Chương 11 - Chị Vinh
Thằng Tường rất cưng Cu Cậu.
Từ ngày biết có một con cóc dưới gầm giường, tôi để ý thấy Tường ngày nào cũng kiếm thức ăn về cho Cu Cậu.
Cu Cậu dĩ nhiên vẫn tự mình kiếm ăn. Nó ăn ruồi, muỗi và sâu bọ.
Nhưng Tường vẫn sợ Cu Cậu không đủ no. Nó chuốt tre, đan một cái vỉ hình tam giác, lúc rảnh rỗi lại cầm đi săn ruồi.
Bữa nào, Tường cũng nhặt cơm rơi vãi, gom lại để dành cho Cu Cậu.
Đêm nào Cu Cậu nghiến răng ken két dưới gầm giường, sáng hôm sau thế nào trời cũng mưa.
Những ngày mưa đối với anh em tôi luôn luôn là những ngày tuyệt vời.
Trong khi tôi và Tường mặc nguyên quần áo dầm mưa và rượt nhau ngoài trời, Cu Cậu cũng hớn hở nhảy khỏi gầm giường, men ra tới cửa để rình đớp những chú mối bay ngang.
Tôi và Tường nghịch mưa chán lại chen nhau đứng dưới máng xối để nghe nước dội ồ ồ lên đầu lên cổ, tưởng tượng đang tắm dưới một ngọn thác hùng vĩ, mặc dù cho đến lúc đó ngoài các hình vẽ trong sách giáo khoa, tôi chưa nhìn thấy thác bao giờ.
Dầm mưa một lát, bao giờ thằng Tường cũng quay vào chơi với Cu Cậu bằng cách mà Cu Cậu thích nhất là phụ với chú bắt những con mối cánh.
Những lúc như vậy, tôi bỏ mặc thằng Tường với con cóc của nó, ba chân bốn cẳng băng ngang đường lộ, nôn nao chạy qua nhà chị Vinh.
Nhà chị Vinh là ngôi nhà ngói to nhất làng, trước nhà có cái sân gạch rộng mênh mông với cây phượng lâu năm tỏa bóng nơi góc rào, nơi bọn trẻ con chúng tôi thường tụ tập chơi nhảy lò cò, chơi u, chơi bịt mắt bắt dê và đủ thứ trò hấp dẫn khác.
Chị Vinh lớn hơn tôi sáu tuổi.
Trong khi tôi chỉ là thằng nhóc mười ba tuổi thì chị đã là cô thiếu nữ xinh đẹp, nhưng gầy gò. Da chị trắng hồng, tóc chị đen, dày và dài chấm lưng, khi chị cười đôi mắt chị nhắm tít, trông như hai dấu trừ, đuôi mắt dài thật dài.
Tôi thích nhất là lúc chị cười.
Chị lại rất hay cười với tôi, mặc dù trong sân nhà chị ngoài tôi ra lúc nào cũng có một bọn nhóc con chạy nhảy hò hét ầm ĩ.
Chị Vinh hay cười với tôi là vì chị thích chú Đàn.
Chuyện này chính thằng Tường kể tôi nghe.
Nó bảo:
- Anh không nhớ hồi đó ngày nào chú Đàn cũng đứng dưới cây phượng trước nhà chị Vinh thổi acmônica suốt đêm sao?
- Tao nhớ.
Tôi nói và tôi nhớ không ít lần ba tôi hầm hầm xô cửa xách gậy đi ra, mắng "Mày khùng hả Đàn? Sao mày không cho ai ngủ hết vậy?", lúc đó chú Đàn mới co giò bỏ chạy.
Tường nói như một kẻ sành sỏi:
- Chú Đàn tỏ tình với chị Vinh đó.
Tôi nhún vai:
- Mày là nhóc con mà biết gì!
- Chính chú Đàn nói với em mà.
- Tỏ tình bằng tiếng kèn à?
- Ờ.
Nếu chú Đàn nói với nó thì đúng rồi! Tôi làm thinh một lát, lại thắc mắc:
- Sao cả tháng nay tao không thấy chú Đàn thổi kèn dưới gốc phượng nữa hở mày?
Hóa ra thằng Tường cũng từng thắc mắc y hệt tôi. Nó chép miệng:
- Em đã hỏi chú Đàn rồi.
- Chú bảo sao?
Tường cười khúc khích:
- Chú bảo chị Vinh đã mê chú, chú không cần phải khản cổ "gặm bắp nướng" hằng đêm nữa.
Chương 12 - Chim xanh
Chị Vinh mê chú Đàn không chỉ nhờ tiếng kèn.
Chị mê chú còn vì những bức thư tình nồng nàn của chú.
Lại cũng Tường kể với tôi. Thằng này có cái tật lớn là không bao giờ kể chuyện một lèo. Chuyện gì cũng vậy, nó cứ hôm nay he hé một chút, hôm sau he hé một chút khác. Có nhiều chuyện, khi tôi nghe được phần sau thì đã quên béng mất phần đầu.
Người đưa thư cho chú Đàn dĩ nhiên là thằng Tường.
Tôi không hiểu tại sao chú Đàn lại không nhờ tôi. Tôi ghen tị nghĩ, nhưng rồi tôi tự giải đáp được ngay. Ba chị Vinh là thầy Nhãn, là thầy giáo chủ nhiệm lớp tôi, chú Đàn không nhờ tôi có lẽ sợ tôi khiếp vía thầy sẽ làm hỏng việc.
Khi nghe Tường kể, tôi công nhận chú Đàn tính toán hay thật.
Chú Đàn viết thư bỏ vào phong bì rồi lật áo thằng Tường lên, nhét phong thư ngang lưng quần, giấu sau vạt áo.
Buổi trưa, Tường chạy qua nhà chị Vinh, réo inh ỏi:
- Chị Vinh ơi, chị Vinh!
Chị Vinh bước ra:
- Có chuyện gì thế em?
Chú Đàn bày cho Tường cả chục câu trả lời:
- Chị cho mẹ em xin quả ớt.
- Chị cho mẹ em xin quả chanh.
- Chị cho mẹ em mượn chai xì dầu.
- ...
Tùy theo câu trả lời của Tường mà chị Vinh đưa cho nó một quả chanh, một quả ớt hay một chai xì dầu, tay kia lật áo thằng nhóc rút phong thư rồi lật đật giấu vào vạt áo của chị.
- Thế mày qua nhà mà thầy Nhãn không hay biết à? - Tôi thắc mắc.
- Biết chứ.
Tôi cắn môi:
- Thế thầy không hỏi gì sao?
- Có. Thỉnh thoảng thầy hỏi "Con đi đâu đó Tường?". Có hôm thầy hỏi "Con tìm chị Vinh làm gì vậy con?".
Tôi rụt cổ:
- Nếu tao là mày chắc tao tè ra quần rồi.
- Thầy chỉ ngồi trong nhà hỏi vọng ra thôi.
- Ngồi trong nhà hay ngồi đâu cũng vậy. - Lần này tôi vừa rụt cổ vừa rùng mình - Hễ nghe giọng thầy cất lên là tao muốn xỉu rồi.
Tường cười khì khì:
- Anh nhát gan quá.
Bị chê, tôi nổi khùng:
- Mày ngu quá! Tại giáo viên chủ nhiệm của mày là cô Trang. Nếu mày học thầy Nhãn như tao thử coi mày có nhát gan không!
Chương 13 - Chim xanh gặp nạn
Chú Đàn coi việc chuyển thư của người con trai đến người con gái là "làm chim xanh".
Chú khen Tường "Con là con chim xanh giỏi nhất thế gian" làm thằng nhóc sướng rơn.
Nhưng con chim xanh giỏi nhất thế gian đó cũng có ngày gặp nạn.
Chuyện Tường gặp nạn, cả tuần lễ sau nó mới bẽn lẽn kể cho tôi nghe. Tôi đã nói rồi, thằng này chẳng có chuyện gì nó chịu kể dứt một lần.
Hôm đó, như mọi lần Tường nhét lá thư của chú Đàn vào lưng quần rồi vù qua nhà thầy Nhãn.
- Chị Vinh ơi, chị Vinh!
Tường đứng ngoài sân, kêu lớn. Nhưng lần này nó không thấy chị Vinh đâu.
Người từ trong nhà đi ra là thầy Nhãn.
Nhìn bộ mặt khó đăm đăm của thầy, lúc đó Tường mới biết thế nào là sợ hãi. Nó hoàn toàn bất ngờ, ruột gan như trôi tuột đi đâu mất. Nó chợt nhớ đến con rồng hai đầu canh giữ vườn táo vàng trong câu chuyện nó vừa đọc và nhìn lom lom vào cổ áo thầy, hồi hộp chờ một chiếc đầu thứ hai mọc ra từ chỗ đó.
- Con tìm chị Vinh làm gì vậy con?
Thầy Nhãn lại gần và cất tiếng hỏi, giọng lạnh tanh.
Tường lấm lét liếc xuống vạt áo rồi ngước nhìn thầy:
- Dạ, con hỏi xin cho mẹ con quả chanh.
Ánh mắt thằng Tường đã tố cáo nó. Thằng Tường nói với tôi như vậy. Bàn tay thầy Nhãn lần theo tia nhìn của nó, mò vào dưới vạt áo.
Thầy rút lá thư ra khỏi lưng quần Tường rồi quay gót trở vào nhà, không nói một tiếng nào.
Mặt xanh như tàu lá, Tường đứng trơ giữa sân nắng có đến vài phút, tay chân cứng đờ, chỉ muốn khuỵu xuống.
Đến khi có thể nhúc nhích được, nó bất chợt òa ra khóc.
Tường chạy về nhà, vẫn không ngừng nức nở cho đến khi chú Đàn đang chờ sẵn ở bụi chuối sau hè dang tay ôm lấy nó.
- Nín đi con. Có chuyện gì thế?
Nghe chú Đàn hỏi, Tường càng khóc to hơn. Câu hỏi giống như mũi dao khoét vào vết thương lòng của nó, nếu có thể xem tai nạn của nó xứng đáng để gọi là "vết thương lòng". Và thế là nó khóc tức tưởi, khóc tồ tồ như vòi nước bị hỏng khóa.
Chú Đàn vén áo nó lên, không thấy lá thư đâu, ngẫm nghĩ một lát rồi khẽ giọng hỏi:
- Con không gặp chị Vinh hở?
- Dạ... không... - Tường đáp qua tiếng khóc.
Chú Đàn thở ra:
- Con đừng khóc nữa.
Tường vẫn tiếp tục khóc, có thể nó cũng muốn ngưng lại nhưng không được. Con người ta khóc cũng giống như trời mưa. Chỉ khi nào hết nước thì trời mới thôi mưa và chúng ta mới thôi khóc.
Thằng Tường cũng vậy thôi. Nó khóc, khóc hoài. Nhưng dần dần tiếng khóc yếu đi, một hồi sau chuyển qua thút thít. Rồi tạnh hẳn.
Lúc đó nó mới rảnh rỗi để lắp bắp:
- Thầy Nhãn...
Chú Đàn xoa đầu nó:
- Chú biết rồi. Con không cần kể nữa.
Rồi chú đứng lên:
- Để chú xé giấy xếp cho con chiếc máy bay.
Chiếc máy bay giấy của chú Đàn khiến mặt thằng Tường nở ra. Nó phóng máy bay lượn vòng vèo trong vườn và quên rất nhanh những giọt nước mắt vừa tắm ướt hai gò má nó.
Tôi tặc lưỡi, khi Tường kể xong:
- Mày ngu quá. Không phải đợi đến khi nhìn ánh mắt của mày thầy Nhãn mới biết mày lận thư dưới vạt áo đâu.
Tường ngơ ngác:
- Thầy biết từ trước hở anh?
Tôi đá vào chân nó, giọng hiểu biết:
- Tao nghĩ thầy biết lâu rồi. Chả ai lại xin ớt, xin chanh, xin xì dầu hoài như thế. Có họa là hâm!
Chương 14 - Gió mưa là bệnh của trời
Một hôm, tôi tò mò hỏi thằng Tường:
- Mày có nhớ mày đưa thư giùm chú Đàn bao nhiêu lần rồi không?
Tường véo môi, ngập ngừng:
- Mười mấy lần.
- Nhiều thế cơ à?
- Dạ.
Tôi nheo mắt:
- Thế có lần nào mày lén mở thư ra xem chú Đàn viết gì trong đó không?
- Có một lần. - Tường ngượng ngập đáp, mặt ửng lên như đột ngột tráng một lớp ráng chiều.
Tôi xích lại gần nó hơn:
- Chú Đàn viết gì trong đó vậy?
- Hình như là một bài thơ.
- Thơ à?
- Vâng.
- Thơ gì vậy?
- Em không biết.
- Thế mày có nhớ được câu nào không?
- Em nhớ được hai câu.
- Mày đọc tao nghe coi.
Tường đọc:
- Gió mưa là bệnh của trời / Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Tôi không biết đó là thơ Nguyễn Bính. Tôi chỉ thấy hai câu thơ hay hay, ngồ ngộ. Và tôi nhẩm hoài trong miệng để khỏi quên.
Suốt mấy ngày tôi chẳng biết làm gì với hai câu thơ đó, cho đến khi tôi chợt nhớ tới con Xin ngồi cạnh tôi trên lớp.
Xin là con bé xinh xắn, mặc dù hai gò má nó trổ đầy tàn nhang. Tôi, nó và thằng Sơn con ông Ba Huấn ngồi chung một bàn. Tôi ngồi chính giữa, nó ngồi bên phải, thằng Sơn ngồi bên trái.
Hằng ngày tôi và thằng Sơn vẫn hay trêu nó. Đang ngồi học, tôi thình lình quay sang nó:
- Ăn không, Xin?
- Ăn gì?
- Ăn xin chứ ăn gì!
Một lát đến thằng Sơn:
- Ôi, đói bụng quá! Ăn không, Xin?
- Ăn gì?
- Ăn xin!
Bị trêu "ăn xin", lần nào con Xin cũng thút thít khóc. Nó giận dỗi ngoảnh mặt đi chỗ khác, không thèm trò chuyện với bọn tôi.
Nhưng tính nó mau quên. Qua ngày hôm sau nó lại mắc lỡm hai đứa tôi một cách dễ dàng. Nghe tôi hỏi "Ăn không, Xin?" nó lại láu táu "Ăn gì?". Để rồi sau đó rơm rớm nước mắt cả buổi. Cả ngàn lần như vậy.
Có nghĩa cả ngàn lần tôi thấy nó khóc.
Tới lần thứ một ngàn lẻ một, tôi đột ngột hiểu ra tôi hay chọc con Xin khóc vì tôi thích mê tơi vẻ ngúng nguẩy hờn giận của nó. Nhiều đứa con gái lúc bình thường trông chẳng có gì đặc biệt nhưng không hiểu sao khi giận dỗi nom chúng đáng yêu quá chừng.
Chương 15 - Đồ tham lam
Tôi quyết định gửi hai câu thơ "hay hay, ngồ ngộ" kia cho con Xin.
Tôi chẳng hiểu tại sao tôi làm vậy, nhưng tôi biết là tôi không dừng được.
Có lẽ tôi muốn bắt chước chú Đàn.
Trong tâm hồn non nớt của tôi, nếu tôi là chú Đàn thì chị Vinh dứt khoát phải là con Xin.
Tôi xé tập, nắn nót viết hai câu thơ lên tờ giấy trắng rồi gấp làm tư bỏ vào phong bì.
Nhưng tôi không giúi lá thư vào tay con Xin, mặc dù điều đó thực là dễ dàng. Tôi muốn nhất nhất đều giống chú Đàn.
Giờ ra chơi tôi kéo thằng Sơn ra sau hè, móc túi lấy lá thư ra đưa cho nó:
- Lát vô học mày đưa thư này cho con Xin giùm tao!
- Thư gì vậy? Mày không tự đưa được à?
- Không được. - Tôi nói, giọng trải đời - Những lá thư như thế này người ta phải nhờ tới "chim xanh".
- Chim xanh á? - Thằng Sơn ngẩn tò te - Chim xanh là gì?
Tôi gãi đầu:
- Chim xanh tức là... người đưa thư đặc biệt.
Tôi vỗ vai Sơn, bằng động tác đó tôi hy vọng có thể dập tắt những câu hỏi tiếp theo chắc là rất oái oăm của nó:
- Mày là chim xanh của tao.
Sợ nó từ chối, tôi hắng giọng tâng bốc:
- Chim xanh oai lắm! Không phải ai cũng làm chim xanh được đâu. Phải là người giỏi giang lắm mới làm được.
- Nhảm nhí!
Thằng Sơn phun nước bọt qua kẽ răng, nhưng nó không từ chối. Nó giương cặp mắt ti hí nhìn tôi, giọng rặt mùi hám lợi:
- Thế làm chim xanh thì tao được gì?
- Được gì hả? - Tôi ấp úng hỏi lại, hoàn toàn không chờ đợi một thắc mắc như vậy.
- Ừ. - Thằng Sơn thẳng toẹt - Đưa thư giùm mày tao phải được trả công gì chứ?
Tôi thò tay vào túi quần mò mẫm, bụng tiếc hùi hụi sao trước đây con ma treo cổ trong nhà thằng Sơn không bắt hồn nó quách cho rồi.
Tôi khoắng tay trong túi một hồi, lôi ra một vốc bi ve đủ màu.
Học trò thôn quê chẳng có lắm trò chơi như học trò thành phố, lớn tồng ngồng rồi vẫn quanh quẩn với trò chơi bi, chơi đáo và các trò con nít khác.
- Mày xem đi! - Tôi chìa nắm bi trước mặt nó - Mày được quyền lấy viên bi nào mày thích.
Sơn trợn mắt nghiêng ngó, lấy tay khều khều từng viên bi rồi liếm mép:
- Viên nào tao cũng thích hết.
- Là sao? - Tôi tròn xoe mắt.
- Tao lấy hết chỗ này. - Sơn nhăn nhở.
- Tao đập mày nghe, Sơn! - Tôi phồng mang, mặt đỏ bừng - Cả tuần nay tao mới đánh thắng được chừng này. Mày lấy hết tao lấy gì tao chơi.
- Mày không đồng ý thì thôi. - Sơn vừa nói vừa quay mình bỏ đi - Tự mày đưa thư cho con Xin đi.
Tôi thấp thỏm nhìn theo con "chim xanh", lòng bỗng chốc rối bời.
Một chuyện như thế này mà không có "chim xanh" là hỏng bét, tệ nhất là tôi không thể giống chú Đàn được.
Cuối cùng, tôi hét lớn:
- Tao đồng ý!
Tôi tiếc nuối trút hết số bi trên tay vào tay thằng Sơn, giọng chán ghét:
- Đồ tham lam!
Chương 16 - Đồ lăng nhăng
Ra chơi vô, thằng Sơn có thêm một lá thư trong túi áo và một vốc bi trong túi quần, người nó tăng lên vài gam.
Nhưng nó đi rất nhanh.
Nói đúng ra nó đi nhanh là do tôi cố tình đi chậm.
Bàn ba đứa, con Xin ngồi sát tường, rồi tới tôi, rồi mới tới thằng Sơn. Nếu len vào chỗ theo thứ tự lâu nay, tôi sẽ ngáng đường thằng Sơn.
Đó là lý do tôi đi tụt lại phía sau, mắt bám chặt con "chim xanh" từng giây một.
Tôi tưởng thằng Sơn sẽ lúng túng ghê lắm, nào ngờ nó "làm nhiệm vụ" nhanh nhoay nhoáy. Nó rút lá thư trong túi áo ra, ném xoẹt ngay trước mặt con Xin, hất hàm, giọng cụt ngủn:
- Của mày nè, Xin!
- Thư gì vậy? - Con Xin rụt rè nhìn lá thư.
- Thằng Thiều gửi cho mày đó.
Nói xong, thằng Sơn lật đật lui ra, nhường lối cho tôi vô. So với nỗi vất vả của Tường khi đưa thư giúp chú Đàn, công sức thằng Sơn bỏ ra trong chuyện của tôi bé như hạt cát. Thái độ của nó lại lấc ca lấc cấc trông chả ra làm sao. Việc một đứa con trai lần đầu gửi thư cho một đứa con gái ý nghĩa trọng đại là thế mà cử chỉ của nó ngang phè phè, lời ăn tiếng nói thì cứ như đấm vào tai người nghe.
Nhưng tôi không có thì giờ để tiếc mấy viên bi ve.
Tôi len lén ngồi vào chỗ, không dám nhìn con Xin. Nhưng qua khóe mắt tôi vẫn hồi hộp theo dõi nó và gần như nín thở khi thấy nó sè sẹ mở phong bì rút lá thư ra đọc.
Tất nhiên tôi hoàn toàn không biết được con Xin sẽ làm gì sau khi đọc hai câu thơ tôi viết cho nó. Tôi còn quá bé để có thể hình dung những bước đi của một câu chuyện tình, nếu lá thư của tôi có thể mở ra một chuyện tình bé con.
Tôi chỉ bắt chước chú Đàn. Và chỉ bắt chước nửa vời.
Tôi copy bài tập tình yêu của chú, nhưng chỉ copy được phần nhập đề. Phần thân bài và phần kết luận bị chú lấy tay che mất. Do đó, tôi không đoán được những diễn biến tiếp theo. Tôi vẩn vơ nghĩ: Chắc là con Xin sẽ viết cái gì đó trong mẩu giấy và gửi lại cho tôi?
Tôi nghĩ và nghĩ, véo môi và véo môi. Tôi phỏng đoán con Xin sẽ làm thế này hoặc làm thế kia. Tôi mường tượng đến cả hậu quả tệ hại nhất: con Xin sẽ vò lá thư thành một quả cầu giấy và ném vào mặt tôi.
Tôi nhấp nhổm trên băng ghế, tưởng tượng lan man đủ thứ. Trừ một thứ tôi không tưởng tượng nổi: Con Xin không chửi tôi, cũng không ném trả lá thư vào mặt tôi, nó cầm lá thư bước ra khỏi chỗ và đi thẳng lên bàn thầy. Xui một nỗi, lúc đó lớp tôi đang học giờ văn của thầy Nhãn cộc tính.
Kết quả đến nhãn tiền: Thầy Nhãn kêu tôi lên bảng và trước những cặp mắt tò mò của lũ bạn, thầy bẹo tai tôi đau điếng, gần như xách hẳn người tôi lên khiến tôi suýt rớt cả tai, răng nghiến ken két:
- Yêu với chẳng đương! Làm tập làm văn chính tả còn viết sai be sai bét mà bày đặt lăng nhăng!
Chương 17 - Em ơi nếu mộng không thành thì sao?
Sau tai nạn đó, tôi giận con Xin cả tháng trời.
Vô lớp tôi không nhìn mặt nó, nói chuyện lại càng không. Ngồi chép bài, nó vô tình chạm khuỷu tay tôi, tôi lập tức hất tay nó ra một cách lạnh lùng, thô bạo.
Tôi cũng không đến nhà nó chơi nữa, dù nhà nó có cái sân phơi thóc lớn gần bằng cái sân gạch nhà chị Vinh. Đó là một trong hai sân chơi của bọn trẻ con trong làng. Những đêm trăng sáng, nếu không qua nhà chị Vinh, tôi và lũ bạn lại tụ tập ở sân nhà con Xin chơi u, chơi bịt mắt bắt dê, chơi cướp cờ, chơi thả đỉa ba ba... đến khuya lơ khuya lắc, lần nào cũng đợi ba mẹ xách roi đi tìm, tụi tôi mới co giò chạy tứ tán và men theo các bờ giậu chuồn về nhà.
Con Xin biết tôi giận nó, nó buồn lắm.
Thỉnh thoảng liếc qua bên tay phải, tôi hả hê thấy mặt nó như sắp khóc, những nốt tàn nhang lấm tấm trên gò má nó như đang run lên.
Đôi lúc nhìn vẻ thẩn thờ của nó, lòng tôi không nén được cảm giác nao nao nhưng tôi nhất quyết không chịu làm hòa.
Lúc tôi vác bộ mặt đẫm nước mắt quay về chỗ ngồi sau khi bị thầy Nhãn trừng phạt, con Xin đã lo lắng quay sang tôi, giọng ngập tràn hối hận:
- Mình xin lỗi bạn nhé. Mình không ngờ thầy Nhãn lại phạt bạn.
- Xin lỗi cái đầu mày! - Tôi điên tiết - Mày nghĩ sao mà đem lá thư của tao nộp cho thầy vậy hả?
- Mình có nghĩ gì đâu. Mình tưởng bạn chọc phá mình nên mình méc với thầy thôi.
- Mày đui hả? - Tôi càng cáu - Tao chọc phá mày hồi nào?
Con Xin sợ xanh mặt, chắc nó thấy quai hàm tôi bạnh ra như sẵn sàng nhai xương nó. Nó cụp mắt xuống, ấp úng:
- Thế bạn gửi lá thư đó cho mình làm gì?
Tới đây thì tôi tắc tị. Tôi không biết phải giải thích với nó như thế nào. Tôi đoan chắc chị Vinh không bao giờ hỏi chú Đàn một câu ngu ngốc như thế.
- Mày đúng là đồ con nít! - Cuối cùng, tôi thở hắt ra, giận dỗi tuyên bố - Tao không chơi với mày nữa!
Đúng ra thì tôi không giận con Xin lâu như thế. Tôi biết nó không cố tình hãm hại tôi. Nhưng những lời chọc ghẹo của lũ bạn trong lớp khiến tôi không thể ép mình làm hòa với con Xin được.
Gặp tôi ở đâu là những cái mồm độc địa lại nghêu ngao: "Bà già lấy le ông già / Chiều chiều dắt ra bờ sông...".
Ngay cả thằng Sơn cũng ra rả khoét vào vết thương lòng của tôi: "Em ơi nếu mộng không thành thì sao / Mua chai thuốc chuột uống vô cho rồi đời".
Suốt một thời gian dài như vậy.
Chương 18 - Thầy Nhãn
Tôi chỉ hết giận con Xin từ ngày thầy Nhãn xách con roi mây đi lùng sục chú Đàn và chị Vinh.
Thầy đi lòng vòng ngoài hè nhà tôi, miệng sang sảng:
- Thằng Đàn đâu, ra đây tao bảo!
Lúc đó là buổi tối, tôi và thằng Tường đang ngồi chồm hổm dưới nền nhà.
Cả hai đang ngóc đầu nhìn vô gầm giường gọi con Cu Cậu ra ăn cơm vãi thì giọng thầy Nhãn bất thần dội vào tai rào rào như vãi đạn.
Ăn cơm xong, mẹ tôi qua nhà bà tôi để bàn chuyện chuẩn bị đám giỗ ông nội tôi nên chỉ có hai anh em tôi ở nhà.
Bụng thắt lại, hai đứa tôi sợ hãi ngó nhau.
- Mày biết chú Đàn ở đâu không? - Tôi thì thầm.
Tường lo lắng không kém gì tôi. Giọng nó bẹt đi như phát ra từ một cái loa bị hỏng:
- Giờ này chắc chú Đàn và chị Vinh đang ngồi ngoài bờ mương.
Cái mương Tường nói nằm ngay sau nhà thầy Nhãn, kế ruộng lúa. Tôi và nó thỉnh thoảng vẫn qua đó câu cá và soi bờ chắn giữa các đám ruộng để đặt lờ.
Tôi nói, và nghe ruột gan đang tan ra:
- Ngồi chơi ngoài đó, thầy Nhãn bắt gặp thì chết!
- Anh đừng lo! - Tường trấn an tôi bằng giọng run run - Thầy Nhãn làm ầm thế này, chú Đàn và chị Vinh đã kịp bỏ chạy rồi.
- Thằng Đàn nấp đâu? - Tiếng thầy Nhãn lại vang lên lồng lộng ngoài sân - Tao mà tóm được thì mày chết với tao!
Tôi rúm người lại, tâm trạng lúc đó chẳng khác nào một anh lính nhút nhát đang bị bao vây. Đã thế, súng hết đạn, dao găm lại rơi đâu mất trong khi quân địch loa kèn ầm ĩ, sắp sửa tấn công.
Quân địch tấn công thật. Hò hét một hồi không thấy động tĩnh gì, thầy Nhãn ập vào nhà như một cơn bão. Giọng thầy ầm ầm, có cảm giác mái nhà rung rinh sắp sập xuống:
- Mày dắt con Vinh trốn đâu rồi hả Đàn?
Thầy đứng giữa nhà, giận dữ quét mắt sang phải sang trái, tôi thấy rõ gò má thầy giần giật, và nếu lúc đó người thầy đột ngột bốc khói tôi cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên.
Bắt gặp tôi và Tường đang ngồi thu lu dưới đất, thầy gằn giọng:
- Hai đứa bây ngồi đây làm gì? Có đứa nào thấy thằng Đàn đâu không?
Tôi nuốt nước bọt, cố tỏ ra ngoan ngoãn:
- Thưa thầy, con không biết ạ.
- Hừm, không biết!
Gầm gừ một câu, nhác thấy thằng Tường thầy sực nhớ ra tội đồng lõa của thằng này, liền cáu tiết vung roi vụt lên lưng nó:
- "Chim xanh" nè!
Thầy ra tay nhanh và mạnh đến mức Tường không kịp né. Tôi nghe một tiếng "bộp" và thấy thằng Tường giật nảy một cái, nó không kêu lên tiếng nào nhưng trông bộ tịch biết là đau lắm.
Đang điếng người, tôi chợt thấy thầy lia mắt sang tôi. Trong ánh đèn, tôi vẫn kịp thấy mắt thầy vằn những gân đỏ. Nhờ vậy tôi kịp vọt mình ra cửa trước khi ngọn roi của thầy quất xuống kèm theo tràng mắng mỏ:
- Còn thằng này nữa! "Gió mưa là bệnh của trời" nè!
Sau lần đó, tôi hiểu ra hôm trước thầy Nhãn bẹo tay tôi đau điếng không phải vì thầy ghét bỏ gì tôi mà vì thầy đang tức chú Đàn.
Chắc thầy đã đọc được hai câu thơ Nguyễn Bính trong lá thư chú Đàn gửi cho chị Vinh. Hành động của con Xin chỉ vô tình kích nổ quả bóng giận dữ trong lòng thầy thôi.
Chương 19 - Thầy Nhãn đánh chú Đàn
Tôi nhớ hồi tôi tám tuổi, có một lão thầy bói ghé vào nhà tôi xin nước uống.
Áo quần bạc phếch, dáng người gầy gò khắc khổ, râu cằm ngắn và thưa, mặt mày xám xịt như suốt đời chỉ xực củ cải muối, lão ngồi tréo chân trên ghế uống từng ngụm nước trong chiếc ca nhựa vừa đưa mắt ngắm nghía hai anh em tôi.
Ca nước đó tôi chỉ uống vài tợp là hết, nhưng lão ngồi uống tì tì cả buổi. Trong khi uống, lão chẳng hé môi tiếng nào.
Nhưng trước khi đi, lão chỉ tay vào tôi, gật gù nói với mẹ tôi:
- Thằng bé này cẩn thận kẻo sau này chết đuối!
Tôi nghe lão phán, chẳng có cảm xúc gì nhưng mẹ tôi mặt xanh như tàu lá. Trán mẹ tôi chỉ giãn ra khi lão nói thêm:
- Qua mười tám tuổi, nếu không chết sông chết suối thì nó sẽ sống rất thọ.
Lão quay sang thằng Tường, ngoẹo cổ nhìn:
- Còn thằng bé này đẹp quá, nên bị con tạo ganh ghét. Số nó vất vả, nhưng có quý nhân phò trợ. Bà đừng lo, đời nó gặp nhiều tai nạn nhưng rốt cuộc đều vượt qua được hết.
Tôi chẳng biết những gì lão thầy bói phán chính xác được bao nhiêu phần trăm. Nhưng riêng chuyện thằng Tường gặp nhiều tai nạn thì bây giờ nhớ lại, tôi công nhận là lão nói đúng.
Thằng Tường hết bị ba tôi vụt gậy vô người đến bị tôi ném đá vỡ đầu, bây giờ lại bị thầy Nhãn nổi cộc quất roi lên lưng, toàn tai bay vạ gió.
Tôi nghịch ngợm hơn nó, quậy phá hơn nó, lại chuyên bày trò, nhưng nhờ nhanh chân nên hầu như trận đòn nào tôi cũng thoát.
Bữa đó tôi nấp ngoài hè một lúc lâu, đợi thầy Nhãn ra về mới rón rén chui vô.
Thằng Tường vẫn ngồi dưới đất. Nó và con Cu Cậu đang đối diện nhau. Con cóc mải đớp mồi còn nó mải khóc.
Nhìn nó thút thít, tôi cầm lòng không đậu. Tôi ngồi xuống bên cạnh, ôm vai nó, dỗ:
- Nín đi, em!
Xưa nay tôi vẫn gọi Tường bằng "mày". Tự nhiên nghe tôi gọi nó bằng tiếng "em" ngọt lịm, Tường mủi lòng lại càng nức nở.
Tôi rờ tay lên lưng nó, nhẹ nhàng và thận trọng như chạm vào thứ gì dễ vỡ:
- Đau lắm hả em?
- Bớt đau rồi, anh Hai. - Tường sụt sịt.
- Thế sao em khóc hoài vậy?
- Ai biểu thầy Nhãn vô cớ đánh em. - Tường ngước gương mặt nhòe nhoẹt lên nhìn tôi, nó chùi nước mắt bằng cả hai tay, ấm ức đáp - Khi bắt quả tang em đem thư cho chị Vinh, sao lúc đó thầy Nhãn không đánh em, bây giờ lại đánh?
Tôi thờ dài:
- Không phải thầy Nhãn đánh em đâu. Thầy đánh chú Đàn đó.
Chương 20 - Mùa bắt ve sầu chưa tới
Thầy Nhãn đánh chú Đàn nhưng chú Đàn chẳng hề hấn gì. Trong khi đó lưng thằng Tường bầm tím.
Sáng hôm sau tôi vén áo nó lên xem, thấy vết bầm đã nhạt đi nhưng vẫn còn con lươn xanh mờ vắt ngang lưng nó.
- Tường nè. - Giọng tôi chùng xuống.
- Gì hở anh?
- Sắp đến mùa hè rồi đó.
- Dạ.
- Khi nào mùa hè tới, lũ ve sầu trở lại, tao sẽ dẫn mày đi rình bắt ve ve.
- Ôi, thích quá! Bắt bằng mủ mít hả anh?
- Ờ, bằng mủ mít. Tao sẽ vót hai cái que thật dài. Mày một cái, tao một cái. Rồi mình bôi mủ mít lên đầu que.
- Em biết rồi. Như năm ngoái chứ gì!
Năm ngoái hai anh em tôi trưa nào cũng dọ dẫm ven bờ rào rình bắt ve ve dưới cái nắng chói chang. Nắng mùa hè rơi xuống từng bưng, hong vàng lá gòn nhà ông Ba Huấn, lá nhãn lồng nhà thầy Nhãn, lá vú sữa trong vườn nhà bà tôi và hong vàng tóc hai anh em tôi.
Chiều nào đi bắt ve về, mặt mày tôi và Tường cũng đỏ lơ đỏ lưỡng, đầu tóc xác xơ và đỏ quạch như hai cây chổi rơm. Mẹ tôi la một trận, dọa méc ba khiến tôi và Tường sợ xanh mặt nhưng qua hôm sau hai anh em lại trốn ngủ trưa lẻn ra sau hè cầm que đi rảo dọc các bờ rào để ngóng tìm lũ ve đang đồng ca râm ran trên các tàng cây.
Nhưng mùa hè năm nay không hoàn toàn giống hệt mùa hè năm ngoái. Năm ngoái, và những năm trước nữa, người vót que luôn luôn là thằng Tường.
"Anh Hai học bài đi, để em làm cho!", thằng Tường luôn nói thế khi vung vẩy cây rựa trên tay. Những lúc như vậy tôi sung sướng để mặc nó lo liệu mặc dù thi học kỳ hai xong, tôi chẳng còn bài gì để học, chỉ mải chơi.
Nhưng mùa hè năm nay, tôi sẽ giành phần vót que. Tôi muốn bù đắp cho nó. Thầy bói đã nói rồi, số nó vất vả, gặp nhiều tai nạn. Tôi muốn gánh cho em tôi một phần vất vả, và trong những chuyện vất vả thì chuyện ít vất vả nhất là vót que đi rình bắt ve sầu.
Nhưng cây phượng trước sân nhà chị Vinh chưa trổ hoa, mùa hè còn lâu mới đến. Tôi tặc lưỡi nhìn Tường:
- Bây giờ tao sẽ đi tìm cỏ gà giùm mày.
- Chơi đá gà hở anh?
- Ừ.
- Em biết chỗ nè. - Tường reo lên - Để em dẫn anh đi.
Nói xong, Tường nắm tay tôi kéo ra khỏi nhà, lần về phía giếng đá sau vườn.
Tôi lẽo đẽo đi theo nó, lòng buồn thỉu buồn thiu. Bao giờ cũng vậy, cứ mỗi lần tôi động lòng định giúp Tường điều gì thì y như rằng người được giúp cuối cùng lại là tôi. Hoài hoài như vậy.
Chúc các bạn online vui vẻ !