Hôm nay là ngày thứ chín Triết rời bỏ tôi, tôi đã viết trong nhật kí như vậy.
Cuối cùng trưa nay tôi cũng lên được chiếc xe đi Đan Ba. Tim tôi không khỏi đập thình thịch. Lúc mở đầu cuộc hành trình có thể là mù quáng, trên chuyến đi chỉ còn một phần nhỏ vẫn có thể là mụ mẫm, nhưng càng gần chặng cuối chuyến đi, bạn lại không thể không xúc động, tim nhảy nhót như một con hươu nhỏ.
Tôi và Lộ Phong Thiền ngồi xuống hai ghế cạnh nhau. Cuối cùng cũng bỏ được cái vòng chống cắn cho nó. Bệnh viêm da của nó đã khỏi, nom nó thật nhanh nhẹn và khỏe mạnh. Ngồi trên ghế, đầu nó không khỏi đảo qua đảo lại, còn cọ dỉ mắt lên cái áo khoác hiệu Marc Jacobs của tôi, cuối cùng lại nhảy xuống ghế nhai đôi dép da dê đế bằng của tôi. Chưa bao giờ tôi thấy nó điên rồ đến vậy.
Lúc này, một người đàn ông lên xe, ngồi xuống ghế đối diện cách nhau một lối đi. Mấy lần anh ta quay sang nhìn tôi, khiến tôi không khỏi quan sát anh ta một lượt, hình như đã gặp ở đâu. “Cô là cô gái đã bị ngất”, đột nhiên anh ta kêu lên.
Tôi chợt nhớ ra đã gặp anh ta ở đâu. Đó chính là người học y đã giúp tôi trên chặng đường từ Thượng Hải tới Nghi Xương, khi tôi bị ngất đi vì con chó đột nhiên cất tiếng nói. Tôi còn ấn tượng về cái tên của anh ta, “Anh là Đường Cương?”.
Anh ta gật đầu, nhoẻn cười, rõ ràng rất vui vì tôi còn nhớ tên anh. “Sao lại trùng hợp thế? Quả nhiên lại gặp nhau”.
“Đúng là rất trùng hợp”. Tôi cũng rất ngạc nhiên.
“Cô tới Xuyên Tây du lịch sao? Nơi đó phong cảnh rất tuyệt, có núi tuyết, hồ bạch, dân tộc Tạng, từng bầy dê, bầy cừu”, anh ta thử đoán.
Tôi lắc đầu, rồi lại gật đầu. “Cứ cho là vậy”, tôi cười.
“Chà, nhà tôi ở đó”. Không đợi tôi trả lời, anh tự nói, rồi lôi ra một tấm danh thiếp, đưa cho tôi. “Tôi làm kinh doanh, nơi đó chúng tôi sản xuất rất nhiều loại thảo dược, đông trùng, tuyết liên hoa… Cô có nghe nói không?”.
“Anh cũng sống ở Đan Ba sao?”, tôi nhìn tấm danh thiếp, bên trên ghi giám đốc một công ty bán buôn thảo dược ở Đan Ba.
Anh ta khẽ cười kiêu hãnh, “Đúng vậy, đó là một nơi tuyệt vời. Năm 2001, vệ tinh nước Pháp từ độ cao hơn mười vạn mét đã chụp được một tấm hình rất thần kì. Năm dòng sông, năm ngọn núi cùng tạo nên một đóa hoa mai nở trên mặt đất. Đó chính là đóa hoa của trái đất - Đan Ba”, anh ta nói bằng giọng hướng dẫn du lịch.
“Bạn trai tôi cũng là người Đan Ba”, tôi nói. Vừa nói dứt lời, tôi lại thấy ân hận. Xem ra tôi nói quá nhiều với một người lạ.
Quả nhiên anh ta chú y tới và hỏi rất hào hứng: “Bạn trai cô tên là gì?”.
“Nhất định anh không biết đâu”, tôi từ chối.
“Hơn mười năm qua, tôi đi hết các ngóc ngách thôn xóm để mua thảo dược. Đan Ba đâu có rộng lớn gì, về cơ bản tôi có thể nhận ra được mặt. Cô cứ nói ra đó, xem tôi có quen không?”, anh ta vẫn kiên trì hỏi.
Tôi lắc đầu, cười xin lỗi, rồi quay lại ngắm cảnh bên đường. Hai bên đường phần lớn là các đỉnh núi cao ngất, có lẽ đã vào địa phận của Tứ Xuyên.
Nhớ lại nhà thơ Lí Bạch thời Đường từng có những câu thơ miêu tả những vùng núi hiểm trở, giao thông không thuận tiện như Tứ Xuyên. Những câu thơ đó lúc này thực sự nói đúng tâm trạng của tôi mong mỏi được gặp Triết. Dù khó khăn đến mấy, cũng vẫn phải đi tiếp.
Xe đột nhiên lắc mạnh, rồi một tiếng phanh chói tai vang lên. Mọi người trong xe hầu như đều bị ngã nhào. Rồi xe dừng hẳn, mọi thứ hồi phục lại bình thường. Không khí yên tĩnh tới đáng sợ, có tiếng gió lốc cuốn.
Tôi đang mơ màng ngủ, đột nhiên bị cú xóc xe làm bừng tỉnh, toàn thân mồ hôi ướt lạnh, trán bị đập vào thành cửa sổ bên cạnh đau điếng.
Chỉ nghe thấy mọi người trong xe hoảng loạn, có tiếng ai đang kêu, “Chẹt chết người rồi, xe đâm chết người rồi!”. Tim tôi đập thình thịch, ôm vội Lộ Phong Thiền vào lòng. Trong phút chốc lại nhớ tới cảnh tượng thương tâm bố tôi bị xe đâm, nằm trong vũng máu đã đỏ sẫm. Không biết cái gì đã khiến tôi đột nhiên dũng cảm đến vậy. Tôi đứng bật dậy, len qua đám người co rúm, nhốn nháo và nóng rãy trên xe. Lúc này cửa xe đã mở toang, tôi nhảy xuống, cùng mấy người đi sang đường.
Bên kia đường là một chiếc xe đạp bị nghiến gãy dúm dó. Cách đó không xa là một người đàn ông hơn năm mươi tuổi trong bộ cà sa màu vàng cam nằm vật trên đường. Đầu ông ta cạo trọc, lưng đeo một túi vải. Ông là một hòa thượng Tây Tạng.
Nửa thân trước của ông đều đẫm máu, nhưng mắt ông vẫn mở to, lóe lên những tia sáng quái lạ. Tôi không khỏi sững sờ nhìn ông đăm đăm, phảng phất như thể nhìn thấy một thế giới chưa từng nhìn thấy với vô số vì sao lấp lánh và những cơn lốc đầy bụi vàng. Tôi đã bị thổi tới một không gian thần bí ở ngoài trái đất.
Ảo ảnh chưa đầy một giây rồi tan hẳn.
Rồi tôi ngạc nhiên khi thấy vị hòa thượng đó đột nhiên mỉm cười với tôi.
Tôi không dám tin, cứ ngỡ là nhìn lầm, đang định cúi xuống sát gần ông thêm chút nữa, thì vị hòa thượng đã nhắm mắt lại. Lúc này, toàn thân tôi bị úp chụp trong nỗi đau thương và khiếp sợ không tài nào tả nổi, nước mắt tôi không ngừng tuôn. “Mau tới đây, phải đưa ông ấy đi bệnh viện”, tôi nghe thấy giọng nói tuyệt vọng của mình vang trong không gian.
Người đàn ông có tên Đường Cương xuất hiện bên cạnh tôi. Anh ta ấn mạnh lên vai tôi, “Đừng hoảng hốt”, anh ta nói nhỏ rồi ngồi sụp xuống xem mạch cho hòa thượng, vạch mắt ông ra xem. “Ông ấy chết rồi”, anh ta khẽ nói, như thể tự nói vậy.
“Tôi không tin”, tôi gắng hạ giọng, kêu ầm lên, “Chúng ta phải đưa ông ấy vào bệnh viện ngay”. Anh ta không thèm đáp trả, cũng không nhìn tôi.
Lướt mắt qua đám hành khách vây quanh, không thấy tài xế đâu. Đầu tôi như sắp nổ tung, liền rảo bước tới cửa xe. Quả nhiên bác tài vẫn đang ngồi trên xe, ra sức hút thuốc, lớn tiếng thanh minh với mấy hành khách nhát gan còn sót lại. “Không phải lỗi tại tôi. Rõ ràng ông ta cưỡi chiếc xe đạp rách đi lảo đảo. Tự mình tìm tới chỗ chết, còn trách ai nữa? Các người nói xem, hôm nay sao chúng ta lại xui thế nhỉ, không biết gặp chuyện ma quỉ gì?”.
Mấy hành khách cũng phụ họa theo, “Đúng thế, chuyện này không trách bác được. Người đó gặp chuyện xúi quẩy, tự mình tìm tới chỗ chết thôi”.
“Im đi”, tôi quát to, rồi chỉ vào bác tài, “Bác xuống đây!”.
“Cô là ai?”, bác tài xế nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống sàn xe, “Tại sao tôi phải nghe cô?”.
“Bác trốn cũng không xong đâu”. Tôi tức giận tới run người, rồi phát hiện thấy mình đang lôi điện thoại ra, bắt đầu bấm số 120 gọi xe cấp cứu. Gọi thông rồi, khi đầu dây bên kia hỏi tôi đang ở đâu, tôi đang ngần ngừ thì phát hiện thấy Đường Cương đứng bên tôi. Vừa định đưa điện thoại cho anh, chiếc di động trong tay tôi đột nhiên bị một người giật lấy.
Tôi không hề chuẩn bị, quay lại nhìn, thì ra là một hành khách cùng đi. Đó là một người đàn ông nom cũng chưa đứng tuổi, nhưng mặt đầy vết sẹo, miệng ngậm một điếu thuốc. Tay anh ta lật qua lật lại chiếc điện thoại của tôi, như thể sắp ném nó đi bất kì lúc nào.
Tôi tức giận và kinh ngạc nhìn anh ta, chưa hiểu tại sao anh ta lại làm vậy. Tôi chỉ tay về phía anh ta: “Trả lại điện thoại cho tôi!”. Lộ Phong Thiền đứng bên cạnh tôi, lông lá dựng đứng, cổ họng gầm gừ, như sắp lao xổ ra cắn người kia.
“Được thôi”, anh ta liếc tôi, lại liếc con chó, “Nhưng cô không được gọi điện thoại cho cảnh sát, bệnh viện, bất kì ai cũng không được gọi”.
“Tại sao?”, tôi thực sự không thể tin nổi tai mình.
“Chẳng tại sao cả. Làm người cũng không thể quá thật thà. Người ta đã chết rồi, trốn được thì trốn. Chúng ta đều vội lên đường, nếu cảnh sát hoặc xe cấp cứu tới, chúng ta sẽ bị muộn bao lâu nào? Thời gian của mọi người, cô không thể lãng phí!”, anh ta nói từng câu từng chữ rất rõ ràng.
Lúc này cuối cùng tôi cũng hiểu rõ, nhưng không nói nổi thành lời. Tôi thấy rõ mình đang run lập cập, có cái gì đó rất lạnh, xọc thẳng vào xương cốt tôi.
Tôi cầu cứu nhìn mấy chục hành khách khác đang vây quanh, nhưng họ đều quay đi, hoặc nhìn tôi bằng ánh mắt lạ lẫm. Mấy người đi lên xe, bắt đầu đập cửa sổ, oán trách rất lớn tiếng: “Xem cái đống chết tiệt kìa, mẹ kiếp, rốt cuộc còn phải mất bao lâu mới tới nơi đây. Thời gian là vàng bạc, là sinh mạng. Chúng ta không thể để lỡ được”.
Tôi hầu như không thể thở nổi.
Câu chuyện có ý nghĩa châm biếm nhất đang diễn ra trước mắt. Mấy người kia mồm nói thời gian là sinh mạng, nhưng không phải chúng ta vừa nhìn thấy một sinh mạng vừa ngã xuống ngay trước mắt sao? Tại sao chúng ta không thể gánh lấy trách nhiệm phải làm? Chí ít cũng phải tôn trọng một chút với ông hòa thượng già đáng thương chứ? Có lẽ còn cứu được ông ấy, chỉ cần chúng ta tranh thủ thời gian đưa ông ấy đi bệnh viện, ông ta có thể sống được… Đúng vậy, tất cả đều là có thể, nhưng lẽ nào chúng ta không nên vì một chút “có thể” đó để gắng hết sức mình?”.
Lúc này Đường Cương đứng sát tôi, đặt tay lên vai tôi như an ủi. Nước mắt tôi lại tuôn ra từng giọt lớn.
“Thế này nhé”, anh vỗ vỗ vai tôi, mãi hồi lâu mới cất tiếng, “Tôi và cô ở lại lo chuyện cho vị hòa thượng”.
Tôi ngạc nhiên ngẩng đầu lên. Qua hàng nước mắt, nhìn thấy một gương mặt cương nghị và lương thiện. “Dù sao, tôi cũng có thời gian”, anh ta nói bằng giọng bình thản, nhìn một lượt những người xung quanh.
Tôi quyết định tin vào trực giác của mình, như vậy thôi, cùng anh ta ở lại lo liệu chuyện hậu sự cho vị hòa thượng.
Lúc này đã là khoảng sáu giờ tối, chúng tôi ngồi bên đường chờ xe cấp cứu và xe cảnh sát tới. Đường chân trời phía Tây điểm ráng chiều, không gian dần biến thành màu xanh nhạt. Con đường trước mặt không ngớt xe qua lại, cuốn theo bụi bay mù mịt. Những con đường đã chạy qua đều là đường rải nhựa, nhưng tới khúc này đột nhiên lại biến thành đường đất xen lẫn đá vụn. Theo cú điện thoại ban nãy, phải nửa giờ nữa, xe cảnh sát và xe cấp cứu mới tới nơi.
Gió thổi vù vù, cái rét chiều tối tháng năm vẫn buốt giá. Tôi không khỏi vài lần rùng mình vì lạnh. Áo khoác của tôi đã đắp lên ngực vị hòa thượng. Có lẽ nó không còn tác dụng với ông ta, nhưng tôi vẫn làm như vậy, bất chấp lời khuyên ban nãy của Đường Cương. Làm như vậy, về tâm lí tôi cũng phần nào được an ủi. Đường Cương đứng bên cạnh chú ý thấy tôi lạnh, không nói thêm câu nào, cởi luôn áo khoác của anh, khoác lên vai tôi. Tôi cũng không nói, chỉ lặng lẽ đón nhận lòng tốt của anh.
Rồi anh đi về phía sườn núi phía sau chúng tôi, đi một đoạn không xa thì dừng lại. Tôi chú ý thấy anh cúi xuống, nhặt nhạnh gì một lúc rồi quay lại, trong tay là một nắm cành cây khô.
Tôi lặng lẽ nhìn anh chụm củi thành một đống, lấy bật lửa ra đánh lửa. Không khí khô và gió lớn làm củi bùng lên rất nhanh. Ngọn lửa ấm áp nhảy nhót như đám thú con, hoạt bát tinh nghịch. Không khí nặng nề tang thương ban nãy trong chớp mắt đã tan biến.
“Ngồi xuống đi”, anh gọi, lấy tay chỉ một nơi khuất hướng gió.
Tôi dịch sang đó, lại nhìn thấy vị hòa thượng nằm bên cạnh. Nom ông rất gầy, nửa thân trên hoàn toàn lọt thỏm trong chiếc áo khoác trắng của tôi. Những vết máu trên mặt đã được tôi dùng khăn giấy ướt lau sạch. Mắt ông vẫn nhắm nghiền, bên miệng hình như vẫn đọng lại nụ cười mong manh. Cả gương mặt ông có sự tĩnh lặng và thanh bình như ru ngủ rất đặc biệt. Ánh mắt của tôi vừa chạm tới gương mặt ông đã thấy thật khó rời. Không rõ vì một nguyên nhân nào đó, phảng phất như từng gặp ông ở một nơi nào đó, ông khiến tôi có cảm giác thật gần gũi, rất tôn trọng. Trong lòng tôi tràn ngập một tình cảm rất lạ đối với ông.
Song những suy nghĩ vẩn vơ như ảo giác đó rất ngắn ngủi.
Vừa quay lại hiện thực, tôi vẫn là một đứa con gái tha hương ngồi bên đống lửa cùng một người lạ cùng chờ đợi. Và nằm bên cạnh chúng tôi là một hòa thượng cùng tương ngộ trong chuyến hành trình này bởi một hình thức rất bi kịch. Ba người lạ cùng tụ lại với nhau trong một lần gặp không may mắn, chỉ như vậy mà thôi.
Tôi nhỏm dậy, đi gần về phía hòa thượng, ngồi xuống bên ông. Chiếc tay nải ông đeo đã được mở ra khi giúp ông lau máu, phủ áo. Bên trong có một cuốn kinh thánh, một chiếc bát gỗ, một bộ cà sa sạch. Tất cả chỉ có vậy.
Theo Đường Cương nói: Ở Xuyên Tây, đặc biệt là nơi chúng tôi muốn tới có rất nhiều dân tộc Tạng sinh sống, những người thuộc tộc Hán như anh trở thành dân tộc thiểu số. Nơi có người tộc Tạng sinh sống rất tự nhiên có không ít chùa chiền và hòa thượng theo phật giáo Tây Tạng. Và giờ đây, chúng tôi hiện đang dừng ở ráp gianh vùng đó, hẳn vị hòa thường này cũng là hòa thượng nơi đó vừa đi xa về. Có thể ông đang trên đường đi hóa nguyện, cũng có thể đang vội về chùa. Không thể biết được tên tuổi và lai lịch của ông. Những hòa thượng lang thang như ông như thể cọng cỏ bay theo gió, trầm lặng, không được người ta chú y, nhưng tới đâu cũng bình lặng như vậy. Như thể bất cứ nơi nào đối với họ cũng xa lạ hoặc thân thiện như nhau, đâu đâu cũng là cảnh màn trời chiếu đất.
Chiếc xe đạp của vị hòa thượng vốn đã rất cũ kĩ. Sau khi bị đâm, nó hoàn toàn trở thành một đống phế thải, nằm cùng chủ nhân đang chảy máu, khiến người ta không nỡ nhìn.
Sờ tay vị hòa thượng lạnh như băng, nước mắt tôi lại tuôn ra. Tôi nghĩ bụng, ông già xa lạ trước mặt này đã chết thực rồi.
“Không biết có nên hỏi không?”. Một lúc sau, Đường Cương cất tiếng, phá vỡ không khí trĩu nặng, “Tôi cảm thấy hình như trước đây cô cũng từng gặp qua cảnh hôm nay”.
Tôi im lặng, đi tới bên con chó đang nằm nghỉ, thò tay khẽ vuốt ve đầu nó. Nó lập tức tỉnh giấc, thoắt một cái đã ngồi dậy, cảnh giác quan sát xung quanh. Sau khi xác định không có gì khác thường, nó mới trầm ngâm ngồi bên tôi, ngáp một cái rõ dài, rồi lại nằm bẹp xuống, gác đầu lên hai chân trước, nhưng mắt vẫn mở to. Tôi thấy nó nhìn vị hòa thượng rất lâu.
Tôi vuốt ve đầu nó, lấy mấy miếng bánh gạo nướng còn sót lại trong ba lô, đưa cho nó, rồi nói với Đường Cương, mắt vẫn không nhìn anh: “Đúng vậy, từng gặp phải”.
Mắt anh ta mở to: “Thật sao? Hẳn nào, tôi thấy lúc nãy nom cô rất xúc động. Hình như trong tim cô có cái gì đó vừa bị kích động”. Anh ta lại gật đầu, “Thì ra là vậy”.
Tôi hầu như không nghe thấy anh ta nói gì, chỉ mải ngắm ráng chiều cuối cùng nơi chân trời và không ngừng tưởng tượng ra hình ảnh bố tôi đang bay bay trong một thế giới khác. Đối với tôi, đó là một thế giới không tài nào chạm tới nổi, không thể hiểu được, nhất định là nó phải có gió phe phẩy, có hương hoa nhàn nhạt, có rất nhiều mây trắng như kẹo bông. Còn gì nữa nhỉ? Tôi không thể nghĩ ra nổi, có lẽ có cả những thứ đen tối và đau khổ nữa. Không có một thế giới nào mà chỉ có một gương mặt, đen và trắng, vui và buồn. Chúng hầu như đều tồn tại ở tất cả mọi nơi như một cặp song sinh.
Tôi vừa tò mò vừa đau buồn về cuộc sống của bố tôi trong thế giới đó. Ông sẽ bay trong không trung từng phút từng giây sao? Ông làm thế nào để đối phó lại với những hỉ, nộ, ái, ố của mình?
Ông cần phải lí giải, phán đoán, thậm chí là chấp nhận ra sao về mọi thứ xảy ra ở thế giới này? Còn cả vụ tai nạn nữa. Nhất định ông biết rõ người đâm ông là ai. Vậy ông có cảm giác gì về người đó?
“Có thể mạo muội hỏi một chút, trong quá khứ của cô rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”, Đường Cương cắt đứt những suy nghĩ của tôi.
Tôi giơ tay gạt mấy lọn tóc bị gió thổi lõa xõa, ho một tiếng, ôm chặt hai đầu gối trong màn đêm ngày càng dày đặc. Tôi thấy Đường Cương cứ nhìn tôi mãi đầy nghi ngờ, nên quay sang nhìn kĩ anh ta một cái. Lần đầu tiên, tôi phát hiện thấy anh là một người đàn ông tuấn tú, nước da ngăm đen, các đường nét trên mặt rất rõ ràng, đôi mắt rất thẳng thắn và đầy chất lửa của người miền Tây. Tôi nhìn anh hồi lâu, đột nhiên có cảm giác như quen biết đã lâu, rồi tôi nhanh chóng quay mặt đi.
Tôi hít một hơi sâu, cuối cùng cố gắng nói bằng một giọng thật bình tĩnh, “Hơn mười năm trước, bố tôi chết trong một tai nạn”.
“Xin lỗi”, anh thông cảm nói.
“Không có gì”, tôi bình thản đáp và không muốn nói tiếp về đề tài này nữa.
Đúng lúc đó, từ xa đã vẳng tới tiếng còi xe cảnh sát và xe cứu thương. Chúng tôi vội vàng đứng dậy, ngó về phía có tiếng còi. Chỉ thấy phía trước một đám bụi mù, ánh đèn xe nhấp nháy như con lân tinh. Tôi ôm chặt hai vai, tự nhiên thấy căng thẳng.
Xe dừng lại trước mặt chúng tôi. Hai cảnh sát nhảy xuống xe, hai nhân viên y tế khênh cáng xuống. Một viên cảnh sát chụp ảnh, một viên cảnh sát khác hỏi và ghi lời khai. Không đợi họ phải hỏi, tôi đưa cho họ tờ giấy ghi biển số xe gây tai nạn và số phù hiệu của tài xế. Nhìn họ ghi chép lại, tôi vẫn nhắc lại lần nữa đã xác định rằng anh ta đã thực sự nắm được đầu mối lần ra tên tài xế ác độc đó.
Một nhân viên cứu hộ quỳ xuống bên người vị hòa thượng già kiểm tra hồi lâu. “Người đã chết rồi”, giọng anh ta không cao cũng không thấp, rõ ràng chỉ đang phục vụ công việc.
Viên cảnh sát thấy tôi bắt đầu khóc, liền quay sang hỏi Đường Cương. Anh nghiêm trang kể lại câu chuyện, đặc biệt là cảnh tài xế và hành khách cãi nhau ra sao, cương quyết đòi tiếp tục lái xe đi tiếp thế nào.
Tôi nhìn thấy vị hòa thượng già được khênh lên cáng, đưa lên xe cứu thương. Tôi đuổi theo hai người mặc áo blouse trắng: “Xin hỏi mọi người sẽ đưa ông ấy đi đâu?”.
“Trước tiên là tới nhà xác của bệnh viện, sau đó đến phòng thiêu xác”, người đó vẫn đáp bằng giọng bình bình.
Tôi hoảng hốt chạy tới bên viên cảnh sát: “Xin hỏi các anh có đi bắt tên tài xế gây tai nạn không?”.
“Bắt chứ”, viên cảnh sát đáp vắn tắt, “Không phải cô đã ghi hết số xe và số hiệu của tài xế rồi sao? Đi bắt chẳng phải cũng dễ sao?”, anh ta liên tục dùng hai câu hỏi, như thể cảm thấy tôi rất ghê gớm vậy.
Tôi thầm nghĩ: Nếu biết được tôi ở Trùng Khánh còn đối phó với một tên hung thủ bị truy nã thì anh ta sẽ có phản ứng ra sao nhỉ? Tôi thở phào. Mức độ căng thẳng và đầy kịch tính của những gì trải qua trong mấy ngày ngắn ngủi từ Thượng Hải xuống miền Tây này đã vượt qua những gì tôi từng trải qua trong suốt hai mươi chín năm ở Thượng Hải. Cuộc hành trình này bắt nguồn bởi sự đột ngột ra đi của bạn trai tôi. Mấy ngày sau đó, người bố đã chết của tôi lại quay về, con chó biết nói, giúp đỡ một sinh viên nghèo, bị cướp suýt mất mạng, giờ đây lại được tận mắt chứng kiến cái chết của một hòa thượng xa lạ….
Không biết còn có những gì chờ đợi tôi ở phía trước? Lẽ ra đúng như Đường Tăng đi thỉnh kinh từng bước gian khó hay sao? Cuộc hành trình tìm bạn trai của tôi lần này rốt cục sẽ có y nghĩa gì?
Tôi ngày càng nghĩ nhiều và không tài nào lí giải nổi. Tôi cũng thường nhớ tới những lời dự đoán của bố tôi về việc tôi sẽ học được bốn chân lí cuộc đời trong chuyến đi này. Vậy còn Triết thì sao? Tôi khát khao được gặp anh đến vậy, rất muốn anh quay về bên tôi. Nếu ông trời thực sự sắp xếp cho tôi học được bốn chân lí, vậy rốt cuộc ông trời sẽ sắp xếp tình yêu của tôi ra sao?
Cảnh sát ghi lại số chứng minh thư và số điện thoại của chúng tôi rồi đi. Họ đề nghị đưa chúng tôi tới một huyện gần đó tìm chỗ nghỉ chân, nhưng Đường Cương từ chối vì biết được ở đó rất khó đón xe về Đan Ba. Tôi cũng ở lại cùng anh ta.
Áo khoác của tôi vẫn úp trên ngực vị hòa thượng, cùng ông lên xe cấp cứu đi xa. Trên người tôi vẫn khoác chiếc áo của Đường Cương. Lúc này, gió càng mạnh hơn, cái rét cũng xoắn lấy da thịt. Trời đã hoàn toàn đen kịt. Ngẩng đầu thấy vô số các vì sao lấp lánh trên trời xanh như những viên kim cương xinh đẹp và lặng lẽ tỏa sáng. Ở Thượng Hải rất hiếm khi gặp được cảnh bầu trời sạch tinh và nhiều sao đến vậy.
Thấy tôi co rúm trong gió, giữ chặt quần áo vì lạnh, Đường Cương nói, “Tôi đi nhặt củi”, rồi lại chạy lên gò núi phía sau. Chẳng mấy chốc, anh ôm một đống cành củi khô quay về, bắt đầu nhóm thêm vào đống lửa đã tắt. Lửa nhanh chóng nhảy nhót, tạo thành một thế giới sáng rỡ và ấm áp.
Tôi dắt Lộ Phong Thiền tới bên đống lửa, ngồi xuống. Đường Cương rút ra một bao thuốc, đưa cho tôi một điếu. Tôi nhận ngay không chút do dự. Anh tự thưởng cho mình một điếu, rồi châm lửa. Tôi nhả ra một bụm khói, lúc này mới thấy thảnh thơi hơn rất nhiều.
Tôi chợt nhớ ra điều gì đó, liền vội lôi tay nải của vị hòa thượng từ trong ba lô du lịch màu đen. Thoạt đầu vừa nhìn thấy, Đường Cương giật mình, nhưng rồi lại mỉm cười. “Lúc nãy nhân lúc hai nhân viên y tế khênh vị hòa thượng lên xe, hai viên cảnh sát chỉ hỏi chuyện anh, tôi giấu trộm đấy”, mặt tôi rất đắc y.
“Ắt hẳn vị hòa thượng cũng muốn cô làm vậy”, Đường Cương nói, “Tôi thấy trước khi nhắm mắt, hình như ông ấy còn cười với cô, đúng không?”. Tôi gật đầu, “Cũng có thể. Tôi cứ có cảm giác đã từng gặp ông ấy ở đâu rồi, như thể người quen”.
“Có duyên với nhau đấy”, anh ta nói, một lúc sau hỏi tiếp, “Cô định giải quyết ra sao với cái tay nải này?”.
“Tôi cũng chưa biết”, tôi nói rồi cúi đầu xuống ngẫm nghĩ. Rồi mở túi ra, lại nhìn cuốn kinh, cái bát gỗ và bộ cà sa một lúc, rồi nhấc cuốn kinh ra, cẩn thận đặt vào trong ba lô của tôi. Còn những thứ khác, tôi lần lượt ném vào đống lửa. Đường Cương lặng lẽ hút thuốc, nhìn tôi làm, cũng không ngăn cản.
Đầu tiên là cái bát gỗ, ném nó vào đống lửa, một lúc sau mới cháy hết, không ngừng nổ mấy tiếng khá to. Nó phải là đồ dùng khất thực và hóa nguyện của vị hòa thượng trên suốt đường đi. Chiếc bát biến thành đống tro rất nhanh. Tiếp đó, tôi đặt bộ cà sa vào đống lửa. Thoắt một cái, lửa bùng dữ dội, cao hơn cả đầu chúng tôi. Tôi thất kinh, lập tức nhảy dựng dậy khỏi chỗ ngồi, chắp tay cúi lạy ba cái về phía cái áo. Lúc này con chó cũng đứng thẳng dậy bằng hai chân sau, chắp hai chân trước khom người làm lễ. Có lẽ trực giác vốn có của động vật mà con người không có được, đã giúp nó nhìn thấy linh hồn của vị hòa thượng già đang bay trên không trung chăng?
Đường Cương đứng bên mở tròn mắt, bất giác cũng đứng dậy, khom mình trước đống lửa.
Cuối cùng là chiếc tay nải đã bạc mầu. Vừa vứt vào lửa, nó đã biến thành một đám tro. Đột nhiên tôi nhớ tới một câu thơ trong bài thơ “Hoa hồng” mà tôi yêu thích nhất: “Qua thuật luyện kim từ thứ nhỏ nhất, tái sinh từ đống tro tàn”.
Làm xong mọi việc, tôi đột nhiên không thấy lạnh nữa. “Chúng ta vẫy xe về thôi!”, tôi nói với Đường Cương. Anh gật đầu đứng dậy, lấy chân dậm vào đám tro tàn còn sót lại, nhấc hành lí đi ra vệ đường.
Thật bất ngờ, khoảng chừng năm phút sau, chúng tôi đã thuận lợi đi nhờ được một chiếc xe tới Đan Ba.
10. Huyện thành
Vừa tỉnh giấc đã tới Đan Ba. Lúc này đã hơn một giờ sáng.
Cả huyện tối om, đường xá chưa lắp bóng điện thật trống trải. Các tiệm hai bên đường vẫn đóng cửa. Nhà cửa cũng tối thui, chưa có ánh đèn. Dưới ánh sao xa xa, có thể nhìn thấy từng dãy núi nối nhau liên tiếp, bên tai vẳng tới vài tiếng chim đêm không rõ tên gì, không gian phả tới một cảm giác tha hương thật khó tả. Tôi chưa phản ứng kịp, cứ ngỡ đang ở nước ngoài. Nhớ tới Thượng Hải, lúc này chắc chắn đèn đóm đã rực rỡ, đường phố đã nhộn nhịp người qua lại.
Tôi định tìm một nhà nghỉ, nhưng Đường Cương kiên quyết bắt tôi về nhà anh. Anh nói để bạn bè phải đi ở trọ sẽ không phù hợp với lệ tiếp đón khách của người địa phương. Rõ ràng, anh đã coi tôi là bạn anh. Tôi không thể từ chối, nhận lời sẽ ở lại nhà anh đêm nay. Anh vui mừng đỡ ba lô của tôi, khoác lên vai mình, dắt tôi và con chó xuyên qua một con phố nhỏ tĩnh mịch, lại đi qua một đám cây đầy hoa trắng mà tôi cũng không biết tên, tới trước một căn nhà hai lầu có độc một cửa. Anh cười sung sướng, “Tới rồi”.
Đèn trong nhà đã bật, hiển nhiên đang đợi ông chủ về muộn. Chưa kịp gọi cửa, trong nhà đã vọng ra một loạt tiếng chó sủa ran, tiếp đó là cánh cửa kẹt mở, một phụ nữ hơn ba mươi tuổi dung mạo đoan trang xuất hiện. Trên đường đi, anh đã giới thiệu cho tôi về gia đình anh. Đây hẳn là Anh-vợ anh, người dân tộc Tạng. Gương mặt cô thanh tú, trắng ngần, trên người ăn vận rất giản dị. Nếu không nhìn kiểu tóc của dân tộc Tạng trên đầu cô, nom cô cũng không khác tôi là bao.
Sau lưng cô là một cậu bé chừng bốn, năm tuổi đang thập thò. Má cậu đỏ hây, mắt đen láy đảo qua đảo lại quan sát tôi và con chó. Bên cạnh cậu bé cũng có một con chó. Nó cũng đang quan sát Lộ Phong Thiền, như thể đang nhận ra đó là kẻ thù hay bạn hữu.
Đường Cương nói với vợ bằng tiếng địa phương. Cô ta vội vã mỉm cười, đỡ ba lô của tôi trong tay chồng, nhiệt tình đưa tôi vào nhà.
Trong phòng bày biện khá đơn giản nhưng rất sạch sẽ. Tôi nhìn thấy trước hình Phật Quan Âm là một cái khay đầy hoa quả và một lư hương nhỏ. Hương trong lư đã tắt, nhưng vẫn thoang thoảng mùi thơm rất dễ chịu.
Tôi được sắp xếp ở phòng khách trên tầng hai. Họ đã thay ga, gối mới, lại mang thêm một khăn mặt sạch và đôi dép lê. Lúc họ bận rộng dọn dẹp, cậu con trai mang một ly nước tới cho tôi. Tôi mỉm cười đón lấy, chắp hai tay lại cám ơn, rồi cúi người xuống ôm chầm lấy cậu bé. Cậu bé đỏ bừng mắt, cúi đầu xuống, tự tóm chặt lấy ngón tay mình. Tên cậu là Brazil. Ông ngoại cậu người dân tộc Tạng khi đặt tên cho cậu hẳn cũng không biết bên kia trái đất còn có một đất nước mang tên Brazil.
Cuối cùng, tôi và con chó lăn ra ngủ. Lộ Phong Thiền nhanh chóng phát ra tiếng răng nhai kèn kẹt, tiếng khịt mũi và tiếng chóp chép rất lạ đã thành thói quen như thể tiếng nhai lại các đồ ăn trong mơ. Một con chó có thể ngủ thiếp đi một cách bận rộn và nhiệt tình như vậy không khỏi khiến tôi ngưỡng mộ. Có được một con chó bầu bạn như vậy, dù có mất ngủ, tôi cũng thấy thỏa mãn.
Ngủ được một lúc, tôi lại bò dậy, mò mẫm tìm điện thoại trong bóng tối, kiểm tra xem có tin nhắn hoặc điện thoại nào gọi tới không.
Không hề có.
Tôi thở dài, ngẩng mặt lên trần nhà, ngần ngừ không biết có nên nhắn cho Triết một cái tin không. “Nhắn đi”, tiếng bố tôi đột nhiên vang lên. Tôi nhìn sang bên cạnh. Con chó đã tỉnh, đôi mắt nó tỏa ra thứ ánh sáng thật kì quái trong bóng tối.
“Bố! Tốt quá, con đang đợi bố giúp đỡ”, tôi vui sướng khi thấy bố tôi lại xuất hiện.
“Lần này, bố không thể ở lại quá lâu. Ngụy, bố chỉ muốn dặn con hai điều: khi sắp được gặp Triết, con càng phải cần bình tĩnh, tin nhắn gửi Triết phải đơn giản. Việc của vị hòa thượng già, con xử lí rất khéo, sau này con sẽ hiểu. Thôi ngủ đi, bố phải đi thăm một người bạn, sắp muộn rồi”. Nói xong, mọi thứ lại trở nên yên tĩnh như cũ.
Tôi thử gọi mấy câu: “Bố ơi”, nhưng không thấy tiếng trả lời. Tôi lại nhìn Lộ Phong Thiền bên giường. Nó lại lăn ra ngủ, có lẽ đang mơ tiếp giấc mơ dở dang bị bố tôi làm ngắt đoạn ban nãy.
Lúc nãy bố tôi nói đang vội đi gặp một người bạn, không biết có phải hẹn hò với một cô bạn ngọt ngào nào không nhỉ? Chắc hẳn thế giới của bố thú vị hơn so với những gì chúng tôi tưởng tượng rất nhiều. Tôi kinh ngạc thầm nghĩ, không khỏi lắc đầu và tự nhủ phải ghi nhớ lần sau hỏi bố về cuộc gặp với người bạn đó ra sao. Tôi tưởng tượng cảnh bố từ chỗ tôi vụt đi gặp bạn như một làn khói (hoặc như tốc độ ánh sáng nhỉ? Tôi cũng không rõ nữa), không khỏi cười thầm.
Hồi lâu, tôi cầm điện thoại lên, nhắn cho Triết bốn chữ vắn tắt như lời bố dặn: “Đã tới Đan Ba”. Bố nói rất đúng, càng mong gặp Triết bao nhiêu, càng phải giữ bình tĩnh bấy nhiêu. Không thể xảy ra sơ suất gì vào thời khắc quan trọng này. Lại liên tưởng tới tin nhắn chỉ có mấy chữ mà tôi nghi ngờ là Triết nhờ Ưu Ưu gửi hộ. Tôi càng cần phải khống chế mình, hết sức bình tâm.
Dù sao Triết cũng đã biết hành động của tôi. Thoắt một cái, tôi đầy tự tin. Tôi không tin anh không nhớ tôi, chưa biết chừng anh càng nôn nóng gặp mặt hơn tôi.
Nhưng thực lòng không muốn có điều gì bất ngờ xảy ra nữa. Trên chặng đường đi không cướp của thì gặp người chết, tuy tôi không ân hận về mọi chuyện đã xảy ra, nhưng thực tình thế là quá đủ.
Tôi cứ mơ màng nghĩ vẩn vơ như vậy, rồi lại nhanh chóng ngủ thiếp đi.
Hôm nay là ngày thứ mười Triết rời bỏ tôi. Tôi đã viết vào nhật kí như vậy.
Hôm nay trời nắng ráo, chim véo von như một khúc nhạc trầm bổng. Không khí tỏa mùi vừa ngọt vừa cay mà tôi chưa từng được ngửi qua. Nếu bạn ngửi kĩ, mỗi nơi quả thực đều có mùi khác nhau. Điều này có liên quan tới năng lượng của mỗi vùng miền, liên quan tới thời tiết và tấm lòng của người dân địa phương.
Lúc tỉnh giấc, trời vẫn còn sáng. Đây là giấc ngủ đầu tiên vừa sâu vừa thoải mái kể từ ngày rời Thượng Hải. Có lẽ do tôi quá mệt.
Lộ Phong Thiền cũng tỉnh giấc, đi lại thư thái trong phòng, không ngừng với hai chân trước lên cửa sổ, ngó ra ngoài. Khung cảnh mới mẻ đẹp đẽ khiến nó rất háo hức. Khi tôi tắm xong, đang đứng trước cửa sổ hóng gió chải đầu, nó hết liếm tay tôi lại chạy tới cùng tôi ngắm cảnh bên ngoài, một lúc sau lại lăn tròn trên thảm, hoặc chổng bốn chân lên trời như trẻ con nằm ngửa, lưỡi thè ra, mặt cười thật ngốc ngếch. Chưa từng thấy nó vui vẻ đến vậy. Tôi vô cùng cảm động.
Chăm chút lại chỗ da bị viêm, cho nó ăn chút đồ ăn thừa còn sót lại và thêm nước uống mới. Tôi cũng uống mấy ngụm nước lớn, hít một hơi sâu, chưa bao giờ thấy thoải mái như vậy. Dọn dẹp xong, tôi dắt chó ra khỏi phòng. Gian phòng kế bên cửa vẫn đóng chặt, chắc chắn chủ nhà vẫn đang ngủ.
Trên sàn trải một tấm thảm lông cừu được dệt thủ công rất dày. Chúng tôi rón rén đi xuống lầu. Khi đi qua bức tranh hình Quan Âm, tôi không khỏi bất giác ngắm nghía thật kĩ. Hình Quan Âm ở đây nom rất khác với những tượng Quan Âm mà tôi đã từng gặp trước đây, màu sắc tô rất đậm, phía sau có mấy vị thần đặc trưng của Tây Tạng. Cái lư hương hình như cũng được làm thủ công, mùi hương đốt bên trong tôi cũng chưa từng được ngửi qua, mang đậm hương liệu vốn có ở đây.
Tôi chắp tay, khom lưng lạy một cái rồi dắt Lộ Phong Thiền ra cửa. Trước khi đi, tôi nhìn kĩ tên phố và số nhà của Đường Cương và ghi lại vào một mảnh giấy, cất vào túi áo.
Con phố bên ngoài khá nhỏ nhưng sạch sẽ. Nhà cửa hai bên cũng thấp, vuông vắn, không khác nào các huyện khác của Trung Quốc. Chỉ có màu sắc trên các khung cửa sổ và mái ngói là còn mang hơi hướng đặc trưng dân tộc thiểu số của vùng. Đan Ba thực sự rất nhỏ, mặt trước giáp sông, mặt sau giáp núi. Cả huyện là một mảnh đất dài nhỏ hẹp kẹp ở giữa. Tôi và chó nhanh chóng đi qua chiếc cầu, bên trên ghi dòng chữ “Chiếc cầu thứ nhất”. Còn có bia kỷ niệm hồng quân, có lẽ thời hồng quân chinh chiến đã đi qua đây.
Người trên phố rất ít, nhưng lại khá nhiều người đứng trên cầu, trong đó một nửa là khách du lịch ngoại tỉnh. Lộ Phong Thiền giành lao lên trước, tôi vội chạy theo sau ngó theo. Thì ra một chiếc ô tô màu xanh đang rơi giữa sông. Nước cũng không sâu lắm, một chiếc xe cẩu trên bờ đang ra sức kéo chiếc xe này lên.
Tôi dắt Lộ Phong Thiền đi ra hướng khác, bước vào một con đường nom rộng rãi, bằng phẳng như đường chính của huyện. Tại đây, tôi nhìn thấy nhà nghỉ, tiệm ăn, nhà hàng và một tiệm net. Tôi bước vào tiệm net, định check mail, nhưng được thông báo ở đây chỉ chơi điện tử, không lên mạng được.
Tôi lại hỏi chỗ nào có thể kiểm tra được email. Ông chủ tiệm có lẽ ngủ chưa đã giấc, chớp chớp đôi mắt đỏ quạch, nói bằng giọng rất khó chịu: các tiệm net ở Đan Ba chỉ chơi điện tử, không thể check mail.
Thoạt đầu, tôi không tin, nhưng thử tới một tiệm net khác cũng thấy kết quả như vậy. Thật quái lạ, khách du lịch ở đây ngày càng nhiều. Lẽ nào họ chỉ có hứng thú chơi điện tử, không cần gửi email?
Ra khỏi tiệm net, tôi quay lại đường lớn, đi lên trước một đoạn, tới một ngã tư, chó đột nhiên ngừng lại không chịu đi. Nó cứ đứng im một chỗ, ngọ ngoạy mũi không yên, rồi đột ngột vùng lên, chạy về phía một con đường nhỏ bên cạnh. Tôi cuống cả lên, vội vã chạy theo sau.
Loáng một cái, nó dừng lại, đợi khi tôi đuổi kịp tới nơi, đã phát hiện thấy miệng nó cắn một vật gì trăng trắng. Tim tôi đập thình thịch, như nhận ra được điều gì. Tôi giơ tay ra đón lấy, chìa trước mặt xem kĩ. Đó là loại khăn mùi xoa bằng loại vải mà giờ rất hiếm người dùng. Tôi cũng học cách của chó, cho khăn dưới mũi ngửi, có mùi thơm của da thịt đàn ông thoang thoảng.
Một nỗi xúc động khôn xiết ùa tới, khiến tôi không khỏi úp mặt lên tấm khăn. Đó là mùi của Triết. Đó là khăn tay của Triết. Khi anh ở Thượng Hải vẫn có thói quen dùng mùi xoa, chí ít cũng là loại khăn tay màu trắng bằng vải bông nguyên chất như vậy. Anh thường để thò một đầu khăn tay sạch sẽ ra ngoài túi áo, nhưng không bao giờ dùng khăn để lau mũi, mà dùng để lau mồ hôi. Anh hơi bị ngứa da, nên một khăn mùi xoa như vậy đối với anh giống như một tấm thảm an toàn, đi đâu cũng thấy dễ chịu.
Tôi quỳ xuống, xúc động vuốt ve đầu con chó, “Mày giỏi quá, Lộ Phong Thiền”. Nó thè lưỡi ra, gừ gừ mấy tiếng trong cổ họng. Đó là cách nó biểu hiện tình cảm.
“Nào! Lộ, xem còn tìm được những gì!”. Tôi hối hả vỗ lên đầu nó, đồng thời dáo dác ngó xung quanh. Đây là một con phố yên tĩnh, phần lớn hai bên là nhà dân, xen vào giữa là vài tiệm trà, còn có một tiệm chuyên bán đồ trang sức bằng bạc của dân tộc Tạng. Chúng tôi men theo con đường đó đi tới tận đầu đường nhưng không thu hoạch được gì.
Tôi vò chiếc khăn tay, sững sờ đứng đó hồi lâu.
Rõ ràng Triết đã về Đan Ba, chí ít cũng là một tin hay, chỉ có điều anh chưa từng liên hệ với tôi. Nhưng theo trực giác của tôi, tôi tin rằng anh đã nhận được mấy tin nhắn tôi gửi từ trước.
Tôi quyết định không nghĩ ngợi nhiều. Dù sao tôi cũng đã theo anh đến Đan Ba, cách thời khắc gặp nhau cũng không bao xa nữa. Nhớ lại lời bố tôi: Phải bình tĩnh!
Khi đi qua một tiệm ăn, tôi mới phát hiện bụng mình đói meo, liền cùng chó bước vào.
Thức ăn rất đơn giản, chỉ có hai loại, đồ ăn kiểu Hán và đồ ăn kiểu Tạng. Đồ ăn kiểu Hán có cháo, màn thầu, trứng gà, ba đồng một suất. Đồ ăn kiểu Tạng có trà dầu và Đan Ba (hỏi chủ tiệm mới biết đó là một loại mỳ xào nóng), ba đồng một suất.
Tuy tôi rất tò mò về trà dầu và mỳ Đan Ba đã nức tiếng từ lâu, nhưng bây giờ còn sớm quá, dạ dày tôi có thể không chịu nổi những đồ ăn lạ. Tôi gọi một suất đồ ăn Hán.
Đang ăn, điện thoại đột ngột réo vang, tôi vội vã lục tìm trong túi xách. Lúc cầm điện thoại, tôi thấy hiển thị số gọi rất lạ. Theo kinh nghiệm, đây ắt là số từ nước ngoài gọi về qua mạng Internet hoặc điện thoại thẻ.
Ngần ngừ vài giây, tôi vẫn nghe.
Bên kia đầu dây vẳng tới giọng một phụ nữ nói tiếng Thượng Hải, “Ngụy, con có khỏe không?”.
Đầu tôi như vỡ tung, chỉ nghe thấy tiếng vo vo như lũ ong đang bay loạn xạ trong tai.
Tôi đã nhận ra giọng bà. Chính là bà, người mẹ tám năm trời chưa từng liên lạc. Tại sao khi tôi đang ăn sáng tại một tiệm ăn cách Thượng Hải hai ngàn cây số, bà lại đột nhiên xuất hiện?
Im lặng hồi lâu, tôi chợt nhớ tới lời tiên đoán của bố tôi hôm trước: “Chẳng mấy chốc, mẹ con sẽ gọi điện về”. Xem ra ông nói rất đúng. Tôi hít một hơi sâu, đáp khô khốc: “Vẫn khỏe”.
Giọng bà nghe run rẩy: “Ngụy, lâu rồi không có tin tức của con. Con sống ra sao?”.
“Chí ít… con vẫn sống”. Tôi đã hồi phục từ trong kinh ngạc, cũng khống chế được giọng nói. Bà nói rất đúng, từ sau khi tốt nghiệp đại học năm 1998, có được kinh tế độc lập, tôi từ chối số tiền viện trợ của bà hàng tháng, cắt đứt mọi liên lạc với bà.
Lúc này tôi đột nhiên nhận thức được rằng bà có thể liên lạc được với tôi quả là điều bất thường. Vì tôi chưa bao giờ cho bà số điện thoại và cách liên hệ với tôi.
“Sao mẹ có được số điện thoại của con?”, tôi hỏi, cố dùng giọng bình tĩnh. Tôi không muốn khi nói chuyện với bà lộ vẻ căm ghét hoặc kinh ngạc. Có lúc không biểu lộ tình cảm cũng là thứ vũ khí tốt nhất để bảo vệ mình không bị thương.
“Hy vọng con không tức giận”, giọng mẹ vẫn vậy, dịu dàng, đầy nữ tính, chỉ có điều nghe lúc này có vẻ bất an, “Tình cờ mẹ đọc được một số chuyên đề về Thượng Hải trên một tạp chí du lịch bên này, trong đó có giới thiệu về con và tiệm thời trang của con, ghi cả số điện thoại của tiệm. Mẹ thử gọi, gặp một cô họ Lí nói rằng con không ở Thượng Hải, hỏi mẹ có việc gì gấp không. Mẹ nói là mẹ của con…”. Nói đến đây, bà ngừng lại, như thể xác nhận xem những câu nói của bà có làm tôi tức giận hay không.
Thì ra, dì Lí ở tiệm đã cho bà số điện thoại của tôi. Tuy chưa bao giờ mọi người được nghe tôi kể về mẹ tôi, nhưng hầu hết đầu biết tôi có một bà mẹ sống bên Austria.
“Có chuyện gì vậy?”, giọng tôi vẫn lạnh tanh, không mang sắc thái tình cảm.
“Là như thế này”, lúc này giọng bà hơi gấp gáp hơn, “Một tháng nữa, mẹ sẽ về Thượng Hải vài ngày. Hơn mười năm chưa về…”. Nói tới đây, bà ngừng lại, như chất chứa nhiều điều đau buồn. Xem ra, đúng là bà đã rời đó được hơn mười năm rồi.
“Ngoài ra, mẹ cũng muốn cho con biết”, ngần ngừ một lúc, bà nói tiếp, “Mẹ đang làm thủ tục li dị với Alison”.
Alison là ông chồng Austria của bà. Tôi đã từng gặp ông ta một lần tại Thượng Hải.
Đó là năm tôi mười bảy tuổi, bố tôi vừa chết chưa đầy một năm. Một hôm, mẹ đưa tôi tới nhà hàng dùng đồ ăn Tây có tên “Nhà Đỏ” trên đường Thiểm Tây Nam Lộ. Đó là tiệm ăn kiểu Pháp đầu tiên ở Thượng Hải trước thập niên 70. Sau giải phóng, qua đận “cách mạng văn hóa” tới cuối thập niên 90 của thế kỉ trước, nơi đây luôn là nơi người Thượng Hải thể nghiệm cuộc sống kiểu châu Âu thời thượng.
Hôm đó, mẹ tôi đặc biệt trang điểm kĩ. Còn nhớ hôm đó mẹ mất hai tiếng ở tiệm làm đầu gần nhà, làm thành kiểu tóc lượn sóng lớn, lại vuốt thêm dầu, nom mềm mại và bóng sáng. Mẹ mặc chiếc áo dài Thượng Hải tự tay may, vải bông thêu hoa bằng tơ thật màu xanh lam nước biển, từ ngực áo đến eo được thắt bằng những cái cúc hình hoa cúc. Mẹ biết may loại áo này từ lâu, chỉ vì cuộc sống gia đình luôn đơn giản bình dị, thường nhật không có cơ hội để mặc, thế nên từ trước tới giờ hầu như mẹ chưa từng mặc loại trang phục long trọng và đẹp đến vậy. Hôm đó, tôi được mẹ yêu cầu gội đầu, rồi buộc tóc bằng một sợi dây tơ đỏ, mặc váy áo đẹp nhất.
Đi được nửa đường, tôi vứt sợi dây buồn cười đó ra, không hề muốn đi ăn bữa tối này, cũng không muốn gặp ông già ngoại quốc đó. Trước đó mẹ kể, mẹ đọc được một quảng cáo tìm bạn đời trên một tờ báo Thượng Hải, liền viết thư và gửi ảnh cho ông ta. Lần này, ông ta tới Thượng Hải để gặp mấy người trong số những ứng cử viên đó. Yêu cầu của ông ta là người nào có con cái nhất định phải mang con tới cùng gặp mặt.
Theo bản năng, tôi nhận thấy được vẻ kiêu ngạo, thực tế và thông minh của người đàn ông ngoại quốc này.
Quả nhiên không sai, bữa tối trôi qua rất ngượng ngập. Ông ta nom không xấu, thậm chí có thể nói còn có chất quí tộc, có thể nói tiếng Trung khá lưu loát. Điều này khiến tôi thật bất ngờ. Nhưng đôi mắt màu xám xanh của ông ta khi nhìn người khác luôn có kiểu cười nhạo và khó tin cậy, như thể ông ta đang hàm chứa điều gì. Còn mẹ tôi luôn cúi gằm mặt với nụ cười tự bi. Hầu như tôi không ăn tí gì, trên bàn bầy ê hề súp hành, rượu vang đỏ, thịt bò bít tết… Nghe nói đều là món nổi tiếng của tiệm này. Nhưng trong mắt tôi, chúng như thể món ban thưởng của lão già nước ngoài xa lạ cho hai mẹ con đáng thương.
Nghe nói ông ta buôn bán đồ cổ giữa Trung Quốc và châu Âu, kinh doanh rất lớn, đồng thời cũng là một nhà Hán học, luôn có hứng thứ đối với mọi thứ liên quan tới truyền thống Trung Quốc. Chiếc áo dài Thượng Hải mẹ mặc hôm đó hiển nhiên đánh đúng vào tâm lí của ông. Mẹ tôi năm đó ba mươi tám tuổi như một bông hoa xuân sắp nở, tràn trề sắc hoa, xem ra còn giàu sức quyến rũ và nữ tính hơn hồi bố tôi còn sống.
Tôi thường nghĩ, có lẽ sau khi bố chết, mẹ được giải thoát. Đối với bất kì người phụ nữ nào, mất đi một người chồng có ý nghĩa như cánh cửa vĩnh viễn bị đóng chặt, nhưng đối với một dạng phụ nữ khác lại có nghĩa là một cánh cửa khác được mở ra. Mẹ tôi chính là loại phụ nữ này. Bà dành hầu hết thời gian vào việc tìm kiếm quảng cáo chọn bạn đời trên báo chí và viết thư đáp lại. Thư từ và ảnh gửi đi nhiều như hoa tuyết rơi, mang theo tất cả hy vọng và dũng khí của mẹ tôi về cuộc sống mới.
Tối đó, sau khi bữa tối kết thúc, ông ta lấy xe đưa tôi về nhà, nhưng mẹ tôi không xuống xe, mà cùng đi về khách sạn của ông ta, mãi tới sáng sớm hôm sau mới về.
Kết quả của chuyện này là: lão già lắm tiền Alison người Austria đó sau cuộc gặp mặt lần đầu tiên đã quyết định lấy mẹ tôi. Nửa tháng sau, ông ta gửi mọi thủ tục có liên quan để mẹ tôi tới Lãnh sự quán Austria tại Thượng Hải xin visa.
Nhưng khi mẹ tôi đề nghị đưa tôi cùng đi, ông ta đã cự tuyệt.
Mẹ tôi day dứt đấu tranh giữa tôi và ông chồng tương lai hồi lâu, cuối cùng ngả về phía ông ta.
Tôi đã bị mẹ vứt bỏ như vậy.
Chỉ có điều mẹ đi cũng không dễ dàng. Một phần là do ông bà tôi rất tức giận, giấu luôn hộ khẩu của mẹ, ngăn không cho mẹ làm hộ chiếu và visa. Một phần do quan hệ giữa hai mẹ con nhanh chóng lạnh nhạt dần, mãi tới tận điểm rơi cuối cùng. Cũng thời gian này, bạn bè, người thân và hàng xóm xung quanh đều nhìn bà bằng ánh mắt rất cố y. Chỉ trong một đêm, mẹ bị khoác tiếng “đàn bà hư hỏng”.
Trong điện thoại là một cơn trĩu nặng kéo dài.
Mọi chuyện xảy ra trước đây như những mảnh vụn đột ngột rơi xuống mặt chúng tôi bởi một cơn gió lốc, không có chỗ để trốn, cũng không thể né tránh mãi, dù cho tôi đã né tránh suốt tám năm qua. Một đầu dây điện thoại ở Trung Quốc, một đầu dây điện thoại ở Austria. Giữa chúng cách xa nghìn trùng, cách cả ngày và đêm, cùng vô số giấc mơ bị vỡ nát và những kí ức bị lãng quên. Chúng đã quá lâu, quá xa vời. Mẹ và tôi như hai đỉnh núi đối diện nhau lặng ngắt, cũng xuất hiện quá đột ngột. Mẹ đang li hôn, sắp trở về Thượng Hải một tháng nữa. Tôi không được chuẩn bị trước về những thứ này.
Ở đầu dây bên kia, mẹ ho một tiếng, phá vỡ sự im lặng như băng. Rồi bà khẽ hỏi tôi: “Ngụy, sau khi mẹ về Thượng Hải, con có thời gian gặp mẹ không?”.
Tôi sững sờ ôm ống nghe, nghĩ một lúc rồi trả lời không hào hứng cũng không lạnh nhạt: “Tới lúc đó rồi tính”.
Câu trả lời của tôi hình như không làm mẹ thất vọng. Trái lại, mẹ còn nói bằng giọng khá cảm kích: “Được, được, mẹ biết con bận. Mẹ tới Thượng Hải sẽ liên lạc với con nhé?”.
Tôi không nói gì, dập máy.
Mãi một lúc sau, tôi mới bình tâm trở lại. Màn thầu trong đĩa và cháo trong bát trước mặt đã lạnh. Tôi cố ép mình húp hết bát cháo lạnh ngắt. Hồi nhỏ, cứ mùng một đầu năm, món cháo bát bửu bố nấu là món tôi yêu thích nhất. Húp cháo xong, tôi vục mặt xuống liếm sạch sẽ quanh miệng bát. Chỉ có điều bát cháo này trở nên nhạt nhẽo vô vị bởi cuộc điện thoại vừa rồi.
Tôi đứng dậy trả tiền, kêu chó cùng ra khỏi quán, đi về phía nhà của Đường Cương.
Hôm nay là cuối tuần nên cả nhà Đường Cương đều ở nhà. Khi chúng tôi đi vào nhà, họ đang chơi trò lật giấy ở phòng khách tại lầu một. Nhìn thấy chúng tôi, họ đứng dậy đón.
“Ngủ thế nào?”, Đường Cương cười vui vẻ. “Ăn tí gì đã nhé, hẳn cô đói lắm rồi”, Anh-vợ Đường Cương- cũng mỉm cười với tôi, nói xong liền đi vào bếp. “Không cần đâu”, tôi vội nói, “Tôi vừa ăn ở ngoài rồi”.
“Vậy uống trà nhé”, Đường Cương hỏi. Anh đã bê tới một tách trà đỏ, bên trong đã đổ ít mật ong. Tôi cám ơn nhận lấy, rồi ngồi xuống, hỏi Đường Cương cách tới “Đại Trại Thôn”.
“Đại Trại Thôn?”, Đường Cương nghĩ một lúc, “Không biết có phải là thôn ở bên Bố Liệu Hương không?”.
“Tôi cũng không rõ”, tôi đáp mơ hồ, “Chỉ biết chỗ đó gọi là Đại Trại Thôn. Ở Đan Ba chỉ có một nơi có tên gọi như vậy chứ?”.
“Cô đoán đúng đấy, chỉ có một nơi đó thôi. Tôi biết ở nơi nào trên huyện có thể ngồi xe xuống chỗ đó, nhưng không biết rõ xe chạy lúc mấy giờ và mỗi ngày có mấy chuyến xe”, anh ta đáp. Nghĩ hồi lâu, anh lại nói thêm: “Không sao, nói chung có thể thuê xe tới đó. Giờ đây khách du lịch tới Đan Ba ngày càng nhiều. Nhiều người có xe cũng làm thêm kinh doanh cho thuê xe”.
“Tốt quá!”, tôi vỗ tay, mỉm cười.
Đường Cương tò mò nhìn tôi, hồi lâu mới hỏi: “Cô Ngụy này, có thể hỏi cô tới vùng xa xôi hẻo lánh như Đại Trại Thôn làm gì không?”.
“Tới thăm bạn trai tôi”, tôi không muốn giấu diếm anh ta nữa.
Anh ta lộ rõ vẻ ngạc nhiên, “Thì ra là vậy, còn nhớ lúc trên xe, cô có nói bạn trai cô là người Đan Ba”.
Rồi anh ta cau mày, cúi đầu như gắng sức nghĩ điều gì, đột nhiên anh ta ngẩng phắt đầu dậy, hỏi tôi: “Có phải bạn trai cô tên là Phương Triết?”.
Tôi kinh ngạc tròn mắt, không thốt nổi ra câu nào.
“Tôi đoán chắc đúng vậy”, anh ta cười đắc y. Tôi nhớ lại lúc trên xe, anh ta từng kể hơn mười năm qua luôn đi thu mua nguyên liệu thảo dược ở các vùng thôn ở Đan Ba nên hầu như quen biết hết mọi người trong vùng.
Chỉ có điều không ngờ lại trùng hợp như vậy.
“Anh quen anh ấy sao?”, hồi lâu sau tôi hỏi lại, coi như thừa nhận.
“Cũng năm, sáu năm nay không gặp rồi. Nhưng tôi khá thân quen với bố mẹ anh ấy. Họ là hộ người Hán duy nhất ở đó, sao lại không biết được cơ chứ?”. Từ khẩu khí của Đường Cương, hình như quan hệ giữa anh ta với bố mẹ của Triết không phải chỉ là mối quan hệ thông thường.
Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!