Chương 17: Bi kịch
Đêm hôm đó, tôi không tài nào ngủ được. Ngoài trời mưa rả rích trên khu vườn tối om. Ðợi mọi người trong nhà ngủ hết, tôi liền nhẹ đến bên
cửa sổ mở toang nó ra. Hơi lạnh thốc vào, vỗ lên mặt tôi như một bàn tay vô hình bằng nước đá. Từng ngón nhòe ướt, không chỉ năm mà hàng vạn
ngón chà khắp người tôi. Một cú rùng mình ớn lạnh khiến tôi chạy ù vào
gường. Tôi ngủ thiếp đi, ú ớ trong miệng. Ánh sáng từ con rắn trùm kín
người tôi. Một giấc mơ đầy ánh sáng.
Tôi dậy lúc 6 giờ. Cổ rát bỏng, cứ như nuốt phải than. Mẹ nói tôi đã la hét suốt đêm.
Một lần nữa, con rắn hai đầu lại ngọ nguậy trong trí tưởng tượng
của tôi. Cổ ngóc cao, từng lớp vảy trên người lóe sáng kéo tôi nhảy phắt ra khỏi giường.
Tôi chạy sang nhà thằng Tí. Thằng này đáng nghi lắm. Nhìn trước
nhìn sau vắng hoe, chẳng thấy nó đâu. Người lớn đã ra đồng. Chột dạ, tôi chạy ra chợ.
Những người sơn đông mãi võ đang bày biện trên khu đất trống ướt
nhũng nước. Vừa dọn dẹp, họ vừa hát ư ử mệt mỏi. Có lẽ, họ dọn đi trong
nay mai như lời tụi nó nói.
Buồn quá, chẳng thấy nó đâu, tôi quay về nhà. Bố mẹ tôi cũng đã ra
đồng hết cả rồi. Trên bàn là bát cơm mẹ để dành cho tôi. Mẹ luôn làm vậy mỗi buổi sáng.
Tôi bưng tô cơm rồi chui vào cái góc kẹt quen thuộc ăn. Tuy là buổi sáng nhưng cái góc kẹt đó lúc nào cũng tối. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy những con thằn lằn trên tường, rụng đuôi hoặc vừa bò vừa kêu tắc tắc… Chúng là những con thằn lằn tôi đã bắt từ nhà thằng Tí đem về thả, và
thỉnh thoảng dán cho vài hột cơm lên tường. Mẹ vẫn hay đùa là tôi chăn
nuôi trên vách một đàn ủn ỉn. Những lúc không biết làm gì tôi hay vào
góc kẹt ngồi ngắm chúng. Chán chê, tôi đuổi chúng đi.
Và nốt những hạt cơm còn lại, tôi chạy sang ông Tư. Ðã lâu tôi chưa đến thăm ông, một phần cũng vì thằng cháu lão ăn xin, nó đã làm tôi
buồn nhiều hơn, hết muốn chơi đùa.
Ông Tư dạo này có vẻ hơi ốm. Nằm trên giường, ông hát Lục Vân Tiên, buồn khổ, giọng khàn.
Tôi chạy xà vào lòng ông:
- Ông Tư nhớ con không?
- Con đấy à? Ông ngóc cái đầu lên, lại nằm xuống. Chà, chà! Lâu rồi không thấy cái bàn tay mình!
Tôi trèo lên giường nằm ôm ông như ôm một cái gối.
- Ông biết không, những người sơn đông mãi võ có con rắn hai đầu.
Một đầu xanh, một đầu đỏ. Khi cái đầu này ngủ thì cái đầu kia thức.
- Tuyệt nhỉ.
- Nhưng họ không bao giờ cho chúng con xem. Thằng Tí định lén mở cái nắp bồ ra để xem họ có nói thật không.
- Ấy chết – Ông Tư giãy nảy – con phải ngăn nó ngay. Như thế rất nguy hiểm.
- Nó chẳng bao giờ nghe con cả. Nó sẽ lén làm một mình.
- Con phải báo với chú Hùng chứ!
Tôi ậm ờ rồi chạy về nhà. Có lẽ còn lâu thằng Tí mới dám làm. Nó chỉ hù tôi thôi.
Buổi trưa đến nhanh hơn tôi tưởng. Mặt trời oi bức, ngột ngạt. Tôi
lững thững ra vườn. Vẫn không ngớt nghĩ về con rắn. Tôi quơ đám lá rụng
rồi trải ra đất làm một cái ổ. Khoan khoái, tôi chuồi mình vào đó. Ðất
mát rượi. Tôi miên man nhìn lên bầu trời qua những lỗ thủng trên tàn
cây.
Giờ này chẳng biết thằng Tí đi đâu nhỉ?
Tôi mơ màng rồi ngủ thiếp đi lúc nào chẳng biết. Tôi tưởng tượng
mình là cái ông gì đó trong câu chuyện cổ của mẹ, lên động tiên chỉ nhờ
giấc mơ. Hóa ra cái động tiên chỉ nằm đâu đó rất gần, cũng có thể nó
đang nằm trong khu vườn này, chẳng qua là nó không chịu hiện ra mà thôi.
Tôi ngủ được một giấc dài, chẳng biết bao lâu, bỗng có một bàn tay
lay tôi dậy, đó là thằng Tí. Mặt nó tái xanh không còn giọt máu.
- Tao bị rắn cắn rồi. – Nó nói.
- Thật không?
- Thật mà.
- Làm sao mày vào được?
- Tao lén lúc họ ngủ trưa.
- Thế họ có biết mày bị rắn cắn không?
- Biết, nhưng tao bỏ chạy.
Nó chìa tay ra, trên đó có hai lỗ thủng nông nông hồng hồng.
- Họ đã nói dối, chẳng có con rắn hai đầu nào. Chỉ có hai con rắn lốm đốm mà thôi. Tao vừa mở nắp ra, nó nhảy phóc lên.
- Mày sẽ chết đó!
- Còn lâu. Con rắn đó không thể làm tao chết được. Mặt nó hiền khô à. Có lẽ tao làm nó giật mình.
- Mày có thấy đau không?
- Không! Lúc tao chạy gần đến đây mới thấy hơi tê tê, nhìn xuống
mới biết nó vừa cắn mình. Mà hỏng chừng tao bị cái giỏ cào cũng nên.
- Làm sao mày biết tao nằm ở đây?
- Tao đâu có biết. Tao định chui vào bụi lài trốn. Tao sợ họ tìm bắt tao.
- Mày thấy người thế nào?
- Chẳng thấy gì cả. Chỉ hơi buồn ngủ. Ðêm hôm qua tao đã thức rất
khuya. Ðáng lý tao cũng chưa mở giỏ đâu, nhưng sáng nay họ thông báo sẽ
bán bữa cuối cùng nên tao liều.
Nói rồi nó ngáp dài, mặt rũ xuống:
- Thôi tao đi ngủ đây. Mày đừng cho ai biết nhé.
Vừa nói nó vừa chui vào bụi lài.
- Ừ. Tao sẽ chẳng cho ai biết đâu. Nhưng mà mày có sao không? Coi chừng mày chết đó.
- Chết gì mà chết. Không sao đâu. Tao chỉ ngủ một giấc là tỉnh ngay.
Tôi bước đi mà cứ thấy nhờn nhợn:
- Tí… Tao sợ người chết lắm đó. Mày mà chết trong bụi lài thì đến già tao cũng không dám ngửi hoa nữa!
Im lặng.
- Tí… mày có nghe tao nói gì không?
Tôi nhảy tót vào nhà. Có lẽ nó đã ngủ. Nó chẳng nói đêm qua nó thức khuya là gì.
Bên tấm phản, bố tôi đang ngồi đan những cái sọt. Vừa thấy tôi, bố đã lên tiếng:
- Có chuyện gì vậy con?
- Không có gì cả bố ạ.
- Con lại giấu bố rồi. – Bố cười ha hả. – Nhìn cái gương mặt con là bố biết đã có chuyện.
Tôi lẳng lặng ra lu nước rửa chân. Có thật là thằng Tí không chết
không? Tôi cũng chẳng tin, hai cái lỗ nhỏ xíu đó thì nhằm nhò gì với nó. Nó đã từng bị hàng rào đâm toạc cả mảng thịt lớn. Nhưng sao tôi vẫn cứ
lo lo.
Tôi vòng sau nhà ra lại bụi lài, khẽ vạch lá ra nhìn, thấy nó vẫn nằm thở bình thường. Thế là yên tâm quay vào.
Bố lại hỏi tôi lần nữa:
- Nói thật với bố đi, có chuyện gì vậy?
- Con không thể nói được bố ạ. Con đã hứa rồi.
- Con hứa với ai?
- Với thằng Tí.
- Thế tại sao nó không cho con nói?
- Con đã lỡ hứa là con sẽ không nói.
- Nó đã làm một việc gì sai à?
- Không, bố ạ. Nhưng mà con sẽ không nói đâu.
- Việc gì mà hệ trọng thế? Chẳng lẽ kể cho bố nghe mà con phải ân hận à?
- Không phải. Nhưng con sợ nó không tin tưởng con nữa. Nó ghét mấy đứa nhiều chuyện lắm!
- Thế có ai ngoài con biết chuyện này không?
- Có. Họ có biết. Nhưng họ không đuổi kịp nó. Họ chỉ chuyên nói dối thôi.
- Thế họ không biết nhà nó à?
- Không. Họ là người lạ mà.
- Con lại nói dối bố rồi! Ở đây làm gì có người lạ.
- Không. Con nói thật. Họ là những người sơn đông mãi võ.
- À ra thế. Bố cười ồ. Họ bắt nó, đúng không?
- Dạ.
- Nhưng họ nói dối cái gì mới được cơ chứ?
- Họ nói có con rắn hai đầu, nhưng chẳng hề có, chỉ có hai con rắn lốm đốm thôi.
- Thế thì mắc gì họ đuổi theo nó?
- Nó đã lén giở giỏ rắn ra.
- Ấy chết – bố tôi chồm lên – rồi sao nữa?
Tôi òa lên khóc:
- Họ đã nói dối. Chẳng hề có con rắn hai đầu. Chỉ có hai con rắn lốm đốm thôi. Nó đã bị con rắn ấy cắn.
- Nó đâu rồi? Bố tôi gần như không còn bình tĩnh nữa. Nó đâu? – Ông quát vào tai tôi.
- Dạ, nó nằm ngủ ngoài bụi lài.
Bên dưới bụi lài, thằng Tí phồng lên một cách kỳ dị. Khuôn mặt tím ngắt. Từ miệng, bọt mép sùi ra.
- Con chạy sang gọi bố mẹ nó nhanh lên!
Rồi bố tôi ẵm nó sang ông lang vườn. Khi nhấc nó lên, tôi thấy cánh tay nó rũ xuống đong đưa như một con chim bị trúng đạn.
Khi băng qua cánh đồng, hình ảnh của thằng Tí vẫn không buông tha tôi. Có phải nó đã chết?
Bố tôi vẫn nói, khi một người thương yêu của ta ra đi, cũng giống
như chúng ta cắt lìa từng khoảng trời trong trái tim mình. Ðó là một
khoảng trời rất rộng mà ta hít thở từng ngày.
Ta được nuôi sống.
Chương 18: Ông lang vuờn
Ngày xưa, ông lang vườn không ở đây. Ông là người xa xứ, một xứ sở
nào đó xa xôi mà tôi không bao giờ biết được. Ông đến làng tôi ở khi tôi còn chưa ra đời. Mẹ tôi kể, ông đi vì một nỗi buồn nào đó. Rất tuyệt
vọng rồi ông ghé ngang làng tôi. Ông cứu sống được lão Bình trong một
lần bị ngộ độc rượu. Từ đó, ông ở lại làng này bốc thuốc. Nhà ông trồng
đầy thuốc nam.
Bố tôi nói người ta không thể chết trên khu vườn đầy thuốc. Mà đúng vậy. Ông rất già, già lắm, má hóp lòi cả sọ. Ông bới một củ tỏi sau gáy và đêm đêm xõa ra như một con ma. Không ai biết gì về thời trẻ của ông, ông sống ở đâu, làm gì và tại sao nỗi buồn lại ngự trị trong người ông
như vậy. Bố tôi nói, một ông lang vườn chỉ giỏi khi về già. Cái làng này hóa ra là một kẻ hưởng lợi từ cái nỗi buồn may mắn ấy. Ông già quắt
queo rồi còn gì.
Nhà ông hay vương vấn mùi thuốc nam. Thay vì đốt trầm như những cụ
già xưa, ông đốt thuốc nam rồi ngồi nhâm nhi ly trà trong bóng tối. Ít
khi nào thấy ông ra ngoài, ngoài những dịp đi bốc thuốc hoặc ghé chợ mua những thứ lặt vặt gì đó.
Một đôi lần tôi thấy ông cuốc đất sau vườn, cái lưng cong vồng như
một bó tre bị đọi. Những ngày tháng ở làng, chẳng khi nào tôi thấy ông
vui hoặc buồn, một khuôn mặt kỳ dị nhất mà tôi thấy. Tôi được nhìn gần
khuôn mặt ấy cũng chỉ một lần. Ðó là lần tôi bị sốt nặng, mẹ đã ẵm tôi
đến nhà ông. Ông vỗ vỗ, bấm vào cái bụng tôi, bấm vào cái tay tôi, bóp
miệng tôi bảo thè lưỡi ra, thế là xong. Một kiểu khám bệnh kỳ cục. Sau
đó đưa cho mẹ tôi một đống thuốc gói trong giấy báo. Nhưng kỳ diệu lắm,
chỉ một vài lần uống, tôi đã hết hẳn. Mẹ sai tôi sang biếu ông mấy nải
chuối. Tôi vào cửa sau, tranh thủ lúc ông ra vườn, để nải chuối lên bàn
rồi chuồn thẳng. Với một con người kỳ dị như vậy, tôi không thể gặp khi
chỉ có một mình. Tôi sợ.
Mẹ tôi nói, điều quí giá nhất của một thầy thuốc là cái tâm. Cái
tâm là một cái vô hình, khi làm điều tốt thì nó hiện ra, khi làm điều ác thì nó biến mất. Nó là cái cần thiết quí giá nhất, hơn mọi thứ.
Nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái tâm của ông.
Nhà thằng Tí vắng hoe. Tôi chạy ra đồng. Có lẽ bố mẹ nó đang ở
ngoài đó. Họ vừa làm lụng, vừa kể chuyện vừa cười. Họ không hề biết rằng tôi đang đem đến một tin xấu cho họ. Tôi bắt đầu sợ chuyện này. Tôi còn nhớ khuôn mặt của chú Hùng khi con chú đang bị nguy hiểm. Chú đã khóc
òa trên vai bố tôi như một đứa trẻ. Chú phải ra đồng ngồi một mình. Chú
phải cố gắng cày cuốc để quên đi.
Bỗng nhiên tôi chợt nhớ đến những người sơn đông mãi võ. Tại sao
không gọi họ chứ, họ có những viên thuốc thần kỳ, họ nuôi những con rắn
thì họ phải có những viên thuốc để trị nó. Tôi cứ vừa chạy vừa mê mải
trong ý nghĩ như vậy.
Bãi đất chợ hồi sáng chật kín người, bây giờ đã vắng hoe. Những
người sơn đông mãi võ đã cuốn gói đi rồi. Họ nhét những bà vợ, những đứa con, những bồ lát bịt kín, những cây giáo dài mà họ dùng để đâm vào cổ, những viên thuốc kỳ diệu… vào trong xe rồi thúc ngựa chạy đi. Tiếng
vó ngựa khua dậy cả bầu trời với bụi mù theo dấu xe họ. Họ đem theo phép màu về một phương nào đó làm sao tôi biết.
Tôi nhớ những câu chuyện của mẹ về những đàn ngựa bay đêm qua núi
đồi, trên mình chúng là những kỵ sĩ mặc áo giáp. Dưới ánh trăng, những
nút khuy đồng lóe sáng ngang dọc những đường gấp khúc như một đêm sao sa hỗn loạn. Những kỵ sĩ đã đi lạc trong chính ánh sáng của mình. Những
con ngựa trở nên điên cuồng, chúng rượt đuổi nhau hí vang, giương những
chiếc vó bổ vào đám mây. Rồi cả người ngựa trôi tuột dần về phía cuối
bầu trời. Cuối cùng va vào nhau, vón cục thành một khối cầu lửa. Ðó là
mặt trời của ngày hôm sau.
Bần thần một lúc tôi quay trở lại tìm mẹ thằng Tí nhưng chẳng thấy
đâu, đành ghé nhà ông lang. Lúc này hàng xóm kéo đến đông nghẹt.
Tôi lách mình vào trong nhưng không được, chỉ thấy thấp thoáng bên
cửa sổ khuôn mặt thằng Tí xám ngoét, mái tóc rũ xuống mặt ván, sau đó
đung đưa những ngón tay đùa gió.
Nó đang ngủ, một giấc ngủ trương phồng. Càng ngủ, người nó càng
phồng. Mẹ nó đang ôm mặt khóc ngoài sân. Bà kể về nó, nó ăn làm sao, nó
nói những gì, nó cười như thế nào, cả những mơ ước của nó được có một
bầy bò. Rồi những lần nó vô lễ, bà đã đánh nó bao nhiêu roi. Hóa ra bà
cứ nhớ từng ly từng tí như vậy.
Tôi đứng lặng im nhìn bà. Bất ngờ bà ôm chầm lấy tôi, bà nắm lấy bàn tay tôi rồi rồi áp vào mặt mình. Bà kể về bàn tay của nó.
Thế là tôi òa lên khóc. Tôi cũng kể về nó. Nó đã ngủ trong vườn
lài. Nó nói rằng đừng cho ai biết nó đang ngủ, nhưng cuối cùng tôi đã
nói với bố tôi. Tôi đã không giữ lời hứa bởi vì tôi sợ.
Buổi chiều hôm đó tôi chui vào góc tối của mình. Chưa bao giờ tôi
nhớ nó đến vậy. Tôi nhớ năm nọ nó rớt xuống sông, bố vớt nó lên và nó đã mang đến những trái ổi chín trong túi ni-lông. Khi bố cõng hai đứa, nó
không được phép ôm cái cổ. Rồi đoàn sơn đông mãi võ đến, nó lại nhường
cho tôi một cái dùi đánh trống. Nó chẳng hề giành giật với tôi cái gì.
Thế mà hôm nay nó lại nằm im lìm bên nhà ông lang.
Tôi thấy ông đi ra đi vào lắc đầu nhiều lần. Cái lưng còng xuống, trên đầu mái tóc bạc phơ xổ ra như một chiếc khăn nhàu nhĩ.
- Ðã muộn mất rồi! – Chẳng hiểu sao tôi cứ nghĩ ông sẽ nói cái điều không ai chờ đợi.
Mẹ sẽ về cắm ba cây nhang dưới bụi lài.
- Dù sao chỗ đất đó, thằng bé cũng đã nằm một lần. Mẹ sẽ nói vậy.
Ðêm đó, ông lang cũng sẽ lẳng lặng ra đi không mang gì ngoài một
túi vải mà năm xưa ông đã mang đến. Cũng không ai biết ông đã đi đâu, về đâu. Lúc nào người ta cũng chỉ đoán chừng về ông mà thôi.
Mẹ tôi vẫn hay nói, nỗi sợ lớn nhất của một người thầy thuốc là khi để mất một đứa trẻ. Người già có thể chết, nhưng trẻ con phải cần sống
và lớn lên. Bởi đơn giản, chúng là một mảnh vườn phải được cày xới và
chăm bón. Chúng cần phải ra hoa và sinh sôi. Chúng là tất cả những gì mà người già hy vọng…
Rồi tôi cứ miên man nghĩ về đám tang thằng Tí, sẽ rơi vào một ngày
im gió, oi nồng nào đó. Mặt trời chói chang đổ lửa báo hiệu một mùa hạn
hán kéo dài triền miên trên mặt sông, trên cánh đồng, và nặng nề nhất là trên thân thể của chúng tôi.
Từ nửa đêm, người ta sẽ đánh trống và gõ những chiếc phèng la. Âm
thanh nghe âm u và buồn. Những âm thanh đó, một lần nữa sẽ lại gợi cho
tôi nhớ về hình ảnh của những người kỵ sĩ cỡi ngựa qua bầu trời. Họ đi
loan báo một điều gì đó, có thể là một tin buồn cuối ngày. Vì những tin
buồn nên không ai ra nhận. Người ta chui vào nhà, đóng sầm cửa lại và
ngủ. Cuối cùng những kỵ sĩ trong cuộc tìm kiếm hỗn loạn đã va vào nhau.
Buổi sáng, mẹ tôi sẽ ra vườn hái hết những bông hoa lài rồi đưa
sang cắm vào bàn thờ thằng Tí – xem như một món quà đầy hương từ khu
vườn nhà tôi.
Có một việc khiến ai cũng lo lắng là chuyện những tấm ảnh, tất nhiên rồi sẽ vậy.
Ở làng có ai chụp hình gì cho nhiều, quá lắm là dăm ngày Tết chụp
chung với cả nhà một kiểu. Nhưng đâu phải năm nào cũng chụp. Lục trong
đống giấy tờ cũ, cuối cùng người ta cũng sẽ gặp tấm ảnh duy nhất lúc
thằng Tí lên ba tuổi. Nó trần truồng như nhộng. Vừa khóc, vừa lấy ngón
tay đút vào miệng. Tôi đã được xem tấm ảnh này một lần, nhờ nó khoe.
Mẹ nó sẽ òa lên nhớ lại vào ngày giỗ ba, cậu nó dắt về một ông thợ
ảnh. Khi ông đến thì nó đang còn ngủ, thế là người ta đập nó dậy, cho nó một “pô”. Khuôn mặt nó non xèo, phúng phính những thịt chứ không gầy
nhom như sau này.
- Thôi thế cũng là may mắn – mọi người sẽ nói vậy – Dù sao cũng còn một hình ảnh về nó vào thời điểm đẹp đẽ nhất.
Chiếc hòm cũng sẽ được đóng xong từ bộ ván mà hàng ngày nó vẫn nằm
ngồi, nhỏ nhắn như một cái thùng đựng quần áo. Rồi người ta sẽ xếp nó
vào trong như chúng cất một món đồ quí giá, dễ vỡ.
Mà quả thật như vậy. Từ lúc nghĩ rằng nó sẽ chết, tôi cứ thấy mình
như vừa mất một cái gì quý giá lắm. Nó là vật quí đối với tôi.
Tôi luôn nghĩ về những ngày sắp tới, tôi sẽ đi học một mình, xuống
chợ chơi một mình, không có ai để hẹn hò len lén trèo lên cây vú sữa vào nửa đêm.
Nhưng tôi cũng sẽ sợ nó lắm vì nó sẽ thành con ma. Nó là một con ma trẻ em. Nó vẫn còn ham chơi nên sẽ không bao giờ rời khỏi những nơi nó
vẫn thường đến để bắn bi, nhảy lò cò… Tôi cũng sẽ không còn dám để một hòn bi nào ra đất, tôi sợ hòn bi bỗng dưng tự lăn rồi chui vào lỗ. Tôi
cũng không dám ra vườn một mình. Tôi sợ những bông hoa lài bỗng dưng
thơm hẳn lên.
Từ bên đây ụ rơm, tôi sẽ nhìn vào nhà nó. Rồi từ đó, tôi mon men theo đám tang ra đồng, cứ đi cách một quãng xa.
Khi đi ngang nhà ông Tư, người ta sẽ đi chậm lại rồi đánh trống lớn lên, để cho ông biết mà ráng chồm lên cửa sổ đưa tiễn nó lần cuối.
Ðám tang vẫn sẽ tiếp tục đi nốt những con đường trong làng và cũng
giống như những người kỵ sĩ, từng bóng người đưa tiễn như một vệt buồn
lướt qua khoảng trời của tôi.
Tôi nhớ lời bố nói, khi nhìn theo bóng một con người mà ta không thể quên được, ta sẽ thấy nỗi nhớ của mình.
Hình như ai cũng vậy, không phải mình tôi tưởng tượng chuyện này.
Cho nên khi nét nhọc nhằn trên khuôn mặt ông lang vườn giãn ra, nhiều
người đã oà khóc. Người ta khóc vì sung sướng. Hình như người ta chỉ có
thể khóc một cách trọn vẹn nhất nhờ sung sướng.
Tôi cũng vậy. Tôi đã khóc khi thấy đôi mắt thằng Tí nhấp nháy một
gợn vào chiều hôm đó. Tôi đã ôm lấy bàn tay mềm nhão của thằng Tí vào
lòng mình, cái bàn tay như vừa mới được sinh ra lần đầu nên nó có cái vẻ dịu dàng và dễ bị tổn thương. Tôi còn gọi tên nó rất nhiều lần như thể
chưa từng được gọi trước đó, chưa từng nghe âm thanh đó. Không chỉ thế,
tôi còn òa khóc vì nghĩ rằng những âm thanh đã không rời bỏ chúng tôi.
Bố tôi nói, người sống là một âm thanh nên khi sống, người ta sẽ gây nên tiếng vang bằng chính cuộc sống của mình.
Ba hôm sau, thằng Tí đã có thể ngồi dậy tự ăn cháo. Cái câu nói ấp ủ trong ba ngày qua đã được tôi chuẩn bị chu đáo cho cái ngày này:
- Hi hi… chào con rắn hai đầu!
Thằng Tí thều thào cãi lại:
- Chỉ có hai con rắn lốm đốm thôi!
Và chúng tôi thỏa thuận với nhau, nếu con rắn hai đầu còn ở đâu đó
trên thế gian này thì, khi đầu “tử” vừa phập mình một nhát thì đầu
“sinh” sẽ phập nhát thứ hai để cứu mình sống. Thế là sống khỏe, sống
nhăn, cho phập thoải mái.
Ðêm đó tôi nghe bố nói thầm với mẹ “Thôi, chắc anh phải sửa lại một số chuyện cổ tích”. Bố làm như bố là ông tiên không bằng.
Nhưng nói gì thì nói tôi vẫn mừng húm, mừng nhất không phải chuyện
thằng Tí còn sống mà vì khi tôi ôm tay nó khóc, nó vẫn còn mê man. Còn
tụi con Phượng thì không có mặt. Chứ không à, chúng nó sẽ lên lớp diễu
lại trò này bêu riếu tôi. Vừa nắm tay thằng Tí vừa hu hu rên rỉ, Tí, Tí
ơi, Tí ơi Tí… chắc tôi chỉ còn nước đi tìm hai con rắn lốm đốm nhờ nó
cắn mình một phát cho tiêu đời mất thôi. Thật là hú vía!
Chương 19
Hàng đêm, tôi vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ vừa “nhìn” ra khu vườn vừa tưởng tượng. Tôi biết mình sẽ không bao giờ quên được, vì tôi vẫn còn
nhớ lắm.
Tôi nhớ tất cả những gì đã bay qua bầu trời của tôi.
Tôi nhớ từng bông hoa, từng mùa mưa nắng, từng rẻo đất…
Bố tôi nói cần phải gieo những hạt mầm vào khu vườn; nhưng tôi cũng biết, mỗi một gương mặt là một hạt mầm gieo vào trí tưởng tượng của
tôi. Tôi có nhiều khuôn mặt không ngừng mọc lên, những khuôn mặt buồn
vui, những khuôn mặt đẹp nhất.
Nhiều lần tôi đã hỏi bố, tại sao người ta không nhớ một bàn tay ai
đó mà phải là khuôn mặt trước tiên. Bố nói bởi vì trên đó có đôi mắt.
Chúng ta không thể nhìn ai đó mà không nhìn vào đôi mắt họ. Một đôi mắt
sẽ cho ta biết họ yêu mến điều gì, và quan trọng hơn nữa, họ đã hy sinh
cho điều gì.
Hằng đêm, tôi vẫn tưởng tượng triền miên khi nhìn những ngôi sao.
Người ta nói khi một người mất đi, ngôi sao của người ấy sẽ tắt. Tôi hú
vía vì vẫn thấy ngôi sao của bạn tôi trên bầu trời, càng lúc càng rực rỡ chạm dần đến ngôi sao của tôi. Và tôi vẫn không ngừng tưởng tượng đến một lúc nào đó, bầu trời sẽ như một tấm thảm sáng kết liền lại. Vì đơn giản thôi, trên trái đất này trẻ con vẫn không ngừng được sinh ra và lớn lên. Chúng là những ngôi sao trên tấm thảm kia, điều bí mật mà tôi chẳng thể nào nói hết.
Hết
Chúc các bạn online vui vẻ !