành công nhỏ bé của mình, anh nhảy phóc qua cánh cửa xe và may mắn rơi xuống ghế ngồi.
– Nào, giờ thì cậu cài dây an toàn vào đi! Anh vừa yêu cầu vừa quay về phía người bạn đồng hành.
– Cậu đang chơi trò gì thế? Elliott bực bội.
Không trả lời câu hỏi, Matt cài số lùi và quay nửa vòng tròn trên mặt đường rải nhựa.
– Tớ đã qua nhà cậu và chuẩn bị hành lý cho cậu, anh vừa giải thích vừa chỉ chiếc vali lèn chặt sau hàng ghế. Mà này, chai whisky của cậu cạn sạch rồi đấy…
– Hành lý của tớ là sao?
– Phải, máy bay của cậu sẽ cất cánh lúc chín giờ.
– Nhưng máy bay nào cơ?
Matt làm bánh xe rít lên và phóng hết tốc lực ra khỏi bãi đậu xe. Một vài cú đánh tay lái và anh đã ra tới đường Van Ness, thêm một cú nhấn ga giải phóng toàn bộ 300 mã lực của động cơ V8 và chiếc xe đã vượt qua vận tốc 100km/h.
– Ơ… Thế cậu đã bao giờ nghe đến giới hạn vận tốc chưa? Elliott vừa lo lắng hỏi vừa bấu chặt vào ghế xe.
– Xin lỗi cậu, nhưng chúng ta hoàn toàn không đến sớm đâu…
– Ít nhất tớ có thể biết được mình đang đi đâu không?
– Tớ thì chẳng đi đâu cả, Matt thản nhiên. Cậu thì sẽ đến Florida gặp Ilena.
– Hả?
– Cậu sẽ làm lành với cô ấy, cậu sẽ hỏi cưới cô ấy và rồi hai người sẽ sinh hai, ba đứa con thật kháu…
– Cậu điên hay sao thế?
– Trong lúc này, tớ nghĩ có lẽ chính cậu mới là người mất trí, Elliott ạ. Cậu hãy thừa nhận đi, cái câu chuyện du lịch vượt thời gian ấy đã khiến cậu phát điên mất rồi.
– Nó khiến tớ phát điên vì nó đã thực sự xảy ra với tớ!
Matt không muốn lại tiếp tục tranh cãi và tìm cách trấn an:
– Hãy nói chuyện với Ilena, sắp xếp lại trật tự trong quan hệ của hai người đi rồi cậu sẽ thấy tất cả mọi thứ đều có thể dàn xếp được.
– Nhưng tớ không thể bỏ đi như thế được! Tớ có rất nhiều ca phẫu thuật đã lên sẵn lịch trong tuần này và…
Matt lập tức ngắt lời anh:
– Cậu là bác sĩ phẫu thuật, chứ không phải Thượng đế! Bệnh viện sẽ tìm được người thay thế cậu.
Đột nhiên Elliott cảm thấy bị cuốn hút bởi viễn cảnh được gặp lại người phụ nữ mà anh yêu thương. Anh cảm thấy mình cần và phải gặp cô, nhưng anh vẫn còn chưa sẵn sàng để sự mềm yếu của trái tim lấn át ý thức nghề nghiệp của bản thân. Hơn nữa anh đang trải qua một thời kỳ khó khăn: sếp của anh, một người đáng kính nể và rất được kính nể, bác sĩ Amendoza, đánh giá công việc của anh rất khắt khe và luôn thích hạ bệ anh suốt cả ngày làm việc.
– Cậu nghe này, Matt, tớ rất cảm ơn sự giúp đỡ của ậu, nhưng tớ không nghĩ đó là một ý hay. Tớ mới làm việc trong bệnh viện này được vài tháng và tớ phải chứng tỏ được năng lực của bản thân. Nhất là tớ lại có một ông sếp lúc nào cũng coi tớ như một thằng hề. Vì thế, tớ mà vắng mặt vài ngày thì ông ấy sẽ bắt tớ phải trả giá và tớ sẽ chẳng bao giờ được nhận vào làm chính thức.
Matt nhún vai:
– Tớ đã nói chuyện với cái ông Amendoza của cậu rồi: ông ấy đồng ý cho cậu nghỉ thoải mái cho tới tận thứ Hai tuần sau.
– Cậu đùa tớ đấy à? Cậu đã nói chuyện với bác sĩ Amendoza?
– Tất nhiên.
– Tất nhiên "cậu đùa với tớ" hay tất nhiên "cậu đã nói chuyện với bác sĩ Amendoza"?
Matt lắc đầu:
– Cái ông bác sĩ đáng kính của cậu, ông ấy cũng thấy rõ là thời gian gần đây cậu không được ổn lắm. Mà tớ cho cậu biết, ông ấy đánh giá cao cậu đấy.
– Cậu đừng giỡn…
– Chính mấy cô y tá bảo tớ như vậy. Ở bệnh viện, Amendoza nói với tất cả mọi người rằng cậu là bác sĩ phẫu thuật tuyệt vời.
– Với tất cả mọi người, trừ với tớ… Elliott ghi nhận.
– Phải, chính vì thế mà tớ ở đây: Tớ sẽ sắp xếp lại mọi ý tưởng trong đầu cậu mỗi khi cậu cần.
Ở phía chân trời, các đám mây chuyển dần sang màu vàng, một thứ ánh sáng màu hồng nhạt xuyên qua đó, hứa hẹn một ngày đẹp trời. Matt lục tìm trong túi bên trong áo vest và rút ra một tấm vé máy bay.
– Hãy tin tớ, tớ biết điều gì tốt cho cậu.
Elliott cảm thấy sự phản đối đang lùi bước dần, song anh vẫn cố thử trụ lại thêm một lần nữa.
– Thế còn Rastaquoère thì sao?
– Đừng lo cho con chó của cậu. Hàng ngày tớ sẽ đến cho nó ăn.
Chẳng còn lý do gì để cãi lại, bác sĩ đành phải cầm lấy vé máy bay với vẻ biết ơn, trong lòng cảm thấy vô cùng may mắn vì có một người bạn như vậy. Trong một thoáng ngắn ngủi, anh nhớ lại cuộc gặp gỡ trong hoàn cảnh thật đặc biệt của họ cách đây mười năm, trong một bối cảnh bi thảm mà họ không bao giờ gợi lại. Sáng hôm nay, anh muốn nói với Matt một điều gì đó để bày tỏ lòng biết ơn của mình, song như thường lệ, anh chẳng tìm được lời nào và anh chàng người Pháp lại là người phá vỡ sự yên lặng.
– Nếu trước kia tớ không gặp được cậu, thì cậu có biết giờ này tớ đang ở đâu không?
Thấy Elliott nhún vai không trả lời, Matt liền nói đơn giản:
– Tớ đã chết rồi.
– Cậu có thôi ngay những câu nói ngu ngốc của cậu đi không?
– Nhưng sự thật là như vậy, cậu biết mà.
Elliott lén nhìn sang bạn. Bộ quần áo nhàu nhĩ của Matt và đôi mắt đỏ ngầu chứng tỏ anh đã thức trắng đêm. Và đó không phải là dấu hiệu duy nhất khiến bác sĩ lo ngại: cách xử sự đáng ngại của bạn anh, việc anh say rượu, luôn mồm nhắc đến cái chết và những bóng ma của quá khứ…
Đến lúc này, một sự thật hiển nhiên mới đập vào mắt anh: chính Matt cũng đang trải qua một thời kỳ trầm cảm! Sự vui vẻ mà anh thể hiện vào mọi lúc chỉ là để che giấu tâm trạng u ám và nỗi đau đớn của anh, vẻ tự nhiên vui tươi đôi khi nhường chỗ cho những ý nghĩ đen tối và sự buồn nản.
– Cậu có muốn tớ nói với cậu một điều không, anh chàng người Pháp thú nhận. Mỗi buổi sáng khi thức giấc, tớ nhìn bầu trời và mặt biển rồi tự nhủ rằng nếu tớ vẫn còn tồn tại để thưởng thức những điều đó thì tất cả đều hoàn toàn nhờ có cậu.
– Cậu say rồi, Matt!
– Phải, tớ say rồi, anh thú nhận. Cậu cứu lại các sinh mạng còn tớ thì say sưa. Bởi vì tớ chẳng làm được gì khác ngoài việc tán tỉnh các cô gái và tự đánh bóng bản thân…
Anh ngừng lại một vài giây rồi nói thêm:
– Nhưng cậu biết không? Có thể đó chính là chức phận của tớ trên Trái đất này: chăm sóc cậu và giúp đỡ cậu bằng khả năng của tớ.
Anh nói bằng giọng nghiêm túc. Vừa tìm cách che giấu sự xúc động của mình vừa không để bầu không khí yên lặng nặng nề bao trùm quá lâu, Elliott tìm cách xoay câu chuyện sang một chủ đề nhẹ nhàng hơn:
– Cái máy của cậu trông không hề tệ! Anh vừa huýt sáo vừa săm soi chiếc máy nghe nhạc đời mới nhất vừa được lắp vào xe.
– Phải, loa 2×5 oát đấy, Matt nói thêm và tỏ ra không hề phật ý khi chuyển sang đề tài khác.
– Cậu mua đĩa mới nhất của Bob Dylan rồi à?
Matt mỉa mai:
– Dylan hết thời rồi, anh bạn ạ! Tương lai là đây cơ, anh vừa nói vừa lục tìm trong hộc đựng băng ra một băng cassette với một tấm ảnh bìa đen trắng rất đẹp.
– Bruce Springteen à? Elliott đánh vần, chưa nghe thấy cái tên này bao giờ.
Matt liền kể cho bạn nghe tất cả những gì anh biết về ca sĩ nhạc Rock trẻ tuổi độc đáo này, một người đang ngày càng thành công với những bài hát ca ngợi cuộc sống của tầng lớp vô sản ở New Jersey.
– Rồi cậu xem, anh vừa cảnh báo vừa nhét băng nhạc vào ổ đọc, cái của này rồi sẽ gây được tiếng vang như bom nổ.
Giai điệu của bài “Born to run” ngân lên trong khi mặt trời bắt đầu chiếu những tia sáng đầu tiên. Cho tới cuối chặng đường, hai người bạn vẫn thả mình theo điệu nhạc, mỗi người chìm đắm trong những suy tư riêng, tuy cách biệt, song lại rất đồng cảm…
Cuối cùng thì sân bay cũng hiện ra ở đường chân trời. Xe vẫn bon bon chạy, Matt rẽ vào dải đường dẫn tới các sảnh chờ, rồi không thể hổ danh là một tín đồ của môn đua xe thể thao, anh đánh một đường lượn ngay trước lối đậu xe của sảnh chờ khởi hành.
– Nào, cậu khẩn trương lên.
Elliott với lấy va-li và chạy về phía lớp cửa kính. Được hơn chục mét, anh quay lại phía Matt và hét lên:
– Nếu máy bay của tớ rơi và tớ được lên thiên đàng trước, tớ sẽ xí cho cậu một chỗ nhé?
– Phải đấy, Matt đồng tình, một chỗ thật ấm áp, ngay bên cạnh Marilyn Monroe… và đừng có xa cậu quá nhé.
Chúc các bạn online vui vẻ !