Chương 5
Vào chủ nhật, tôi gặp vận xui phải tham dự buổi mở màn của mẹ tôi ở Chimera, một phòng triển lãm cấp tiến đến đáng sợ ở Tây Hartford.
"Con nghĩ sao, Grace? Con vừa ở đâu vậy? Buổi trưng bày đã bắt đầu được nửa tiếng rồi. Con có đưa anh chàng của con đến không?" mẹ hỏi rộn ràng trong khi tôi cố gắng không nhìn trực diện vào các tác phẩm nghệ thuật. Bố trốn phía sau phòng triển lãm, mân mê một ly rượu vang, trông khổ sở ra mặt.
"Rất... rất, à, chi tiết ạ," tôi trả lời. "Thật... đáng yêu, mẹ ạ."
"Cám ơn, con yêu!" mẹ la lên. "Ô, có ai đó đang nhìn vào bảng giá trên tác phẩm Điều cốt yếu số hai. Mẹ sẽ quay lại ngay."
Khi Natalie đi học đại học, mẹ tôi đã quyết định rằng đã đến lúc để chiều theo khía cạnh nghệ thuật trong bà. Vì lý do nào đó mà chúng tôi không rõ, mẹ quyết định chọn nghệ thuật thổi thủy tinh. Thổi thủy tinh và giải phẫu học phụ nữ.
Ngôi nhà của gia đình, từng là ngôi nhà nghệ thuật chỉ với hai bức ảnh chim săn mồi Audubon, một vài bức tranh sơn dầu vẽ cảnh biển và một bộ sưu tầm mèo sứ, giờ điểm xuyết cả những bộ phận cơ thể phụ nữ. Âm hộ, tử cung, buồng trứng, bầu ngực và nhiều nữa đặt trên lò sưởi, giá sách, bàn ngủ và phía sau nhà vệ sinh. Đa dạng về màu sắc, nặng và cự kỳ chính xác về mặt giải phẫu, các tác phẩm điêu khắc của mẹ tôi đã nạp năng lượng cho mấy câu chuyện ngồi lê đôi mách ở Câu lạc bộ Vườn và là nguồn gốc cho một vết loét dạ dày mới của bố.
Dù sao thì, chẳng ai cãi lại được với thành công, và trước sự kinh ngạc của tất cả chúng tôi, các tác phẩm điêu khắc của mẹ đã mang lại một gia tài nho nhỏ. Khi Andrew bỏ tôi, mẹ rủ tôi đi một chuyến nghỉ dưỡng bốn ngày, nhờ sự trợ giúp của Phơi bày và Sữa #4. Chuỗi tác phẩm Hạt giống sinh sản đủ lo chi phí cho khu nhà kính xinh xắn bên cạnh kho vào mùa xuân năm ngoái, cùng với một chiếc Prius mới hồi tháng Mười.
"Này," Margaret nhập hội và nói. "Tình hình thế nào rồi?"
"Ồ, tuyệt lắm," tôi trả lời. "Chị thế nào?" Tôi liếc quanh phòng triển lãm. "Stuart đâu?"
Margaret nhắm một mắt lại và nghiến răng, trông hao hao giống Anne Bonny, nữ cướp biển. "Stuart... Stuart không ở đây."
"Hiểu rồi," tôi nói. "Tình hình hai người ổn chứ? Em để ý thấy bọn chị gần như không trò chuyện trong đám cưới của Kitty."
"Ai mà biết được?" Margaret trả lời. "Ý chị là, thật đấy. Biết thế quái nào được? Em nghĩ em hiểu rõ ai đó... sao cũng được."
Tôi chớp mắt. "Chuyện gì thế, Margs?"
Margaret nhình quanh đám người tò mò tụ tập quanh buổi trưng bày của mẹ và thở dài. "Chị không biết nữa. Hôn nhân không phải lúc nào cũng dễ dàng, Grace. Làm một cái bánh quy may mắn thì sao nhỉ? Có tí rượu nào ở đây không? Mấy cuộc trưng bày của mẹ bao giờ cũng hay hơn nếu hơi tây tây một chút, nếu em hiểu ý chị."
"Đằng kia," tôi nói, hất hàm về phía bàn đồ ăn phía sau phòng triển lãm.
"Tốt. Quay lại ngay đây."
Ahahaha. Ahahaha. Ôôôô. Ahahaha. Tiếng cười xã giao của mẹ, chỉ được cất lên trong các buổi trưng bày nghệ thuật hoặc khi mẹ cố gắng gây ấn tượng với ai đó, vang dội khắp căn phòng. Mẹ bắt gặp ánh mắt của tôi và nháy mắt, rồi bắt tay một người đàn ông lớn tuổi, người này đang nâng niu một vật bằng thủy tinh... ô, để xem... í ẹ. Một tác phẩm điêu khắc, hãy cứ nói thế đi. Một thương vụ khác. Tốt cho mẹ.
"Con vẫn đang chuẩn bị cho trận Bull Run chứ?" bố hỏi, tiến lại phía sau và khoác vai tôi.
"Ồ, chắc chắn rồi, bố ạ." Bull Run là một trong những trận yêu thích của tôi. "Bố được phân vai chưa ạ?" tôi hỏi.
"Rồi. Bố là Stonewall Jackson." Bố sung sướng.
"Bố! Thật tuyệt! Con chúc mừng bố! Ở đâu vậy ạ?"
"Litchfield," bố trả lời. "Con là ai?"
"Con là người vô danh," tôi rên rĩ. "Chỉ là một chân tép riu trong phe miền Nam. Nhưng con được khai hỏa đại bác."
"Thế mới là con gái bố chứ," bố tự hào bình luận. "Này, con sẽ đưa anh chàng mới của con tới chứ? Tên cậu ta là gì ấy nhỉ? À mà này, mẹ con và bố rất vui vì cuối cùng con cũng leo lại lên con ngựa già đấy."
Tôi khựng lại. "A, con cám ơn bố. Con không chắc là Wyatt có đến được hay không. Dù sao thì... con, con sẽ hỏi."
"Bố ơi," Margaret gọi, bước tới và vỗ yêu lên má bố. "Tình hình bán chác âm hộ thế nào rồi ạ?"
"Đừng có để bố phải bắt đầu về mấy cái tác phẩm nghệ thuật của mẹ con. Bố thì bố gọi nó là khiêu dâm." Ông liếc về phía mẹ. Ahahaha. Ahahaha. Ôôôô. Ahahaha. "Chết tiệt thật, bà ấy lại bán được một cái nữa. Bố phải đi đóng hộp cái đó đây." Bố đảo mắt qua chúng tôi và phục phịch bước về phía sau phòng triển lãm.
"Vậy, Grace," Margaret nói, "về cái anh chàng mới tinh này." Chị liếc quanh để đảm bảo là không ai nghe lỏm chúng tôi nói chuyện. "Em có thực sự đang hẹn hò với ai không, hay lại là một câu chuyện bịa khác?"
Chị làm luật sư bào chữa tội phạm quả không uổng. "Đã bại lộ," tôi lầm bầm.
"Không phải là em hơi bị già cho mấy trò chơi này rồi sao?" chị hỏi, nhấp một ngụm rượu.
Tôi làm mặt hề. "Vâng. Nhưng em bắt gặp Nat trong phòng tắm đám cưới của Kitty, đang quằn quại vì mặc cảm tội lỗi." Margs đảo mắt. "Vậy nên em thấy mình nên làm con bé dễ chịu hơn."
"Phải rồi. Cuộc sống với nàng công chúa thì phải dễ chịu," Margaret càu nhàu.
"Và còn một chuyện nữa," tôi tiếp tục nói rất khẽ. "Em phát ôm vì sự thương hại. Nat và Andrew nên xúc tiến béng đi cho rồi, chị biết đấy, và thôi đối xử với em như một con mèo tàn tật hôi lợi bị co giật và không thể gọi được thức ăn đi."
Margaret bật cười. "Rõ rồi nhé."
Tôi thừa nhận. "Sự thật là, em nghĩ em đã sẵn sàng gặp gỡ ai đó. Em sẽ chỉ giả vờ là đang hẹn hò thôi và rồi, chị biết đấy... tìm ai đó có thật."
"Tuyệt," Margaret nói với vẻ không mấy nhiệt tình.
"Thế có chuyện gì với chị và Stuart vậy?" tôi hỏi, tránh đường khi một phụ nữ đứng tuổi rụt rè len tới Nguồn sống, một tác phẩm điêu khắc hình buồng trứng mà trong con mắt mù y học của tôi thì trông giống như một quả bóng bay lổn nhổn màu xám.
Margaret thở dài, rồi cạn nốt chỗ rượu. "Chị không biết nữa, Grace. Chị không thực sự muốn nói về chuyện đó, được chứ?"
"Chắc chắn rồi," tôi cau mày lẩm bẩm. "Em có gặp Stuart ở trường, tất nhiên là thế."
"Phải. Vậy thì em có thể thay chị bảo anh ta cút xéo đi."
"Em... Em sẽ không làm thế. Chậc, Margs, thế có chuyện gì?" Mặc dù mối quan hệ của họ là một trường hợp hấp dẫn trái dấu, Margaret và Stuart dường như vẫn luôn đủ hạnh phúc. Họ lựa chọn không sinh con, tương đối sung túc nhờ những thành công vô tận của Margaret trên tòa, sống trong một ngôi nhà tuyệt đẹp ở Avon, tận hưởng những kỳ nghỉ xa hoa ở Tahiti, Liechtenstein và những nơi tương tự như thế. Họ đã kết hôn được bảy năm, và mặc dù Margaret không phải kiểu người để âu yếm hay vồ vập, chị lúc nào cũng có vẻ khá hài lòng.
"Điên chưa, nói về mấy cặp đôi tai họa, Andrew và Natalie đang đến kìa. Khỉ thật. Chị cần thêm ít rượu cho vụ này." Chị lẩn ra sau về phía cái bàn để lấy thêm một cốc rượu vang nho xanh rẻ tiền.
Và đúng là họ kia rồi, mái tóc của Andrew nhạt hơn màu vàng óng của Natalie một chút. Có vẻ thoải mái hơn nhiều so với ở đám cưới, khi mà họ không dám lại gần nhau trong vòng ba mét để đề phòng tôi bật khóc nức nở, giờ họ đang toát ra vẻ hạnh phúc. Tay họ khẽ chạm vào nhau khi lại gần, những ngón tay mơn trớn chút đỉnh dù họ dừng lại ngay trước khi nó biến thành một cái nắm tay thực sự. Phản ứng hóa học lóe lên giữa họ. Không, không chỉ là hóa học. Nồng nàn. Chính là cái đó. Mắt em tôi sáng lên, má ửng hồng trong khi đó khóe môi của Andrew nở nụ cười. Phát gớm.
"Này, mấy người!" tôi vui vẻ lên tiếng.
"Chào chị, Grace!" Natalie nói, má hồng lên khi con bé ôm lấy tôi. "Anh ấy có ở đây không? Chị có đưa anh ấy đến không?"
"Đưa ai?" tôi hỏi.
"Tất nhiên là Wyatt rồi!" Con bé cười khúc khích.
"À phải! Ưm, không, không. Chị nghĩ bọn chị nên hẹn hò lâu hơn vài tuần trước khi chị đưa anh ấy đến một trong các buổi triển lãm của mẹ. Với lại, anh ấy đang ở bệnh viện." Tôi cố nặn ra một nụ cười. "Chào Andrew."
"Em thế nào, Grace?" anh nói, cười rạng rỡ, đôi mắt xanh ánh lên.
"Em rất ổn." Tôi nhìn xuống chỗ rượu còn nguyên của mình.
"Tóc chị trông thật lộng lẫy!" Nat cảm thán, với tay ra chạm vào một lọn tóc vốn đã từng xoăn và không bị đốt điện của tôi.
"Ồ, chị mới đi cắt tóc sáng nay," tôi khẽ nói. "Mua một ít thuốc tạo nếp nữa." Đã gần như phải bán một bên buồng trứng của chính mình để mua được nó, nhưng phải rồi, cùng với mớ quần áo nữa, tôi phát hiện ra là uốn nắn bộ tóc tốt hơn một chút cũng là điều nên làm. Làm mình xinh đẹp nhất có thể khi đi tìm kiếm Người Đó cũng chả thiệt hại gì, phải không?
"Margaret đâu rồi?" Natalie hỏi, vươn cái cổ thiên nga của mình ra xung quanh. "Margs! Đằng này!"
Chị gái ném cho tôi một cái nhìn u ám khi tuân lệnh. Chị và Natalie lúc nào cũng hơi có chút khó chịu... thật ra thì, có lẽ sẽ công bằng hơn nếu nói rằng Margaret là người khó chịu, vì Natalie quá ngọt ngào để có thể gây sự với bất kỳ ai. Kết quả là, tôi hòa hợp với mỗi người hơn là hai chị em họ với nhau - một phần thưởng của tôi cho việc nghiễm nhiên bị coi là đứa con gái giữa tội nghiệp luôn bị làm ngơ.
"Mẹ vừa bán một cái tử cung với giá ba nghìn đô la!" mẹ kêu lên rồi nhập hội với chúng tôi.
"Chẳng có giới hạn nào cho gu thẩm mỹ tồi tệ của người Mỹ cả," bố nói, sưng sỉa lê bước phía sau mẹ.
"Ôi, im đi, Jim. Tốt hơn hết là tự tìm lấy cái hạnh phúc chết tiệt của ông và để cho hạnh phúc của tôi được yên."
Bố đảo mắt.
"Chúc mừng mẹ, thật là tuyệt!" Natalie nói.
"Cám ơn con, con yêu. Thật tốt là trong nhà còn có ai đó có thể ủng hộ cho nghệ thuật của tôi."
"Nghệ thuật cơ đấy," bố khịt mũi coi thường.
"Vậy, Grace," Natalie nói, "khi nào chúng em mới được gặp Wyatt? Họ của anh ấy là gì ấy nhỉ?"
"Dunn," tôi dễ dàng đáp lại. Margaret lắc đầu mỉm cười. "Chắc chắn chị sẽ sớm đưa anh ấy tới đây."
"Anh ấy trông như thế nào?" Nat hỏi, với lấy tay tôi theo kiểu thông đồng rất con gái.
"Thật ra thì, anh ấy rất chi là dễ thương," tôi liến thoắng. May là Julian và tôi đã duyệt qua vụ này rồi. "Cao, tóc đen..." tôi cố nhớ lại Bác sĩ Đẹp Trai trong phim E.R, nhưng tôi đã ngừng xem từ tập con chó hoang bị xổng, lùa cả bệnh nhân lẫn nhân viên bệnh viện chạy tán loạn. "Ừm, má lúm, em biết đấy? Nụ cười rất đẹp," Mặt tôi nóng bừng.
"Cô ấy đang đỏ mặt kìa," Andrew vui vẻ bình luận, và tôi cảm thấy một mảnh căm hận nóng rực bất ngờ đâm xuyên vào tim mình. Làm sao anh ta dám vui mừng vì tôi đã gặp được ai đó chứ!
"Nge có vẻ cậu ta thật tuyệt với," mẹ tuyên bố. "Không có nghĩa đó là một người đàn ông sẽ khiến con hạnh phúc, tất nhiên rồi. Nhìn bố con và mẹ xem. Đôi khi người bạn đời lại cố bóp nghẹt giấc mơ của con đấy, Grace ạ. Hãy chắc chắn là anh ta không làm như thế. Như bố con vẫn làm với mẹ ấy."
"Bà nghĩ là ai thanh toán cho cái đám thổi thủy tinh vớ vẩn của bà, hử?" bố phản pháo. "Chẳng phải tôi đã sửa lại cái gara cho niềm vui nho nhỏ của bà sao? Bóp nghẹt giấc mơ của bà cơ đấy. Tôi cũng muốn được bóp nghẹt cái gì đó đấy, được rồi."
"Chúa ơi, họ mới đáng yêu làm sao," Margaret thốt lên. "Ai mà muốn xen vào cơ chứ?"
CUỐI CÙNG, KHI TÔI VỀ TỚI NHÀ từ buổi triển lãm các bộ phận phụ nữ của mẹ, vị hàng xóng cáu bẳn của tôi đang dỡ mấy tấm ván khỏi mái hiên. Anh ta không ngẩng lên nhìn lấy một lần khi tôi tấp vào lối lên nhà, mặc dù tôi có dừng lại sau khi ra khỏi xe. Chẳng phải là một anh chàng dễ thương. Dù sao thì cũng không thân thiện. Tuy thế, chắc chắn là rất bắt mắt, tôi nghĩ khi dứt mắt khỏi những cánh tay cơ bắp cuồn cuộn của anh ta, thầm tạ ơn một cách vô thức rằng trời hôm nay ấm áp, đủ ấm để Chàng Hàng xóm Cáu bẳn cởi áo. Mặt trời lấp lánh trên tấm lưng lấm tấm mồ hôi trong lúc anh ta làm việc. Bắp tay của anh ta phải căng ngang với đùi tôi.
Trong một giây, tôi đã hình dùng ra cánh tay to lớn, vạm vỡ, giỏi giang ấy vòng quanh người mình. Chàng Hàng xóm Cáu bẳn trong tưởng tượng ấn tôi dựa vào tường nhà chàng, cơ bắp chàng cứng cáp và nóng bỏng khi chàng nhấc bổng tôi lên áp sát vào chàng, đôi tay to lớn đầy nam tính của chàng... Ai da, mày cần phải ngủ với chàng thôi, một ý nghĩ không mời vụt lóe lên. Rõ ràng, cái vòi sen đẩy xúc cảm ấy đã không phát huy tác dụng. Chàng Hàng xóm Cáu bẳn, bất hạnh thay, không hề để ý gì đến cái ảo ảnh đầy khát khao của tôi. Không hề để ý gì đến tôi, thực ra là thế.
Tôi bước vào nhà, thả Angus vào khoảnh sân bên trong hàng rào để đi vệ sinh, đào đất và lăn tròn. Tiếng gầm của lưỡi cưa điện xé rách không gian. Thở hắt một hơi, tôi bật máy vi tính để, cuối cùng, làm theo lời khuyên của Julian. Trang Match.com, eCommitment, eHarmony, phải, phải, phải. Đã đến lúc tìm lấy một người đàn ông. Một người tốt. Một anh chàng tử tế, chăm chỉ, ngay thẳng, đạo đức, ưa nhìn, ái mộ tôi cuồng nhiệt. Em đến đây, thưa ngài. Đợi đấy nhé.
Sau khi miêu tả vốn liếng của mình trên mạng, tôi ghé qua xem mấy hồ sơ. Chàng số 1 - từ chối. Quá xinh trai. Chàng số 2 - từ chối. Sở thích của anh này là NASCAR và các câu lạc bộ đấu võ hạng nặng. Chàng số 3 - từ chối. Nói thẳng là trông kỳ quặc quá. Nhận ra có lẽ tâm trạng mình không thích hợp để làm việc này, tôi ngồi chữa mấy bài kiểm tra về Thế chiến thứ hai cho đến khi trời tối, chỉ dừng lại để ăn một ít đồ ăn Trung Quốc mà Julian đã mang qua từ hôm thứ Năm, rồi quay ngay lại để chữa bài, khoanh các lỗi ngữ pháp và yêu cầu thêm chi tiết trong các câu trả lời. Ở trường Manning vẫn có một lời phàn nàn rằng cô Emerson chấm điểm đắt quá, nhưng này nhé, những học sinh được điểm A ở lớp tôi hoàn toàn xứng đáng.
Xong việc, tôi ngồi ngả ra và thư giãn. Trên tường bếp, đồng hồ con mèo Fritz của tôi tích tắc ồn ĩ, đuôi ngúc ngoắc để giữ cho thời gian trôi. Mới chỉ có tám giờ, và màn đêm trải ra trước mắt tôi. Tôi có thể gọi cho Julian... không. Hình như anh bạn thân nhất của tôi nghĩ rằng chúng tôi đã quá phụ thuộc vào nhau, và tuy có vẻ như điều đó hoàn toàn đúng, dù sao vẫn có chút day dứt. Chẳng có gì sai trái khi phụ thuộc vào nhau cả, phải không? Xem nào. Ít nhất, anh ấy cũng gửi cho tôi một đoạn email kể lể vui vẻ về bốn người đàn ông có hứng thú với hồ sơ trực tuyến của anh, và những cơn co thắt dạ dày theo sau mà anh phải chịu đựng. Anh chàng hèn nhát đáng thương. Tôi gõ thư hồi đáp, trấn an anh rằng cả tôi cũng đã có hồ sơ trên mạng và bảo rằng tôi sẽ gặp anh ở Golden Meadows trong buổi Khiêu vũ với Người cao tuổi.
Sau một tiếng thở dài, tôi tỉnh dậy. Mai là ngày đến trường. Có lẽ tôi nên diện một trong những bộ đồ mới của mình. Angus luýnh quýnh dưới gót dày, tôi lê bước lên cầu thang để làm quen lại với quần áo của mình. Thực ra, tôi nghĩ trong lúc khảo sát tủ quần áo của mình, đã đến lúc thanh lọc rồi. Phải. Ai đó phải tự hỏi mình xem khi nào thì thời trang kiểu cổ điển đơn giản trở nên quá cũ. Tôi vớ lấy một cái túi rác và bắt đầu giật lấy giật để. Tạm biệt những chiếc áo len thủng mấy lỗ dưới nách, cái váy xa tanh với vết cháy sau lưng, chiếc quần bò vừa vặn vào năm 2002. Angus đồng lòng gặm nát một chiếc bốt bằng nhựa vinyl (hồi đó tôi nghĩ gì vậy trời?), và tôi tặng nó luôn.
Cuối tuần trước, tôi xem một chương trình về một người phụ nữ, người này sinh ra đã không có chân. Cô là một thợ máy... thực ra, khuyết tật lại khiến cho công việc của cô dễ dàng hơn, cô tâm sự, bởi vì cô chỉ cần trượt vào dưới xe trên chiếc ván trượt nhỏ mà cô vẫn dùng để đi lại. Cô đã kết hôn một lần, nhưng giờ đang hẹn hò với hai người khác, đơn giản là tận hưởng thời gian này. Chồng cũ của cô được phỏng vấn tiếp sau, một anh chàng điển trai, hai chân, tất cả chỉ có thế. "Tôi sẽ làm bất cứ điều gì để có lại được cô ấy, chỉ có điều đối với cô ấy tôi vẫn là chưa đủ," anh rầu rĩ nói. "Tôi hy vọng cô ấy sẽ tìm được điều mà cô ấy đang tìm kiếm."
Tôi thấy mình có một chút... thật ra thì, không hẳn là ghen tị, nhưng đúng là có vẻ như người phụ nữ này có một lợi thế đầy bất công trong cái thế giới hò hẹn này. Ai cũng sẽ nhìn vào cô ấy và nói, Chà, thật là một tinh thần ngoan cường. Chẳng phải cô ấy thật tuyệt sao! Còn tôi thì sao? Còn những người hai chân quanh ta thì sao, hả? Làm thế nào mà chúng tôi cạnh trạnh được với cái đó cơ chứ?
"Được rồi, Grace," tôi oang oang độc thoại, "chúng ta đi quá giới hạn rồi. Hãy tìm cho mày một anh bạn trai và chấm dứt vụ này, được chứ? Angus, đi thôi, bé yêu. Mẹ phải lên tầng áp mái với cái đống nợ này, hay là mày sẽ nhai sạch nó trong chớp mắt, được không? Bởi vì mày là một cậu bé hư hỏng, phải không nào? Đừng có chối. Mày đang ngậm bàn chải đánh răng của tao trong miệng kìa. Tao có mù đâu hả, anh bạn trẻ."
Tôi kéo lê cái túi rác đầy những đồ ấy xuống hành lang về phía thang lên gác mái. Chết tiệt. Đèn phụt tắt, và tôi không muốn ì ạch leo xuống để lấy cái khác. À thì, tôi cũng chỉ đang cất đồ đi cho đến khi có thể làm một chuyến ra bãi rác thôi.
Tôi leo lên dãy bậc thang, mùi gỗ tuyết tùng găn gắt luôn vào mũi. Giống như nhiều ngôi nhà kiểu Victoria, nhà của tôi có một phòng áp mái lớn hết cỡ, trần cao ba mét và cửa sổ khắp xung quanh. Một ngày nào đó, tôi tưởng tượng, mình sẽ đặt mấy tấm cách nhiệt và tấm vữa, biến chỗ này thành phòng chơi cho lũ con đáng yêu của mình. Mình sẽ có một gác sách chạy quanh phòng. Một không gian nghệ thuật gắn cửa sổ trước nơi ánh mặt trời rọi vào. Một chiếc bàn mô hình tàu hỏa ở đằng kia, góc thay đồ ở đằng này. Nhưng bây giờ, nó chỉ chứa mấy mảnh đồ đạc cũ, vài cái hộp đồ trang trí cho Giáng sinh và mấy bộ đồng phục cùng súng ống thời Nội chiến của tôi. Ôi, và váy cưới của tôi nữa.
Người ta làm cái gì với một chiếc váy cưới chưa từng mặc, may-riêng-cho-mình nhỉ? Tôi không thể cứ đơn giản tống nó đi, phải không? Nó đã ngốn không ít tiền. Nhỡ đâu, nếu tôi kiếm được một phiên bản bằng xương bằng thịt của Wyatt, biết đâu tôi sẽ làm đám cưới, nhưng liệu tôi có muốn dùng chiếc váy đã mua vì Andrew không? Không, dĩ nhiên là không. Thế nhưng nó vẫn yên vị trong chiếc túi hút chân không của mình, tránh ánh mặt trời để không bị phai màu. Tôi băn khoăn liệu nó còn vừa không. Tôi đã tăng thêm vài cân từ sau vụ Bỏ Rơi. Hừm. Có khi tôi nên mặc thử.
Tuyệt. Tôi đang dần trở thành bà cô Havisham(1). Tới đây, tôi sẽ ăn đồ thiu thối và đặt đồng hồ về 9 giờ kém 20.
(1) Nhân vật trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Great Expectation của Charles Dicken. Vào ngày cưới của mình, đúng 9 giờ kém 20, cô Havisham nhận được bức thư của chồng chưa cưới, tuyên bố sẽ không thể lấy cô làm vợ. Từ đó, cô dừng đồng hồ ở thời điểm 9 giờ kém 20.
Có cái gì đó gặm gặm khủy tay tôi. Angus. Tôi không nghe tiếng nó lên cầu thang. "Chào, anh bạn nhỏ," tôi nói, nhấc nó lên và bỏ sợi mì vừng ra khỏi cái đầu xinh xắn của nó. Rõ ràng, nó đã vục vào chỗ đồ ăn Trung Quốc. Nó rên rỉ trìu mến và phe phẩy cái đuôi. "Cái gì vậy? Mày thích tóc tao hả? Ồ, cảm ơn, Angus McFangus. Gì cơ? Đã đến giờ ăn Ben & Jerry rồi à? Sao hả, thiên tài bé bỏng! Mày đúng tuyệt đối đấy. Mày nghĩ sao? Bánh Crème Brulée hay quán Coffee Health?" Cái tai nhỏ của nó vẫy vẫy ngay cả khi nó cắn vành tai tôi và giật đau điếng. "Coffee Health là lựa chọn cuối cùng, bé yêu. Tất nhiên là chúng ta có thể chia nhau."
Tôi gỡ con chó ra, rồi quay người bước đi, nhưng có gì đó ngoài cửa đập vào mắt.
Một người đàn ông.
Dưới tôi hai tầng gác, người hàng xóm cáu kỉnh, bầm dập của tôi đang nằm trên mái nhà, ở phía sau, chỗ gần như bằng phẳng. Anh ta đã mặc thêm quần áo (ôi chao), và chiếc áo phông sáng lên trong bóng tối. Quần jean. Chân trần. Tôi có thể thấy anh ta chỉ... chỉ nằm đó, tay để sau đầu, một đầu gối co lên, mắt hướng lên bầu trời.
Có cái gì đó quặn lên phía dưới dạ dày, da tôi căng lên nóng bỏng. Đột nhiên, tôi có thể cảm thấy máu dồn đến những bộ phận từ lâu bị quên lãng.
Chầm chậm, để không thu hút sự chú ý, tôi hé cửa sổ ra một chút xíu. Tiếng ếch cây ùa vào, giữa mùi dòng sông và cơn mưa phía xa. Làn gió ẩm ướt khiến đôi má nóng bừng của tôi nguội bớt.
Trăng đã lên ở đằng Tây, và người láng giềng của tôi, dễ cáu đến mức không thèm nói tên mình với tôi, chỉ nằm đó trên mái nhà, ngắm nhìn bầu trời đêm xanh thăm thẳm.
Kiểu người nào lại làm như thế chứ?
Angus hắt hơi khinh bỉ, và tôi vội nhảy lùi khỏi cửa sổ, nhỡ Chàng Hàng xóm Cáu bẳn nghe tiếng.
Đột nhiên, mọi thứ tập trung hết về một mối. Tôi muốn một người đàn ông. Đó, ngay bên cạnh, là một người đàn ông. Một anh chàng nam tính. Phần nữ tính trong tôi quặn lên ấm áp.
Công nhận, tôi không muốn một cuộc tình chóng vánh. Tôi muốn một người chồng, và không phải là bất cứ ông chồng nào. Một ông chồng thông minh, vui tính, tử tế và đạo đức. Chàng yêu trẻ con và động vật, nhất là chó. Chàng làm việc chăm chỉ với một nghề cao quý, trí tuệ nào đó. Chàng thích nấu ăn. Chàng không lúc nào hết hào hứng. Chàng ngưỡng mộ tôi.
Tôi không biết bất cứ điều gì về người đàn ông dưới kia. Đến cả tên cũng không. Tất cả những gì tôi biết là tôi cảm thấy điều gì đó - si mê, thật lòng là thế - với anh ta. Nhưng đó mới là một sự khởi đầu. Tôi không có cảm giác gì với bất cứ người đàn ông nào từ lâu, lâu lắm rồi.
Ngày mai, tôi tự nhủ trong lúc đóng cửa sổ, mình sẽ tìm ra tên của người láng giềng. Và mình sẽ mời anh ta qua dùng bữa tối nữa.
Chương 6
"Vậy là dù Sewell Point không phải là trận đánh chính, nó vẫn có tiềm năng ảnh hưởng mạnh mẽ tới kết quả của cuộc chiến. Hiển nhiên, vịnh Chesapeake là khu vực trọng yếu của cả hai bên. Chốt lại. Mười trang về cuộc bao vây và ảnh hưởng của nó, hạn nộp là thứ Hai."
Cả lớp rên rỉ. "Cô Em!" Hunter Graystone phản đối. "Chừng đó, kiểu như, là gấp mười lần lượng bài bất cứ giáo viên nào khác giao rồi ạ."
"Ôi, mấy con mèo nhỏ của tôi! Muốn tôi yểm trợ trong lúc các em đánh máy hả?" Tôi nháy mắt. "Mười trang. Mười hai nếu chống đối."
Kerry Blake cười rúc rích. Cô bé đang nhắn tin cho ai đó. "Đưa cái đó đây, Kerry," tôi nói, với tay lấy chiếc điện thoại. Đó là một chiếc điện thoại đời mới, vỏ ngoài trang trí lấp lánh.
Kerry nhướng một bên lông mày được tỉa hoàn hảo lên với tôi. "Thưa cô Emerson, cô có, kiểu như, biết cái đó đáng giá bao nhiêu không ạ? Kiểu như, nếu bố em mà biết cô tịch thu nó, bố sẽ, kiểu như... rất là không vui."
"Em không được dùng điện thoại trong lớp, cưng ạ," tôi nói điều này phải đến lần thứ 100 trong tháng này. "Em sẽ được nhận lại nó vào cuối ngày."
"Sao cũng được," cô bé lẩm bẩm. Rồi, bắt được ánh mắt của Hunter, cô bé hất mái tóc và vươn vai. Hunter ngoác miệng cười tán thưởng. Tommy Michener, đau đầu mê mẩm Kerry đến vô lý, đứng hình trước cảnh đó, và điều ấy lại làm Emma Kirk ủ rũ. Ây dà, tình yêu tuổi trẻ.
Phía bên kia hành lang, tôi nghe rộn lên tiếng cười đầy nhục cảm từ lớp lịch sử của Ava Machiatelli. Hầu hết các học sinh ở trường Manning đều yêu Machiatelli. Chấm điểm dễ, cảm thông cho lịch học bận rộn của tụi nhỏ nên giao rất ít bài tập về nhà, và là người tìm tòi nông cạn nhất về lịch sử kể từ khi... chính xác là, từ khi Brad Pitt thủ vai trong phim Troy. Nhưng cũng như Brad Pitt, Ava Machiatelli xinh đẹp và quyến rũ. Thêm vào cái đó mấy chiếc áo len ngắn và váy bó, và bạn sẽ có Marilyn Monroe dạy lịch sử. Tụi con trai thèm khát cô ta, tụi con gái xin cô ta nhận xét về thời trang, phụ huynh yêu cô ta vì con cái họ luôn đạt điểm A. Tôi... không có lấy một mống "fan" như thế.
Tiếng chuông chùm vang lên, báo hiệu hết tiết. Học viện Manning không có chuông quả - âm thanh quá gắt đối với những đôi tai trẻ trung của giới nhà giàu ở Mỹ. Dù vậy, những chiếc chuông chùm Thiền định vẫn có hiệu ứng chẳng khác gì liệu pháp giật điện - học trò của tôi quăng mình ra khỏi ghế để lao ra cửa. Vào các thứ Hai, Nội chiến là giờ cuối cùng trước bữa ăn.
"Các em từ từ đã," tôi gọi. Bọn trẻ dừng lại, như lũ cừu. Phần lớn bọn chúng đều được nuông chiều quá mức và quá phức tạp ở cái lứa tuổi dễ vỡ này, nhưng chúng lại biết vâng lời, phải công nhận điều đó. "Cuối tuần này, hội Anh Em Chống Anh Em sẽ diễn lại trận Bull Run, còn được biết đến với tên trận Manassas Thứ Nhất, tôi chắc chắn tất cả các em đều biết về trận này, vì nó nằm trong bài đọc ở nhà từ hôm thứ Ba. Điểm thưởng cho bất cứ ai tới, được chứ? Gửi email cho tôi nếu em nào quan tâm và tôi rất vui lòng được đón các em tại đây."
"Có vẻ là," Kerry nói. "Em chẳng cần điểm thưởng đến mức ấy đâu."
"Cảm ơn cô Em," Hunter nói với. "Nghe có vẻ vui đấy ạ."
Hunter sẽ không tới dù cậu là một trong những học sinh lịch sự của tôi. Cuối tuần của cậu được dành để làm những việc như đi ăn tối với Derek Jeter trước trận đấu của đội Yankee hoặc bay tới một trong rất nhiều ngôi nhà của gia đình cậu. Tommy Michener có thể tới, vì cậu có vẻ thích lịch sử - các bài viết của cậu luôn sắc sảo và hiểu biết - nhưng chắc chắn hơn, áp lực bạn bè sẽ giữ cậu ở nhà, khốn khổ theo đuổi cô nàng Kerry, vẻ hấp dẫn trong sáng của Emma Kirk, chẳng có ý nghĩa gì với cậu.
"Này, Tommy?" tôi gọi.
Cậu bé quay lại phía tôi, "Vâng, cô Em?"
Tôi đợi một chút cho tới khi mọi người khác đã đi ra. "Mấy hôm nay mọi chuyện vẫn ổn chứ?"
Cậu cười hơi buồn. "À vâng. Chỉ là mấy chuyện vớ vẩn thường ngày thôi ạ."
"Em có thể làm tốt hơn Kerry," tôi nói nhẹ nhàng.
Cậu khịt mũi. "Bố em cũng nói thế."
"Thấy chưa? Hai trong số những người lớn mà em yêu quý đồng tình nhé."
"Phải ạ. Chà, cô không thể chọn được mình sẽ phải lòng ai, đúng không cô Em?"
Tôi sững lại. "Không. Chắc chắn là em không thể rồi."
Tommy đi rồi, tôi thu gom lại giấy tờ. Lịch sử là một môn khó dạy. Nói cho cùng, phần lớn bọn trẻ tuổi teen đều hiếm khi nhớ được chuyện gì vừa xảy ra tháng trước, nói gì đến một thế kỷ rưỡi trước, biết làm sao. Dù chỉ một lần, tôi muốn bọn nhỏ cảm nhận được lịch sử đã tác động đến thế giới chúng ta đang sống như thế nào. Nhất là cuộc Nội chiến, giai đoạn yêu thích của tôi trong lịch sử nước Mỹ. Tôi muốn chúng hiểu được những gì đã phải mang ra mạo hiểm, hình dung được gánh nặng, nỗi đau và sự bất ổn mà Tổng thống Lincoln hẳn đã phải trải qua, sự mất mát và cảm giác bị phản bội của dân miền Nam, những người đã ly khai...
"Xin chào, Grace." Ava đứng ở ngưỡng cửa, trình diễn nụ cười ngái ngủ đặc trưng của mình, kèm theo sau là ba cái nháy mắt quyến rũ. Đấy, cái thứ nhất... và thứ hai... và đây là cái thứ ba.
"Ava! Chị thế nào?" tôi nói, rặn ra một nụ cười.
"Cũng khá ổn, cám ơn." Cô ta lắc nhẹ đầu để mái tóc óng ả đổ sang một bên. "Chị đã nghe tin chưa?"
Tôi ngần ngừ. Ava, không giống tôi, có tai trên vách khi có vấn đề liên quan tới chính sách của trường Manning. Tôi là một trong những giáo viên kinh hãi khi phải chuyện trò thân mật với ủy viên ban quản trị và những cựu học sinh giàu có, trong khi lại thích dành thời gian cho việc lên kế hoạch lớp và kèm cặp những em cần giúp đỡ thêm hơn. Ngược lại, Ava tham gia vào hệ thống đó. Thêm nữa, thực tế là tôi không sống trong trường (Ava có một ngôi nhà nhỏ ở rìa sân trường, và theo đồn đại thì cô ta đã ngủ với trưởng bộ phận quản lý nhà để có được nó), nên cô ta chắc chắn là đã nghe ngóng được nhiều chuyện.
"Không, Ava. Tin gì vậy?" tôi hỏi, cố để giữ cho giọng mình thoải mái. Chiếc áo choàng của cô ta cổ trễ đến nỗi tôi có thể trông thấy một hình xăm chữ Trung Quốc trên ngực phải. Thế nghĩa là tất cả những học sinh đi ngang qua lớp cô ta cũng đều có thể thấy nó.
"Tiến sĩ Eckhart định thôi chức chủ nhiệm bộ môn lịch sử." Cô ta cười, giống một con mèo. "Tôi nghe được từ Theo. Dạo này chúng tôi gặp nhau nhiều lắm." Đỉnh thật. Theo Eisenbraun là chủ tịch hội đồng ủy viên của Học viện Manning.
"À. Thú vị thật đấy," tôi nói.
"Ông ấy sẽ công bố chuyện này vào cuối tuần sau Theo đã bảo tôi ứng cử rồi." Cười. Chớp. Chớp. Và... đợi một lát... chớp cái nữa.
"Tuyệt. Thôi, tôi phải chạy đi ăn trưa đây. Gặp cô sau nhé."
"Quá tệ vì cô không sống trong trường, Grace ạ. Như thế cô sẽ có vẻ không được gắn bó với Manning cho lắm."
"Cám ơn vì đã quan tâm," tôi nói, nhét đống giấy tờ vào chiếc túi da tả tơi. Tin của Ava khiến tôi bàng hoàng. Phải, Tiến sĩ Eckhart già rồi, nhưng ông ấy già từ lâu rồi. Ông là người đã thuê tôi sáu năm trước, là người đứng về phía tôi khi phụ huynh ép tôi phải nâng điểm cho Peyton hay Katharine bé bỏng nào đó, người toàn tâm ủng hộ những nỗ lực khuyến khích bọn trẻ của tôi. Tôi đã nghĩ hẳn ông sẽ phải nói với tôi nếu ông định ra đi. Tuy thế, chuyện đó cũng chẳng dễ nói. Trường tư là nơi thật kỳ quặc, và thông tin của Ava thường rất đáng tiền, tôi phải công nhận điều này ở cô ta.
Kiki gặp tôi ở bên ngoài hội trường Lehring. "Này, Grace, muốn đi ăn trưa không?"
"Không được," tôi đáp. "Tớ phải chạy về nhà trước tiết lịch sử thực dân. Gặp cậu sau nhé."
"Vì con chó của cậu à?" cô hỏi đầy nghi hoặc. Kiki là cô chủ kiêu hãnh của một con mèo được đặt tên một cách vô cùng bí ẩn, Ngài May Mắn, một con mèo Xiêm mắc bệnh tiểu đường, mù một mắt, mất vài cái răng, dễ bị bốc lông và bị hội chứng ruột kích thích.
"À, phải, Angus hơi bị hiếu động, nếu cậu muốn biết, và tớ không muốn về tới nhà tối nay và phát hiện ra ruột già của cu cậu không còn nhịn được nữa."
"Bọn chó thật kinh."
"Tớ sẽ không đề cao cái ý kiến đó bằng cách trả lời đâu, tới chỉ nói là có phiếu thưởng gấp đôi cho thức ăn mèo Fresh Step ở cửa hàng Stop & Shop thôi."
"Ôi, cảm ơn nhé!" Kiki nói. "Thực ra tớ cũng sắp hết mất rồi. Mà Grace này, tớ đã kể là tớ vừa mới gặp một người chưa nhỉ?"
Trong khi đi ra xe, Kiki ca tụng những phẩm hạnh của anh chàng nào đó tên Bruce, tử tế, hào phóng, tình cảm, vui tính, hấp dẫn, thông minh, chăm chỉ và cực kỳ ngay thẳng.
"Và cậu gặp anh chàng đó bao giờ?" tôi hỏi, chuyển đống giấy tờ để mở cửa xe.
"Chúng tớ đi uống cà phê thứ Bảy vừa rồi. Ôi, Grace, tớ nghĩ chính là chàng này rồi. Ý tớ là, tớ biết trước đây tớ nói câu này rồi, nhưng chàng thật hoàn hảo."
Tôi cắn phải lưỡi. "Chúc may mắn," tôi nói, trong đầu lên kế hoạch dành sẵn thời gian an ủi Kiki, khoảng mười ngày nữa tính từ hôm nay, khi Bruce chắc hẳn sẽ đổi số điện thoại và bạn tôi thì nằm khóc trên ghế bành nhà tôi. "Này, Kiki, cậu nghe chuyện gì về Tiến sĩ Eckhart chưa?"
Cô lắc đầu. "Sao? Ông ấy chết rồi à?"
"Không. Ava nói với tớ là ông ấy sắp về hưu."
"Và Ava biết được tin này vì cô ta ngủ với ông ấy hả?" Kiki, cũng như Ava, sống trong trường, và thỉnh thoảng tụ tập với nhau.
"Nào nào."
"À, nếu đúng là thế thì thật tốt cho cậu, Grace! Chỉ có Paul là có thâm niên hơn thôi, đúng không? Cậu sẽ ứng cử cho vị trí đó, đúng không?"
"Giờ thì còn hơi sớm để nói chuyện đó," tôi nói, né câu hỏi. "Tớ chỉ không biết cậu có nghe nói chưa thôi. Gặp lại sau nhé."
Tôi cẩn thận lách ra khỏi bãi đổ xe – học sinh trường Manning thường lái những chiếc xe giá trị hơn số lương cả năm của tôi, và xước một cái thì không nên chút nào – rồi đi qua Farmington, quay trở về những con phố vòng vèo của Peterson, nghĩ ngợi về Tiến sĩ Eckhart. Nếu là đúng, thì, phải, tôi sẽ ứng cử để trở thành chủ nhiệm bộ môn mới. Nói thật ra, tôi nghĩ giáo trình lịch sử của Manning thật khó tiêu. Bọn trẻ cần phải cảm nhận được tầm quan trọng của quá khứ, và, phải, có lúc chúng cần phải được nhồi cái đó xuống họng. Nhẹ nhàng và đầy yêu thương, tất nhiên rồi.
Tôi tấp vào lối đi lên nhà và nhận ra lý do thực sự cho chuyến về nhà của mình, ruột già của Angus chẳng bị làm sao cả. Hàng xóm của tôi đang đứng trước sân cạnh chiếc cưa điện hay một dụng cụ gì tương tự như thế. Không mặc áo. Cơ vai cuộn sóng dưới làn da, bắp tay căng và gồ lên... rắn chắc... vàng óng... Được rồi, Grace! Đủ rồi đấy!
"Chào anh láng giềng," tôi nói, nhăn mặt khi lời chào khỏi miệng.
Anh ta tắt máy cưa và bỏ kính bảo hộ ra. Tôi cau mày. Mắt anh ta đúng là một thảm họa. Nó mở được một hay hai phần - có tiến bộ so với tình trạng sưng vù nhắm tịt của hôm qua - và từ những gì tôi có thể thấy, lòng trắng mắt anh ta đỏ ngầu. Một vết thâm xanh tím phủ từ lông mày xuống gò má. Chào, anh chàng du côn! Phải, vẫn biết tôi là thủ phạm gây ra vết thâm đó - thực ra, không phải chỉ có một, bởi vì tôi nhìn thấy một vết hằn mờ đỏ tía dọc quai hàm, ngay chỗ tôi đập cái cào vào anh ta - nhưng biết sao được. Anh ta vẫn có vẻ ngoài thô ráp và gợi cảm của Marlon Brando trong phim Trên bến cảng, Clive Owen trong Thành phố tội lỗi, Russel Crowe trong tất cả các phim chàng đóng.
"Chào," anh ta cất lời, buông tay khỏi hông. Cử động đó khiến đôi cánh tay anh ta phác một đường cong đẹp ngây ngất.
"Mắt anh thế nào rồi?" tôi hỏi thăm, cố gắng để không nhìn chằm chằm vào vòm ngực rộng, vạm vỡ của anh ta.
"Trông nó thế nào?" anh ta càu nhàu.
Được rồi, vậy là anh ta vẫn chưa bỏ qua chuyện đó. "Ừm, nghe này, chúng ta đã có một khởi đầu tồi," tôi nói, miệng nở ra một thứ mà tôi hy vọng là một nụ cười thê thảm.
Từ trong nhà tôi, Angus nghe thấy tiếng tôi và bắt đầu sủa lên mừng rỡ. Ẳng! Ẳng! Ẳng! Ăngăngăngăngăng! "Chúng ta có thể bắt đầu lại từ đầu không? Tôi là Grace Emerson. Tôi sống ở nhà bên." Tôi nuốt nước bọt và chìa tay ra.
Anh láng giềng nhìn tôi một thoáng, rồi đi về phía tôi và bắt tay. Ôi Chúa ơi. Dòng điện chạy thẳng lên cánh tay tôi như thể tôi vừa cầm phải một đoạn dây điện ngầm. Bàn tay anh ấy chắc chắn là một bàn tay của người lao động. Chai sạn, cứng rắn, ấm áp.
"Callahan O'Shea," anh nói.
Ối, ôi, ôi chao. Cái tên. Gợi lên những con người ở vùng đất mà tôi yêu thích, đã bị quên lãng từ lâu, ấn tượng của tôi về họ là cái gì chặt ấm áp.
Ăngăngăngăngăng! Tôi nhận ra mình đang dán mắt vào Callahan O'Shea (thở dài!) và vẫn nắm chặt lấy tay anh. Còn anh thì đang cười, chỉ phơn phớt thôi, khiến cho vẻ ngoài du côn dịu bớt đi tương đối.
"Vậy," tôi nói, giọng yếu ớt, ngần ngừ buông tay anh ra. "Anh chuyển từ đâu tới?"
"Virginia." Anh nhìn tôi chăm chú. Thật khó mà nghĩ ngợi được gì.
"Virginia. Ha. Chỗ nào ở Virginia?" tôi nói. Ăngăngăngăngăng! Giờ thì Angus gần như phát cuồng. Trật tự, bé con, tôi nhủ thầm. Mẹ yêu đang ngất ngây đây.
"Petersburg," anh trả lời. Không phải là anh chàng to mồm nhất, nhưng thế cũng tốt. Cơ bắp thế kia... đôi mắt ấy... à, cái bên mắt không bị thâm, không vằn đỏ... nếu bên kia cũng như vậy, tôi đang được ưu ái rồi đây.
"Petersburg," tôi nhắc lại yếu ớt, vẫn nhìn anh chăm chăm. "Tôi đã ở đó. Có kha khá các trận đánh trong cuộc Nội chiến ở dưới đó. Cuộc đột kích ở Petersburg. Những Ông già và Các Chàng trai. Phải Phải."
Anh không trả lời. Ẳng! Ẳng! Ẳng! "Thế anh làm gì ở Petersburg?" tôi hỏi.
Anh khoanh tay. "Ba tới năm."
Ăngăngăngăngăng! "Sao cơ ạ" tôi hỏi lại.
"Tôi thi hành án ba tới năm năm ở Nhà tù Liên bang Petersburg," anh đáp.
Tôi lỡ mất mấy nhịp tim mới nạp được thông tin đó. Bưng... bưng... bưng... Trời đất quỷ thần ơi!
"Nhà tù ấy à?" tôi kêu lên the thé. "Và, ừm... chà! Nhà tù! Tưởng tượng mà xem!"
Anh không nói gì.
"Vậy... khi... anh được ra khi nào?"
"Thứ Sáu."
Thứ Sáu. Thứ Sáu. Anh ta mới ra tù! Anh ta là tội phạm! Và anh ta đã phạm tội gì hả trời? Suýt nữa tôi tự đào hố chôn mình rồi nhé! Và tôi đã choáng anh ta! Lạy đức Mẹ thiêng liêng! Tôi đã phang một cựu tù và khiến anh ta bị giam! Khiến anh ta... ôi Chúa ơi, khiến anh ta bị giam vào cái đêm anh ta được thả. Chắc chắn chuyện này sẽ chẳng làm cho Callahan O'Shea, Cựu Tù, yêu mến tôi được đâu. Nhỡ may anh ta muốn trả thù thì sao?
Tôi há mồm thở hổn hển. Phải, chắc chắn là tôi thở hơi quá gấp.
Ăngăngăngăngăng! Cuối cùng, phần chuồn trong câu chiến đấu hay là chuồn, hay bản năng chiến, cũng thức dậy.
"Chao! Nghe con chó của tôi kìa! Tốt hơn là tôi nên đi thôi. Tạm biệt! Chúc một ngày tốt lành! Tôi phải... Tôi nên gọi cho bạn trai. Anh ấy đang chờ tôi gọi. Chúng tôi luôn gọi cho nhau vào buổi trưa để nắm tình hình. Tôi nên đi thôi. Chào!"
Tôi cố gắng để không chạy vào nhà. Tuy thế, tôi cũng đã khóa cánh cửa sau lưng mình. Và cái then cứng. Và kiểm tra cửa sau. Rồi khóa nó lại. Cả mấy cái cửa sổ nữa. Angus chạy đua quanh nhà theo kiểu ăn mừng truyền thống của mình, nhưng tôi quá choáng váng để có thể dành cho nó sự chú ý mà nó vốn đã quen thuộc.
Ba tới năm năm! Trong tù! Tôi sống cạnh một cựu tù! Tôi suýt nữa đã mời anh ta qua ăn tối!
Tôi vớ lấy điện thoại và bấm lia lịa số của Margaret. Chị là một luật sư. Chị sẽ bảo tôi phải làm gì.
"Margs, em đang sống bên cạnh một cựu tù! Em nên làm gì?"
"Chị đang trên đường vào phiên tòa, Grace. Một cựu tù à? Anh ta vào đó vì cái gì?"
"Em không biết! Thế nên em mới cần chị."
"À, thế em biết gì?" chị hỏi.
"Anh ta đã ở Petersburg, Virginia. Ba năm? Năm năm? Ba tới năm năm? Như thế liệu là vì cái gì? Không có gì xấu, đúng không? Không có gì đáng sợ cả?"
"Có thể là bất cứ tội gì." Margaret thản nhiên. "Người ta lĩnh án ít hơn cho tội hiếp dâm và xâm phạm."
"Ôi, Chúa lòng lành!"
"Bình tĩnh lại nào, bình tĩnh nào. Petersburg hả? Đó là nơi ít an ninh nhất, chị khá chắc. Nghe này, Grace, chị không thể giúp được em bây giờ. Gọi lại sau nhé. Tra Google về anh ta đi. Phải đi đây."
"Phải rồi, Google. Ý hay," tôi nói, nhưng chị đã cúp máy mất rồi. Tôi gõ bồm bộp vào máy tính, mồ hôi túa ra. Liếc nhanh ra cửa sổ phòng ăn, tôi biết Callahan O'Shea đã trở lại với công việc. Mấy bậc cấp mục nát ở hiên trước đã bị dỡ đi, mấy tấm ván gần như biến mất. Tôi hình dung ra cảnh anh ta đang nhặt rác dọc đường cao tốc của bang, mặc một bộ quần áo liền quần màu da cam. Ôi, chết tiệt.
"Thôi nào," tôi lẩm bẩm, đợi máy tính hoạt động trở lại. Khi màn hình Google cuối cùng cũng hiện lên, tôi gõ vào Callahan O'Shea và chờ đợi. Đây rồi.
Callahan O'Shea, chơi violon chính trong một nhóm nhạc dân gian Ireland Chúng tôi nhớ anh, Booby Sands, bị thương nhẹ khi ban nhạc bị ném rác vào thứ Bảy ở quán rượu Sullivan tại Limerick.
Được rồi. Chắc có lẽ không phải anh chàng của tôi. Tôi kéo xuống. Bất hạnh thay, bạn nhạc đó gần đây thu hút kha khá báo chí... họ đã chọc giận đám đông vì chơi bài "Rule Britannia" và nhóm khách hàng đã không chấp nhận được việc đó.
Chính lúc đó thì kết nối mạng Internet của tôi, chưa bao giờ đáng tin cậy, quyết định mất tín hiệu. Chán thật.
Bồn chồn ném thêm một cái liếc sang nhà bên, tôi cho Angus vào sân sau có rào, rồi trở lại vào bếp gom lấy một bữa trưa. Giờ khi cơn choáng ban đầu đã đi qua, tôi cảm thấy bớt hoảng đi một chút. Nhớ lại mớ kiến thức pháp luật khổng lồ, học được từ rất nhiều giờ xem chương trình Luật pháp và trật tự, hai người ruột thịt là luật sư và một vị hôn phu cũ làm cùng nghề, có vẻ như tôi tin rằng ba đến năm năm trong một nhà tù kém an ninh nhất có vẻ không thể hiện một gã đáng sợ, bạo lực, cơ bắp. Và nếu anh từng làm chuyện gì đó đáng sợ thì thôi. Tôi sẽ chuyển đi.
Tôi nuốt vội bữa trưa, gọi Angus trở vào, nhắc nhở nó rằng nó là con chó tuyệt vời nhất vũ trụ và đừng có nhìn quá nhiều sang tên cựu tù to lớn nhà bên, rồi vớ lấy chùm chìa khóa xe.
Callahan O'Shea đang nện búa vào cái gì đó ở trước hiên khi tôi đi ra xe. Anh ta trông chẳng hề đáng sợ. Nhìn anh ta thật đẹp đẽ. Thế nhưng, như thế không có nghĩa là anh ta không nguy hiểm. An ninh tối thiểu, để cho vững dạ. Và này. Đây là nhà tôi, khu láng giềng của tôi. Tôi sẽ không để bị đe dọa. Thẳng vai, tôi quyết định phản kháng. "Thế vì sao anh lại phải vào tù vậy, anh O'Shea?" tôi đánh tiếng.
Anh ta đứng thẳng lên, nhìn tôi, rồi nhảy khỏi hiên, làm tôi hơi hoảng một chút vì sự nhanh nhẹn duyên dáng khi anh ta di chuyển. Rất ra dáng... côn đồ. Đi lên phía hàng rào chắn ngang phân tách khu đất hai nhà, anh ta lại khoanh tay lần nữa. Ô ô ô. Thôi ngay, Grace.
"Cô nghĩ là tôi vào vì cái gì?" anh ta hỏi.
"Giết người?" tôi gợi ý. Cũng có thể là bắt đầu bằng cái nỗi sợ kinh khủng nhất của mình.
"Cho tôi xin. Cô không xem Luật pháp và trật tự à?"
"Tấn công và hành hung?"
"Không."
"Đánh cắp danh tính?"
"Bắt đầu nóng lên rồi đây."
"Tôi phải quay lại làm việc," tôi gắt. Anh ta nhướng mày và giữ im lặng. "Anh đào một cái hố trong hầm và trói một người phụ nữ ở đó."
"Bingo. Quý cô đã đoán đúng. Ba đến năm năm vì tội trói phụ nữ."
"À, chuyện là thế này nhé, anh Callahan O'Shea. Chị tôi là một luật sư. Tôi có thể bảo chị ấy đào xới và tìm ra cái quá khứ tồi tệ của anh..." thực ra thì là đã làm rồi "...hoặc anh có thể chỉ cần công khai và nói với tôi liệu tôi có cần mua một con chó dòng Rottweiler không."
"Với tôi thì có vẻ như cái con chó-chuột của cô cũng được việc đấy còn gì," anh ta nói, lùa tay qua mái tóc mướt mồ hôi, khiến nó dựng đứng lên.
"Angus không phải là chó-chuột," tôi phản đối. "Nó là chó săn thuần chủng West Highland. Một giống chó đáng yêu và dịu dàng."
"Vâng. Đáng yêu và dịu dàng cũng là những điều tôi nghĩ khi nó cắm ngập mấy cái nanh và tay tôi đêm hôm nọ đấy ạ."
"Ôi, cho tôi xin. Nó mới chộp được cổ tay áo anh thôi."
Ngài O'Shea duỗi tay, để lộ hai vết thủng trên cổ tay.
"Chết tiệt," tôi rên lên. "Thôi, được rồi. Cứ điền đơn kiện đi, nếu một tên tội phạm được phép làm việc đó. Tôi sẽ gọi cho chị gái mình. Và ngay khi đặt chân tới trường tôi sẽ Google về anh."
"Phụ nữ nào cũng nói thế cả," anh ta đáp. Anh ta quay lại với cái cưa, để mặc tôi. Tôi thấy mình đang soi vòng ba của anh ta. Rất đẹp. Rồi tự tay tát mình mấy cái trong đầu và chui vào xe.
CALLAHAN O'Shea CỨNG ĐẦU có thể không quá sốt sắng về cái quá khứ dơ bẩn của mình, nhưng tôi cảm thấy chắc chắn là với tôi thì tìm hiểu xem loại tội phạm nào sống cạnh nhà mình là điều hoàn toàn hợp lý. Ngay khi tiết học về thế kỷ hai mươi cho lớp mười kết thúc, tôi về văn phòng bé xíu của mình và lướt mạng. Lần này, tôi đã được tưởng thưởng.
Trang Times-Picayune ở New Orleans có thông tin sau từ hai năm trước.
Callahan O'Shea bị kết tội tham ô và bị tuyên án ba đến năm năm tại một cơ sở an ninh tối thiểu. Tyrone Blackwell bị kết tội ăn cắp...
Những tin nóng còn lại chỉ nói tới ban nhạc yểu mệnh của Ireland.
Tham ô. Ái chà. Như thế cũng đâu phải là tệ, đúng không? Tất nhiên cũng chẳng phải là tốt... nhưng không có vẻ gì là bạo lực hay đáng sợ cả. Tôi băn khoăn không biết quý anh O'Shea đã vơ vét được bao nhiêu. Tôi cũng băn khoăn nữa, không biết anh ta có còn độc thân không.
Không. Tôi không cần một cơn đê mê với một cựu tù nhân đê tiện. Tôi đang tìm kiếm ai đó có thể cùng đi một chặng đường dài. Người cha cho đám con tôi. Một người đạo đức và liêm trực, đồng thời cực kỳ bảnh bao, một người hôn rất giỏi, người có thể đàng hoàng đĩnh đạc trong các buổi gặp mặt chính thức ở Manning. Một kiểu Tướng Maximus thời hiện đại. Tôi không muốn mất thời gian với Callahan O'Shea, dù cho tên anh ta có đẹp đến thế nào hay trông anh ta có tuyệt đến đâu khi không mặc áo.
Chương 7
"Rất tốt, bà Slovanaski một hai ba, giậm, năm sáu bảy, dừng, Bà làm được rồi đấy! Được rồi, giờ xem tôi và Gra nhé." Julian và tôi thực hiện bước nhảy salsa cơ bản thêm hai lần nữa, tôi cười dạn dĩ và xoay mạnh để chân váy cuốn lên. Rồi anh quăng tôi qua trái, xoay tôi trở lại ép sát vào anh và đỡ tôi ngả ra sau. "Ta đa!"
Đám đông nổ bùng, thận trọng vỗ những bàn tay viêm khớp của mình. Đó là lớp Khiêu vũ với Người cao tuổi, sự kiện cuối tuần được ưa chuộng ở viện dưỡng lão Cộng đồng Hưu trí Golden Meadows, và Julian đang ở đúng môi trường của mình. Hầu hết các tuần, tôi là bạn nhảy và giáo viên dạy cùng của anh. Thêm nữa, nội sống ở đây, và dù nội cũng ân cần gần như lũ cá mập ăn thịt con, thì cái trách nhiệm dành cho gia đình từ lâu đã được cấy vào sọ tôi rồi. Rốt cuộc thì, chúng tôi đều là hậu duệ của dòng họ Mayflower. Cái kiểu sống lờ đi quan hệ họ hàng kinh tởm là dành cho những người khác, những nhóm người may mắn hơn. Hơn nữa, các cơ hội khiêu vũ thì lại vô cùng lác đác, còn tôi thì say mê khiêu vũ. Nhất là với Julian, người đủ giỏi đề cạnh tranh.
"Mọi người nắm được chưa ạ?" Julian hỏi, kiểm tra các cặp nhảy. "Một hai ba giậm... ngược lại, ông B. – năm sáu bảy, đừng quên dừng, mọi người. Được rồi, để xem lúc ghép nhạc thì thế nào nhé! Grace, nắm tay ông Creed và chỉ cho ông ấy phải làm thế nào đi!"
Ông bà Bruno đã lên sàn nhảy. Chứng loãng xương và mấy cái khớp nhân tạo của họ không thể khơi được lên chút gợi cảm nào mà điệu salsa thường phải có, những họ bù lại điều đó bằng ánh nhìn trên khuôn mặt họ... tình yêu, thuần khiết và giản đơn, và hạnh phúc, và vui sướng và biết ơn. Thật quá cảm động, quá đáng yêu, đến nỗi tôi đếm nhầm, kết quả là làm ông Creed bị vấp.
"Cháu xin lỗi", tôi nói, giữ ông chặt thêm chút nữa. "Là lỗi của cháu." Từ cỗ xe tử thần của mình, bà tôi phát ra một âm thanh kinh khủng. Giống như nhiều công dân ở Golden Meadows, bà tới đây mỗi tuần để xem mọi người khiêu vũ. Rồi bà Slovananski xen vào – thi thoảng bà có để mắt đến ông Creed, nghe đồn là vậy – và tôi lại chỗ một khán giả trong khi Julian cẩn thận đỡ Helen Pzorkan để không làm tình trạng bàng quang vốn đã yếu của bà tệ đi.
"Này, bác Donnelly, bác đã cảm thấy muốn bước lên sàn nhảy chưa ạ?" tôi nói với một trong nhiều người tới để xem, thưởng thức âm nhạc từ những thời đại xa xưa, nhưng có chút ngượng ngùng hay hơi cứng nhắc nên không dám đánh bạo.
"Tôi cũng muốn lắm, Grace, nhưng đầu gối tôi không còn như trước nữa," ông nói. "Bên cạnh đó, tôi nhảy không giỏi lắm. Nhìn tôi chỉ bảnh khi bà nhà ở bên cạnh, bảo tôi phải làm gì thôi."
"Cháu chắc là điều đó không đúng đâu," tôi trấn an, vỗ nhẹ vào cánh tay ông.
"Có lẽ," ông nói, nhìn xuống chân.
"Bác và bác gái đã gặp nhau thế nào ạ?" tôi hỏi.
"Ồ," ông nói, mỉm cười, mắt nhìn xa xăm. "Bà ấy là có láng giềng. Tôi không còn nhớ có ngày nào mà tôi không yêu bà ấy. Khi gia đình bà ấy chuyển tới khu phố thì tôi 12 tuổi. 12 tuổi, nhưng tôi đã đảm bảo là tất cả những thằng con trai khác phải biết rằng bà ấy đi đến trường cùng tôi."
Giọng ông bâng khuâng tới nỗi tôi nghẹn ngào. "Thật may mắn làm sao, được gặp nhau khi hai bác còn trẻ như vậy," tôi lẩm bẩm.
"Phải. Chúng tôi thật may mắn," ông nói, mỉm cười với ký ức. "Quả thật là may mắn."
Bạn biết đấy, dạy một lớp khiêu vũ cho người già nghe thì thật cao thượng và vị tha, nhưng sự thật thì, đây thường là buổi tối tuyệt nhất trong tuần của tôi. Phần lớp các tối, tôi ở nhà, sửa bài và soạn bài kiểm tra. Nhưng vào các thứ Hai, tôi lại diện một chiếc váy mềm mại, sáng màu (xin nhắc bạn là thường đính cườm) và lên đường để trở thành hoa khôi của sàn khiêu vũ. Thường thì tôi đến sớm để đọc sách cho những bệnh nhân không nói được, việc này luôn khiến tôi cảm thấy có phần thiêng liêng và tuyệt vời.
"Gracie," Julian gọi, ra hiệu cho tôi. Tôi liếc đồng hồ. Chắc rồi, đã là chín giờ, đến giờ ngủ của nhiều người sống ở đây. Julian và tôi thường kết thúc các buổi học bằng cách diễn một màn nho nhỏ, một vũ điệu thật hoành tráng.
"Tối nay chúng ta sẽ làm gì nhỉ?" tôi hỏi.
"Anh nghĩ là một điệu foxtrot," anh nói. Anh đổi đĩa CD, bước tới giữa sàn và đưa tay ra thật điệu nghệ. Tôi bước lại gần anh, quất váy và xòe tay ra, anh nắm lấy tay tôi một cách tự tin. Chúng tôi gật đầu với khán giản, và đợi nhạc. A, nhóm The Drifters, bài "There goes my baby". Trong khi chúng tôi bước chậm-chậm-nhanh-chập quanh sàn, Julian nhìn vào mắt tôi. "Anh đã đăng ký cho bọn mình vào một lớp."
Tôi nghiêng đầu khi chúng tôi bước chéo góc để tránh cái khung tập đi của ông Carlson. "Lớp kiểu gì?"
"Gặp gỡ Người Trong Mộng hay đại khái vậy. Đảm bảo trả lại tiền nếu không thành công. Em nợ anh sáu đô la. Chỉ một đêm, hội thảo hai tiếng, đừng có lo lắng, được chứ? Nó giống như một lớp khích lệ ấy."
"Anh đang nghiêm túc đấy chứ?" tôi nói.
"Trật tự. Chúng ta cần phải gặp gỡ mọi người. Và em là người đang bịa ra một anh bạn trai. Có lẽ cũng nên hẹn hò với ai đó có thể thực sự thanh toán được tờ hóa đơn chứ."
"Được rồi, được rồi. Chỉ là nghe hơi... ngu ngu."
"Còn bạn trai giả thì thông minh sao?" Tôi không trả lời. "Chúng ta đều ngốc cả, Grace ạ, ít nhất là khi có dính đến bọn đàn ông, không thì chúng ta đã chẳng tụ tập với nhau ba lần một tuần xem chương trình Khiêu vũ cùng ngôi sao và Nhà thiết kế với cái thứ này như là một điểm sáng trong lịch hoạt động xã hội của mình, phải không?"
"Không phải chúng ta hay càu nhàu sao," tôi thì thầm.
"Và đúng đấy." Anh xoay nhanh tôi ra phía ngoài và quay tôi lại vào trong. "Cẩn thận, cưng, em suýt nữa giẫm vào chân anh đấy."
"Thật ra, nói thật với anh, em sẽ gặp một người trong nửa tiếng nữa. Vậy nhé. Em đã vượt xa anh trong trò chơi hẹn hò rồi."
"À, tối cho em đấy. Em đang mặc một bộ váy chết người. Và đây rồi, hai ba bốn, quay, trượt, ta đa!"
Điệu nhảy kết thúc, và những khán giả bị cầm tù của chúng tôi lại vỗ tay. "Grace, cháu đã sống xứng đáng với cái tên của mình(1)!" Dolores Barinski, một trong những người tôi yêu mến, rù rì.
(1) Grace trong tiếng Anh có nghĩa là yêu kiều, uyển chuyển.
"Ôi may quá," tôi nói, thích thú với lời khen tặng. Những người lớn tuổi, đàn ông hay phụ nữ, đều nghĩ rằng tôi đáng yêu, ngưỡng mộ làn da tươi trẻ và cơ thể dẻo dai của tôi. Dĩ nhiên đó là điểm sáng trong đời sống xã hội của tôi rồi! Và ở đây thật là lãng mạn. Ở đây ai cũng có một câu chuyện, một câu chuyện cổ tích lãng mạn tuyệt vọng về cách họ gặp được tình yêu của mình. Không có ai ở đây phải lên mạng và điền mấy cái biểu mẫu hỏi có phải bạn là người theo đạo Sikh đang tìm người Công giáo hay không, liệu giọng nói the thé làm bạn có hứng hay mất hứng. Không ai ở đây phải dự một lớp học để tìm ra cách khiến một người đàn ông chú ý tới mình.
Nói tới chuyện đó, đúng là tôi có một cái hẹn từ eCommitment, một trong mấy trang web hẹn hò. Dave, một chàng kỹ sư làm việc ở Hartford, muốn gặp tôi. Xem qua ảnh của anh này, tôi thấy rằng, ngoại trừ kiểu tóc hơi lỗi mốt và có vẻ thủ cựu, anh ta đáng yêu cực kỳ. Tôi trả lời thư, nói rằng mình rất vui lòng được gặp mặt uống cà phê. Và chỉ như thế, Dave đã trở thành một cuộc hẹn. Ai mà biết lại dễ dàng như thế, và vì sao tôi lại đợi lâu như vậy chứ?
Phải, khi tôi vuốt ve mấy cặp má héo hon và nhận lại những cái vỗ từ những bàn tay nhẹ nhàng, âu yếm, tôi đã không thể kìm nén được hy vọng đang râm ran trên má mình. Dave và Grace. Grace và Dave. Ngay tối nay thôi, tôi có thể gặp Người Đó. Tôi sẽ bước vào quán Rex Java, mắt chúng tôi chạm nhau, anh ấy làm đổ cà phê khi đứng dậy chào tôi, bối rối và, kiểu gì chẳng có chút sững sờ. Nhất kiến chung tình. Sáu tháng kể từ giờ, chúng tôi sẽ lên kế hoạch đám cưới. Anh nấu bữa sáng cho tôi vào các sáng thứ Bảy, và chúng tôi cùng nhau đi dạo thật lâu, và rồi, một ngày khi tôi nói với anh là tôi đã có mang. Không phải là tôi đang cầm đèn chạy trước tên lửa hay gì đâu.
Nội ra về trước khi điệu nhảy kết thúc, vậy nên tôi không phải trải qua giai đoạn phê bình về kỹ thuật, đầu tóc, cách lựa chọn quần áo của mình như mọi khi. Tôi chào tạm biệt Julian. "Anh sẽ gọi báo thời gian và ngày bắt đầu lớp học," anh nói và hôn lên má tôi.
"Được rồi. Cẩn tắc vô áy náy."
"Thế mới là cô bé của tôi chứ!" Anh nháy mắt và nhấc túi qua vai, vẫy tay khi rời đi.
Tóc tôi có vẻ hơi xù, vậy nên tôi vào nhà vệ sinh để phun thêm một chút chất tạo nếp/thuốc tăng lọn/nước thánh trước buổi hẹn hò với Dave. "Chào, Dave, tôi là Grace," tôi nói với hình ảnh của mình trong gương. "Không, không, là tự nhiên đấy. Ôi, anh thích tóc quăn? Sao chứ, cảm ơn anh, Dave!"
Khi tời phòng tắm, tôi bắt gặp cái nhìn của ai đó phía cuối hội trường, đang đi về phía xa tôi. Anh ta rẽ trái, tiến về phía khu điều trị. Đó là Callahan O'Shea. Anh ta làm gì ở đây? Và vì sao tôi lại đỏ mặt như bọn học trò bị bắt quả tăng hút thuốc trong nhà tắm thế này? Và vì sao tôi vẫn nhìn dõi theo anh ta khi tôi còn một cái hẹn, một cái hẹn ngoài đời thực, hử? Nghĩ đến đây, tôi căm đầu đi ra xe.
REX JAVA đã gần kín một nửa khi tôi tới, gần như toàn học sinh phổ thổng, mặc dù không có đứa nào ở trường Manning của Farmington cả. Tôi len lén liếc quanh. Dave có vẻ như không có ở đây... một cặp chừng ngoài bốn mươi ở một góc, nắm tay và cười hớn hở. Anh cắn một miếng bánh của chị, và chị phát vào tay anh, mỉm cười. Khoe mẽ, tôi mỉm cười nghĩ. Cả thế giới có thể thấy họ hạnh phúc đến thế nào. Sát phía tường, một ông già tóc bạc ngồi đọc báo. Nhưng không có Dave.
Tôi gọi một ly cappuccino không caffein và chọn một chỗ ngồi, băn khoăn không biết có phải đáng ra mình nên thay váy trước khi tới không. Nhấp phần bọt, tôi cảnh báo bản thân đừng đẩy hy vọng lên quá cao. Dave có thể thật dễ thương hoặc có thể là một gã khốn. Nhưng dù sao ảnh của anh ấy rất đẹp. Rất hứa hẹn.
"Thứ lỗi cho tôi, cô có phải Grace không ạ?"
Tôi ngẩng lên. Chính là quý ông tóc bạc. Trông ông quen quen... ông ta đã tới câu lạc bộ Khiêu vũ với Người cao tuổi bao giờ chưa nhỉ? Dù sao thì chỗ đó cũng được tự do tham gia mà. Có thể là có liên quan gì tới trường Manning chăng?
"Vâng, tôi là Grace," tôi ngập ngừng.
"Tôi là Dave! Rất vui được gặp cô!"
"Chào... Ơ...!" Miệng tôi gần như há hốc. "Ông là Dave? Dave từ eCommitrment?"
"Phải! Thật tuyệt vì được gặp cô! Tôi ngồi được không?"
"Ừm... tôi... chắc chắn rồi," tôi chậm rãi nói.
Chớp mắt thật nhanh, tôi nhìn Dave ngồi xuống, duỗi chân ra khỏi bàn. Người đàn ông trước mặt tôi khoảng 65 tuổi nếu đúng theo ngoại hình. Có thể là 70. Tóc trắng cắt ngắn. Gương mặt nhăn nheo. Bàn tay gân guốc. Và là do tôi nhìn nhầm, hay là mắt trái của ông ấy bằng thủy tinh thật?
"Chỗ này dễ thương đấy chứ, phải không?" ông nói, nhích ghế vào và nhìn quanh. Dạ vâng. Mắt trái không nhúc nhích tí ti. Chắc chắn là nhân tạo.
"Phải. Ừm, nghe này, Dave," tôi nói, cố nặn ra một nụ cười thân thiện nhưng lúng túng. "Thứ lỗi vì tôi nói điều này, nhưng ảnh của ông... à, ông trông rất... trẻ trung."
"Ồ, cái đó," ông cười to. "Cảm ơn cô. Vậy cô nói cô là người yêu chó? Tôi cũng thế. Tôi có một con chó tha mồi lông vàng. Maddy." Ông rướn tới trước và tôi ngửi thấy hơi của dầu mát xa hiệu Bengay. "Cô có nói là cô cũng có một con chó?"
"Ừm, phải. Vâng, tôi có. Angus. Một con chó sục nhỏ. Vậy. Nó được chụp khi nào? Bức ảnh ấy?"
Dave nghĩ một phút. "Hừm, để xem nào. Tôi nghĩ tôi đã dùng tấm chụp ngay trước khi tới Việt Nam. Cô có muốn ra ngoài ăn không? Tôi thì thích. Đồ Ý, Trung Quốc, mọi thứ." Ông cười. Ông vẫn còn đủ răng, tôi phải ghi nhận điều đó, dù phần lớn chúng đều ngả vàng vì vết ố thuốc lá. Tô cố không nhăn mặt.
"Phải, về tấm ảnh, Dave. Nghe này. Có lẽ ông nên cập nhận nó chứ, ông không nghĩ thế sao?"
"Chắc vậy," ông nói. "Nhưng chắc cô đã chẳng tới hẹn nếu biết tuổi thật của tôi, phải không?"
Tôi khựng lại. "Đó... đó chính là ý của tôi đấy, Dave," tôi nói. "Tôi thực sự đang tìm kiếm ai đó tầm tuổi mình. Ông nói là ông gần 40."
"Tôi đã gần 40!" Dave lặng lẽ. "Đã từng. Nhưng nghe này, cưng, là một người lớn tuổi hơn cũng có nhiều lợi thế đấy chứ, và tôi phát hiện ra phụ nữ các cô sẽ cởi mở hơn với những lợi thế đó nếu gặp trực tiếp tôi." Ông cười xòa.
"Tôi chắc chắn là có, Dave ạ, nhưng vấn đề là..."
"Ồ, thứ lỗi cho tôi," ông cắt ngang. "Tôi thực sự nên đổ cái túi đeo chân(2) này đi. Cô không phiền chứ? Tôi bị thương ở Khe Sanh."
(2) Túi đựng nước tiểu gần ở chân cho bệnh nhân có vấn đề về bài tiết.
Khe Sanh. Là một giáo viên lịch sử, tôi biết khá rõ rằng Khe Sanh là một trong những trận chiến đẫm máu nhất trong chiến tranh Việt Nam. Vai tôi sụp xuống. "Không, tất nhiên là tôi không phiền rồi. Ông cứ tự nhiên."
Ông nháy bên mắt thật và đứng dậy, đi về phía phòng vệ sinh, khập khiễng một chút. Tuyệt. Giờ tôi phải ở lại, bởi vì tôi không thể bỏ lại một người có huy chương Purple Heart(3), phải chứ? Như thế thì thật là không yêu nước. Tôi không thể chỉ nói rằng, Xin lỗi, Dave, tôi không hẹn hò với cựu chiến binh già bị thương không thể tự đi tiểu. Như thế thật chẳng hay ho, không một chút nào.
(3) Loại huân chương dành cho bất cứ lính Mỹ nào bị thương trong chiến đấu.
Thế là, nhân danh tổ quốc, tôi dành thêm một tiếng nữa lắng nghe về cuộc truy tìm một người vợ trẻ đẹp, năm đứa con và ba người phụ nữ, khoản chiết khấu đáng kinh ngạc của Hiệp hội Hưu trí Mỹ (AARP) mà ông nhận được khi mua chiếc ghế tựa hiệu La-Z-Boy và loại ống thông tiểu nào thì hợp nhất với ông.
"Thôi, tôi nên đi bây giờ," tôi nói và lúc cảm thấy nghĩa vụ của mình với nước Mỹ đã được hoàn thành. "Ừm, Dave này, ông có một số phẩm chất rất đáng yêu, nhưng tôi thực sự đang tìm một ai đó gần tuổi mình."
"Cô chắc là cô không muốn gặp gỡ lần nữa chứ?" ông hỏi, con mắt còn tốt dán chặt vào ngực tôi trong khi con mắt giả lại tia chếch về hướng bắc một chút. "Tôi thấy cô rất hấp dẫn. Và cô nói là cô thích khiêu vũ trong nhà, vậy nên tôi đoán là cô khá... dẻo dai."
Tôi cố nén để không rùng mình. "Tạm biệt, Dave."
Lớp học của Julian nghe có vẻ ngày càng hấp dẫn hơn.
"CHƯA CÓ BỐ ĐÂU," tôi nói với Angus khi về tới nhà. Nó có vẻ không quan tâm. "Bởi vì mẹ là tất cả những gì bé cần, được chưa?" tôi hỏi nó. Nó sủa một tiếng xác nhận, rồi bắt đầu nhấp nhổm chỗ cửa sau để ra ngoài. "Phải, con yêu. Ngồi... ngồi xuống. Đừng nhảy nữa. Thôi nào nhóc, mày đang làm hỏng váy của tao đấy. Ngồi." Nó không ngồi. "Được rồi, đằng nào thì mày cũng có thể ra ngoài. Nhưng lần sau thì phải ngồi đấy. Hiểu chưa?" Nó lao ra hàng rào phía sau.
Tôi có một tin nhắn. "Grace, Jim Emerson đây," giọng bố tôi cất lên.
"Còn được gọi là 'Bố'," tôi nói với cái máy, vừa đảo mặt vừa nhoẻn miệng cười.
Tin nhắn tiếp tục. "Tối nay bố có ghé qua nhưng con ra ngoài. Cửa sổ của con cần được thay. Bố sẽ lo vụ đó. Coi nó là quà sinh nhật nhé. Sinh nhật con là tháng trước rồi, đúng không nhỉ? Dù sao thì cũng xong rồi. Hẹn gặp con ở trận Bull Run." Máy kêu "bíp".
Tôi không thể không cười trước sự hào phóng của bố. Thành thật, tôi kiếm đủ để trả các hóa đơn, nhưng là một giáo viên, tôi còn xa mới kiếm được bằng những người khác trong gia đình. Natalie có lẽ kiếm gấp ba tôi, và đó mới là năm đầu tiên của con bé trong thế giới việc làm. Margaret thì kiếm đủ để mua một đất nước nho nhỏ. Bên nhà nội tôi "sinh ra từ tiền", như nội vẫn thích nhắc chúng tôi nhớ, và hơn thế nữa bố tôi có một mức lương rất ư thoải mái. Nó làm ông cảm thấy mình ở vị trí người cha trong nhà, trả tiền để nhà cửa được sửa sang. Lý tưởng ra thì ông những muốn tự tay làm việc đó, nhưng ông rất hay tự làm mình bị thương khi xớ rớ quanh mấy dụng cụ điện, ông chỉ học được cái thực tế này sau khi phải khâu mười chín mũi do một thứ mà đến giờ ông vẫn gọi là cái máy cắt "gian xảo".
Trở lại phòng khách, tôi ngồi trên ghế bành và nhìn quanh. Có lẽ đã đến lúc sơn lại phòng, tôi hay làm như thế mỗi khi suy sụp trong cơn buồn nản. Nhưng không. Sau gần một năm rưỡi cải tiến không ngừng, ngôi nhà đã gần như hoàn hảo. Tường phòng khách màu oải hương nhạt với họa tiết trắng sáng bóng và một chiếc đèn hiệu Tiffany ở một góc. Tôi đã mua chiếc xô pha lưng uốn kiểu Victoria tại một buổi đấu giá và thay bọc với ba mảng màu pha xanh lá cây, xanh da trời và màu oải hương. Phòng ăn màu xanh lá cây nhạt, tập trung quanh một chiếc bàn phong cách Hội Truyền giáo. Ngôi nhà chẳng cần gì hết ngoại trừ cửa sổ mới. Có lẽ tôi cần một dự án nữa. Tôi gần như ghen tị với việc Callahan O'Shea nhà bên được sửa sang từ lâu.
Ẳng! Ẳng! Ẳngẳngẳngẳng! "Được rồi, gì nữa đây, Angus?" tôi càu nhàu, lôi mình ra khỏi ghế. Kéo cửa trượt trong bếp ra, tôi không thấy bóng dáng cục cưng trắng bông của mình đâu cả, bình thường thì rất dễ thấy nó. Ẳng! Ẳng! Tôi chuyển ra phía cửa sổ phòng ăn để nhìn theo góc khác.
Nó kia rồi. Khỉ thật. Với một hành động bản năng, Angus đã đào một đường hầm bên dưới hàng rào và giờ đứng ở phần sâu của nhà bên, đang sủa ai đó. Đoán thử ba lần xem đó là ai. Callahan O'Shea đang ngồi trên thềm không có bậc cầu thang trước nhà nhìn chằm chằm vào con chó của tôi, còn con chó thì sủa nhặng lên từ dưới sân, nhấp nhổm và táp liên tục, cố gắng cắn vào chân anh ta. Thở dài một tiếng, tôi tiến ra phía cửa trước.
"Angus! Angus! Lại đây nào, bé yêu!" Không ngạc nhiên, con chó của tôi không nghe lời. Gầm gừ với nó, tôi đi qua sân trước tới số nhà 36 Maple. Việc tôi không cần nhất lúc này là một cuộc đối đầu khác với tên cựu tù nhà bên, nhưng vì Angus đang vừa sủa vừa táp anh ta, tôi không có nhiều lựa chọn. "Xin lỗi," tôi lên tiếng. "Nó sợ người."
Callahan nhảy khỏi thềm, liếc xéo tôi vẻ nhạo báng. "Vâng, sợ phát khiếp." Vừa dứt lời, Angus lẳng mình vào đôi ủng lao động của Callahan, cắn ngập răng vào lớp da và gầm gừ thật đáng yêu. Grừ. Grừ. Callahan lắc chân, tách được Angus trong giây lát, chỉ để khiến chú chó nhỏ của tôi nhảy lên chiếc giày hăng máu hơn.
"Angus, không! Mày hư quá đấy. Xin lỗi, anh O'shea."
Callahan O'Shea chẳng nói chẳng rằng. Tôi cúi xuống, tóm lấy vòng đệm cổ của con thú cưng đang quằn quại kia và giật mạnh, nhưng nó không nhả chiếc ủng ra. Xin màu, Angus, nghe lời đi. "Thôi nào, Angus," tôi nghiến răng. "Đến giờ vào nhà rồi. Giờ ngủ. Giờ ăn bánh." Tôi lại kéo lần nữa, nhưng mấy răng hàm dưới của nó lại cong cong và rất đáng yêu, tôi không muốn đánh gãy cái nào.
Dù sao thì, tôi đang cúi khon người, đầu tôi ở vị trí ngang với tầm hông của O's, và bạn biết đấy, tôi bắt đầu cảm thấy âm ấm. "Angus, bỏ ra. Bỏ ra nào, cậu bé."
Angus vẫy đuôi và lắc đầu, dây của chiếc ủng lao động giắt vào mấy cái răng cong cong xinh xinh của nó. Grừ. Grừ. "Tôi xin lỗi," tôi nói. "Nó thường không... như vậy." Tôi đứng thẳng dậy và bốp! Đỉnh đầu tôi đập vào cái gì đó rất cứng. Cằm của Callahan O'Shea. Răng anh ta va vào nhau nghe rõ tiếng lốp cốp, đầu anh ta bật ngửa ra sau. "Chúa ơi, cô ơi là cô!" anh ta kêu lên, xoa xoa cằm.
"Ôi, lạy Chúa! Tôi xin lỗi!" tôi thốt lên. Đỉnh đầu đau nhói sau cú va chạm.
Liếc qua, anh ta với xuống và tóm lấy gáy con chó, nhấc nó lên – có một tiếng lách tách nhỏ khi sợi dây bật ra khỏi miệng Angus – và đưa nó cho tôi.
"Đáng lẽ anh không được nhấc nó lên như thế," tôi nói, vỗ về cái cổ đáng thương của Angus trong khi nó nhá nhá cằm tôi.
"Đáng lẽ nó cũng không nên cắn tôi," Callahan nói, không hề cười.
"Phải." Tôi liếc xuống con chó, hôn lên đầu nó. "Xin lỗi vì cái, ừm, cằm của anh."
"Trong tất cả những thương tích cô gây ra cho tôi đến giờ thì lần này là đỡ đau nhất."
"Ôi. Vậy là tốt rồi." Tôi xấu hổ đến nỗi mặt nóng ran nóng giật. "Vậy. Anh có định sống ở đây không, hay đây là một khoản đầu tư hay đại loại thế?"
Anh ta khựng lại, rõ ràng là đang tự hỏi xem liệu tôi có đáng để mất công trả lời hay không. "Tôi sẽ bán lại nó."
"Ồ," tôi thở phào. Angus phát hiện ra một chiếc lá cuốn qua bãi cỏ nhà tôi và vùng vẫy đòi được đặt xuống. Sau một giây ngần ngừ, tôi làm theo, thở phào khi nó chạy theo để đuổi chiếc lá. "Rồi. Chúc may mắn với ngôi nhà nhé. Nó rất dễ thương."
"Cảm ơn cô."
"Chúc ngủ ngon."
"Ngủ ngon."
Tôi bước vài bước về phía nhà mình, rồi dừng lại. "Mà này," tôi thêm, quay lại phía người hàng xóm, "tôi đã Google về anh và thấy anh phạm tội biển thủ."
Callahan O'Shea không nói gì.
"Tôi phải nói rằng tôi hơi thất vọng một chút. Hannibal Lecter(4), ít ra ông ta cũng thú vị."
(4) Nhân vật tội phạm ăn thịt người trong tiểu thuyết Sự im lặng của bầy cừu.
Callahan cười vì câu đó, một nụ cười khẩy, gian ác hẳn lên nếp nhăn trên mắt và làm sáng lên khuôn mặt anh ta, một cái gì đó quặn lên nóng bỏng trong dạ dày tôi và dường như muốn trào ra trước người láng giềng vạm vỡ. Nụ cười đó là hứa hẹn kiểu gian manh, đủ loại nồng nhiệt, tôi thấy miệng mình đang thở ra khá là nặng nhọc.
Và rồi tôi nghe thấy một tiếng động. Callahan O'Shea cũng vậy. Tiếng lộp bộp nhỏ. Cả hai đều nhìn xuống Angus đã quay lại, chân nhấc lên, đang tè vào chiếc ủng mà nó đã nhào vào ăn mấy phút trước.
Nụ cười của Callahan O'Shea biến mất. Anh ta gương mắt lên với tôi. "Tôi không biết cô hay con chó của cô tệ hơn nữa," anh ta nói, rồi quay lưng đi thẳng vào nhà.
Chương 8
Mười ba tháng, hai tuần và bốn ngày sau khi Andrew hủy đám cưới, tôi nghĩ mình đã xoay xở tương đối ổn. Mùa hè sau đó quả là khó khăn khi không có sự hiện diện hằng ngày của đám học sinh, nhưng tôi dồn hết tâm trí của mình vào ngôi nhà và trở thành một người làm vườn. Khi căng thẳng, tôi lê bước qua khu rừng quốc gia phía sau nhà, men theo dòng sông Farmington mấy dặm lên phía thượng lưu rồi quay xuống, bị muỗi xơi tái và cành cây cào xước, Angus lon ton chạy bên cạnh tôi trên đầu dây xích lòe xòe, cái lưỡi hồng liếm láp nước sông, bộ lông trắng lấm tấm bùn.
Tôi nghỉ kỳ cuối tuần của lễ Độc lập ở Gettysburg – Gettysburg xịn, ở Pennsylvania – với vài nghìn "diễn viên" tái hiện lịch sử, quên đi cơn đau trong lồng ngực vì mấy ngày tham gia trận đánh ly kỳ này. Khi tôi trở lại, Julian sắp xếp để tôi làm việc tại sàn Jitterbug, dạy khiêu vũ cơ bản. Mẹ và bố gọi tôi sang chơi thường xuyên, nhưng, vì sợ làm tôi buồn, họ đều cố gắng hết sức để tỏ ra lịch sự với nhau, thật là căng thẳng và quái đản đến nỗi tôi thầm ước họ cứ bình thường mà cãi nhau còn hơn. Margaret và tôi lái xe bên bờ biển Maine thật xa về hướng Bắc đến nỗi gần 10 giờ tối ở đó mặt trời mới lặn. Chúng tôi dành vài ngày yêu lặng đi dạo dọc bờ biển, ngắm những chiếc tàu đánh tôm hùm nhấp nhô trên những con sóng và không nhắc gì tới Andrew.
Ơn chúa tôi có ngôi nhà. Có sàn nhà để đánh bóng, họa tiết trang trí để sơn, mấy buổi thanh lý đồ gia dụng để tham gia, nhờ thế tôi có thể lấp đầy ngôi nhà đẹp đẽ của mình với những thứ đáng yêu, được suy tính kỹ càng mà không có liên quan gì tới Andrew. Một bộ sưu tập tượng Thánh Nicolas mà tôi sẽ sắp xếp trên mặt lò sưởi khi tới Giáng Sinh. Hai cái tay nắm cửa bằng đồng khắc dòng chữ Trường công, thành phố New York. Tôi làm rèm; Tôi sơn tường. Thật ra là, tôi chỉ tới một cuộc hẹn. Như thế là đủ để chứng tỏ với bản thân rằng tôi chưa muốn dính dáng với ai hết.
Kỳ học mới bắt đầu, và tôi chưa bao giờ thấy yêu bọn nhóc hơn thế. Chúng có thể có đôi chút khuyết điểm, được nuông chiều quá mức và kiểu nói chuyện kinh khủng để thêm kiểu như và hoàn toàn rồi sao cũng được, nhưng chúng vẫn thật thú vị, vẫn đầy tiềm năng và tương lai rộng mở. Tôi quên mình ở trường, như vẫn thường thế, tìm kiếm giữa đám học trò lặng lẽ đó một tia hy vọng từ một hay hai em, cái tia sáng sẽ cho tôi biết liệu có ai đó cũng gắn kết với quá khứ như tôi hồi còn nhỏ không, rằng ai đó có thể cảm thấy lịch sử quan trọng với hiện tại đến thế nào không.
Giáng Sinh đến rồi, những ngày đầu năm mới cũng vậy. Vào ngày Lễ Tình yêu, Julian ghé qua, trong tay là mấy bộ phim bạo lực, đồ ăn của Thái và kem, chúng tôi cười đến đau bụng, cả hai đều vờ tảng lờ đi cái sự thật rằng đây đáng lẽ đã là kỷ niệm ngày cưới đầu tiên của tôi và rằng Julian tám năm nay không biết hẹn hò là gì.
Và tim tôi dần khỏe lại. Quả thật thế. Thời gian đã làm công việc của nó, và Andrew phai dần thành một vết đau lờ mờ mà tôi gần như chỉ nghĩ tới khi nằm một mình trên gường. Có phải tôi đã quên anh rồi không? Tôi tự bảo mình rằng tôi đã như thế.
Rồi, vài tuần trước đám cưới của Kitty – bà chị họ cắt tóc, Natalie và tôi cùng ra ngoài ăn tối. Tôi chưa bao giờ nói với con bé lý do thực sự Andrew và tôi chia tay. Thực tế là, Andrew chưa bao giờ nói những từ đó thành lời. Anh ấy không cần phải nói.
Natalie chọn địa điểm. Con bé làm việc tại Pelli Clarke Peli ở New Haven, một trong những hãng kiến trúc hàng đầu trong nước. Con bé phải làm việc muộn và gợi ý khách sạn Omni, nơi hãnh diện sợ hữu một nhà hàng có cảnh quan đẹp và đồ uống ngon.
Khi gặp con bé ở đó, tôi hơi sốc trước sự biến đổi của nó. Đột nhiên, cô em gái nhỏ của tôi đã chuyển từ xinh đẹp sang đẹp sững sờ. Mỗi lần tôi gặp con bé ở trường hay ở nhà, nó sẽ mặc đồ jean hoặc đồ len, kiểu ăn mặc của một cô bé kiểu Mỹ, khỏe mạnh và đáng yêu. Nhưng khi bắt đầu thực sự đi làm, con bé đầu tư vào quần áo và kiểu tóc thời thượng, bắt đầu biết trang điểm chút ít, và ôi chao. Con bé trông như một Grace Kelly thời nay.
"Chào, Bumppo!" tôi nói, ôm lấy con bé đầy tự hào. "Trông em thật lộng lẫy."
"Chị cũng thế," con bé trả lời hào phóng. "Mỗi lần em thấy chị, em đều nghĩ mình sẽ bán cả linh lồn vì mái tóc đó."
"Tóc này là tóc của quỷ. Đừng có ngốc thế," tôi nói, nhưng thấy hài lòng. Chỉ có Natalie mới có thể chân thành về chuyện đó, thiên thần ngọt ngào của tôi.
Vốn chẳng phải một người sành uống, tôi gọi món đồ uống chuẩn, chung chung là gin pha tonic. Nat gọi một ly dirty martini. "Cô muốn dùng loại vodka nào?" người phục vụ hỏi.
"Belvedere nếu các anh có," con bé mỉm cười trả lời.
"Chúng tôi có đấy. Một lựa chọn tuyệt vời," anh ta nói, rõ ràng là rất ấn tượng. Tôi cười, băn khoăn không biết từ khi nào mà em gái nhỏ của tôi đã học được cách uống rượu vodka ngon.
Và rồi chúng tôi nói chuyện, Natalie nói với tôi về nhóm của mình ở Peli, về ngôi nhà sẽ nhìn ra vịnh Chesapeake mà họ đang thiết kế, về chuyện con bé yêu công việc của mình biết bao. Để đem ra so sánh thì tôi cảm thấy mình có chút... thật ra là, một chút tẻ nhạt, có lẽ vậy. Thực ra việc dạy học cũng làm tôi vô cũng thỏa mãn. Tôi yêu bọn trẻ, yêu môn học, và tôi thấy những bóng cây oai nghiêm, nó đã trở thành một phần tâm hồn tôi. Nhưng dù cho Natalie có chân thành thích thú khi nghe chuyện Tiến sĩ Eckhart ngủ gật trong buổi họp bộ môn khi tôi gợi ý về việc cải cách lại giáo trình như thế nào, và vì sao tôi lại khó chịu khi Ava không bao giờ chấm tới điểm B-, thì mấy thông tin của tôi nghe vẫn cứ nhàn nhạt.
Chính lúc đó chúng tôi nghe thấy một tràng cười nổ ra. Chúng tôi quay lại và thấy một nhóm sáu hay tám người đàn ông đang rời thang máy vào quầy bar, và ngay phía trước là Andrew.
Tôi chưa gặp lại anh kể từ ngày anh bỏ rơi tôi, và hình ảnh của anh đúng là một cú đá vào bụng tôi. Máu rút khỏi mặt tôi, rồi ào trở lên vội vàng đến bệnh hoạn. Tai tôi ù đi và tôi nóng, rồi lạnh, rồi lại nóng. Andrew, không quá cao, không quá điển trai, vẫn gầy thẳng, đôi kinh trượt xuống dưới sống mũi nhọn, cái cổ ngọt ngào mỏng manh của anh... Cả cơ thể tôi gầm lên trước sự hiện diện của anh, nhưng tâm trí tôi hoàn toàn trống rỗng. Andrew mỉm cười với một trong những người bạn của mình và nói gì đó, rồi một lần nữa, đám người đi cùng anh lại phá lên cười.
"Grace?" Natalie thì thầm. Tôi không trả lời.
Rồi Andrew quay lại, nhìn thấy chúng tôi, và điều vừa xảy ra với tôi cũng xảy ra với anh. Anh hết trắng lại chuyển sang đỏ, mắt mở ngày càng to. Rồi anh cố ép một nụ cười và tiến về phía chúng tôi.
"Chị có muốn đi không?" Nat hỏi. Tôi quay lại nhìn con bé và thấy, cực kỳ ngạc nhiên, rằng con bé trông thật sự là cực kỳ xinh đẹp. Một màu ửng hồng nhuộm trên hai má, không như má tôi, có thể nướng chín cả món bít tết. Một bên mày nhướng lên tinh tế đầy quan tâm. Đôi tay thon thả với những chiếc móng gọn gàng, không gọt giũa với ra để chạm vào tay tôi.
"Không, không, tất nhiên là không rồi. Chị ổn. Chào đằng ấy, anh chàng lạ mặt!" tôi đứng dậy và nói.
"Grace," Andrew nói và giọng anh thân quen đến nỗi như thế là một phần của tôi, gần như thế.
"Thật là một sự ngạc nhiên thú vị," tôi nói. "Hẳn là anh còn nhớ Nat chứ."
"Tất nhiên rồi," anh nói. "Chào Natalie."
"Chào," con bé nói như thì thầm, tránh ánh mắt đi chỗ khác.
Tôi không chắc vì sao mình lại đề nghị Andrew ngồi cùng chúng tôi mấy phút. Anh gần như buộc phải đồng ý. Chúng tôi ngồi cùng nhau, văn minh và thân thiện như thể bữa trà chiều trong lâu đài Windsor. Andrew nuối nước bọt khi được cho biết rằng Nat sống trong cùng thành phố nơi anh làm việc, nhưng che giấu khá tốt. Khu phố 9, khu đó được cải thiện tốt nhỉ. Ồ, thật ư, em làm việc tại Pelli, thú vị thật... Vui quá. Thế giới nhỏ thật. Còn em, Grace? Trường Manning thế nào? Bọn trẻ năm nay có ngoan không? Tuyệt. Ưm... bố mẹ em khỏe chứ? Tốt, tốt. Còn Margaret và Stu? Tuyệt.
Và như thế, chúng tôi ngồi đó, Nat, Andrew, tôi và con voi bốn tấn đang gậm chân nhảy trên bàn. Andrew liến thoắng như một con khỉ hồi hộp, và dù chẳng thể nghe được vì tiếng ù đặc trong tai, tôi thấy mọi thứ rõ ràng như thể đang dùng một thứ thuốc kích thích. Tay của Natalie khẽ run lên, và để giấu cái sự thật đó, con bé khoanh tay ngoan ngoãn dưới gần bàn. Khi con bé nhìn Andrew, đồng tử của nó dãn ra, dù nó cố gắng để không nhìn vào mắt anh. Bên trên viền cổ chiếc áo khoác lụa, làn da con bé ửng hồng, gần như tấy lên. Thậm chí môi con bé trông cũng đỏ hơn. Như thể xem chương trình khoa học về sự hấp dẫn trên kênh Discovery.
Nếu Natalie... chỉ gượng gạo, thì, thật ra, Andrew hoảng loạn. Trán anh lấm tấm mồ hôi và chỏm tai anh đỏ đến nỗi trông như thể sắp phát hỏa. Anh nói nhanh hơn bình thường và cố gắng mỉm cười thường xuyên với tôi, dù anh dường như không thể nhìn thẳng vào mắt tôi.
"Thôi," anh nói vào giây phút có thể thoát thân, "anh nên trở lại chỗ mấy bạn đồng nghiệp ở đằng kia. Ừm, Grace... em... em trông rất tuyệt. Thật vui vì được gặp em." Anh ôm tôi một cái thật nhanh và tôi có thể cảm nhận được hơi nóng ẩm ướt trên da anh, như một đứa trẻ giờ ngủ trưa. Rồi anh lùi lại đột ngột. "Natalie, ừm bảo trọng nhé."
Con bé đưa ánh mắt từ dưới bàn lên, và con voi dường như vấp, ngã và đổ sập ngay trên mặt bàn. Bởi vì, lấp lánh trong đôi mắt xanh da trời tuyệt đẹp của con bé là cả một thế giới khổ sở và ăn năn và yêu thương và tuyệt vọng, và tôi, kẻ không yêu ai như yêu Natalie, cảm thấy đó là một cú nện vào đầu. "Bảo trọng, Andrew," con bé nói ngắn gọn.
Hai chúng tôi nhìn anh bước đi để quay lại nhập hội với mấy người bạn ở phía bên kia nhà hàng, thật may, là rất rộng này.
"Muốn đi chỗ khác không?" Natalie gợi ý khi Andrew đã đi đủ xa.
"Không, không, chỉ ổn mà. Chị thích ở đây," tôi nói nồng nhiệt. "Với lại, bữa tối sắp được dọn ra rồi." Chúng tôi mỉm cười với nhau.
"Chị ổn chứ?" con bé nhẹ nhàng hỏi.
"Ồ, ừ," tôi nói dối. "Hẳn rồi. Ý chị là, chị đã yêu anh ấy, anh ấy thực sự là một người rất tốt, nhưng... em biết đấy. Anh ấy không phải Người Đó." Tôi đưa tay lên ra dấu ngoặc kép.
"Không phải ư?"
"Không hề. Ý chị là, anh ấy rất tuyệt, nhưng..." tôi ngừng lại, giả vờ suy nghĩ. "Chị không biết nữa. Có gì đó còn thiếu thiếu."
"Ồ," con bé nói, mắt trầm tư.
Bữa tối được dọn ra, tôi gọi món bít tết; Nat gọi cá hồi. Khoai tây ngon tuyệt. Chúng tôi ăn và trò chuyện về phim ảnh, về gia đình, sách và các chương trình truyền hình. Khi tôi gọi thanh toán, Nat trả tiền, tôi không cản. Rồi chúng tôi đứng dậy. Em gái tôi không nhìn về phía Andrew, chỉ nhẹ nhàng đi về phía cửa trước mặt tôi.
Nhưng tôi liếc nhìn lại. Thấy Andrew trông như thể con nghiện thèm thuốc, yếu ớt và đau đớn và trần trụi. Anh không thấy tôi đang nhìn – anh chỉ để mắt tới Natalie.
Tôi bắt kịp em mình. "Cảm ơn, Natalie," tôi nói.
"Ôi, chị Grace, có gì đâu," con bé trả lời, có lẽ hơi quá xúc động so với tình huống thế này.
Tim tôi nện thình thịch trong ngực khi thang máy đi xuống. Tôi nhớ ngày sinh nhật lần thứ tư của mình. Nhớ những chiếc kẹp tóc. Buổi sáng thứ Bảy ôm ấp. Khuôn mặt con bé khi tôi rời nhà đi học đại hoc. Tôi nhớ cái phòng chờ trong bệnh viện, mùi cà phê cũ, ánh sáng chói lòa khi tôi hứa với Chúa bất cứ điều gì, bất cứ điều gì, nếu Ngài cứu em gái tôi. Tôi băn khoăn không biết đã có điều gì trong mắt Natalie khi con bé ngẩng lên nhìn Andrew.
Tôi hình dung xem cần có tính cách thế nào để có thể rời bỏ cái rất có thể là tình yêu của đời mình vì một người khác. Để cảm nhận được tiếng sét mà không thể làm gì được. Tôi không biết liệu mình có thể vị tha đối với một hành động cao thượng nhường ấy không. Tôi tự hỏi mình thực sự có một trái tim như thế nào. Mình thực sự là một người chị như thế nào.
"Chị có một ý nghĩ rất kỳ lạ," tôi nói khi chúng tôi tản bộ về phía căn hộ của Natalie, tay trong tay.
"Rất nhiều ý nghĩ của chị là kỳ lạ mà," con bé nói, gần như chạm được tới cảm xúc mọi khi của chúng tôi.
"À, cái này thì chưa rõ lắm, nhưng chị cảm thấy nó đúng," tôi nói, dừng lại ở góc phố New Haven Green. "Natalie, chị nghĩ em nên..." tôi ngừng lại. "Chị nghĩ em nên gặp gỡ Andrew. Chị nghĩ có thể ban đầu anh ấy đã gặp nhầm người rồi."
Đôi mắt đẹp kỳ lạ của Natalie lại lấp lánh – choáng váng, cắn rứt, buồn rầu, đau đớn... và hy vọng. Phải. Hy vọng. "Grace, em sẽ không bao giờ..." con bé bắt đầu.
"Chị biết. Thực sự biết," tôi thì thầm. "Nhưng chị nghĩ em và Andrew nên nói chuyện."
Mấy ngày sau, tôi gặp Andrew để ăn tối. Nói với anh cùng một điều đã nói với Natalie. Cùng những cảm xúc ấy ánh lên trên khuôn mặt anh, như đã ánh lên trên mặt con bé, thêm một cảm xúc nữa. Biết ơn. Anh đưa ra một vài lời từ chối lấy lệ, rồi chịu khuất phục, đúng như tôi dự liệu. Tôi gợi ý họ nên gặp mặt trực tiếp chứ không nên nói qua điện thoại hay thư điện tử. Họ đã làm theo gợi ý của tôi. Natalie gọi cho tôi vào cái ngày sau buổi gặp đầu tiên của họ, và bằng giọng lâng lâng, kể cho tôi họ đã đi dạo qua New Haven thế nào, cuối cùng run rẩy trên chiếc ghế dưới những gốc cây trang nhã ở quảng trường Wooster, chỉ trò chuyện, ra sao. Con bé hỏi đi hỏi lại liệu như thế có thực sự ổn không, tôi trấn an con bé rằng có.
Và đúng là như vậy, chỉ trừ một vấn đề. Tôi không chắc mình đã quên được Andrew chưa.
Chúc các bạn online vui vẻ !