80s toys - Atari. I still have
Tiểu thuyết tình yêu

Tiểu Thuyết Tình Yêu

Đọc truyện tại Tiểu Thuyết Tình Yêu

Loading...

Truyện tình cảm - Hẹn em ngày đó - trang 7

Chương 19 Lần gặp thứ bảy và thứ tám

Nếu như lúc trẻ ta biết được…
Nếu như lúc già ta làm được…

San Francisco, 26 tháng Chạp năm 1976
Eliott 30 tuổi
02h01

Cả bệnh viện như đang chìm trong giấc ngủ, tiếng mưa rơi nhè nhẹ như ru.

Ilena nằm đó, trong bóng tối của một phòng bệnh nhỏ. Phía trên người cô, một giàn dây truyền dịch và trong miệng cô, một đầu ống của chiếc máy hô hấp nhân tạo, đôi mắt nhắm nghiền.

Ngồi bên cạnh cô, Eliott nhẹ nhàng kéo tấm chăn lên như sợ cô bị lạnh. Anh bàng hoàng đưa một bàn tay run rẩy về phía cô gái. Khi làn da hai người thoáng lướt qua nhau, anh có cảm giác như một lưỡi dao lam sắc bén vừa mới cứa một nhát thật sâu vào trái tim anh.

Đằng sau những vết thương sưng tấy và đôi môi tím ngắt, anh cảm thấy sự sống đang vật lộn để không tắt ngấm.

Một sự sống chỉ còn treo trên đầu sợi tóc.

Sẵn sàng đứt bất cứ lúc nào.

***

Cánh cửa phòng khe khẽ hé mở. Eliott quay người lại, tưởng rằng sẽ nhìn thấy cô y tá trực trên tầng.

Nhưng không phải cô ta.

– Phải phẫu thuật cho cô ấy thôi! Bản sao của anh thông báo bằng giọng không hề để cho anh phản đối.

Eliott đứng bật dậy.

– Phẫu thuật gì kia?

– Một cục máu đông trên não.

Hoảng hốt, anh bác sĩ trẻ nhấc mi mắt của Ilena lên, nhưng không hề nhìn thấy một sự mất cân đối của đồng tử nào chứng tỏ có máu đông ở não.

– Ông lấy cái tin đó ở đâu ra?

– Từ báo cáo tử vong. Nếu như cậu cho chụp cắt lớp, chính cậu cũng sẽ thấy…

– Khoan đã nào, Eliott tự vệ, chúng ta mới ở năm 1976. Máy móc hỏng hóc, phần mềm trục trặc liên tục, điều đó không nhắc ông nhớ lại gì sao?

Người kia không buồn trả lời, mắt tập trung vào kết quả điện tim đồ.

– Yêu cầu chuẩn bị phòng mổ ngay, nhanh lên! Ông vừa nói vừa chỉ tay vào chiếc điện thoại treo tường.

– Khoan đã, cô ấy có rất nhiều vết thương lồng ngực: nếu mở ra lúc này, cô ấy có thể chết.

– Phải, nhưng nếu không mở ra, rủi ro đó sẽ trở thành hiện thực.

Eliott suy nghĩ rồi lại đặt vấn đề theo cách khác:

– Mitchell không bao giờ chịu mổ cho Ilena nếu như chẩn đoán chỉ dựa trên cảm tính.

Ông già nhún vai:

– Đó là cậu nghĩ tôi sẽ để Mitchell mổ…

– Thế ai?

– Tôi.

Eliott đồng tình khi nghĩ đến chữ "tôi" đó cũng bao gồm cả anh, nhưng vẫn còn một trở ngại:

– Chỉ có hai chúng ta thì không thể tiến hành ca mổ được! Tối thiểu chúng ta phải có được một bác sĩ gây mê và một y tá.

– Bác sĩ gây mê đang trực là ai?

– Hình như là Samantha Ryan.

Người bác sĩ già gật đầu và nhìn đồng hồ treo tường.

– Hẹn cậu ở phòng mổ trong mười phút nữa! Ông vừa nói vừa rời khỏi phòng. Cậu chuẩn bị cho Ilena trước khi mổ, tôi sẽ phụ trách Ryan.

***

Eliott, sáu mươi tuổi, lao ra sảnh gần như trống trơn nơi phảng phất mùi ête đậm đặc. Để không ai để ý đến mình, ông đã cởi bỏ áo vest và khoác lên mình một chiếc áo blu trắng. Ông thuộc lối đi trong bệnh viện như chính lòng bàn tay mình và không mấy khó khăn để tìm ra phòng nhân viên nơi Samantha Ryan đang nghỉ.

– Chào cô, Sam, ông vừa nói vừa bật đèn lên.

Đã quá quen với những giấc ngủ bị cắt quãng giữa đêm, cô gái ngồi bật dậy và đưa tay che mắt để tránh ánh đèn làm chói. Cho dù khuôn mặt của người đàn ông này không hề xa lạ đối với cô, nhưng cô không tài nào nhớ ra nổi tên ông.

Eliott chìa cho cô một cốc cà phê, cô vừa nhận vừa lấy tay vén vài lọn tóc loà xoà trên mặt.

Đó là một cô gái khá đặc biệt: ba mươi tuổi, gốc Ailen, đồng tính và sùng đạo Thiên Chúa. Cô làm việc ở bệnh viện từ hai năm nay, sau khi đã cắt đứt quan hệ với gia đình cô ở New York, trong khi bố và các anh cô là những nhân vật quan trọng của NYPD. (NYPD: New York Police Department: Cục cảnh sát New York)

Trong những năm sắp tới, Eliott và cô sẽ trở thành bạn tốt của nhau, nhưng vào thời kỳ này Samantha vẫn là một người sống cô đơn, sống nội tâm và nhiều dằn vặt. Cô chẳng hề kết bạn với ai trong bệnh viện và đồng nghiệp đã đặt biệt danh cho cô là người tự kỷ.

– Tôi cần cô giúp cho một ca mổ, Sam.

– Ngay bây giờ ư?

– Ngay bây giờ. Một cục máu đông trong não cần phải được lấy ra ngay, bệnh nhân đang bị suy hô hấp.

– Cô gái tự tử phải không? Cô vừa hỏi vừa nhấp một ngụm cà phê.

– Chính xác.

– Cô ấy không thể qua khỏi được đâu, cô bình tĩnh nói.

– Điều đó, hãy để tương lai trả lời, Eliott đáp.

Cô mở một tờ giấy nhôm bọc vài chiếc bánh quy Oreo ra.

– Ai mổ? Cô vừa hỏi vừa nhúng chiếc bánh quy vào cốc cà phê.

– Tôi.

– Nhưng ông là ai mới được nhỉ?

– Một người quen biết cô.

Ánh mắt cô gái đụng phải cái nhìn của người bác sĩ, và trong một thoáng, cô giật mình, thoáng có cảm giác người đàn ông này nhìn thấu tâm can cô như đang đọc một cuốn sách…

– Phải thật nhanh lên, Eliott giục.

Samantha lắc đầu:

– Mitchell là người chịu trách nhiệm. Tôi không thể thực hiện một ca mổ bừa bãi được, người ta sẽ đuổi tôi mất.

– Cũng rủi ro đấy, Eliott thừa nhận. Tuy nhiên, cô sẽ giúp tôi…

– Tôi chẳng nợ nần gì ông cả, cô vừa nói vừa nhún vai.

– Tôi thì không, nhưng cô có món nợ với Sarah Leeves đấy…

Ông để ngỏ câu nói và cô nhìn ông hoảng hốt. Sarah Leeves là một cô gái điếm khốn khổ đã bước chân vào ngưỡng cửa bệnh viện hai năm về trước sau khi đã bị đánh đập dã man và lĩnh vài nhát dao đâm. Người ta đã mổ cấp cứu cho cô, nhưng cô đã không thể qua khỏi.

– Lúc đó cô vừa mới vào làm tại bệnh viện và cô trực ca ngày hôm đó, Eliott nhắc lại. Cô là môt bác sĩ gây mê giỏi, Sam ạ, một trong những người cứng tay nghề nhất, nhưng hôm đó cô đã phạm sai lầm nghiêm trọng…

Sam nhắm mắt và lần thứ một ngàn, hình ảnh đó lại hiện lên trong tâm trí cô: một thao tác nhầm lẫn, hai thứ thuốc bị tráo đổi, một sai lầm thuộc loại sơ đẳng và cô gái đáng thương ấy đã không bao giờ tỉnh lại.

– Cô đã khéo léo che giấu sai phạm của mình, Eliott nhận xét, và cũng phải nói thêm rằng cũng chẳng ai thèm quan tâm đến cô gái điếm đó.

Samantha vẫn nhắm mắt. Sai lầm ấy, cô đã phạm phải do thiếu cẩn thận. Sự thật là buổi tối hôm ấy, tâm trí cô đang để đi nơi khác. Cô đang mải nghĩ tới New York và người cha của cô lúc nào cũng mắng chửi cô là "đồ khốn đĩ rạc, đàng điếm", tới mẹ cô cứ ba giây một lần nhắc đi nhắc lại từ "nhục nhã" và tới các anh trai của cô đã tống cổ cô ra khỏi thành phố.

Khi cô mở mắt ra, cô nhìn Eliott, hoảng sợ.

– Làm sao ông biết được tất cả những điều đó?

– Vì chính cô đã kể cho tôi nghe.

Samantha lắc đầu. Cô chưa bao giờ kể về sự cố đó với bất kỳ ai, kể cả xưng tội. Trái lại, từ hai năm nay, cô đã đặt cả lòng tin của mình vào việc cầu nguyện không ngừng nghỉ, như để chuộc lỗi lầm. Hơn hết thảy, cô muốn quay trở về trước đó, sao cho cái ngày đáng nguyền rủa ấy chưa bao giờ tồn tại. Đã bao lần cô cầu trời ban cho cô một cơ hội để cô chuộc lại tội lỗi!

– Cứu một mạng sống để chuộc lại một cái chết… Eliott nói như doán được ý nghĩ của cô.

Chần chừ vài giây, Samantha cài nút áo khoác và nói đơn giản:

– Tôi lên phòng mổ đây.

Eliott chuẩn bị nối bước cô thì ông bỗng cảm thấy bàn tay mình bắt đầu run lên.

Đến rồi ư!

Ông trốn vào trong toalét, may thay vào giờ giữa đêm này trong đó vắng tanh. Hoảng sợ, ông cảm thấy mình đang dần biến mất. ông cúi người xuống bồn rửa tay để vã nước lên mặt. Trái với Samantha, ông chẳng tin có Chúa song không vì thế mà ông không thử cầu nguyện.

Hãy để cho con mổ! Hãy để cho con được ở lại lâu thêm chút nữa!

Nhưng Chúa mà ông không hề đặt niềm tin chẳng thèm đếm xỉa tới lời cầu xin của ông và Eliott chẳng còn cách nào khác ngoài việc để cho mình bị hút vào lối mòn thời gian.

***

Ông tỉnh lại vào năm 2006, mệt nhoài ngồi trên chiếc ghế làm việc. Hoảng hồn, ông nhìn vào chiếc đồng hồ để bàn đặt lăn lóc trên giá sách: 02h23.

Ông vẫn còn một chút thời gian, với điều kiện ông phải quay trở về quá khứ ngay lập tức. Ông cuống cuồng nuốt vội một viên thuốc nữa, nhưng chẳng có gì xảy ra. Cũng phải thôi: chất thuốc đó chỉ có tác dụng trong giấc ngủ. Song ông lại đang quá lo lắng để có thể ngủ được như mong muốn. Ông vội vã lao ra hành lang và gọi thang máy để xuống nhà thuốc của bệnh viện. Tới nơi, ông tìm thấy một chai Hypnosène, một loại thuốc làm bất tỉnh dùng để chuẩn bị cho bệnh nhân trước khi gây mê. Ông gấp rút quay về phòng làm việc, vơ vội lấy một lần. Ông rút một lượng thuốc nhỏ ra và tự tiêm vào ven. Tác dụng gây ngủ chẳng mấy chốc đã đưa Eliott vào thế giới của mộng mị và ảo tưởng.

***

Cùng lúc đó, vào năm 1976, Eliott, ba mươi tuổi, vừa kết thúc công việc chuẩn bị cho Ilena trước phẫu thuật. Anh đã gọt sạch tóc trên đầu cô và vừa mới rút máy thở ra. Để cô có thể thở được trong khi di chuyển, anh dùng dụng cụ giúp thở cầm tay và đưa cô lên phòng mổ một cách kín đáo hết sức có thể.

Samantha Ryan đang chờ anh cùng với một nữ y tá. Trái lại, chẳng hề thấy bóng dáng bản sao của anh, cho tới khi anh nghe thấy có ai đó gõ vào lớp kính cửa. Vị bác sĩ già ra hiệu cho anh tiệt trùng và Eliott tiến ra chỗ ông đang nói năng gì. Gặp được nhau, hai người bác sĩ phẫu thuật cùng kéo tay áo lên tận khuỷu và chuẩn bị trong im lặng, xoa hai tay vào nhau theo đúng trình tự với thuốc sát trùng rồi khoác áo blu, đeo khẩu trang, găng tay cao su và mũ giấy vào.

Rồi cả hai cùng vào phòng mổ.

Eliott đứng lui lại một chút, để bản sao của mình điều khiển ca mổ. Ông ta có vẻ rất thoải mái, bình tĩnh, phối hợp từng động tác một để đặt Ilena lên bàn mổ. Ông để đầu cô ở tư thế thẳng, tránh mọi sự cử động căng cứng hoặc xoay bên. Ông biết cô có nhiều vết thương cột sống và không muốn làm chúng trầm trọng thêm bởi một thao tác quá khẩn trương.

Cuối cùng ca mổ cũng bắt đầu. Vị bác sĩ già hơn trong hai người cảm thấy một cảm xúc thật đặc biệt: đã hai tháng nay ông không mổ nữa và chưa bao giờ ông nghĩ đến chuyện lại cầm dao mổ lên. Các cử chỉ của ông thật chính xác. Theo thời gian, ông đã học được cách kiểm soát áp lực trong những thời khắc quan trọng. Ông biết chính xác cần phải mở chỗ nào, đôi tay ông không hề run, tất cả diễn ra tốt đẹp cho tới khi…

– Ai đã cho phép các người phẫu thuật thế này!

Mitchell vừa bước vào phòng và mặt ông trắng bệch vì tức giận. Ông nhìn lần lượt Samantha Ryan, Eliott và bản sao của anh.

– Người này là ai? Ông vừa hỏi vừa hất hàm về phía người bác sĩ phẫu thuật già, trong khi người đó bình tĩnh nhắc nhở ông:

– Anh chưa qua tiệt trùng, bác sĩ Mitchell, và anh còn bỏ sót một cục máu đông.

Tự ái, Mitchell đeo khẩu trang lên miệng và doạ:

– Mọi chuyện không thể diễn ra theo kiểu đó được!

– Ông phải qua tiệt trùng đi, Eliott nhắc lại, khiến vị bác sĩ dù tức giận điên lên vẫn buộc phải ra khỏi phòng.

Ca mổ tiếp tục tiến hành một cách yên ổn bất ngờ. Bên ngoài, bão gào thét và người ta có thể nghe thấy tiếng mưa quất ràn rạt vào kính và chảy trong ống máng. Eliott, ba mươi tuổi, nhìn bản sao ba mươi năm sau của mình với cảm giác ngưỡng mộ xen lẫn ngờ vực. Eliott, sáu mươi tuổi, vẫn đang tập trung vào công việc. Cho dù tất cả đang diễn ra suôn sẻ, phải thừa nhận rằng độ sâu và kích thước của cục máu đông cộng với tình trạng suy hô hấp của Ilena khiến cho việc tiên đoán khả năng sống của cô trở nên rất bấp bênh. Ông biết rằng trong trường hợp tốt đẹp nhất, tình trạng hôn mê của cô cũng sẽ gây ra tổn thương do thiếu máu cục bộ và để lại những di chứng nặng nề.

Bao nhiêu phần trăm cơ hội để cô có thể vượt qua được?

Về y học mà nói, khả năng sống sót của cô chỉ có năm phần trăm.

Và có thể chỉ có một phần nghìn may mắn để cô không bị di chứng.

Nhưng trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã học được cách nhìn nhận những con số đó một cách thận trọng. Ông đã từng biết những bệnh nhân mà các bác sĩ cho rằng chỉ còn sống được ba tháng, song lại sống tới mười năm. Cũng như ông đã từng gặp những ca mổ tưởng chừng như đơn giản song lại kết thúc bằng một thảm kịch.

Đó là điều ông đang tự nhủ với mình khi một luồng máu bắn toé lên mắt ông. Đó chính là thứ mà ông đã nghi ngờ: một vết tắc mạch do cục máu đông gây ra. Máu chảy nhiều ghê gớm, song ông đã kịp báo cho những người khác và máu được cẩn thận hút sạch. Ông cố gắng kiềm chế cảm xúc của mình, chỉ tập trung vào việc phẫu thuật, thậm chí không nghĩ tới việc mình đang mổ cho Ilena. Vì nếu như ông lại bắt đầu tưởng tượng ra hình ảnh của cô thì ông biết bàn tay mình sẽ bắt đầu run rẩy và mắt của ông có thể bị mờ đi.

Ca mổ tiếp tục tiến hành trong yên lặng cho tới khi Mitchell lại một lần nữa xuất hiện trong phòng mổ cùng với một bác sĩ trưởng khoa. Họ ghi nhận sự vi phạm quy chế bệnh viện, song không tìm cách cản trở ca mổ, và suy cho cùng thì ca mổ cũng đã đến hồi kết thúc. Ngay khi cảm thấy mình chuẩn bị đón chờ những đợt rung đầu tiên, Eliott, sáu mươi tuổi, quay về phía bản sao của mình và đề nghị:

– Tôi để cậu đóng lại nhé.

Ông cởi bỏ áo blu và mũ ra, tháo bỏ đôi găng tay dính đầy máu và nhìn đôi bàn tay: chúng đã chịu đựng được cú sốc mà không hề run rẩy, còn lâu hơn cả sự mong đợi của ông.

– Cảm ơn, ông thì thào, mặc dù chính ông cũng chẳng biết mình đang bày tỏ sự cảm kích với ai.

Đó là ca mổ cuối cùng của ông. Ca mổ quan trọng nhất của cuộc đời ông.

Đúng vào lúc ông biến mất, dưới những cặp mắt sững sờ của những người xung quanh, ông tự nhủ mình đã hoàn thành sứ mạng.

Từ giờ trở đi, ông không còn sợ chết nữa.

Chương 20 Lần gặp cuối cùng

Khi hai mươi tuổi, ta nhảy múa ở trung tâm thế giới. Năm ba mươi tuổi, ta lang thang trong đường tròn. Khi năm mươi tuổi, ta đi bộ trên đường chu vi, tránh không nhìn ra bên ngoài lẫn bên trong. Về sau này, chẳng còn gì quan trọng nữa cả, lợi thế của trẻ con và người già là vô hình.
-CHRISTIAN BOBIN-

San Francisco, 2006
Elliott 60 tuổi

Khi Elliott mở mắt ra, ông đang ngồi trên mặt sàn lạnh lẽo trong phòng làm việc, giữa một vũng máu nhỏ. Ông khó nhọc đứng lên và lấy tay bịt mũi lúc này đang chảy như đài phun nước. Một lần nữa, những mạch máu đã trả giá cho chuyến du hành vượt thời gian và ông đã phải dùng rất nhiều bông để cầm máu.

Trong khi ngày bắt đầu rạng, một câu hỏi cứ khiến ông trăn trở: ông có cứu được Ilena không?

Ông ngồi vào trước màn hình máy tính để tra danh bạ điện thoại trực tuyến. Hôm qua, sự tìm kiếm cái tên Ilena Cruz đã không mang lại kết quả gì. Elliott thử lại một lần nữa và mở rộng phạm vi tìm kiếm ra khắp bang California. Lần này, sự tìm kiếm đã cho ra kết quả: một địa chỉ thuộc Weaverville, ngôi làng nằm ở phía bắc của bang.

Hướng tìm kiếm sai lầm chăng? Một niềm vui quá sớm?

Chỉ có một cách duy nhất để biết được.

Ông rời khỏi bàn làm việc, xuống sảnh và sau khi dừng lại một lát ở máy bán cà phê tự động, ông ra lấy xe đang đậu trong bãi. Nếu chạy nhanh, ông có thể đến Weaverville sau chưa đầy sáu tiếng. Chiếc Coccinelle cũ kỹ của ông đã mỏi mệt, cũng giống như ông, nhưng ông hy vọng nó có thể vượt qua được. Chỉ cần một thời gian nữa thôi…

Ông lên đường lúc trời vừa hửng sáng. Mặt trời vẫn còn chưa mọc, nhưng những cơn mưa lớn ngày hôm qua dường như đã sơn lại bầu trời bằng một màu xanh kỳ diệu.

Ông ra khỏi San Francisco bằng đường cao tốc 101, hai trăm cây số đầu trôi qua rất nhanh.

Qua khỏi Leggett một đoạn, ông rời đường cao tốc để đi theo một con đường có tầm nhìn toàn cảnh uốn lượn cho tới tận Ferndale và đi vòng qua mũi Medcocino. Như được gọt giũa bằng những đợt sóng biển Thái Bình Dương, con đường chạy ôm sát bờ biển, qua những vách đá dốc thẳng đứng cắm xuống lòng biển. Elliott cho xe chạy men bờ biển cho tới tận Arcata để ra đường cao tốc 299, con đường duy nhất có thể vượt qua các dãy núi từ đông sang tây. Vùng này vẫn còn giữ được vẻ hoang sơ của nó với những rừng cây cù tùng cao khổng lồ, những khoảng rừng được bảo tồn rộng mênh mông và những cây thông lấp lánh ánh bạc.

Ông chạy xe hơn năm tiếng đồng hồ mới tới được Weaverville, một ngôi làng nằm tách biệt giữa lòng núi. Ông đậu chiếc Coccinelle trong phố chính và lang thang tới cửa hàng tạp hoá đầu đường để hỏi địa chỉ của Ilena Cruz. Người ta chỉ cho ông một con đường rừng dẫn ra khỏi làng và ông quyết định đi bộ. Sau khoảng hai mươi phút, ông tìm thấy một căn nhà nhỏ bằng gỗ được xây thấp hơn hẳn so với mặt đường. Có tiếng thác nước đổ đâu đây. Elliott dừng khựng lại, nấp sau một cây cù tùng đã sống sót qua cuộc tàn phá rừng từ cách đó một thế kỷ. Ông khum tay cho khỏi chói và nheo mắt lại.

Một người phụ nữ ngồi dưới mái hiên của căn nhà, đối diện với những dãy núi phủ đầy tuyết.

Buổi chiều hôm đó, Elliott chỉ nhìn thấy bà từ sau lưng, song không một giây nào ông không biết đó chắc chắn là bà.

Họ đã bị chia cắt trong ba mươi năm. Giờ thì họ chỉ còn ở cách nhau có ba mươi mét.

Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, ông tưởng như mình sẽ băng qua khoảng cách đó, kể tất cả cho bà nghe, rồi siết chặt bà trong vòng tay và để ông có thể ngửi mùi thơm trên tóc bà thêm một lần nữa.

Nhưng đã quá muộn. Những chuyến vượt thời gian cuối cùng đã làm ông yếu đi rất nhiều. Hơn bao giờ hết, ông biết rằng cuộc sống giờ đã ở phía sau ông và ông đã thua trận trong cuộc chiến chống lại căn bệnh đang gặm nhấm cơ thể ông.

Vì thế, ông ngồi dựa vào gốc cây ngàn năm tuổi đó và cam lòng ngắm nhìn bà.

Không khí thật êm dịu và trong khung cảnh cô đơn và bình yên ấy, ông cảm thấy mình được giải thoát khỏi mọi gánh nặng của thời gian và phiền muộn.

Rồi lần đầu tiên trong đời, ông được hưởng sự thanh thản.

San Francisco,1976
Chín giờ sáng
Elliott 30 tuổi

Hai ngày đã trôi qua kể từ sau ca phẫu thuật của Ilena.

Cô gái đã thoát khỏi hôn mê trước đó một lát, song sự sống của cô vẫn còn rất mong manh.

Những câu chuyện về hoàn cảnh diễn ra ca mổ của cô đã loang ra khắp bệnh viện, gợi lên nhiều hoài nghi. Trong nhiều giờ, những người đứng đầu bệnh viện đã họp bàn để đưa ra cách xử lý. Có nên báo cho cảnh sát biết về chuyện đã xảy ra không khi mà điều đó có thể phương hại tới uy tín của bệnh viện Lenox? Giám đốc bệnh viện và chủ nhiệm khoa phẫu thuật quá coi trọng danh tiếng của bệnh viện để chấp nhận ký vào bản báo cáo trong đó đề cập tới "một người đàn ông không biết từ đâu đến" đã "biến mất ở chính giữa phòng mổ". Họ chỉ quyết định phạt dưới hình thức đình chỉ công tác trong hai tháng đối với Elliott và Samantha.

Anh bác sĩ trẻ vừa mới nhận được thông báo đình chỉ công tác và đang chuẩn bị rời khỏi bệnh viện thì một cô y tá gọi anh lại:

– Có điện thoại cho anh, thưa bác sĩ! Cô vừa nói vừa đưa điện thoại treo tường cho anh.

– Alô?

– Tôi đang ở bên kia đường, giọng nói của bản sao của anh vang lên. Cậu hãy tới đây gặp tôi.

– Bên kia đường?

– Quán Harry. Tôi gọi gì cho cậu nhé?

Không mất thời gian, Elliott gác máy và băng qua đường.

Tầm nhìn không được xa hơn ba mét. Những làn sương mù dày đặc lững lờ trong gió, bọc kín những ngọn đèn đường và những chiếc ôtô bằng những cụm lớn bồng bềnh. Harry’s Diner là một quán ăn được thiết kế theo chiều dài của một toa tàu bằng thép ở đối diện với lối vào cấp cứu. Vẻ bên ngoài đặc trưng của những năm năm mươi khiến cho nó có vẻ hoài cổ. Elliott đẩy cửa và nhìn thấy các đồng nghiệp bác sĩ và y tá đang ngồi ăn vội vã bữa trưa trước khi trở lại với công việc.

Tận cuối căn phòng ám khói, anh nhìn thấy bản sao của mình ngồi bên một chiếc bàn với cốc cà phê.

– Thế nào? Elliott hỏi và ngồi xuống chiếc ghế dài bọc vải giả da.

– Cô ấy đã qua khỏi!

– Ilena còn sống không, trong tương lai ấy?

Người bác sĩ già gật đầu.

Elliott sững sờ lặng đi trong một lát rồi hỏi:

– Có di chứng không?

Song bản sao của anh lại lẩn tránh câu hỏi:

– Nghe này, chàng trai, cô ấy còn sống. Chúng ta đã cứu sống cô ấy…

Elliott quyết định bám lấy lời khẳng định ấy và trong nhiều phút, hai người đàn ông ngồi đối diện với nhau trong im lặng, cùng nhau tĩnh tâm.

Cả hai đều có chung những nếp nhăn và đôi mắt thâm quầng. Cả hai đều mệt mỏi vì thiếu ngủ và bởi sự căng thẳng thần kinh đã tích tụ suốt những ngày qua. Họ đã ném tất cả sức lực của mình vào một cuộc chiến kỳ lạ chống lại số phận và xem ra họ đã chiến thắng.

Elliott là người đầu tiên quỵ ngã: những giọt nước mắt mệt mỏi và chính anh cũng không biết chúng khiến anh cảm thấy nhẹ nhõm hay nhấn chìm anh trong sự hoang mang.

Anh dụi mắt và quay đầu nhìn về phía cửa kính. Bên ngoài, sương mù trải ra như những làn sóng trắng đục, nhấn chìm trên vỉa hè và các cột cứu hoả.

– Rồi sẽ ổn thôi, chàng trai trẻ…

– Không, sẽ không ổn! Tôi đã mất tất cả những người tôi yêu quý: Matt! Ilena! Tất cả là do lỗi của ông!

– Có thể nhưng phải thế thôi: cậu phải giữ lời hứa, giống như tôi đã từng giữ lời…

– Đối với ông, nói thì dễ rồi!

– Chúng ta đã bàn bạc rồi kia mà! Nghe đây, tôi không biết chúng ta đã cứu Ilena nhờ có phép màu nào, vì thế đừng có phá hỏng mọi thứ. Hãy sống cuộc sống của cậu đúng như cậu đã hứa, bởi có một điều tôi tin chắc, đó là phép màu không bao giờ đến hai lần.

– Nhưng như vậy thật quá nặng nề…

– Những năm sắp tới sẽ rất khó khăn, Elliott thừa nhận. Sau đó, mọi chuyện sẽ tốt đẹp lên. Cậu sẽ chịu đựng được điều đó, song cậu phải thực hiện một mình.

Elliott nhíu mày nhìn ông. Ông giải thích:

– Đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, chàng trai trẻ ạ.

Elliott nhún vai:

– Lần nào ông cũng nói như vậy.

– Lần này là thật đấy. Tôi sẽ không thể quay lại được nữa, cho dù tôi có muốn.

Bằng vài câu ngắn gọn, ông kể cho anh nghe câu chuyện về những viên thuốc cũng như hoàn cảnh ông có được chúng, những tác dụng bất ngờ mà chúng đã gây ra cho ông và việc chúng đã cho phép ông có thể đi đi về về vượt thời gian…

Ông vẫn còn chưa kể xong chuyện thì Elliott đã nóng lòng muốn hỏi ông hàng ngàn câu, song ông đã đứng lên chuẩn bị rời khỏi bàn. Anh bác sĩ trẻ hiểu ra rằng mình sẽ không thể biết nhiều hơn và đây đúng là lần cuối cùng anh gặp ông.

Khi anh còn nhìn thấy ông đứng trước mặt mình thêm vài giây cuối, anh chợt cảm thấy như bị xâm chiếm bởi một thứ cảm xúc mà anh không hề chờ đợi. Hai đêm trước thôi, trong ca mổ của Ilena, ông đã khiến anh ngạc nhiên bởi sự bình tĩnh và khả năng đưa ra những quyết định chính xác. Giờ đây, anh tiếc vì đã không có thêm thời gian để hiểu ông hơn.

Người bác sĩ già chậm rãi cài cúc áo măng-tô lại. Ông cảm thấy mình sắp ra đi, song kinh nghiệm cho thấy lúc này ông vẫn còn có một hoặc hai phút nữa.

– Tôi muốn tránh để không biến mất ngay giữa quán…

– Đúng là nếu làm thế thì tôi sẽ gặp một vài phiền phức.

Đến lúc chuẩn bị chia tay, Elliott sáu mươi tuổi chỉ đặt một bàn tay lên vai Elliott ba mươi tuổi trước khi bỏ đi.

Khi gần ra đến cửa, ông quay người lại một lần cuối để gật đầu chào bản sao của mình. Ánh mắt của họ gặp nhau và trong đôi mắt chàng trai, ông nhận thấy điều mà ông đã từng thấy trong đôi mắt của một vài bệnh nhân: nỗi buồn của những người đã không bao giờ phục hồi nổi những vết thương của thời thơ ấu.

Thay vì bước ra khỏi quán, ông quay trở lại. Ông vẫn còn một điều cần nói với bản sao của mình: một câu nói mà chính ông đã chờ đợi suốt nhiều năm, nhưng đã chẳng có ai buồn nói với ông điều đó.

Một câu nói rất đơn giản, song ông đã phải trải qua cả cuộc đời để có thể hiểu được.

– Cậu chẳng có lỗi gì cả…

Thoạt đầu, anh bác sĩ trẻ chẳng hiểu bản sao của mình đang ám chỉ điều gì. Song ông đã nhắc lại.

– Cậu chẳng có lỗi gì cả…

– Sao cơ?

– Việc mẹ cậu tự tử, những cú đấm của bố cậu…

Elliott sáu mươi tuổi để ngỏ câu nói đó khi ông nhận ra giọng nói mình nghẹn ngào. Ông cần lấy lại hơi rồi mới nhắc lại như một lời cầu nguyện:

– … cậu chẳng có lỗi gì cả.

– Tôi biết, Elliott nói dối, lúng túng vì cuộc trao đổi bất ngờ này.

– Không, cậu vẫn chưa biết đâu, người sẽ là anh trong tương lai nhẹ nhàng khẳng định. Cậu vẫn chưa biết đâu…

Rồi như có một sự hoà hợp giữa hai người đàn ông, một thoáng đồng cảm tuyệt vời chỉ kéo dài trong nháy mắt, cho tới khi người đàn ông có tuổi bị khuấy động bởi một chuỗi run rẩy báo hiệu giờ quay trở lại tương lai của ông đã điểm.

– Tạm biệt, chàng trai trẻ! Ông nói và nhanh nhẹn bỏ đi. Giờ thì đến lượt cậu ra tay!

Elliott ngồi lại xuống ghế. Qua cửa kính, anh nhìn bản sao của mình biến mất trong màn sương mù dày đặc.

Anh sẽ không bao giờ gặp lại ông nữa.

Chương 21 Sống không có em

Cuộc sống sẽ trôi qua như trong một toà lâu đài lớn và buồn tẻ nơi mọi cơn gió đều thổi qua.
-LOUIS ARAGON-

1977
Elliott 31 tuổi

Một buổi tối mùa hè ở San Francisco.

Mắt nhìn xa xăm, Elliott đang hút một điếu thuốc trên nóc bệnh viện. Thành phố trải dài dưới chân anh, nhưng anh chẳng mảy may để tâm tới nó. Anh đã không gặp lại Ilena kể từ khi cô được chuyển tới Miami và anh vô cùng đau khổ.

Một đợt gió ào tới cuốn tung một ít bụi. Vị bác sĩ trẻ nhìn đồng hồ rồi dụi tắt điếu thuốc. Anh có một ca mổ trong năm phút nữa, ca mổ thứ sáu trong ngày.

Sống như một bóng ma, đắm mình trong công việc, nhận mọi ca trực…

Để không biết mình chết dần.

***

Ilena mở mắt ra khi trời vừa sáng ở Miami.

Đã sáu tháng nay cô nằm trên giường bệnh viện, thân thể bị tàn phá, đôi chân xơ xác. Cô đã trải qua bốn ca phẫu thuật và vẫn còn chưa kết thúc.

Trong tâm trí cô, mọi thứ còn tồi tệ hơn thế. Tất cả là sự hỗn độn, những con thú đang gào thét và những cánh cửa đóng sập lại.

Cô rất ít nói, từ chối mọi sự thăm viếng: cả của Matt, cả của các đồng nghiệp…

Cô cảm thấy mình yếu ớt. Bất lực.

Làm thế nào để dứt mình ra khỏi nỗi đau đớn và nhục nhã?

***

Mui hạ hết cỡ, Matt cho xe chạy hết tốc độ trên xa lộ dẫn tới Seattle. sự tuyệt giao đột ngột giữa anh với Elliott đã phá huỷ cuộc sống của anh. Chính anh cũng đã đánh mất những điểm tựa cũng như mọi niềm tin của mình. Anh cảm thấy mình đơn độc và đáng thương, lúc này anh nghĩ tới Tiffany, cô gái kỳ lạ mà anh đã ngu ngốc để tuột khỏi tay. Giờ thì anh sẵn sàng làm tất cả để tìm lại cô. Từ nhiều tháng nay, cứ đến kỳ nghỉ cuối tuần, anh lang thang không nản chí khắp mọi xó xỉnh đất nước. Dấu vết duy nhất mà anh có được là một cái tên và một số điện thoại đã cắt thuê bao từ lâu.

Tại sao lại là cô? Anh chẳng buồn đặt câu hỏi cho mình. Ngược lại, anh chắc chắn một điều: anh phải tìm lại được cô gái ấy, vì giờ đây cô có thể sẽ là điểm cố định của cuộc đời anh.

Bến đỗ của anh.

1978
Ilena 32 tuổi

Tháng Giêng, trong một trung tâm phục hồi chức năng ở Florida. Nhạc nền là những bản Dạ khúc của Sôpanh.

Lần đầu tiên trong thế kỷ này, tuyết rơi xuống Miami. Qua lớp kính, một phụ nữ trẻ ngồi trên xe lăn đang nhìn những bông tuyết trắng và nhẹ bay bổng trên bầu trời.

Giá như mình có thể chết, Ilena luyến tiếc.

***

Cuối tháng Tám, một nơi hẻo lánh nào đó thuộc bang Texas.

Một cô gái phục vụ quầy bar nhìn bóng mình trong gương.

Ba hôm trước, cô mới kỷ niệm sinh nhật thứ ba mươi lăm của mình. Thế mà gọi là tiệc sao! Cứ như đưa đám ấy… Tiffany nghĩ và sửa lại trang phục.

Từ vài tuần nay, cô lại quay trở về nơi cũ và cả ngày rót bia cho những người đàn ông thô lỗ cứ nhìn chòng chọc vào cổ áo cô. Quay trở lại điểm xuất phát; quay lại với cuộc sống mà cô đã rời bỏ năm lên mười bảy tuổi để đi tìm vận may ở California. Vào thời đó, tất cả mọi người đều thấy cô đẹp như một bông hoa. Cô biết hát, biết nhảy, biết diễn kịch, song những thứ đó chẳng đủ để cô nổi danh, cả ở San Francisco cũng như ở Hollywood.

– Cho thêm ly nữa, người đẹp! Một vị khách vừa lắc cốc vừa gọi.

Tiffany thở dài. Những giấc mơ danh vọng của cô quả thật đã chấm dứt rồi.

Trời nóng ngột ngạt. Các cửa sổ mở toang và đột nhiên có tiếng bánh xe phanh két trước quán rượu, rồi vài giây sau, một vị khách mới bước vào.

Thoạt đầu, cô không tin ở mắt mình nhưng rồi buộc phải thừa nhận: "Đó đúng là anh ấy".

Cô vẫn chưa quên anh và vẫn thường nuối tiếc vì đã rời xa anh khi câu chuyện của họ còn chưa kịp bắt đầu. Anh ném một ánh nhìn rất nhanh quanh phòng và rồi mắt anh sáng lên.

Lúc đó cô hiểu ra rằng anh đến đây là vì cô và cuộc sống đôi khi cũng tặng cho chúng ta những món quà khi chúng ta chẳng còn trông chờ gì nữa.

Matt bước lại, gần như rụt rè:

– Anh đã tìm em khắp nơi.

Và Tiffany đáp:

– Hãy đưa em đi.

1979
Elliott 33 tuổi

Mùa thu. Elliott tới Sicile nghỉ vài ngày, một loạt những vụ động đất đã tấn công miền Nam nước Ý. Gần như lẽ tất nhiên, anh tình nguyện giúp đỡ những người cứu hộ và người ta đã cử anh gia nhập một đội Chữ Thập Đỏ ở Santa Sienna, một thị trấn nhỏ nằm trên triền núi. Đây sẽ là sự khởi đầu cho một thời kỳ dài hợp tác với tổ chức phi chính phủ nổi tiếng này, nhưng lúc này anh chưa hề biết điều đó. Trong ngôi làng cổ, đất lở đã mang theo mọi thứ trên đường đi của nó: nhà cửa, xe cộ…

Dưới trời mưa như trút nước, những người cứu nạn phải vật lộn để tìm kiếm trong những đống đổ nát. Họ tìm được khoảng hai mươi thi thể, song cũng có nhiều người còn sống bị mắc kẹt dưới đó.

Trời gần như đã tối hẳn khi họ nghe thấy tiếng rên rỉ của một chú bé sáu tuổi bị mắc kẹt dưới đáy giếng. Họ buộc một ngọn đuốc vào đầu sợi dây thừng rồi ròng xuống. Lòng giếng rất sâu và thành giếng bị xô lệch một nửa luôn đe doạ đổ sụp xuống. Chú bé ngập trong bùn đến tận ngực và mực nước trong giếng không ngừng dâng cao. Họ tìm cách kéo chú lên bằng sợi thừng, nhưng chú bé không thể nào bám vào đó được.

Mặc dù có thể bị coi là liều lĩnh, song Elliott vẫn buộc thừng vào người và xuống tận đáy giếng.

Anh chẳng xứng đáng chút nào. Anh biết hôm nay sẽ chẳng phải là ngày tử tận của anh. Anh đã khá tường tận về tương lai của mình, đủ để biết rằng anh sẽ sống ít nhất là tới năm sáu mươi tuổi.

Trong hai mươi bảy năm nữa, anh là người "bất tử".

1980
Ilena 34 tuổi

Mùa đông – Bãi biển trống trơn bị gió quét qua.

Tựa mình vào một cây gậy chống, Ilena bước đi vài mét trước khi thả mình ngã lăn xuống mặt cát ẩm ướt.

Các bác sĩ nói với cô rằng cô vẫn còn trẻ, cô có một ý chí sắt đá và một ngày nào đó cô sẽ đi lại được gần như bình thường. Trong khi chờ đợi, cô đã nhồi cho mình rất nhiều thuốc giảm đau song chẳng ích gì: nỗi đau vẫn còn ở khắp nơi, trên thân thể, trong đầu và cả trong tâm hồn cô.

Ngày 8 tháng Chạp – Bệnh viện Lenox – Phòng nghỉ dành cho nhân viên y tế.

Nằm dài trên tràng kỷ, mắt nhắm nghiền, Elliott đang nghỉ ngơi giữa hai ca mổ. Những đàm luận của đồng nghiệp xôn xao bên tai anh: ủng hộ hay phản đối Reagan? Ai, trong bộ phim truyền hình Dallas, đã bắn J.R.? Ai đã nghe đĩa mới nhất của Stevie Wonder?

Ai đó mở ti vi và đột nhiên:

"John Lennon vừa mới bị ám sát đêm qua ở New York, dưới chân toà Dakota Building bởi một gã tâm thần tên là Mark Chapman. Cho dù đội ngũ cấp cứu đã nhanh chóng có mặt, song các bác sĩ bệnh viện Roosevelt đã chẳng làm được gì để cứu được cựu thành viên ban nhạc Beatles".

1981

Một ngày nắng trong thung lũng Napa.

Matt và Tiffany nắm tay nhau đi dạo giữa những giàn nho. Từ ba năm nay, thật là một sự đồng điệu tuyệt vời, sự phối nhịp hoàn hảo, hạnh phúc như trong giấc mơ…

Trên trái đất này liệu có tồn tại nhiều người có thể mang lại hạnh phúc cho ta không? Liệu có một tình yêu có thể kéo dài hết một đời không?

1982

Hai giờ sáng, trong phòng ngủ của một căn hộ nhỏ ở Lower Hight.

Elliott ra khỏi giường và tìm cách không đánh thức người phụ nữ đang ngủ bên cạnh anh mà anh đã gặp trước đó vài tiếng trong một quán bar ở trung tâm thành phố. Anh nhặt lại cái quần đùi, quần jean, áo sơ mi rồi lặng lẽ mặc lại quần áo. Đúng lúc anh chuẩn bị bỏ đi thì một giọng nói gọi anh lại:

– Anh đi à?

– Phải, nhưng cứ nằm đó. Anh sẽ đóng cửa khi đi ra.

– Thật ra, tên em là Lisa! Cô gái làu bàu và biến mất sau lớp chăn.

– Anh biết.

– Vậy thì tại sao anh lại gọi em là Ilena?

1983

Matt và Tiffany ôm ghì lấy nhau, nằm cuộn tròn trên giường, sau cơn cuồng nhiệt.

Một giọt nước mắt chảy trên má người phụ nữ. Từ năm năm nay, họ cố gắng có một đứa con mà không được.

Cô vừa mới bước qua tuổi bốn mươi.

1984

Nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều năm trôi qua…

Với Ilena, cuộc sống đã lại có ý nghĩa.

Cô đã đi lại được: chập chững, tập tễnh, khập khiễng lết chân đi. Nhưng ít nhất, cô đã đi lại được.

Không thể quay trở lại với nghề cũ, nhưng cô đã tìm được cho mình một lẽ sống. Là người tràn đầy nhiệt huyết, cô giảng dạy bộ môn sinh vật biển tại trường Đại học Stanford và cô đã trở thành một trong những người điều hành Greenpeace, tích cực tham gia vào những phong trào mới chống lại việc đổ các chất thải phóng xạ ra biển và tham gia vào việc thành lập các văn phòng châu Âu đầu tiên tại Paris và London.

***

Mùa hè ở San Francisco.

Một dải nắng làm sáng bừng gian sảnh bệnh viện. Elliott lấy một lon Coca từ máy bán nước tự động rồi tới ngồi vào một chiếc ghế bành và nhìn xung quanh.

Tivi được bật một kênh mới của truyền hình cáp có tên là MTV. Trên màn hình, like and virgin, một cô gái trẻ lăn tròn trên mặt đất với điệu bộ lả lơi, bắt đầu một chuỗi động tác khiêu gợi để lộ toàn bộ đồ lót bên trong: đây là thời kỳ đầu của hiện tượng Madonna.

Bệnh viện yên tĩnh lạ thường. Trên một chiếc bàn nhỏ, ai đó đã để quên một khối Rubic. Elliott cầm lên và chỉ bằng vài động tác đã trả lại màu sắc nguyên vẹn cho cả sáu mặt.

Như tất cả mọi người, anh cũng có những ngày tốt và ngày xấu.Hôm nay, mọi thứ có vẻ như ổn cả. Chẳng biết vì lý do gì, anh cảm thấy rất bình thản. Nhưng có nhiều lúc khác, mọi sự khó khăn hơn nhiều – nỗi cô đơn trộn lẫn với cảm giác chán nản như kéo anh xuống bờ vực của nỗi buồn chán và tuyệt vọng. Thế rồi một chiếc xe cứu thương lại lao vào mang đến một bệnh nhân mới. Nhanh, người ta đang cần có anh, phải mổ ngay! Và trong chốc lát, cuộc sống lại trở nên có ý nghĩa.

Đó là ưu điểm của nghề này.

1985

Verone, đầu mùa xuân.

Từ hai ngày nay, Elliott sang Ý dự một hội thảo về giải phẫu. Nếu như anh nhớ chính xác về điều mà bản sao của anh đã nói với anh, thì hôm nay sẽ là ngày anh gặp mẹ của con gái anh.

Ngồi trên sân của một quán ăn vỉa hè, anh nhìn mặt trời khuất dần sau tiệm pizza Bra. Những tia nắng màu cam vuốt ve đỉnh Arena, sân vận động tuyệt đẹp từ thời La Mã đứng sừng sững cạnh quảng trường.

– Của ông đây, thưa ông….

… người phục vụ bàn cúi thấp người đặt trước mặt anh một ly Martiny dry với hai quả ô-liu nổi bên trên.

Elliott nhấm nháp ly rượu mà không thể nào trấn tĩnh nổi. Đúng ra anh phải làm gì ấy nhỉ? Anh biết anh có hẹn với số phận của mình, song anh sợ sẽ bỏ qua sự kiện đó. Trong đầu anh, những lời nói của bản sao cứ lặp đi lặp lại. Đã mười năm trôi qua, song anh không bao giờ quên được chúng: "ngày 6 tháng 4 năm 1985, trong một buổi hội thảo về giải phẫu tại Verone, cậu sẽ gặp một phụ nữ tỏ vẻ quan tâm tới cậu. Cậu sẽ đáp lại lời mời của cô ấy và rồi hai người sẽ cùng nhau trải qua một kỳ nghỉ cuối tuần trong quãng thời gian đó con gái chúng ta sẽ được hình thành".

Tất cả có vẻ như đơn giản, từ việc ngày 6 tháng 4 là hôm nay, đã gần bảy giờ tối và anh vẫn đang chờ đợi một cô gái Ý gợi cảm tới tỏ tình với anh.

– Chỗ ngồi này còn trống chứ?

Anh ngẩng đầu lên, ngạc nhiên vì câu nói đó phát ra bằng tiếng Anh với giọng New York. Trước mặt anh là một cô gái mặc bộ vest màu hồng nhạt. Có thể cô đã nhìn thấy cuốn International Herald Tribune đặt trước mặt bác sĩ… Dù sao đi nữa, cô ta có vẻ vui mừng vì tìm được một người đồng hương.

Elliott gật đầu và mời cô ngồi xuống. Cô tên là Pamela, cô làm việc cho một hệ thống khách sạn lớn và cô tới Verone vì công việc.

Cô ấy đây ư? Anh tự hỏi, đột nhiên cảm thấy lo lắng. Chắc hẳn rồi, cô ấy đấy. Tất cả đều ăn khớp. Nghĩ đến cùng, bản sao của anh cũng có bao giờ nói rằng cô ấy là người Ý đâu…. Anh nhìn cô từ đầu tới chân trong khi cô gọi một ly valpolicella. Cô là một người đẹp theo kiểu của những năm tám mươi: cao, thân hình đẹp như tượng, mái tóc vàng dày dặn và dáng vẻ của một phụ nữ thành đạt.

Khi người ta mang món khai vị tới, họ đã xong màn giới thiệu làm quen và bắt đầu nói chuyện về những "người hùng" của nước Mỹ mới: Reagan, Mcheal Jackson, Speilberg, Carl Lewis…. Elliott dường như bị lái đi. Anh giữ vững vai trò của mình trong cuộc nói chuyện, nhưng tâm trí anh lại để đi đâu.

Thật lạ, dù sao thì mình cũng chưa từng tưởng tượng cô ấy lại như thế này…

Anh vẫn không thể nào tin được người phụ nữ này sẽ trở thành mẹ của con gái anh! Thật khó có thể giải thích vì sao. Trông vẻ bề ngoài, cô ta chẳng có gì không ổn cả. Chỉ trừ việc cách nói chuyện của cô ta thật là nhạt nhẽo, những lời nhận xét đôi khi nhàm chán, và cô là người theo phái cộng hoà, rằng cô là người muốn có nhiều hơn là muốn làm và trong ánh mắt cô chẳng có chút gì đặc biệt, cho dù chỉ là một chút xíu cái mà người ta vẫn gọi là duyên dáng.

Nhưng thế đấy: anh chưa từng gặp bản sao của mình, chắc anh cũng chẳng thể nào biết được rằng việc anh ngồi tán phét với cô gái này lại có thể là kết thúc bằng sự ra đời của một sinh linh bé nhỏ!

Dù sao thì cũng vẫn lạ vì mình lại chịu ngồi tán chuyện với một cô gái như thế này….

Tất nhiên, sau một vài giờ ngồi ba hoa một cách vô vị, cũng có thể tiếp theo sẽ là một đêm cháy bỏng, nhưng cả như vậy, Elliott vẫn tự nhủ rằng điều đó chắc cũng chẳng khiến anh cảm thấy thích thú.

Bữa ăn diễn ra theo đúng như trình tự với những món đặc sản địa phương: pasta e fasoi, cơm nấu kiểu Amarone, thăn bò kiểu chế biến taleggio, tất cả đều được dùng với vài ly rượu bardolino.

Trên quảng trường, những ngọn đèn đường đã thắp sáng soi tỏ cả plazzo Barbieri, nơi một toán dân Verone vẫn đi tản bộ mặc dù trời đã tối muộn.

Anh gọi tính tiền, nhưng chờ khá lâu vẫn chưa thấy, anh quyết định đứng lên và ra thẳng quầy bar để thanh toán. Trong khi ông chủ nhà hàng tính tiền cho anh, Elliott rút ra một điếu Malboro từ trong túi ra và đưa lên môi. Đúng lúc anh chuẩn bị bật lửa thì một ngọn lửa từ đâu được đưa tới đúng đầu điếu thuốc của anh.

– Bài tham luận hồi sáng của anh thật ấn tượng, bác sĩ ạ.

Anh đưa mắt nhìn người phụ nữ đang bắt chuyện với anh: một cô gái khoảng ba mươi tuổi đang ngồi trên một chiếc ghế đẩu cao với một ly vang trắng.

– Cô cũng tới dự hội thảo ư?

– Giulia Batistini, cô vừa tự giới thiệu vừa chìa tay ra cho anh bắt. Tôi là bác sĩ phẫu thuật tại Milan.

Cô có đôi mắt màu xanh lục và một làn tóc màu hung rất lạ, trông cô chẳng có vẻ gì là người Ý cả.

Ánh mắt của Giulia chạm phải ánh mắt anh và anh nhận ra trong đôi mắt cô có tia sáng mà anh đã hoài công tìm kiếm ở Pamela: sự duyên dáng.

Anh cảm thấy nhẹ nhõm, anh hiểu ra rằng chính cô chứ không phải cô gái kia mới là người sẽ trở thành mẹ của con gái anh!

– Tôi rất muốn nói chuyện thêm với anh, Giulia mở lời, nhưng….

– Nhưng sao?

Cô liếc mắt chỉ ra phía sân:

– Tôi nghĩ rằng bạn gái của anh đang chờ…

– Tôi nghĩ đó không phải là bạn gái của tôi.

Cô nở một nụ cười nhẹ nhõm, một chiến công khiêm tốn của một người sẵn sàng tiếp tục chiến đấu.

– Nếu vậy thì…

1986
Elliott 40 tuổi

San Francisco, năm giờ sáng. Một cú điện thoại từ châu Âu gọi sang bất chấp mọi quy tắc về sự chênh lệch múi giờ. Một giọng nữ nói tiếng Ý báo cho anh điều mà anh đã biết từ lâu.

Elliott đáp máy bay sang Milan, nhảy lên một chiếc taxi chạy tới bệnh viện, leo bộ lên bốn tầng gác, gõ cửa phòng số 466: xin chào Giulia, chào bạn trai mới của Giulia, chào bác sĩ, chào y tá.

Cuối cùng anh bước lại bên chiếc nôi. Những trẻ sơ sinh, ngày nào anh cũng nhìn thấy ở bệnh viện, nhưng lần này thì khác. Đứa trẻ sơ sinh này là con của anh. Lúc đầu, anh sợ mình sẽ chẳng cảm thấy gì, rồi cô bé mở mắt, nhìn anh và chỉ bằng một cái chớp mắt, cô bé đã trở nên gắn bó với anh cả cuộc đời.

Bên ngoài đang là tháng Hai, tuyết rơi, trời lạnh, xe cộ đi lại, và những tiếng còi inh ỏi, những tiếng "va fenculo" (Câu chửi đổng bằng tiếng Ý), không khí ô nhiễm. Nhưng ở bên trong căn phòng này, mọi thứ đều ấm áp và đầy tình thương.

– Chào mừng con, Angie…

1987

Và cuộc sống lại bắt đầu.

Bỗng nhiên chấm dứt đoạn đường hầm tăm tối, một trang mới mở ra, ánh sáng quay trở lại vào lúc anh chẳng còn mong chờ gì nữa.

Một em bé trong căn nhà và tất cả mọi thứ đều xáo trộn: bình sữa lăn lóc khắp nơi, những bịch bỉm, sữa cho trẻ ăn dặm.

Năm tháng, chiếc răng đầu tiên của bé. Và năm tháng sau nữa, những bước đi đầu tiên không cần người giữ.

Tất cả những gì không liên quan tới bé đều trở thành không đáng kể. Ngày 19 tháng 10, thị trường chứng khoán sụp đổ, ngày thứ Hai đen tối, chỉ số Down Jones tụt mất hai mươi phần trăm.

Còn sau đó?

1988

Angie đói! Angie muốn ăn bánh quy! Angie khát! Angie muốn Cocacola!

***

Thế là đã đến Noel. Căn nhà được trang trí và một ngọn lửa ấm áp tí tách trong lò sưởi.

Elliott lại bắt đầu chơi đàn ghita và gảy theo một phong cách rất riêng bài With or without you, một bài hát đang rất thịnh hành.

Nằm dài trên thảm, Rastaquoère canh giữ cho cả gia đình vừa mới hình thành.

Và Angie nhún nhảy trước ánh lửa.

1989

Angie ba tuổi. Bé đã biết viết tên của mình bằng những chữ cái in hoa với một cây bút dạ rất to.

***

Ngày 24 tháng Ba, con tàu chở dầu Exxon Valdez bị chìm ngay ngoài khơi Alaska cùng với ba trăm ngàn tấn dầu thô và gây ra cả một biển dầu loang đen kịt. Trên kênh CNN, tổ chức Greenpeace bày tỏ phản ứng dữ dội thông qua nữ phát ngôn viên mới của họ: Ilena Cruz.

***

Tháng Mười, Rostropovitch chơi đàn xelô trên bức tường Berlin vừa bị phá sập.

Trên truyền hình, người ta giải thích rằng chiến tranh lạnh đã chấm dứt và từ nay trở đi con người sẽ sống hạnh phúc trong một thế giới đầy dân chủ và kinh tế thị trường…

1990

Người ta xếp hàng dài trước cửa rạp chiếu phim.

Đứng trong hàng đầu tiên, rất nhiều gia đình và tiếng kêu của trẻ em. Elliott và Angie nhẫn nại chờ được vào xem Nàng tiên cá bé nhỏ, bộ phim hoạt hình mới nhất của Walt Disney trong khi ở hàng bên cạnh, người ta đang chờ vào xem Meg Ryan trong “Khi Harry gặp Sally”.

Angie hơi mệt và bé kéo tay áo sơmi của bố để được Elliott bế lên.

– Chuẩn bị cất cánh! Anh vừa nói vừa nhấc bổng bé lên.

Trong lúc nhấc con gái lên, Elliott quay đầu và nhìn thấy… Matt và Tiffany đang đứng trong hàng bên cạnh.

Hai ánh mắt giao nhau chỉ trong nửa giây, nhưng khoảnh khắc ấy kéo dài như trong một thước phim. Elliott cảm thấy trái tim như băng giá. Đã gần mười lăm năm nay hai người chẳng hề nói với nhau một lời. Tiffany nhìn Angie với một nụ cười buồn bã rồi quay đi chỗ khác. Rồi mỗi "cặp" bước chân vào một phòng chiếu khác nhau.

Thời điểm để giải hoà vẫn còn chưa đến.

Nhưng có thể, một ngày nào đó…

1991

Elliott và Angie cùng bắt tay vào thực hiện một công thức làm bánh khá phức tạp. Một nụ cười rạng rỡ làm sáng bừng khuôn mặt cô bé. Quanh mép cô bé dính đầy mứt trái cây. Trời bắt đầu tối, không khí thật dễ chịu, một làn ánh sáng màu cam rất đẹp chiếu qua cửa kính nhà bếp.

Gần lò vi sóng, ti vi vẫn bật, nhưng âm thanh đã được tắt đi. Một vài hình ảnh mờ nhạt về Cô-oét: chiến dịch Bão táp sa mạc, đợt can thiệp quân sự đầu tiên của Quân Đồng minh chống lại Iraq.

Trên đài, ban nhạc U2 đang trình diễn bài Mysterious Ways và Angie hoà theo Bono rất chính xác bằng cách dùng con dao phết bơ bằng gỗ dùng để gõ gõ nhịp thay cho dùi trống.

Elliott ghi lại hình ảnh đó bằng một chiếc máy quay. Anh luôn cố xoay xở để dành nhiều thời gian nhất cho cô bé, thậm chí kể cả phải hy sinh sự nghiệp của mình. Anh vẫn yêu nghề như trước, nhưng đã từ chối những cơ hội để có thể giúp cho anh thăng tiến nhanh hơn. Nhiều người khác đã vượt qua anh và anh cũng chẳng làm gì để đuổi kịp họ. Làm một bác sĩ giải phẫu giỏi trong mắt các bệnh nhân đã là quá đủ đối với anh.

Hơn nữa, con gái anh bao giờ cũng được ưu tiên hơn hết. Giờ thì anh thông cảm với bản sao của mình cũng như mọi nỗ lực mà ông ta phải bỏ ra để cứu lấy Ilena mà không làm tổn hại tới Angie. Song sự thanh bình mà anh cảm nhận được mỗi lần nhìn thấy con gái đôi khi lại nhuốm chút màu sắc lo lắng. Cuộc sống đã dạy cho anh biết những giây phút hạnh phúc có thể sẽ phải trả giá đắt và chính anh cũng đã có một bài học nhớ đời. Từ sáu năm nay, cuộc sống của anh lại trở nên êm ả, song anh biết điều đó có thể chấm dứt bất cứ lúc nào.

Vấn đề là khi có hạnh phúc, người ta thường rất dễ quen với điều đó…

1992

Sáu tuổi, những chiếc răng sữa đầu tiên bắt đầu rụng…

Và với một nụ cười khoe hàm răng sún xinh xắn, Angie ngồi làm bài tập bên chiếc bàn kính trong phòng khách.

Vẻ mặt rõ là không hài lòng, Elliott bước vào phòng và nghiêm khắc nhìn cô con gái:

– Bố đã nói với con nhiều lần là phải tắt tivi đi mỗi khi con làm bài tập cơ mà!

– Vì sao ạ?

– Vì muốn học giỏi thì con phải tập trung.

– Nhưng con vẫn đang tập trung mà!

– Con đừng có đùa với bố!

Anh cầm lấy điều khiển giấu dưới một chiếc gối và chuẩn bị tắt tivi thì ngón tay của anh sững lại trên nút bấm.

Trên màn hình, một phóng viên đang đưa tin từ Rio de Janeiro nơi đang diễn ra Hội nghị thượng đỉnh Trái Đất lần thứ hai. Trong vài ngày, các quốc gia hùng mạnh sẽ đề cập tới vấn đề môi trường của hành tinh. Phóng viên đang phỏng vấn người nữ đại diện cho một tổ chức phi chính phủ. Trong nhiều phút liền, chị phát biểu rất mạch lạc và có sức thuyết phục về sự biến đổi khí hậu và về việc phá huỷ sự đa dạng sinh thái. Chị có một đôi mắt mênh mang với một ánh buồn man mác. Trong khi chị nói, tên của chị hiện lên phía bên phải màn hình: Ilena Cruz.

– Bố ơi, sao bố lại khóc?

1993

Đã gần sáu giờ ba mươi phút. Elliott xuống giường trước khi đồng hồ báo thức đổ chuông. Dưới lớp chăn chỉ ló ra một mái tóc dài màu nâu: đó là cô tiếp viên hàng không mà anh đã gặp ở sân bay tối hôm trước khi đi tiễn Angie sang Ý nghỉ hè vài ngày ở nhà mẹ của bé.

Anh bước ra khỏi phòng mà không gây tiếng động, tắm dưới vòi sen rồi vội vàng mặc quần áo.

Vào bếp, anh vớ lấy cuốn sổ ghi chép và chuẩn bị viết vội vài dòng thì chợt nhớ ra anh đã quên mất tên cô gái. Vì thế, anh đành ghi ngắn gọn:

Lúc nào đi, em có thể nhét chìa khoá vào hòm thư được không? Cảm ơn buổi tối vừa qua. Hẹn gặp lại một ngày gần đây.

Rất nhạt nhẽo, anh biết thế, nhưng vậy đấy. Những mối quan hệ của anh chẳng bao giờ kéo dài quá một tuần. Anh đã chọn như vậy: anh từ chối không muốn cặp với một người nếu không có tình yêu. Như vậy thật giả dối và hèn hạ. Và cho dù thế nào thì đó cũng là cách mà anh chọn để vẫn còn chung thuỷ với Ilena.

Buộc phải thu xếp theo cách mình có thể làm thôi…

Anh uống vội một cốc cà phê, vớ lấy một miếng bánh ngọt cũ và rời khỏi nhà để đi làm. Khi đi ra, anh nhặt tờ báo mà cậu đưa báo mới mang tới. Một tấm ảnh to đùng phủ kín ngay trang đầu tiên: cái bắt tay của Rabin và Arafat dưới ánh mắt chăm chú của Bill Clinton.

1994

Một buổi chiều tà cuối mùa hè. Bầu trời tím ngắt với những tia sáng đỏ rực. Elliott đậu chiếc Coccinelle trung thành trước Marina Green. Anh đã sắp xếp để không về quá muộn, song anh biết Teresa, cô giữ trẻ mà anh đã thuê để chăm sóc cho con gái, đã ra về từ trước đó gần một tiếng.

– Angie! Anh gọi to khi mở cửa. Bố đây!

Giờ cô bé đã tám tuổi, nhưng mỗi lần để cô bé một mình, anh đều không tránh khỏi cảm giác lo lắng…

– Angie! Ổn cả chứ con yêu?

Anh nghe tiếng chân cô bé chạy xuống thang, nhưng khi ngẩng đầu lên, anh phát hiện ra khuôn mặt xinh xắn của cô bé ướt đẫm nước mắt.

– Chuyện gì xảy ra vậy, bé con của bố? anh vừa bước vội tới vừa hỏi.

Cô bé lao mình vào vòng tay anh, để tất cả nỗi lòng bật tung.

– Là Rastaquoère! Cuối cùng cô bé cũng thốt lên trong tiếng nức nở.

– Nó đã làm gì?

– Nó… nó chết rồi.

Anh ôm con vào lòng và cả hai cùng đi lên phòng ngủ. Đúng vậy, con chó già nằm sóng sượt như đang ngủ trên tấm thảm của nó.

– Bố sẽ chữa khỏi cho nó chứ?

Trong khi Elliott khám cho con vật, tiếng nức nở của Angie càng lúc càng trở nên dồn dập:

– Con xin bố! Chữa khỏi cho nó đi! Chữa cho nó đi!

– Nó chết rồi, con ạ, chúng ta không thể chăm sóc nó được nữa.

– Con xin bố! Cô bé vừa hét lên vừa khuỵu gối.

Anh nâng cô bé lên và dẫn cô bé vào trong phòng.

– Nó già lắm rồi, con biết mà. Nó sống lâu được đến thế đã là một điều kỳ diệu rồi.

Nhưng cô bé vẫn còn chưa sẵn sàng để nghe những lời đó. Lúc này, nỗi buồn quá nặng nề và chẳng có điều gì có thể làm cho cô bé nguôi ngoai được.

Cô bé nằm vào giường và vùi đầu vào gối. Anh ngồi xuống bên cạnh và ra sức tìm cách an ủi.

Ngày mai sẽ khá hơn.

***

Ngày hôm sau, hai bố con lấy xe ôtô và chạy hơn một tiếng mới tới khu rừng nhỏ Inglewood, nằm ở phía bắc San Francisco. Họ chọn một góc khuất, gần một cây cổ thụ và Elliott dùng chiếc xẻng mà anh đã chuẩn bị sẵn để đào một cái hố khá sâu. Cuối cùng, họ đặt xác chú chó labrador xuống đó và phủ đất lên trên.

– Bố nghĩ có thiên đường dành cho loài vật không? cô bé hỏi.

– Bố không biết, Elliott vừa đáp vừa dùng lá và cành cây phủ lên trên nấm mộ. Dù sao đi nữa, nếu có thì chắc chắn Rastaquoère cũng sẽ được một chỗ.

Cô bé lặng lẽ gật đầu rồi nước mắt lại bắt đầu rơi lã chã. Rastaquoère vẫn luôn là một phần trong thế giới của cô bé.

– Con không thể tin được mình sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy nó nữa.

– Bố biết, con gái yêu, thật khó khăn khi để mất một người mình yêu quý. Trong cuộc sống chẳng có gì nghiệt ngã hơn điều đó.

Elliott kiểm tra xem mọi thứ đã ổn chưa rồi đề nghị con gái:

– Con có thể nói lời tạm biệt với nó, nếu con muốn.

Angie tiến đến trước nấm mộ và nói bằng giọng nghiêm trang:

– Tạm biệt mày, Rastaquoère. Mày là một chú chó tuyệt vời…

– Phải, Elliott đồng tình, mày là chú chó tuyệt nhất.

Rồi họ ra xe và chạy về thành phố. Trong suốt chặng đường về, cả hai bố con đều im lặng. Vì cả hai đều cần được an ủi, Elliott đề nghị dừng lại ở Starbucks.

– Bố mời con một cốc sôcôla nóng chứ?

– Đồng ý. Kem chantilly nữa chứ!

Họ ngồi vào một bàn và sau khi gần nửa khuôn mặt đã lem luốc bởi thứ kem chantilly đánh dậy bọt, Angie hỏi:

– Bố này, thế bố đã làm thế nào để có được con chó?

– Bố chưa bao giờ kể cho con nghe ư?

– Chưa ạ.

– Vậy thì, con biết không, hồi đầu, bố và nó chẳng thích nhau lắm đâu…

1995

– Bố ơi, chúng ta đi xem Câu chuyện Đồ chơi chứ?

– Sao lại không nhỉ?

1996

– Bố ơi, chúng ta có thể đi xem Romeo và Juliette không? Con mê Leonardo lắm!

– Con làm bài xong chưa?

– Xong rồi, con thề với bố!

1997

Một buổi chiều thứ Bảy trong tháng 12. Lần đầu tiên, Angie muốn đi xem phim cùng với vài đứa bạn gái của nó hơn ông.

Giống như hàng triệu thiếu niên khác, cô bé nóng lòng muốn xem DiCaprio hôn Kate Winslet trên boong tàu Titanic.

Elliott bình thản pha một cốc cà phê trong bếp. Tất cả đều tốt đẹp. Vậy thì từ đâu ra cái cảm giác cô đơn sâu thẳm này nhỉ?

Ông lên gác và đẩy cánh cửa phòng Angie. Cô bé đi chơi mà vẫn mở nhạc. Từ đôi loa của bộ dàn hifi, những cô gái của ban nhạc Spice Girls đang gào lên ca khúc đình đám của họ Wannabe. Trên tường, bên cạnh những đề can của Gia đình Simpsons là những poster của các sêri phim truyền hình mà ông chưa bao giờ nghe nói đến: Friends, Beverly Hills, South Park…

Bỗng nhiên, ông cảm thấy một sự trống rỗng và chợt nhận ra rằng con gái ông không còn là một đứa trẻ nữa.

Cũng phải thôi, bọn trẻ rồi cũng lớn lên. Cuộc sống mà.

Nhưng sao nhanh thế?

1998
Elliott 52 tuổi

Trong phòng nghỉ của bệnh viện, tivi đang mở. Trên màn hình, một người đàn ông nói rằng đàn ông đến từ Sao Hoả còn đàn bà đến từ Sao Kim (Chủ đề nổi tiếng về quan hệ giới tính, sau được viết thành sách, của tiến sĩ John Gray). Trong phòng, tất cả các cô y tá đều tỏ ý đồng tình. Elliott nhíu mày. Càng ngày ông càng cảm thấy mình không còn đồng điệu với những người xung quanh nữa. Ông uống nốt lon Coca rồi rời khỏi phòng. Lần đầu tiên trong đời ông cảm nhận được sức nặng của "tuổi năm mươi". Ông không cảm thấy mình già, song ông cảm thấy mình không còn trẻ nữa. Và ông cũng biết tuổi trẻ sẽ không quay trở lại.

***

Thời gian này bộ phim truyền hình Cấp cứu đang hút khách. Ở bệnh viện, có những bệnh nhân còn yêu cầu được bác sĩ Green hoặc bác sĩ Ross điều trị…

***

Một buổi tối thứ năm của tháng Giêng, trên vô tuyến hiện lên khuôn mặt tái nhợt của Bill Clinton đang buộc phải tự biện hộ cho mình:

– Tôi chưa từng có quan hệ tình dục với cô gái mang tên Lewinsky đó.

Trong khi đó, ở vành đai bắc cực, một lớp băng tiếp tục tan do nhiệt độ trái đất nóng lên.

1999

Bây giờ là cuối tháng Tư.

Trong bệnh viện, Elliott thò đầu qua cánh cửa hé mở của phòng điều dưỡng.

Vắng tanh.

Ông mở cái tủ lạnh nhỏ dùng chung để tìm hoa quả. Một cô y tá đã dán một mẩu giấy ghi tên mình lên trên một quả táo xanh. Elliott nhướn mày, bóc mẩu giấy ra rồi cắn phập vào quả táo.

Ông ngồi ghé lên bậu cửa sổ và lơ đãng nhìn một vài đồng nghiệp đang chơi bóng rổ trong mảnh sân phía dưới. Mùi hương mùa xuân phảng phất trên thành phố San Francisco. Hôm nay là một ngày tuyệt vời: một ngày tràn trề sinh lực, một ngày mà các ca mổ liên tiếp thành công và các bệnh nhân không tuột khỏi tay ông.

Ông ngần ngừ định bật vô tuyến. Việc gì phải mạo hiểm phá hỏng tâm trạng sảng khoái này bằng cách tự nhồi cho mình một luồng tin thời sự về nỗi bất hạnh của thế giới? Ông gần như đã bỏ ý định rồi nhưng lại tự nhủ biết đâu hôm nay mọi chuyện lại khác. Trong một thoáng ông bắt đầu mơ mộng: thông tin về một loại vắc-xin chữa bệnh AIDS, hoà bình lập lại hoàn toàn ở Trung Đông, một kế hoạch toàn cầu thực thụ chống lại nạn ô nhiễm, ngân sách chính phủ tăng gấp đôi cho công tác giáo dục…

Sai lầm hoàn toàn. Trên đài CNN, một phóng sự trực tiếp từ trường trung học Columbine ở Littletown cho biết hai học sinh vừa nã súng vào mười hai bạn học khác trước khi tự chĩa súng vào mình.

Lẽ ra anh không nên bật vô tuyến lên mới phải…

2000

– Bố ơi, con có thể xâu lỗ tai được không ạ?

***

– Bố ơi, con có thể có một chiếc điện thoại di động được không?

***

– Bố ơi, con có thể xăm mình được không?

Rồi còn:

Một con chuột sa mạc, một chiếc iMac (Tên gọi dòng sản phẩm máy vi tính liền khối rất thông dụng của hãng Apple), một máy iPod, cái áo không dây DKNY, quần bò Diesel, túi xách bằng da, đôi giày thể thao hiệu New Balance, một con cá vàng, chiếc áo khoác Burberry, nước hoa Marc Jacobs, đôi kính D&G, chiếc khăn choàng lông sóc, túi Hello Kitty, vài con rùa nước, áo phông Hilfiger, áo không dây IKKS, một con cá ngựa, áo len Ralph Lauren, một…

2001

Elliott đậu chiếc Coccinelle vào bãi và liếc đồng hồ. Vẫn còn sớm. Đúng lý ra thì hai tiếng nữa mới đến ca trực, nhưng ông đã cố tình đến sớm.

Ông biết hôm nay sẽ là một ngày đặc biệt.

Khi ông bước vào sảnh bệnh viện, ông nhận thấy có đến hàng chục bệnh nhân, bác sĩ và y tá đang xúm quanh chiếc tivi. Tất cả họ đều có khuôn mặt nhợt nhạt và rất nhiều người đã bắt đầu nghe điện thoại di động.

Trong tất cả các câu nói mà bản sao của ông đã nói trong những lần gặp nhau vào năm 1976, có một câu nói mà ông không bao giờ quên:

"Có một chuyện đã xảy ra vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, tại World Trade Center ở New York".

Trong một thời gian dài, Elliott vẫn tự hỏi có thể là chuyện gì.

Ông bước lại gần tivi và len vào giữa một vài người để có thể nhìn thấy màn hình.

Giờ thì ông đã biết.

2002, 2003, 2004, 2005…
Elliott 56, 57, 58, 59 tuổi…

"Không chúng ta chỉ có ít thời gian.

Đúng hơn là chúng ta để mất rất nhiều thời gian".

-SÈNÉQUE –

2006
Elliott 60 tuổi

Manhattan – Tuần thứ hai của tháng Giêng.

Elliott đã lấy một vài ngày phép để giúp Angie chuyển tới sống ở New York nơi cô chuẩn bị theo học ngành y.

Trong khi con gái ông rất háo hức trước cuộc sống mới, Elliott đã để cô một mình trong vài giờ để làm một chuyến đi khá đặc biệt. Chiếc taxi thả ông xuống trước toà tháp bằng kim loại và kính nằm ở góc đường Park Avenue giao với đường số 52. Ông biến mất bên trong toà nhà và đi thang máy lên tận tầng ba mươi ba, nơi có một phòng khám bệnh rất quy mô. Hôm trước, ông đã làm một loạt xét nghiệm và chụp phim và giờ ông đang đợi kết quả. Elliott muốn làm các khám nghiệm này ở New York hơn là San Francisco, nơi có đến nửa số người trong ngành y ở đó biết ông. Tất nhiên, về lý thuyết mà nói thì vẫn phải có sự bảo mật của nghề y, song trong lĩnh vực này cũng giống như trong những lĩnh vực khác, tin đồn có thể lan đi rất nhanh.

– Anh vào đi Elliott, John Goldwyn nói, ông là một trong những người hùn vốn mở phòng khám.

Hai người đã cùng học với nhau tại California và họ vẫn luôn giữ liên lạc với nhau. Elliott ngồi vào chiếc ghế bành trong khi Goldwyn mở tập hồ sơ đóng bìa cứng ra và rút từ trong đó ra rất nhiều tấm phim trải lên bàn.

– Tôi sẽ không nói dối anh, Elliott ạ… ông vừa nói vừa chìa ra một phim chụp.

– Tôi có một khối u, phải không?

– Phải.

– Có nghiêm trọng không?

– Tôi e là có.

Ông dừng lại vài giây như để cái tin đó ngấm vào người rồi nói:

– Bao nhiêu lâu?

– Vài tháng…

***

Mười lăm phút sau, Elliott đã ra đến ngoài đường, đứng giữa những toà nhà chọc trời, tiếng còi xe và dòng xe cộ ngược xuôi. Bầu trời rất xanh, nhưng lạnh như ở bắc cực.

Vẫn còn choáng váng khi biết về căn bệnh của mình, ông lang thang hết con phố này sang con phố khác, lạc lõng, bồn chồn, run rẩy.

Trong lúc đi dọc theo một trung tâm thương mại, ông bất ngờ nhìn thấy hình ảnh của chính mình phản chiếu trên tủ kính một cửa hiệu sang trọng. Lúc đó, ông mới chợt ý thức rằng ông đã ở cùng độ tuổi và cùng có vẻ bề ngoài giống như bản sao mà ông đã gặp trước đó ba mươi năm.

Thế đấy: cuối cùng thì mình cũng đã trở thành ông ấy…

Đối mặt với cái bóng của mình trên mặt kính, ông vẫy vẫy tấm phim chụp căn bệnh ung thư phổi của mình. Giống như ông có thể nói chuyện với bản sao của mình bất kể thời gian, ông nói với cái bóng của mình bằng giọng nghẹn ngào:

– Có điều đó mà ông cũng không buồn thông báo với tôi, đồ khốn khiếp!

Loading...

Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!

Chúc các bạn online vui vẻ !

Laptop Tùng Anh

Tour Phú Quốc

Vinhomes Cầu Rào 2

Trang Chủ