Vì trên đảo không còn quan tài thừa, La Phi đành bảo Quách Quế Chi tạm thời đem thi thể người chết về để trong nhà đã, đợi tuyến đường thủy hoạt động trở lại rồi tính sau. Tang Quân Dũng thân thể cường tráng, lại can đảm, chủ động nhận nhiệm vụ vác tử thi. Thầy trò hòa thượng Đức Bình người đi trước kẻ theo sau, như hình với bóng, miệng lẩm bẩm tụng kinh, cầu cho vong linh người chết được siêu thoát.
Mọi việc thu xếp ổn thỏa xong, cũng đã đến giờ ăn trưa, đám đông thấy chẳng còn gì để xem nữa bèn lần lượt giải tán. Trên con đường nhỏ chỉ còn lại La Phi và Lý Đông.
La Phi nãy giờ giữ chân Lý Đông lại vì anh có vài chuyện muốn hỏi người đối diện, cuối cùng cơ hội cũng đã đến.
“Anh theo học y thuật với bố của Tiết Hiểu Hoa à?”
“Vâng.”
“Thế anh có ấn tượng gì với người có tên là Vương Thành Lâm không? Trước đây ông ấy từng sống trên đảo. Sau trận sóng thần của mười tám năm về trước, ông ấy đã đưa con trai rời khỏi đảo.”
Lý Đông lắc đầu: “Mười tám năm trước tôi mới khoảng chục tuổi. Năm mười lăm tuổi, tôi mới bắt đầu theo học thầy lang Tiết.”
Với câu trả lời này, La Phi đã chuẩn bị tâm lí từ trước nên không tỏ ra quá thất vọng, anh tiếp tục hỏi một câu khác: “Vậy trong tay anh có giữ tài liệu gì của thầy lang Tiết không, đại loại như nhật kí bệnh án chẳng hạn.”
“Cái đó thì có. Anh cần chúng à?”
“Umm.” –La Phi gật đầu vẻ quyết đoán, “Tôi muốn xem một chút, bây giờ chúng ta sẽ qua chỗ anh.”
Nơi ở của Lý Đông cách nhà Tiết Hiểu Hoa không xa, trên đường đi, cậu kể sơ qua về tình hình của bản thân.
Bản thân Lý Đông cũng là một nạn nhân trong vụ sóng thần, trận thiên tai ấy đã cướp đi tất cả người thân của anh, khiến anh trở thành đứa trẻ mồ côi. Hàng xóm chung quanh thương tình cưu mang anh. Năm anh tròn mười lăm tuổi, thầy lang Tiết thấy anh có vẻ lanh lợi, không giống như đứa con trai bất tài của ông ấy, bèn nhận anh làm học trò. Lý Đông chuyên tâm học y thuật, dần có kết quả, sau khi thầy lang Tiết mất, anh trở thành thầy lang giỏi nhất trên đảo.
Thầy lang Tiết bảo quản tài liệu y thuật của mình rất cẩn thận, số tài liệu mà Lý Đông có trong tay đều là trong quá trình dạy học thầy lang Tiết đã chủ động đưa cho anh nghiên cứu. Ngoài số đó ra, thầy Tiết nghiêm cấm Lý Đông tự ý đọc bất cứ tài liệu gì khác, Lý Đông cũng rất biết nghe lời, chưa bao giờ phạm lỗi.
Tài liệu mà thầy lang Tiết để lại cho Lý Đông gồm mười mấy cuốn sách y học, sổ ghi chép tổng kết kinh nghiệm hành nghề, và một số ít nhật ký bệnh án v.v... Tuy đã nhiều năm trôi qua, nhưng nét chữ mà ông để lại trên giấy vẫn rõ như ngày nào, hơn thế kiểu chữ thì ngay ngắn thanh thoát, thể hiện một cốt cách phi phàm.
Bất kì người nào trông thấy kiểu chữ viết này, đều sẽ có ấn tượng rất sâu sắc. La Phi dĩ nhiên không phải là ngoại lệ, chỉ cần liếc qua một cái là anh đã nhận ra những tài liệu viết tay này với bức thư trong tay Mông Thiếu Huy đều là do một người viết.
Lần này, một vài phỏng đoán trong đầu anh đã dần định hình: Cha con Vương Thành Lâm đã trải qua một biến cố đáng sợ, biến cố này rất có thể có liên quan đến trận thiên tai sóng thần năm đó. Cũng do cú sốc của biến cố đó mà ngày còn nhỏ Mông Thiếu Huy đã được thầy lang Tiết điều trị tâm lý, vì thế mà nhà họ Tiết có lưu giữ những tài liệu có liên quan đến sự việc này. Khi Mông Thiếu Huy đặt chân lên đảo, bức thư đã bị Tiết Hiểu Hoa tiện tay đánh cắp. Ông ta nhận ra chữ của cha mình, từ đó phát hiện ra một bí mật đã được ẩn giấu từ lâu. Do lòng tham độc ác trỗi dậy, ông ta đã tìm cách nhằm tiết lộ bí mật này, và trong quá trình đó, có biết bao chuyện li kì đáng sợ đã xảy ra…
Đúng thế, anh đã nhận ra nguồn cơn của toàn bộ vụ án, nhưng anh không đủ khả năng để ngăn chặn sự việc tiếp diễn, Chu Vĩnh Quý đã trở thành nạn nhân thứ hai sau Tiết Hiểu Hoa, những chuyện li kì ma quái đang dần dần được hé lộ. Để đi tìm lời giải cho những điều bí mật này, cần phải tìm về quãng thời gian mà Mông Thiếu Huy đã lãng quên. La Phi cố gắng tìm chút manh mối trong những tài liệu mà thầy lang Tiết để lại.
Trước tiên anh lật giở những vụ án, nhưng đều là những ghi chép chả liên quan, không có bất cứ thứ gì có giá trị. Còn sổ tay kinh nghiệm hành nghề thì về cơ bản đều là những ghi chép và phân tích rất chuyên môn, sau khi xem xong một lượt, đều không có kết quả gì. Mấy cuốn sách còn lại đã gây chút hứng thú cho La Phi.
Trong cả thảy mười ba cuốn sách, thì có tám cuốn ít nhiều đều liên quan đến tâm lý học. Điều này khiến La Phi bất giác hỏi: “Thầy lang Tiết nghiên cứu sâu về tâm lý học à?”
Lý Đông gật đầu: “Thầy thường bảo tôi, căn bệnh đáng sợ nhất của một người không phải là bệnh thể xác, mà là trở ngại tâm lý không vượt qua được. Muốn trở thành một thầy thuốc chân chính, phải có khả năng giúp người bệnh chiến thắng được con ma trong lòng họ.”
“Con ma trong lòng?” –La Phi nghiền ngẫm lời nói của người đối diện, lật lại một lần nữa hơn chục cuốn sách đó. Cuối cùng, ánh mắt dừng lại ở một cuốn trong số đó.
Đây là một cuốn sách dịch từ tiếng nước ngoài, tựa sách là: “Sự hình thành và cách chữa trị hội chứng mất trí nhớ”.
Quyển sách rất dày, đương nhiên trong một chốc lát thì không thể đọc hết được. La Phi nhặt riêng cuốn sách đó ra: “Tôi muốn mượn cuốn này về xem, được chứ?”
“Tất nhiên là được.” –Lý Đông nhanh nhảu trả lời.
Đang nói chuyện thì Kim Chấn Vũ vội vã xông vào. Mặt ông ta tái mét, bộ dạng sợ hãi hốt hoảng, trông thấy La Phi, ông ta lập tức kêu lên: “Cảnh sát La Phi, hóa ra anh đang ở đây à? Tôi đi tìm anh khắp nơi!”
“Sao? Lại xảy ra chuyện gì à?” –bộ dạng của ông ta khiến La Phi phải đứng dậy một cách căng thẳng.
“Không, không xảy ra chuyện gì. Chỉ có… có một vài… phát hiện!” –Kim Chấn Vũ ấp úng nói, có vẻ như không thể làm chủ lời nói của mình nữa.
La Phi rướn người về phía trước một cách vô thức: “Phát hiện gì cơ?”
“Tôi… tôi không biết… tôi không thể nói. Mà không… có nói ra thì anh cũng không tin.” –Kim Chấn Vũ có vẻ lắp bắp, cuối cùng nhờ ánh mắt của La Phi mà ông bình tĩnh trở lại, nói, “Hay là anh đi cùng tôi một chuyến đi, đến lúc đó anh sẽ biết!”
La Phi không nói gì, anh cầm quyển sách lên, rảo bước đi về phía cổng.
Kim Chấn Vũ dẫn La Phi đến một xóm trại ở hướng chính đông của hòn đảo. Xóm trại này nằm trên một vùng đất bằng phẳng bên ngoài chân núi, địa thế khá rộng rãi, số hộ gia đình có vẻ đông hơn, nhà ông Hồ cũng sống ở đây. Từ trong xóm trại nhìn về phía đằng xa, tầm nhìn dường như không bị che khuất, nhất là “Dốc quỷ ám”, nằm chính giữa tầm mắt.
Hai người vào nhà một hộ dân, trước cổng có một phụ nữ trung niên ngoại tứ tuần đang ngồi xổm, mặt mày ủ rũ, than vãn không ngớt.
Trông thấy Kim Chấn Vũ, lông mày người phụ nữ chau lại như một cái sẹo: “Ấy, sao ông lại đến vậy. Ông ấy nhà tôi đã thành như thế rồi, ông đừng làm ông ấy bị kích động nữa, xin hãy để cho ông ấy yên!”
Kim Chấn Vũ chỉ sang La Phi: “Anh đây là cảnh sát của thành phố. Anh ấy muốn tìm hiểu tình hình.”
Người phụ nữ đưa mắt nhìn La Phi, ánh mắt rõ ràng là có thêm phần tin cậy. Do dự giây lát, cuối cùng bà ta gật đầu: “Ồ, vậy thì các anh vào nhà đi.”
Kim Chấn Vũ dẫn La Phi vào nhà.
“Ai đấy?” –một giọng nói thều thào hỏi, ngữ điệu có kèm theo chút sợ hãi.
Mặc dù đang là ban ngày, nhưng trong phòng rất tối. La Phi mở mắt một hồi lâu mới trông thấy ở góc nhà có kê một chiếc giường ván cũ nát. Giọng nói vừa rồi là của một người đàn ông đang nằm trên giường.
“Phó Ngọc Trụ, anh đừng sợ. Đây là cảnh sát La, đến từ thành phố. Anh kể lại sự việc trông thấy tối qua cho anh ấy nghe đi!” –Kim Chấn Vũ vừa nói vừa tiến lại gần đầu giường, bật đèn trong phòng lên. Ánh đèn lờ mờ chiếu xuống, càng làm tăng thêm vài phần không khí nặng nề.
Người đàn ông nằm trên giường từ từ quay đầu lại, mở to mắt nhìn La Phi. Có thể nhận ra, ông ta vốn là một thanh niên cường tráng, nhưng bây giờ thì hốc mắt sâu hoắm, sắc mặt tái nhợt, trông vẻ rất ốm yếu.
“Cảnh sát?” –ông ta lắc đầu lẩm bẩm, “Chẳng làm gì được đâu… chẳng làm gì được… Đó không phải là người, mà là ma quỷ!”
Kim Chấn Vũ nhìn La Phi vẻ bất lực, dù sao thì lời nói của người này ít nhiều đã giải thích tại sao Kim Chấn Vũ trước đó đã có những lời nói và hành động khác thường.
“Ma? Ma nào cơ? Anh đang nói gì thế?” –La Phi lại gần mấy bước, ánh mắt sáng ngời nhìn vào mắt Phí Ngọc Trụ, hi vọng có thể dùng cách này giúp cho tâm trạng người đối diện bình tĩnh trở lại.
Nhưng anh đã thất bại. Lời nói của anh trái lại còn gợi nhắc người đối diện một kí ức đáng sợ, ánh mắt Phó Ngọc Trụ nhanh chóng nhìn đi nơi khác, có vẻ như đang cố gắng chạy trốn điều gì đó, cùng lúc ông ta kêu lên với một giọng tuyệt vọng và sợ hãi: “Ma! Một con ác quỷ! Hơn chục năm rồi, nó lại xuất hiện!”
“Anh ta bị kinh động, vẫn chưa hoàn toàn hồi phục.” –Kim Chấn Vũ khẽ giải thích, “Nếu anh biết anh ta đã nhìn thấy những gì, hẳn anh sẽ không cảm thấy thắc mắc trước biểu hiện của anh ta hiện nay.”
“Không thể để anh ta ở mãi trong căn phòng nhỏ thế này được. Ở đây không gian quá chật chội, lại thiếu ánh sáng, sẽ tăng thêm áp lực tâm lý cho anh ta.” La Phi vừa nói vừa ra hiệu cho Kim Chấn Vũ cùng anh nâng Phó Ngọc Trụ lên dìu ra bên ngoài.
Quả nhiên, môi trường bên ngoài rộng rãi thoáng mát khiến Phó Ngọc Trụ cảm thấy nhẹ nhỏm hơn rất nhiều, vợ ông ta đem từ dưới bếp lên một cái ghế, Phó Ngọc Trụ run lẩy bẩy ngồi xuống ghế.
La Phi tiếp tục an ủi ông ta với giọng nhẹ nhàng: “Được rồi, anh rốt cục đã nhìn thấy cái gì? Đừng vội, cũng đừng sợ, cứ từ từ mà nói. Ở đây nhiều người thế này, không ai dám làm hại anh đâu.”
Phó Ngọc Trụ có vẻ vẫn chưa hết sợ. Mắt ông ta nơm nớp đảo quanh một vòng, như có một sức mạnh vô hình nào đó thu hút, cuối cùng ánh mắt ấy nhìn về phía “Dốc quỷ ám”.
La Phi và Kim Chấn Vũ cũng bị ông ta dẫn dắt nhìn về hướng “Dốc quỷ ám”, nơi đó dốc núi cheo leo, cây cối um tùm, không có gì gọi là bất thường cả. Phó Ngọc Trụ khẽ “suỵt” một cái, rồi cất giọng nói: “Chính là ở chỗ đó, mười tám năm trước tôi đã nhìn thấy nó, tối nay, nó lại xuất hiện.”
La Phi lập tức nhận ra điều gì đó: “Mười tám năm trước? Ý anh là cái bóng đen trên ‘Dốc quỷ ám’?”
“Đúng thế.” Phó Ngọc Trụ chớp mắt một cách yếu ớt, nói, “Cái bóng đen năm đó, người trong làng ai cũng trông thấy, nhưng nhìn kĩ đến mức ấy thì chỉ có mình tôi. Nếu không phải là tôi, thì ai mà biết được cái bóng đen ấy là một phụ nữ ôm con?”
“Nhìn kĩ?” Nghĩa là thế nào? La Phi có vẻ không hiểu lắm. Nhưng cứ như ý ông ta thì, chi tiết “người phụ nữ ôm con” chính là từ ông ta mà lan truyền đi.
Phó Ngọc Trụ ngoảnh đầu nhìn vợ: “Em đi lấy cái đó lại đây.”
Người đàn bà gật đầu, quay người đi vào trong nhà, lát sau trở ra, trong tay có cầm thêm một thứ.
La Phi nhìn thì ra đó là một chiếc ống nhòm, kiểu dáng rất cổ, tuy trông cũ kĩ nhưng không một vết xước, xem ra rất ít khi dùng đến.
“Chiếc ống nhòm này là do ông chú tôi ngày còn đóng quân ở Bắc Kinh tặng nhân hồi tôi cưới vợ. Tôi vốn rất thích nó, nhưng kể từ sau lần ấy, tôi không bao giờ dùng đến nó nữa, tôi không dám nhìn nó, vì tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng đáng sợ đã từng xuất hiện trước ống kính.” Phó Ngọc Trụ nói một cách rất nhỏ nhẹ, như thể sợ làm kinh động đến điều gì đó rất đáng sợ.
“Anh đã dùng nó để nhìn bóng đen trên ‘Dốc quỷ ám’ à?” La Phi đoán.
Phó Ngọc Trụ cười gượng: “Khi ấy tôi hơn hai mươi tuổi, cái tuổi của một cậu bé can đảm và hiếu kì. Mấy hôm đó bóng đen liên tục xuất hiện, người trong làng bàn tán xôn xao. Tôi bỗng nghĩ ra một cách, tại sao lại không dùng ống nhòm để xem nhỉ? Biết đâu nếu giải mã được điều bí mật, thì cũng hãnh diện trước mặt mọi người. Một hôm tôi tỉnh dậy vào lúc nửa đêm, mọi người đều đã ngủ say, trời đẹp trăng sáng, rất thích hợp cho việc quan sát. Thế là tôi đem ống nhòm ra hướng thẳng về phía ‘Dốc quỷ ám’ và điều chỉnh tiêu cự.”
Nói đến đây, Phó Ngọc Trụ dừng lại, trên mặt xuất hiện dáng vẻ đau khổ, như thể rất khó khăn trong việc ôn lại kí ức đáng sợ ấy. Mọi người đều im lặng chờ đợi phần còn lại của câu chuyện, không khí căng thẳng như sắp bị đông cứng.
“Anh… anh đã nhìn thấy cái gì?” cuối cùng La Phi phải lên tiếng phá vỡ sự im lặng.
Phó Ngọc Trụ nhắm mắt lại, lấy sức nuốt trôi nước miếng, cuối cùng cũng đã chịu mở miệng, mặc dù đã lấy hết can đảm toàn thân, giọng nói ông ta vẫn hơi run: “Tôi nhìn thấy trên chạc cây, có một… phụ nữ đang ngồi… ôm con, cảnh tượng đáng sợ ấy, các anh không thể nào tưởng tượng nổi đâu.”
Phụ nữ, trẻ em, lẽ ra đều phải là những điều tốt đẹp mới phải, tuy họ xuất hiện có vẻ không đúng chỗ cho lắm, nhưng làm gì đến mức đáng sợ cơ chứ? La Phi lắc đầu khó hiểu.
Phó Ngọc Trụ cười chua xót: “Anh không hiểu được đúng không? Kể cũng đúng thôi, giả sử tôi có bằng tiến sĩ văn chương thì cũng không thể nào làm cho anh cảm nhận được nổi sợ hãi của tôi lúc ấy. Đó là một người phụ nữ như thế nào ư? Mặt bà ta phình to đen kịt, mắt mũi xiêu vẹo, tóc tai bù xù, đôi mắt đục ngầu mở toác, nhìn chằm chằm vào mắt tôi qua ống kính. Tôi chưa bao giờ bắt gặp một ánh mắt như thế, đầy vẻ oán hận và bi thương, cứ như một lưỡi kiếm lạnh ngắt đâm vào tim người ta! Bà ta đúng ra không phải là người! Tôi cam đoan bà ta là ma, một con ma nữ bị chết oan!”
Phó Ngọc Trụ kể một hơi xong, vùi đầu thật sâu vào giữa hai đầu gối, toàn thân run lên bần bật. Vợ anh ta và Kim Chấn Vũ đứng hai bên, mặt cũng biến sắc.
La Phi thì lại nghĩ khác, anh chau mày hỏi: “Tại sao anh cứ một mực cho rằng bà ta là một con ma, mà không phải là một cái gì khác? Chẳng hạn như, liệu đó có phải là một thi thể?”
“Thi thể?” Phó Ngọc Trụ ngẩng đầu nhìn La Phi, “Thi thể thì làm sao cử động được?”
“Bóng đen còn cử động được?” La Phi hơi ngạc nhiên, chi tiết này là lần đầu tiên anh nghe được.
“Đúng thế. Nhất định là nó phát hiện thấy tôi nhìn thấy nó, sau đó nó mới động đậy. Nó trèo lên chạc cây. Tôi đã làm kinh động đến nó, nó nhất định sẽ nhớ tôi…” Phó Ngọc Trụ càng nói càng xúc động, có lẽ đây là điều làm anh ta sợ hãi nhất.
“Trèo cây?” La Phi thực sự khó mà tưởng tượng nổi, “một người phụ nữ ôm con, làm sao mà trèo được cây?”
Phó Ngọc Trụ cắn môi, nói rít qua khe răng: “Nó dùng một tư thế rất chi là ma quái. Mặt nó quay vào trong, lấy thân người áp sát thân cây xoay vòng, cứ thế từng vòng từng vòng xoay lên trên. Khi ấy là mùa hè, lá cây rậm rạp, nên rất nhanh sau đó nó đã mất hút trong lùm cây!”
Ảo quá đi! Thế này khác nào tình tiết trong truyện ma. La Phi thực sự không thể tin sẽ xảy ra chuyện như vậy, im lặng giây lát, anh tặc nhẹ một tiếng, nhìn người đối diện nói: “Anh có chắc là mình đã tận mắt nhìn thấy những điều vừa rồi không, bảo đảm không phải là ảo giác hay cái gì đó tương tự?”
Phó Ngọc Trụ thở dài: “Đừng nói là anh, đến người trên đảo ngày ấy còn chẳng ai tin lời tôi nói. Thực ra tôi cũng mong sao đó không phải là sự thật. Để tôi đỡ phải mười tám năm nay, đêm nào thức giấc tôi cũng kinh hồn bạt vía, rõ ràng là rất sợ nhưng không thể không nhìn về phía ‘Dốc quỷ ám’. Đêm qua, nó lại xuất hiện. Tôi nghe nói ông chủ tiệm tạp hóa Chu Vĩnh Quý cũng sợ hết hồn? Tôi không lấy làm lạ, vì cái cảnh tượng đáng sợ ấy, ai mà chịu đựng nổi? Chỉ là bây giờ, khi đã biết những điều tôi nói đều là sự thật.”
“Ý anh là, đêm qua anh lại trông thấy nó? Cụ thể là vào lúc mấy giờ?”
“Chưa nhìn thấy tôi đã trở thành như thế này sao?” Phó Ngọc Trụ cười gượng một cách chua xót, “Tôi nhìn thấy nó lúc hơn mười một giờ. Nó vẫn như mười tám năm trước, trong lòng bế một đứa trẻ, ngồi bất động giữa chạc cây, nhìn chằm chằm về phía làng mạc.”
“Chạc cây nào thế? Anh chỉ cho tôi xem được chứ?” –La Phi nhìn về phía ‘Dốc quỷ ám’ đằng xa hỏi.
“Là…” Phó Ngọc Trụ giơ ngón tay lên chỉ trỏ, nhưng một lát sau, anh ta lại đứng đó ngơ ngác, “Mất rồi, cái cây đó mất rồi…”
“Mất rồi, tối qua anh còn trông thấy, làm sao mà mất được?” La Phi thấy kì quặc, “Có phải anh quên là ở đâu rồi phải không? Thử nhớ lại xem.”
“Không, tôi không quên.” Phó Ngọc Trụ nói một cách chắc nịch, “Tuy tôi chỉ thoáng nhìn là đã sợ chạy vào trong nhà rồi, nhưng ấn tượng của cái nhìn đó rất sâu sắc. Anh đã nhìn thấy cái tảng đá giống miệng chim ưng kia không? Cái chạc cây ở ngay chỗ tảng đá thẳng lên khoảng một mét.”
La Phi ngước mắt nhìn theo, tảng đá mà người đối diện vừa nói trông rất rõ, không khó để nhìn thấy, chỉ khác là phía trên hòn đá chỉ thấy dây leo, làm gì thấy có chạc cây nào?
“Vì thế chắc chắn đó là con ma nữ.” Phó Ngọc Trụ đưa ra lời giải thích của mình. “Nó chỉ xuất hiện vào ban đêm, thậm chí cái ngọn mà nó ngồi ban ngày cũng không nhìn thấy, vì đó cũng là một cái ‘cây ma’. Mười tám năm trước đã như vậy, bây giờ cũng sẽ vẫn như thế.”
La Phi đúng yên tại chỗ, anh cảm thấy đầu óc mình rối tung cả lên. Có lẽ lúc này đây, anh muốn tin rằng người đàn ông trước mặt mình đã bị điên.
Chương 14: Bệnh mất trí nhớ
“Anh nhìn nhận sự việc này như thế nào? Ý tôi là về người phụ nữ ôm con ấy.” Sau khi rời khỏi nhà Phó Ngọc Trụ không xa, La Phi đặt câu hỏi này cho Kim Chấn Vũ.
Kim Chấn Vũ lặng im giây lát, sau đó hỏi: “Có muốn tôi nói thật không?”
“Tất nhiên.”
“Tôi vốn là người theo chủ nghĩa duy vật. Nhưng việc xảy ra tối qua đã làm dao động một số quan điểm của tôi.”
“Thế ư?” La Phi không nghĩ là sẽ nhận được câu trả lời như vậy. Anh dừng chân, ngoảnh lại nhìn Kim Chấn Vũ, thì bắt gặp nét mặt toát lên vẻ hoang mang và sợ hãi khó che giấu của người đối diện.
“Thế anh có thân với gia đình nhà Vương Thành Lâm không?” La Phi lại đặt ra câu hỏi tiếp theo.
“Không thân lắm.” Kim Chấn Vũ lắc đầu, “Khi đó tôi vẫn chưa làm trưởng thôn, chỉ biết là có một gia đình như vậy.”
“Mông Thiếu Huy có còn đứa em trai hay em gái nào nữa không?”
Kim Chấn Vũ phân vân: “Cái này… tôi không biết.”
“Thật ư?” La Phi chau mày, “Nhà họ có mấy người mà anh cũng không biết sao?”
Thành Lâm nói vợ ông ta đã mang bầu. Sau khi sóng thần xảy ra, người vợ gặp nạn, thi thể không tìm thấy. Trước khi có sóng thần, bà ta không ra khỏi nhà đã lâu, vì thế đứa trẻ này có chào đời hay không, tôi cũng không dám chắc.”
La Phi gật đầu, thầm nghĩ trong bụng: Cứ theo như cảnh tượng xuất hiện trong giấc mơ của Mông Thiếu Huy, thì khi có sóng thần, đứa trẻ ấy đã chào đời. Người phụ nữ ôm con? Điều này đúng là có chút liên hệ với mẹ của Mông Thiếu Huy, nhưng sự liên hệ này kể cũng hơi hoang đường, khiến người ta không thể giải thích nổi.
“Cảnh sát La Phi, bước tiếp theo chúng ta phải làm sao đây?” Kim Chấn Vũ cắt ngang dòng suy nghĩ của La Phi.
Làm sao à? La Phi lúc này cũng rất hoang mang. Cái chết của Chu Vĩnh Quý đã làm gián đoạn manh mối mà anh đã khó nhọc lần ra, còn kết quả điều tra gần đây thì cứ rối tung cả lên, không biết đâu mà lần. Trầm ngâm giây lát, anh trả lời người đối diện: “Anh cứ về trước đi, ăn chút gì đó, nghỉ ngơi một lát, rồi đợi tin của tôi.”
La Phi ngay sau đó cũng quay về chỗ trọ của mình. Mông Thiếu Huy không có ở phòng, hỏi Tôn Phát Siêu mới biết cậu ta đã đi từ lúc quá trưa.
Tôn Phát Siêu hâm nóng cơm và thức ăn còn trong nồi. Cứ mỗi lần gặp chuyện gì khó giải quyết, La Phi ăn uống rất ngon miệng, chả mấy chốc đã chén hết sạch sành sanh. Sau đó anh ngồi nói chuyện với Tôn Phát Siêu trong sân, để thư giản đầu óc đang rất căng thẳng.
Chừng nửa tiếng sau, Mông Thiếu Huy bước từ cổng vào.
“Cậu đi đâu thế?” La Phi hỏi.
“Em ra ngoài dạo một lát, tiện thể đi tìm con Kaka.”
“Tìm thấy chưa?”
Mông Thiếu Huy lắc đầu.
“Tôi thấy con mèo đó của cậu bản tính rất hoang dã.” Tôn Phát Siêu ngồi bên cạnh chen vào, “Nó đã chạy vào núi rồi, thì đừng mong quay về.”
“Không thể nào. Kaka tuy hơi hung dữ một chút, nhưng với chủ nó vẫn rất thân thiết, chẳng biết mấy ngày nay có chuyện gì.” Mông Thiếu Huy nói đến đây cũng lắc đầu một cách khó hiểu, nhưng ngay sau đó cậu đã đổi sang thần sắc vui vẻ, nâng đôi bàn tay đan vào nhau, “ Nhưng dù sao cũng không tốn công đi tìm nó, các anh xem đây là cái gì?”
La Phi dán mắt nhìn theo, chỉ thấy cậu ta lấy bàn tay đan lại thành hình chiếc bát, giữa lòng bàn tay là một con chim biển. Con chim biển đó toàn thân rực đỏ, béo núc ních, trần trụi không có cọng lông nào, trông chừng mới sinh chưa được bao lâu, vẫm còn chưa mở mắt.
La Phi trông thấy dáng vẻ vô cùng đáng thương của con chim, cũng không khỏi cảm thấy dễ thương, cười hỏi: “Cậu bắt được nó ở đâu thế?”
“Không phải bắt.” Mông Thiếu Huy nói vẻ nghiêm túc, “Em đã cứu sống nó.”
Tôn Phát Siêu cười phụ họa: “Cậu Huy nói đúng đấy, con chim này là do mẹ nó vứt bỏ từ tổ ở trên cây. Haha, cảnh sát La Phi, anh có biết vì sao không?”
Hổ ác không ăn thịt con, La Phi chưa từng nghe thấy việc như thế này bao giờ, anh xòe hai tay ra: “Trước giờ việc gì tôi không chắc chắn tôi ít khi đoán liều, thôi hai người cứ nói ra cho tôi biết đi.”
“Con chim biển này vừa mới ra ràng, một lứa thường có từ hai con trở lên.” Mông Thiếu Huy chen ngang giải thích, “Bây giờ là mùa đông, chim mẹ không kiếm đủ thức ăn, thế nên lũ chim con bị bỏ đói. Lúc này, chim mẹ sẽ chọn con nào có thể chất ốm yếu ném ra khỏi tổ, chối bỏ sự nuôi dưỡng dành cho nó, để có thể tập trung sức lực mà nuôi nấng những con chim có thể chất khỏe hơn, tỉ lệ sống sót cao hơn.”
“Ồ.” La Phi bây giờ mới hiểu, tuy làm vậy sẽ có lợi cho việc duy trì giống nòi, nhưng quả thật lại tàn nhẫn với con chim bị ruồng bỏ. Nhưng suy cho cùng đây cũng chính là quy luật đào thải tự nhiên mà thôi. La Phi ngẫm nghĩ giây lát, tán đồng với Mông Thiếu Huy: “Xem ra cậu cũng am hiểu về lĩnh vực sinh học đấy chứ nhỉ?”
“Em biết cũng không nhiều đến thế đâu.” Mông Thiếu Huy cười khiêm tốn, “Những điều này đều là do hòa thượng Đức Bình nói cho em biết, con chim non này cũng là của ông ấy cho em.”
“Cậu đã gặp hòa thượng Đức Bình rồi à?” La Phi cảm thấy có chút bất ngờ.
“Vâng, em đã gặp trên con đường núi.”
“Ông ấy có nói gì với em không?”
“Ông ấy khuyên em nên trở về sớm, có những chuyện không nên đi tìm câu trả lời. Nhưng ông ấy làm sao hiểu được nổi giày vò trong tâm trí em? Mà cứ cho là em nghe theo ông ấy, thì bây giờ cũng chẳng đi được.” nói đến đây cậu thở dài, “hòa thượng Đức Bình sợ em buồn nên đã tặng em con chim này, để em nuôi cho khuây khỏa.”
“Chu Vĩnh Quý –ông chủ cửa hàng ở bến thuyền hôm trước ấy –chết tối qua rồi, cậu biết không?” La Phi vừa nói vừa nhìn xem phản ứng của người đối diện thế nào.
“Em biết.” Mông Thiếu Huy nghe đến chủ đề này, mặt mày trở nên rầu rĩ, tay buông xuống thõng thượt, “Hình như vụ việc này cũng lại có liên quan đến việc em đến đây thì phải? Em cảm thấy rất mâu thuẫn, em cũng cảm nhận được rằng, lời giải mà em đang đi tìm, có lẽ đáng sợ hơn rất nhiều so với điều em tưởng tượng! Phải rồi, cảnh sát La Phi à, thế anh đã có phát hiện gì mới chưa?”
La Phi đem tình hình anh tìm hiểu được hôm nay kể qua một lượt, nhưng cũng chỉ là kể lại những điều tai nghe mắt thấy, chứ không thêm vào bất cứ suy luận hay phỏng đoán chủ quan nào.
Mông Thiếu Huy chăm chú lắng nghe, lúc thì sợ hãi, lúc thì hoang mang. Cuối cùng, cậu đã hiểu ra: “Người phụ nữ ôm con giống với người phụ nữ trong giấc mơ của em. Lẽ nào đó chính là mẹ em? Mà cứ cho là như thế đi, đã mười tám năm trôi qua, sao bà ấy vẫn còn xuất hiện được nhỉ? Trừ phi… trừ phi đó đúng là… ma quỷ? Cảnh sát La Phi, anh thấy thế nào?”
“Trước khi tìm được chứng cứ xác thực, mọi suy đoán chủ quan đều không có giá trị.” –La Phi nhấn mạnh, tôi cần tìm một nơi yên tĩnh nào đó để suy nghĩ.
Thời gian còn lại của buổi chiều hôm nay, La Phi tự nhốt mình trong phòng, sau một hồi suy nghĩ nát óc mà không có tiến triển gì, anh cảm thấy hơi mệt mỏi, nên đã chuyển sang làm việc khác: lấy cuốn “Nguyên nhân và cách chữa trị bệnh mất trí nhớ” ra đọc.
Nội dung cuốn sách chia làm mấy phần chính: một là, mất trí nhớ tâm lý, chủ yếu lí giải những hiện tượng mất trí nhớ do các bệnh về tâm thần gây nên; hai là, mất trí nhớ sinh học, chủ yếu lí giải các hiện tượng mất trí nhớ do sự thoái hóa của chức năng não bộ gây nên; ba là, mất trí nhớ cơ học, chủ yếu lí giải các trường hợp mất trí nhớ do tổ chức não bộ bị chấn thương gây nên; ngoài ra còn có hiện tượng mất trí nhớ do lạm dụng thuốc chữa bệnh v.v…
Trong sách có để lại rất nhiều kí hiệu đánh dấu, trong đó nhiều nhất là kí hiệu gạch dưới. Có những chương mục gần như bị gạch chi chít, cho thấy sự cần mẫn của người đọc khi ấy. Lề giữa hai trang sách thỉnh thoảng cũng xuất hiện một vài ghi chú, nhìn vào kiểu chữ, thì đúng là bút tích của thầy lang Tiết.
Những nét gạch dưới có màu sắc và độ đậm nhạt khác nhau, chứng tỏ nó được gạch bằng nhiều loại bút và chia làm nhiều lần khác nhau. Điều thú vị là, những vạch có đặc điểm giống nhau lại không nhất thiết xuất hiện ở những phần tương đồng hay cận kề nhau, mà là một sụ giao thoa hỗn tạp, như thể không tuân theo bất cứ quy luật nào. Ngẫm nghĩ giây lát, La Phi đã hiểu được nguyên nhân nằm trong đó: những gạch dưới này không phải được đánh dấu trong khi người đọc còn đang học quyển sách này, mà là được đánh dấu trong lúc sử dụng cuốn sách. Chẳng hạn, đối với một căn bệnh đang đợi giải quyết, kiến thức mà anh ta cần dùng đến lại nằm phân tán ở các chương các phần khác nhau, vì thế anh ta đã dùng các loại bút đánh dấu cho từng nội dung tương ứng, để tiện cho việc lật đọc và tra cứu.
Với phát hiện này, tinh thần La Phi phấn chấn hẳn lên, trong đầu chợt lóe lên một ý nghĩ, anh lập tức đem ra thực hành: kiên nhẫn lật đọc từng trang những nội dung đã được đánh dấu, cuối cùng anh đã tìm được những dòng chữ có giá trị cho mình:
“Hiện tượng mất trí nhớ sinh học hay gặp nhất, cái mà chúng ta thường gọi là sự ‘đãng trí’. Hiện tượng này thường xảy ra ở trẻ em và người già. Đối với trẻ em, do đại não của chúng chưa phát triển hoàn toàn, nên bản thân nó vẫn chưa được trang bị chức năng trí nhớ tốt. Trên thực tế, những gì diễn ra trước năm tuổi về cơ bản sẽ không để lại bất cứ dấu vết nào trong đại não khi đứa trẻ đã trưởng thành. Còn đối với trẻ từ sáu đến mười tuổi, trí nhớ của chúng khá mù mờ và không ổn định. Ngay cả những việc khi ấy đã để lại cho chúng ấn tượng sâu sắc thì vẫn có khả năng xảy ra hiện tượng mất trí nhớ do một vài nhân tố ngoại cảnh nào đó gây nhiễu. Nguyên nhân thường gặp nhất là sự thay đổi về môi trường sống. Trong thời kì thơ ấu, nếu phải rời khỏi môi trường sống trước đây để bước vào một môi trường hoàn toàn mới, thì sự hiếu kì đặc biệt ở trẻ em sẽ khiến mọi thứ xảy ra trong môi trường chiếm lĩnh phần lớn không gian kí ức của chúng, do đó sẽ làm mai một dần ấn tượng mà những trải nghiệm trước đây đã để lại trên vỏ não.”
Đúng thế, đây chính là thứ La Phi đang tìm kiếm, mà mới chỉ là một đoạn trong đó, anh cần có nội dung toàn diện hơn.
Gạch chú thích của đoạn văn này là những vạch hình sóng được vẽ bằng bút máy mực đen cỡ ngòi to vừa. La Phi lên giây cót tinh thần tìm tất cả những chỗ có đánh dấu tương tự trong cuốn sách. Rất nhanh, anh lại phát hiện ra mấy đoạn sau:
“Kí ức hay trí nhớ về bản chất là những dấu tích của một phản ứng sinh hóa nào đó được lưu lại trên vỏ não. Do đó chỉ cần vỏ não tiếp nhận kích thích, thì sự xuất hiện hay mất đi của trí nhớ cũng có thể xảy ra không giống với sự thật. Chẳng hạn khi bị tự kỉ ám thị mạnh, người ta có thể lưu lại trong kí ức của mình những sự việc chưa từng xảy ra, ngược lại, cũng có thể đánh mất những kí ức mà trước đó họ có ấn tượng rất sâu sắc. Người nắm được thuật thôi miên có thể lợi dụng đặc điểm này để kiểm soát hành vi thường ngày của một người có tư duy hoàn toàn bình thường. Thường thì, người nào có ý chí nghị lực yếu hơn sẽ dễ bị ảnh hưởng của tự kỉ ám thị hơn, nhất là đối với trẻ em chưa hoàn toàn trưởng thành về mặt tâm lý.”
“Đối với việc xảy ra hiện tượng mất trí nhớ, còn có một kiểu giải thích khác. Vỏ não nguời có thể ví như từng cái kho chứa nhỏ, còn kí ức thì giống như hàng hóa được xếp một cách có thứ tự trong kho. Tuy nhiên, đôi khi kí ức mới xảy ra gần đây lại bị xếp nhầm vào ‘kho’ đã chứa ‘hàng hóa’ khác, nếu tình huống này xảy ra, thì kí ức trước đó sẽ bị mất đi. Trên thực tế, hiện tượng xung đột kí ức này vẫn xảy ra gần như thường xuyên, nhưng trong quá trình xung đột không phải lúc nào kí ức mới cũng chiếm ưu thế. Có những kí ức xưa cũ để lại dấu ấn sâu sắc trên vỏ não rất khó bị thay thế, nhưng kiểu kí ức này thường rất ít gặp, thay vào đó là những mảnh ghép kí ức mang hoạt cảnh nào đó. Nếu kí ức có liên quan bị mất đi, thì những mảnh ghép kí ức này cũng sẽ mất đi ý nghĩa logic của nó.”
“Lý thuyết về mảnh ghép kí ức trong năm nay đã thu hút được sự chú ý của khá nhiều học giả. Có rất nhiều bệnh nhân mắc bệnh về tâm lý đã bị giày vò bởi những mảnh ghép kí ức này. Trong đầu họ thường xuyên xuất hiện một cảnh tượng nào đó, cảnh tượng này khiến họ hoang mang hoặc lo sợ, nhưng họ lại không hiểu được ý nghĩa thực tế của những cảnh tượng này là gì, vì những kí ức có liên quan đến chúng đã bị mất. Nhưng những ảnh hưởng của sự việc thực sự đã xảy ra thì vẫn còn đó, vì thế nhiều người đã bị mắc vào hội chứng ép buộc, hoặc nảy sinh cố tật tâm lý không thể giải thích được, điều này khiến họ cảm thấy vô cùng khổ sở. Họ luôn luôn khao khát tìm lại những kí ức đã bị mất, nhưng sự tìm kiếm này là một hành vi mù quáng, vì chính họ cũng không biết rốt cục cái mà họ muốn tìm là gì, điều họ cần có lẽ chỉ là một sự giải thích hợp lí nào đó.”
“Một số thuốc có thể gây rối loạn chất bài tiết của vỏ não, từ đó phát sinh hiện tượng mất trí nhớ. Các loại thuốc thuộc nhóm này xin tham khảo phần hai của phụ lục sách. Cơ chế chữa bệnh của các loại thuốc này không giống nhau, hiệu quả và tác dụng phụ của chúng cũng khác nhau, sách này đã tiến hành phân loại khá chi tiết, để tiện bạn đọc tra cứu.”
La Phi lật tới phần phụ lục ở cuối sách, quả nhiên có một bảng tra cứu, liệt kê danh sách các loại thuốc có thể dẫn đến mất trí nhớ ở não người, tổng cộng lên đến cả trăm loại. Trong đó có bốn loại thuốc được gạch chân đánh dấu bằng cùng một kiểu vạch lượn sóng màu đen, có vẻ như chúng đã được thầy lang Tiết chọn ra một cách kĩ lưỡng. La Phi đọc kĩ phần giới thiệu về đặc điểm dược tính và dược lý của bốn loại thuốc này, phát hiện chúng đều có những đặc điểm giống nhau: tác dụng gây mất trí nhớ rõ rệt nhưng ít gây tổn hại đến các chức năng khác của cơ thể.
La Phi thở dài, gấp sách trầm ngâm. Anh vốn cứ nghĩ rằng việc Mông Thiếu Huy mất trí nhớ là do trận sóng thần gây nên, do đó cậu đã được thầy lang Tiết điều trị, nhưng phát hiện vừa rồi khiến anh không thể không lật ngược lại hoàn toàn những giả thiết trước đây của mình. Sự thực là, chính sự điều trị của thầy lang Tiết đã làm Mông Thiếu Huy bị mất trí nhớ, hơn nữa sự điều trị này hoàn toàn là có chủ đích.
Vậy thì, trong kí ức của Mông Thiếu Huy, rốt cục đã lưu giữ điều gì đáng sợ? Vương Thành Lâm, thầy lang Tiết, Chu Vĩnh Quý, cả những người còn ẩn náu trong bóng tối kia nữa, họ đã rời xa quê nhà, mai danh ẩn tích, thậm chí giết người phóng hỏa, điều mà họ nghĩ ra trăm phương ngàn kế để che giấu, rốt cục là cái gì?
Chương 15: Trò chơi của gió biển
Ăn tối xong, La Phi quyết định một mình ra ngoài đi dạo, hóng gió biển về đêm, những lúc như thế này giúp anh đầu óc tỉnh táo hơn. Tiện thể, anh đem trả Lý Đông cuốn sách vừa mới đọc xong.
Đến nhà Lý Đông đi ra, hai người họ lại ngồi chém gió một phen. La Phi cố gắng lái câu chuyện sang chủ đề về thầy lang Tiết, theo như miêu tả của Lý Đông, thì đây là một con người học rộng, nghiêm cẩn, nhân ái và khoan dung độ lượng. Là học trò, Lý Đông ít nhiều cũng được thừa hưởng những phẩm chất ấy của ông. Tuy không thu được manh mối nào có liên quan đến vụ án, nhưng cuộc nói chuyện lần này khiến anh rất vui vẻ thoải mái. Chuyện trò đến gần cả tiếng đồng hồ xong, La Phi mới đứng dậy cáo từ ra về.
Từ trong nhà Lý Đông đi ra, trời đã tối mịt. Do không thạo địa hình, nên khi về La Phi cố gắng tránh đi đường núi, anh chấp nhận đi đường vòng qua xóm trại ở dưới chân núi. Mặc dù mấy ngày nay nhiệt độ xuống sâu, nhưng bầu trời lại quang đãng dần. Trên đường đi, tiếng sóng rì rào, ánh trăng tươi đẹp. Nếu không vì hai vụ án xảy ra liên tiếp đã làm tâm trạng anh rối bời, thì quả thật La Phi rất muốn dừng chân để tận hưởng bầu không khí thư giãn này.
Mãi đi, La Phi đã đặt chân đến thôn nhà Phó Ngọc Trụ từ lúc nào không hay. Nhớ lại những gì được chứng kiến ban trưa, anh không khỏi có chút khó chịu trong lòng, bất giác ngẩng đầu nhìn về phía “Dốc quỷ ám”.
Nhưng lần này, ánh mắt anh như khựng lại, không hề nhúc nhích, cùng lúc anh hé miệng kinh ngạc, một vẻ mặt không thể tin được.
La Phi nhớ rất rõ phiến nhũ đá hình mỏ chim ưng mà Phó Ngọc Trụ đã chỉ cho anh xem sau buổi trưa, lúc đó phía trên phiến nhũ đá chỉ nhìn thấy một dải dây leo, không hề có cái mà Phó Ngọc Trụ hình dung là “chạc cây”. Nhưng hiện giờ, một cái chạc cây to xuất hiện lù lù, ánh trăng sáng rọi chiếu qua, khiến nó để lại một bóng đen ghê rợn trên vách núi.
Lẽ nào, đây chính là cái “cây ma” chỉ xuất hiện vào ban đêm còn ban ngày thì biến mất giống như Phó Ngọc Trụ đã nói?
Gió biển thổi qua vù vù, La Phi rụt cổ theo phản xạ, một cảm giác lạnh toát lan tỏa khắp người. Kể từ lúc đặt chân lên đảo Minh Trạch, anh đã nghe rất nhiều lần những lời đồn li kì cổ quái về “Dốc quỷ ám”, nhưng anh tuyệt đối không tin vào những thứ có năng lực siêu nhiên. Đối với những điều “ma quái”, anh chỉ suy nghĩ theo mấy hướng sau: hoặc là do ảo giác của người trong cuộc nảy sinh trong điều kiện cụ thể nào đó; hoặc là do có người cố tình bịa đặt, nói quá sự thật với ý đồ nào đó. Lần phá án “Quỷ không đầu” ở núi Nam Minh đã giúp anh kiên định lập trường này của mình. Nhưng giờ đây, điều vượt ra khỏi giới hạn của lẽ thường tình lại đang xuất hiện rành rành trước mặt, khiến anh không giải thích nổi.
Sau một hồi kinh ngạc, trong lòng La Phi cũng có đôi chút phấn chấn. Lần này tận mắt nhìn thấy, ít ra cũng đã chứng minh là Phó Ngọc Trụ đã không nói dối; vả lại có điều kiện đến tận hiện trường, càng là cơ hội tốt để giải mã những điều kì bí.
Có rất nhiều chuyện trên đời không thể chỉ dựa vào suy nghĩ mà có thể hiểu rõ được, đối với những việc nghĩ mãi không ra, thì cách tốt nhất là tạm gác qua một bên, kiên trì nghe ngóng. La Phi không những hiểu rõ nguyên lí này, mà lòng kiên trì và nghị lực của anh còn mạnh mẽ hơn người bình thường rất nhiều, vì thế anh lúc nào cũng nhìn thấy nhiều hơn những gì người khác nhìn thấy.
La Phi trước tiên đến nhà Phó Ngọc Trụ mượn một cái chăn bông và một chiếc ghế. Hai vợ chồng họ đã lên giường nghỉ, tuy không biết dụng ý của La Phi, nhưng họ vẫn rất hợp tác và đáp ứng yêu cầu của anh. Sau đó La Phi đem ghế ra chỗ tầm nhìn thoáng rộng bên ngoài nhà, ngồi một mình hướng mặt về “Dốc quỷ ám”, lặng lẽ nhìn cái chạc cây trên phiến đá hình mỏ chim ưng ấy.
Gió biển gào thét, thổi càng lúc càng mạnh, La Phi quấn chặt chăn lên người, chống lại cái gió rét của đêm khuya.
Đêm dài cứ thế trôi qua, anh gần như không để ý đến cái rét, cái đói và sự cô đơn nữa. Thỉnh thoảng anh lại đứng dậy đi vài bước, xua tan đi cơn buồn ngủ khó cưỡng. Nhưng ngay cả những lúc đó, ánh mắt anh vẫn không muốn rời mục tiêu trên dốc núi xa xa, anh quyết không để cho sự lơ là của mình mà bỏ lỡ mất khoảnh khắc “cây ma” biến mất.
Hôm sau lúc trời sáng, dân làng dậy sớm phát hiện thấy La Phi. Sau một đêm thức trắng, mắt anh thâm quầng, hốc mắt cũng lõm xuống, nhưng đôi mắt anh vẫn lóe lên thứ ánh sáng sắc nhọn. Hai tay anh vô thức cầm chơi một nhành cây mềm mại, trông giống như thứ cây leo trên dốc núi. Dân làng tò mò vây quanh, vừa nhìn con người “quái nhân” này, vừa bàn tán xôn xao.
Gió biển buổi sáng xen kẽ làn hơi nước biển trong lành phả vào mặt. La Phi hít thở thật sâu, mắt chợt sáng bừng, như anh đã dự đoán, một sự biến đổi nào đó trên dốc núi phía xa cũng đang lặng lẽ xảy ra.
Khoảng một nửa tiếng đồng hồ nữa lại trôi đi, La Phi đứng lên khỏi ghế, gạt chăn ra khỏi người, uể oải dãn gân cốt. Tuy thần sắc không được tốt lắm, nhưng khóe môi anh để lộ một nụ cười đầy vẻ mãn nguyện. Lúc này, ở phía trên phiến nhũ đá hình mỏ chim ưng, cái “cây ma” đã mất tăm tích, còn anh thì rõ ràng là đã quan sát được điều gì đó.
Điều nằm ngoài dự đoán của La Phi là, thu hoạch ngày hôm nay của anh không chỉ dừng lại ở đó.
Một cụ bà ngoài sáu mươi lại gần La Phi, nhìn anh vẻ đồng cảm: “Anh canh ở đây cả đêm à? Anh định đợi con ma nữ ấy xuất hiện à?”
La Phi đưa tay xoa xoa cái mũi đã bị lạnh cứng, nói như đang lẩm bẩm một mình: “Ma nữ? Đúng là cháu cũng hi vọng nó xuất hiện.”
Bà cụ thở dài: “Mà anh đừng đợi cho mất công. Tôi biết anh là cảnh sát, nhưng anh cũng không bắt được nó đâu. Chỉ là nó nhớ con trai của nó thôi. Đợi mấy ngày nữa thằng bé ấy đi rồi, nó sẽ không xuất hiện trở lại quấy rầy nữa đâu.”
“Bà nói thằng bé nào cơ?” La Phi lúc đầu tưởng bà ta chỉ là một người dân đến xem, bây giờ nghe bà ta nói mới thấy không phải đơn giản, liền tỏ ra cảnh giác.
“Chính là thằng bé đi cùng với anh ấy. Tôi nghe Tôn Phát Siêu nói, nó là con của Vương Thành Lâm hả? Thật là, đi thì đi luôn cho rồi, còn quay lại làm gì cơ chứ? Mấy ngày nay trên đảo lại mất ăn mất ngủ vì nó.”
“Chẳng phải tại mẹ đứa trẻ không muốn rời xa hay sao?” –bà cụ nheo mắt, bộ dáng rất chi là đắc chí, “Lúc đó Phó Ngọc Trụ nói đã nhìn thấy bóng đen là một phụ nữ ôm con, nhưng người trên đảo không ai tin, chỉ có tôi là trong lòng rõ hơn ai hết. Người phụ nữ bế con, ngoài vợ Vương Thành Lâm ra thì còn ai vào đây? Bà ấy mặc dù bị nước biển nhấn chìm chết rồi, nhưng trong lòng không quên được đứa con trai lớn, nên mới ở trên dốc núi nhìn về xóm làng, không muốn rời xa. Sau đó tôi có nói với Vương Thành Lâm, sau khi ông ấy đem con rời khỏi đảo, chẳng phải là cái bóng đen ấy đã không xuất hiện nữa hay sao? Bây giờ con trai bà ấy trở về, phận làm mẹ đương nhiên là bà ấy phải xuất hiện rồi. Tối qua tôi đã nói điều này với Phó Ngọc Trụ, ông ấy gật đầu lia lịa đấy.”
La Phi gãi đầu thất vọng, những lời bà ta vừa nói hiển nhiên không phải là câu trả lời mà anh muốn nghe. Nhưng không vì thế mà anh bỏ cuộc, anh hỏi: “Bà có chơi thân với nhà ông Vương Thành Lâm không?”
Bà cụ lắc đầu: “Xóm núi gia đình họ sinh sống lúc bấy giờ là nơi thấp nhất trên đảo, sóng thần ập đến một cái là đã nhấn chìm toàn bộ. Ngoại trừ Vương Thành Lâm bữa đó không có mặt trên đảo thì người duy nhất trong xóm núi còn sống chính là thằng bé đó. Vì thế mà những người quen biết gia đình họ đều lần lượt đi gặp Diêm Vương cả. Nhưng dạo có sóng thần tôi cũng đã gặp thằng bé này rồi, nên ấn tượng khá sâu sắc.”
“Vậy à?” –La Phi lại thấy có hứng thú. “Bà gặp nó ở đâu?”
Bà cụ nhếch miệng, như thể đang chìm vào kí ức, một lát sau, bà tiếp tục kể với giọng thương xót: “Khi ấy tôi chạy lên một mỏm núi, trông thấy thằng bé ngồi trên chiếc bè của Thường Kiến. Khóc hoài đòi mẹ, khóc xé ruột xé gan, đến người dưng nước lã như tôi mà còn phải xót xa, thì hỏi người mẹ đứa trẻ làm sao mà đành lòng cho được?”
“Thường Kiến? Người này còn ở trên đảo không” La Phi đã tóm được một manh mối là không muốn bỏ qua.
“Có, nhưng bây giờ đã xuất gia làm hòa thượng rồi.”
“Một cái tên dường như cứ thế buột ra từ miệng La Phi: “Đức Bình?”
Bà cụ gật đầu xác nhận: “Kể ra ông ấy còn là ân nhân cứu mạng của thằng bé.”
“Thế trên chiếc bè đó còn người nào khác nữa không?” La Phi không muốn bỏ qua bất cứ chi tiết có giá trị nào.
“Không còn ai khác, chỉ có hai người họ.” bà cụ chép miệng, “Cái bè đó rất bé, vốn cũng chẳng chở được nhiều người.”
Lúc này La Phi đã không nén nổi sự hưng phấn trong lòng. Có được phát hiện quan trọng như vậy, anh quên là mình cả đêm đã không nghỉ ngơi, tìm thẳng đến chỗ hòa thượng Đức Bình.
Lúc La Phi có mặt tại ngôi miếu thờ nằm khuất trong bụi cây, thì thầy trò hòa thượng Đức Bình đang ngồi thiền trong căn phòng thứ hai, quan tài vẫn đặt ở giữa phòng, bên trong quan tài là thi thể đã bị tổn thương của Tiết Hiểu Hoa.
Cảm thấy có người đến, Đức Bình mở mắt, ngạc nhiên: “Cảnh sát La Phi?”
La Phi mỉm cười, gọi bằng tên thật: “Thường Kiến.”
Đức Bình hiển nhiên là không kịp phản ứng trước sự thay đổi này, ông sững người ra vì bất ngờ, phải một lúc lâu sau mới định thần trở lại, khẽ thở dài một tiếng, rồi mới quay sang bảo Huệ Thông: “Con ra ngoài một chút đã.”
Huệ Thông ngoan ngoãn vâng lời đi ra. Nét mặt cậu ta thậm chí trông như được giải phóng, như thể không muốn ở lại đây từ lâu rồi.
“Xem ra anh đã biết một vài chuyện?” Đức Bình lúc này đã lấy lại được bình tĩnh.
“Vâng. Nhưng những gì tôi biết vẫn còn chưa đủ.” Giọng nói của La Phi như đang muốn truy bức người khác, “Phần còn lại nhờ thầy nói cho tôi biết.”
Đức Bình chỉ cười nhạt: “Nhưng tôi đâu có biết là anh đang muốn nói đến điều gì?”
“Được rồi.” La Phi không còn hứng thú với trò mèo vờn chuột, “Là chuyện thầy đã cứu sống Mông Thiếu Huy trong trận sóng thần, tôi muốn thầy nói cho tôi biết, khi ấy đã có chuyện gì xảy ra với Mông Thiếu Huy?”
Nghe La Phi nói vậy, Đức Bình càng tỏ ra nhẹ nhõm hơn, ông hỏi lại La Phi: “Chắc anh đã gặp bà Tôn rồi đúng không? Thế thì những gì tôi biết, hẳn là bà ấy đã nói hết với anh rồi.”
La Phi nhận thấy mình đang gặp một đối tượng không dễ đối phó, những lời nói của ông ta nghe thì có vẻ rất dửng dưng, nhưng kì thực lại đang có ý định xoay chuyển tình thế đối thoại, dồn anh vào thế bị động. Trầm ngâm giây lát, La Phi quyết tâm đưa tình thế câu chuyện trở lại dưới quyền kiểm soát của mình. Vì thế anh vào thẳng chủ đề: “Tại sao Mông Thiếu Huy lại có mặt trên bè của thầy? Đáng ra cậu ta phải ở cùng với mẹ mới phải, lúc đó mẹ cậu ta đi đâu?”
“Tôi làm sao biết được?” hòa thượng Đức Bình vẫn giữ thái độ bình thản, “Chả lẽ lúc cứu người mà còn phải bận tâm đến nhiều chuyện như thế sao? Lúc tôi phát hiện ra Mông Thiếu Huy, cậu ta đang ôm một tấm ván vùng vẫy trên biển, còn tung tích của mẹ cậu ta, thì trước giờ chưa có người nào biết.”
Đức Bình nói có lí, rất khó phản bác. La Phi quyết định tạm thời tiếp cận bằng một hướng khác: “Vậy sao thầy lại muốn giấu giếm việc mình đã cứu Mông Thiếu Huy? Thầy đã biết mục đích đến đảo Minh Trạch của cậu ta, sao không nói cho cậu ta biết? Chả lẽ điều này lại không giúp ích gì cho cậu ta sao?”
“Nhưng sự giúp đỡ như vậy phỏng có ích chi?” trước câu hỏi của La Phi, Đức Bình cũng nghiêm mặt trả lời, “Anh là một cảnh sát, có bản năng đi tìm sự thật và khám phá bí mật. Còn tôi thì không hứng thú với điều đó, là một kẻ xuất gia, cái mà tôi quan tâm là nỗi khổ của người đời. Cảnh sát La Phi, anh đã từng chứng kiến một đứa trẻ gặp bi kịch bao giờ chưa? Anh có biết là đối với một đứa trẻ, thì có một thứ bi kịch mà chúng sẽ ghi sâu trong lòng, rất khó chịu đựng không?”
La Phi nhất thời không biết phải trả lời ra sao, đành lặng im không nói gì.
Đức Bình càng nói càng nói càng lộ vẻ xúc động: “Xem ra anh không biết thì phải. Vậy để tôi nói cho anh biết nha, đó chính là sự sinh tử chia ly với người mẹ. Với một đứa trẻ bảy tuổi, liệu còn gì đau xót hơn, thảm thương hơn? Tôi đã tận mắt nhìn thấy điệu bộ cậu ta khóc lóc, cảnh tượng ấy khiến tôi đến giờ vẫn thấy nhói lòng. Nếu như cậu ta đã quên đi mọi thứ, thì tại sao chúng ta lại muốn cậu ta phải nhớ lại? Để cậu ta một lần nữa bị tâm trí giày vò?”
La Phi chỉ im lặng thở dài, rồi đổi giọng nói: “Thầy nói cũng có lý, tôi hi vọng đây là những lời tâm can của thầy. Nhưng hiện nay trên đảo liên tiếp xảy ra án mạng, tôi buộc phải tìm ra sự thật, đưa hung thủ vào vòng pháp luật.”
“Không có hung thủ nào hết.” Đức Bình nói một cách nhỏ nhẹ, nhưng giọng nói thì không thể phản bác, “Đó chỉ là bà ấy đang bảo vệ người thương yêu nhất của mình mà thôi.”
“Thầy muốn nói đến con ‘ma nữ’ đó? Chả lẽ thầy cũng tin vào chuyện này sao?” La Phi nhìn hòa thượng Đức Bình vẻ ngạc nhiên.
“Anh quên rồi à, tôi là một kẻ xuất gia, tại sao lại không tin vào những chuyện ma quỷ chứ? Vả lại, nếu không tin vào chuyện này, thì đối với một số việc đã xảy ra, liệu anh còn có cách giải thích nào khác hợp lí hơn không?” Đức Bình vừa nói vừa nhìn ra ngôi mộ đứng cô độc bên ngoài, nhoẻn một nụ cười khó hiểu.
“Có những việc nhìn bề ngoài đúng là không thể giải thích được, đó chẳng qua là những gì chúng ta tìm hiểu được vẫn còn quá phiến diện, hoặc là do chúng ta bị một số ấn tượng giả làm cho hoang mang. Nếu chịu khó quan sát tỉ mỉ và phân tích nghiêm túc thì cuối cùng đáp án cũng sẽ phải lộ ra.” La Phi kiên định với niềm tin khoa học của mình, anh lấy ví dụ, “Như vừa nãy, tôi đã phát hiện ra một điều rất kì diệu, phát hiện này có thể giải đáp một vài nghi vấn.”
“Là gì thế?” Đức Bình nheo mắt, chăm chú nhìn La Phi.
“Một bí mật liên quan đến ‘Dốc quỷ ám.’ La Phi ngừng lại giây lát, rồi tiếp tục câu chuyện, “Theo như lời đồn, bóng đen trên ‘Dốc quỷ ám’ chỉ xuất hiện vào ban đêm, ban ngày thì biến mất, rất có thể đây chỉ là một hiện tượng bình thường, chả liên quan gì đến chuyện ma quỷ.”
“Anh tìm được nguyên nhân trong đó rồi hả?”
“Nói ra kể cũng rất đơn giản, đó chỉ là do các dây leo trên dốc núi tạo nên mà thôi. Những cây dây leo này sẽ dịch chuyển theo hướng gió biển. Tùy theo hướng gió khác nhau mà có lúc chúng che khuất một vài thứ, có lúc lại để lộ ra những thứ bị che khuất. Cách đây không lâu, tôi đã tận mắt quan sát thấy các dây leo lắc lư đã che khuất một chạc cây như thế nào. Nếu như vào mùa hè, cành lá xum xuê, che khuất một người cũng không thành vấn đề.”
“Thế ư?”
La Phi tiếp tục giải thích: “Gió biển ở trên đảo rất mạnh, mà ‘Dốc quỷ ám’ lại nằm ở một khe núi, nên cây cối trên vách núi sẽ phải chịu một lực gió thổi mạnh hơn. Những cây dây leo mảnh mai đó không đủ sức chống chọi với gió biển, vì thế tổ chức cành nhánh của chúng rất chi mềm dẻo, có độ đàn hồi lớn, nhờ đó mà chúng có khả năng tự bảo vệ mình trong các trận cuồng phong. Đêm qua, tôi đã lên núi lấy một ít mẫu vật dây leo để kiểm nghiệm phỏng đoán của mình. Nhưng mặc dầu vậy, tôi vẫn kiên trì đợi cho đến khi trời sáng mặt trời mọc, để tận mắt chứng kiến hiện tượng tôi mong đợi đó diễn ra.”
Hòa thượng Đức Bình chăm chú lắng nghe, trong ánh mắt dần xuất hiện vẻ ngưỡng mộ, có khi còn xen lẫn chút sợ hãi. Nhưng ông không dễ dàng bỏ qua, mà tiếp tục đặt ra câu hỏi của mình: “Cứ như anh nói, hoàn toàn là do sức gió, vậy tại sao lại kiểm soát được độ chính xác như vậy? Hơn nữa hiện tượng xảy ra ban ngày và ban đêm lại hoàn toàn khác nhau?”
“Đó là hiệu ứng gió biển-lục địa.” La Phi đã lường trước được tình huống này, anh trả lời ngay mà không cần phải suy nghĩ, “Loại gió này xuất hiện ở khu vực giáp ranh giữa biển với đất liền, cũng chính là hoàn lưu chung và hoàn lưu cục bộ của khí quyển với chu kì 24 giờ. Thầy quanh năm sống ở trên đảo, chắc hẳn có kinh nghiệm thực tế hơn tôi; còn tôi, tôi hiểu về khoa học, nên chỉ có thể giải đáp từ góc độ lý thuyết. Theo khí tượng học, thí gió biển-lục địa là do sự khác biệt về nhiệt lực giữa đất liền và biển tạo nên, do đất liền có dung lượng nhiệt khá thấp, nên sự biến đổi nhiệt độ của nó diễn ra nhanh hơn nhiều so với biển. Ban ngày, dưới sự chiếu xạ của mặt trời, đất liền tăng nhiệt độ nhanh hơn biển, vì thế hình thành nên sự chênh lệch về nhiệt độ và áp suất giữa khí quyển trên biển và đất liền, khiến tầng khí quyển thấp dịch chuyển từ biển vào đất liền, tạo nên gió biển, còn tầng khí quyển cao thì dịch chuyển từ đất liền ra biển, tạo nên gió ngược chiều với gió biển, chúng kết hợp với luồng khí tăng trên đất liền và luồng khí giảm trên biển tạo nên hoàn lưu cục bộ của gió biển-lục địa. Tương tự, vào ban đêm, đất liền hạ nhiệt độ nhanh hơn biển, giữa biển và đất liền hình thành nên sự chênh lệch về nhiệt độ và áp suất hoàn toàn ngược lại so với ban ngày, do đó sẽ tạo nên hoàn lưu cục bộ hoàn toàn ngược lại với ban ngày. Tôi không biết liệu thầy có hiểu hết được logic trong vấn đề này không, nhưng đó chính là khoa học. Còn hiện tượng kì quái khiến người ta khó hiểu đó thực ra chỉ là một trò chơi của gió biển đối với chúng ta mà thôi.
Đức Bình ngẩn người ra một hồi lâu, lời giải thích của La Phi từ sự thực đến lí thuyết đều đâu ra đấy, dường như không có bất cứ sơ hở nào. Mặc dù chưa chịu khuất phục cho lắm, nhưng ông đành phải chuyển chủ đề, lái câu chuyện sang một hướng khác: “Nhưng mà thế thì giải thích thế nào về người phụ nữ ôm con trên dốc núi? Bà ta rốt cục là người hay ma? Tại sao lại xuất hiện ở nơi đó? Hơn nữa lại gián đoạn mười tám năm trời? Nếu bà ta là người, thì bà ta là ai? Mười tám năm nay bà ta đã đi đâu?”
“Chuyện này tôi tạm thời cũng không thể giải thích được.” La Phi kiên định nhìn Đức Bình, “Nhưng tôi nhất định sẽ tìm ra lời giải.”
“Được rồi.” Đức Bình thở dài, quyết định không đối đầu với La Phi nữa, “Trước cùng một sự việc, anh có phương pháp của anh, tôi có phương pháp của tôi… Tối nay tôi sẽ làm lễ cúng, cầu khấn cho vong linh của những người nằm dưới mộ, cầu mong cho họ được bình yên.”
“Tôi muốn bày tỏ lòng thành kính của mình với những người đã khuất. Nhưng…” La Phi nói thẳng ra, “Tôi không cho rằng đây sẽ là một phương pháp tốt.”
“Chưa thử, làm sao mà anh biết được là không có hiệu quả? Biết đâu sau đêm nay, mọi thứ sẽ chấm dứt.” Đức Bình thủng thẳng nói, như đang suy nghĩ điều gì đó.
Chương 16: Mê họa tri âm
Hơn 10 giờ sáng, La Phi trở về chỗ trọ.
Tôn Phát Siêu đã chuẩn bị xong bữa trưa, thấy La Phi về, ông vội chào đon đả từ trong bếp ra: “Chà chà, cảnh sát La Phi, anh đi đâu thế? Làm tôi lo lắng suốt đêm… Sao sắc mặt trông chán thế? Không phải đã xảy ra chuyện gì đấy chứ?”
Mông Thiếu Huy nghe thấy có tiếng động, cũng ra ngoài sân, tuy không nói gì, nhưng hai mắt nhìn như dán vào anh, ánh mắt chứa đầy vẻ quan tâm.
La Phi thấy hai người họ tình cảm chân thành, không khỏi có chút cảm động, anh lấy lại tinh thần trả lời: “Không sao, không sao, chỉ là do phát hiện được một vài manh mối nên không kịp về nhà nghỉ ngơi thôi.”
“Cả đêm chưa ăn gì à? Để tôi hâm lại cháo buổi sáng cho anh lót dạ cái đã. Giỏi thật, cứ làm như mình đồng da sắt không bằng, sao mà chịu nổi chứ?” Tôn Phát Siêu vừa nói vừa bắt tay vào làm luôn.
“Cảnh sát La Phi, vừa rồi anh bảo có chút manh mối? Là cái gì vậy” Mông Thiếu Huy ngồi xuống trước bàn ăn cùng La Phi, hỏi với vẻ mong đợi.
La Phi trầm ngâm giây lát: “Thế này vậy, em cứ vào phòng đi. Lát nữa anh gặp, mình nói chuyện tỉ mỉ hơn.”
Mông Thiếu Huy gật đầu, đi vào phòng. Lát sau, Tôn Phát Siêu đã đem ra một bát cháo khoai lang nóng hổi, La Phi húp một hơi cùng với dưa muối, cảm thấy như có một luồng khí ấm lan tỏa khắp thân người, thể lực cũng hồi phục rất nhiều.
La Phi không trả lời ngay câu hỏi của Mông Thiếu Huy, một phần cũng là do chịu ảnh hưởng của Đức Bình. Anh bắt đầu suy nghĩ liệu có cần thiết đem kể hết những gì mình biết cho Mông Thiếu Huy hay không, biết đâu điều này có thể giúp cậu ta cởi được nút thắt trong lòng, nhưng cũng có thể khiến cậu ta đau khổ hơn. Sau một hồi cân nhắc, La Phi vẫn cảm thấy cấn cá. Lúc này, anh cảm thấy, giữa mình và Mông Thiếu Huy cần có thêm một cuộc tâm giao ở mức độ sâu sắc hơn.
Với suy nghĩ như vậy, húp hết bát cháo xong, La Phi đến phòng của Mông Thiếu Huy.
Cậu đang ngồi trước bàn đọc sách, đang chú tâm vào làm việc gì đó, đến mức La Phi vào phòng mà cũng không biết. La Phi bước nhẹ lại gần sau lưng cậu, thì thấy cậu đang ngửa bàn tay trái ra, mấy ngón của bàn tay phải đang vê miếng khoai lang đặt trên lòng bàn tay trái thành từng mảnh nhỏ li ti.
Mông Thiếu Huy lúc này cảm nhận thấy có La Phi trong phòng, ngoảnh đầu lại nhìn, sau đó mỉm cười chỉ tay vào ‘tô đựng canh’ để trên bàn, nói với La Phi: “Anh xem, đây là tác phẩm của em làm đấy, anh thấy thế nào?”
La Phi nhìn theo tay, không nhịn được cười. ‘Tô đựng canh’ được lót một lớp cọng cỏ khô rất gọn gàng, làm thành một cái tổ chim nhân tạo. Con chim biển nhỏ Mông Thiếu Huy đem về hôm qua đang nằm nhắm mắt trong tổ, chốc chốc lại vươn dài cổ ra, chân đạp đạp, dáng vẻ vô cùng mãn nguyện.
“Cái tổ này em làm cho nó từ sáng sớm, cũng ấm áp đấy chứ.” Mông Thiếu Huy vừa nói vừa nhón một mẩu khoai lang đưa lên gần miệng chim con, cu cậu lập tức bành cổ ra đớp nhẹ lấy mồi ăn.
Mông Thiếu Huy lấy đầu ngón tay xoa nhẹ lên thân hình mềm yếu của chú chim, thái độ cử chỉ đầy vẻ âu yếm.
“Em có vẻ rất thích những con vật nhỏ?” La Phi hỏi.
“Em rất đồng cảm với nó.” Mông Thiếu Huy thong thả trả lời, “Bé thế này mà mẹ nó đã bỏ rơi nó, thật đáng thương, anh biết con Kaka chứ, nó cũng từng là một con mèo con bị bỏ rơi…”
La Phi thấy trong lúc nói chuyện Mông Thiếu Huy tỏ ra rất đau lòng, bỗng chợt nhận ra, tâm trạng này của cậu là do có cùng cảnh ngộ. Quả nhiên, sau khi nói xong, cậu ngoảnh đầu nhìn về phía xa, trong ánh mắt giàn giụa hàng nước mắt.
La Phi nhìn theo ánh mắt của cậu, trên mặt bàn ở đầu giường, có bày một cuộn tranh, trên đó có ghi lại giấc mơ mà Mông Thiếu Huy đã miêu tả.
Ánh mắt La Phi cũng dừng lại ở cuốn tranh rất lâu, anh biết rằng, đây là một hoạt cảnh để lại ấn tượng sâu sắc trong kí ức của Mông Thiếu Huy, cậu gần như quên hết mọi chuyện trong quá khứ, duy chỉ có mảnh ghép kí ức này là trước sau không thể nào quên được. Nhưng trong tình huống bị mất mối liên hệ với kí ức trước và sau đó, ai mà còn có thể lí giải được mảng kí ức này rốt cục nói lên điều gì?
La Phi không am hiểu nhiều về hội họa, nhưng anh tin rằng bức tranh này xét về bút lực và thủ pháp nghệ thuật đã đạt đến một trình độ khá cao. Vì trên bức tranh đường nét tuy không nhiều, nhưng chỉ vài nét bút thôi mà đã có thể khắc họa lên động tác và thần thái như thật của nhân vật, đứa trẻ ở bên trái, cũng chính là Mông Thiếu Huy hồi còn nhỏ, nó đang dang rộng hai tay, lấy hết sức vươn mình về phía trước, dáng vẻ như đang lao vào lòng người phụ nữ đối diện, cũng chính là mẹ của cậu. Nó khẽ há miệng, như đang kêu gào gì đó, lông mày nó chau lại vẻ đau thương, đôi mắt đen nhánh cũng lóe lên tia sáng thê lương. Vẻ mặt của nó rất chi là có hồn, đến mức trong lúc La Phi đang chăm chú nhìn vào nó, thì bên tai nghe như văng vẳng tiếng khóc thót tim. Cùng lúc, một câu hỏi cũng chợt đến trong đầu La Phi: Khi một đứa trẻ đang lao vào vòng tay người mẹ của nó, tại sao thần sắc nó lại đau khổ như vậy?
Ánh mắt La Phi khẽ đưa sang nhìn người phụ nữ ở bên phải bức tranh, hi vọng có thể tìm được câu trả lời ở chỗ bà ta, đây chính là mẹ của Mông Thiếu Huy sao? Trên bức tranh không thể nhìn thấy mặt bà ta, có phải là do tác giả đã quên không vẽ khuôn mặt? Tay trái bà ta vòng hờ trước ngực, tay phải thò ra phía trước, chỉ về hướng đứa trẻ ở bìa trái, bà ta đang định bế đứa bé vào lòng ư? Nhìn một cách tổng thể, thì giả thiết vừa rồi là hợp lí nhất, nhưng La Phi lại chau mày, anh ngầm nhận thấy có điều gì đó không ổn, cụ thể là cái gì, thì tạm thời chưa nói ra được.
La Phi nhìn dán mắt vào cảnh tượng trong bức tranh, suy nghĩ cũng càng lúc càng tập trung hơn, dần dần, anh dường như đã hòa quyện vào trong bức tranh, anh cảm giác như mình đã biến thành đứa trẻ trong bức tranh, anh đưa mắt nhìn từ góc độ của đứa trẻ, trong chốc lát mọi thứ như biến mất, anh chỉ còn nhìn thấy một cánh tay –cánh tay của người mẹ.
Cánh tay đó ở ngay trước mặt anh, chỉ cách anh trong gang tấc, nhưng tại sao trong lòng anh lại không hề có cảm giác mong đợi sự ấm áp, trái lại còn tràn trề đau thương và tuyệt vọng?
Có thể diễn xuất quá “nhập vai” nên cơ thể La Phi bất giác khẽ run lên, anh cảm thấy một nỗi sợ hãi không tên ập đến, gần như cùng lúc, vài bí ẩn đã được mở ra trong đầu anh. Anh hít thở thật sâu, đưa tâm trạng tữ cõi giả tưởng của mình trở về với hiện tại, sau đó anh nhìn Mông Thiếu Huy xúc động nói: “Tôi biết rồi! Tôi biết là em đang sợ hãi điều gì rồi!”
Người Mông Thiếu Huy run lên bần bật: “Không, không thể nào! Anh biết được gì cơ? Anh chẳng biết được gì cả!”
La Phi biết Mông Thiếu Huy hiểu rõ hơn ai hết, chẳng qua trong lòng không muốn chấp nhận mà thôi, vì thế anh không ngần ngại nới hết ra nhận định của mình: “Bàn tay, chính là cái bàn tay của mẹ em! Tại sao em lại vẽ bàn tay ấy yếu ớt đến như vậy? Các ngón tay thì khép lại và cong, thậm chí lòng bàn tay còn úp xuống. Điều này hoàn toàn trái ngược với hình dạng bàn tay năm ngón xòe ra, trông đầy sức sống của em, tại sao lại như vậy?”
Mông Thiếu Huy không nói gì, môi cậu run run, rõ ràng là La Phi đã nói đúng tim đen của cậu.
“Vì mẹ em không muốn ôm em, trái lại, tay bà ấy vừa mới buông em ra và xa dần, xa dần. Mẹ em, bà ấy… bà ấy đang rời xa em…” tuy đang kể lại một sự việc không liên quan gì đến bản thân, nhưng không hiểu sao La Phi cảm thấy rất đau xót trong lòng, câu cuối cùng gần như được phát ra từ kẽ răng một cách khó khăn.
Mông Thiếu Huy lúc này đã không còn kiểm soát được cảm xúc của mình, cậu úp mặt vào hai bàn tay, nước mắt tuôn ra từ những kẽ tay, cùng lúc cổ họng phát ra những âm thanh nức nở.
La Phi lại gần, khẽ vỗ lên vai cậu, đợi cậu bình tĩnh trở lại, mới hỏi bằng một giọng hết sức mềm mại: “Tại sao thế? Tại sao bà ấy lại phải rời xa em?”
“Em… em không biết.” Mông Thiếu Huy ngẩng đầu nhìn La Phi, từ lúc bị La Phi đoán trúng tim đen, trong ánh mắt cậu càng thêm phần tin tưởng và có nhu cầu muốn giãi bày tâm sự, “Vâng, anh nói rất đúng. Trong giấc mơ đó, mẹ em đã bỏ rơi em đúng vào lúc em cần đến bà ấy nhất, bỏ mặc em một mình trong đêm tối, nhưng em không hiểu lí do tại sao. Em chỉ cảm thấy một nỗi sợ hãi và tuyệt vọng ghê ghớm, em bất chấp tất cả để đến hòn đảo này, mục đích cũng là để đi tìm nguyên nhân trong đó.”
La Phi im lặng giây lát, rồi an ủi: “Không, mẹ em không thể nào bỏ rơi em đâu. Bà ấy yêu thương em, điều này không cần phải nghi ngờ, người mẹ nào trên thế gian này cũng thế thôi. Nếu bà ấy thực sự rời xa em, thì chắc chắn là vì một nguyên nhân bất đắc dĩ nào đó. Giống như… giống như mấy hôm trước em đã rời xa người bạn gái của mình, nhưng em vẫn rất yêu cô ấy, đúng không? Đây không thể coi là bỏ rơi được.”
Ví dụ mà La Phi đưa ra hình như rất có hiệu quả, nhớ đến người bạn gái của mình, nét mặt Mông Thiếu Huy mềm mại hơn rất nhiều, ánh mắt thậm chí còn hé mở một nụ cười. Tiếp đó, cậu nói một cách đầy xúc động: “Anh nói hệt như cô ấy, hai người quả là có chỗ rất giống nhau.”
“Hai người? Em muốn nói đến ai?” La Phi nhất thời không hiểu ra làm sao.
“Là bạn gái em, Diệp Tử Phi. Anh với cô ấy dường như đều có một năng lực, có thể đi guốc trong bụng em.” ngừng lại giây lát, Mông Thiếu Huy tiếp tục, “Hơn nữa tính đến thời điểm này, chỉ có hai người là nhìn ra hàm ý ẩn giấu trong bức tranh em vẽ.”
“Thật sao?” La Phi không lấy gì làm lạ, mặc dù anh với Diệp Tử Phi mới chỉ gặp nhau có một lần, nhưng anh có thể cảm nhận được đó là một cô gái khá nhạy cảm. Cô và Mông Thiếu Huy đã có ngần ấy thời gian ở bên nhau, có những chuyện hẳn phải hiểu rõ hơn mình. Mà thôi, La Phi trộm nghĩ, nếu nói đến Diệp Tử Phi có thể làm cho tâm trạng Mông Thiếu Huy khá hơn, thì tội gì mà không tiếp tục khai thác chủ đề này.
“Cô ấy nhìn ra bằng cách nào? Cũng thông qua cánh tay đó à?” anh hỏi Mông Thiếu Huy.
“Chắc là thế. Cô ấy còn lợi hại hơn anh một chút, lần đầu tiên nhìn thấy bức tranh này cô ấy đã nhìn ra ngay.” Mông Thiếu Huy chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ, lạc vào miền kí ức, “Khi ấy là mùa hè ba năm về trước. Em có tổ chức một triển lãm tranh ở Thanh Đảo, bức tranh này cũng là một trong những bức được trưng bày ở đó. Tuy nhiên, rất ít người dừng chân ở bức tranh này, mà đó cũng chỉ là một phụ nữ bị vẽ thiếu mất khuôn mặt, có lẽ họ chỉ cảm thấy hơi lạ thôi nhỉ?
Buổi chiều ngày hôm sau, cô ấy đến. Thực ra lúc cô ấy vừa xuất hiện, em đã để ý đến cô ấy. Dĩ nhiên, một người con gái đẹp như cô ấy thì đi đến đâu mà chả thu hút mọi ánh nhìn. Em còn nhớ hôm đó cô ấy mặc một chiếc váy màu xanh nhạt, tóc tết bờm ngựa sau gáy, trông vừa thanh thoát lại xinh đẹp. Em bị cô ấy hớp hồn, ánh mắt lúc nào cũng hướng về chỗ cô ấy. Nhưng em không phải người giỏi giao tiếp, cái khoản tán gái thì càng dở tệ. Nếu không vì những chuyện xảy ra sau đó, thì có lẽ bọn em đến bây giờ vẫn không quen biết nhau.”
Nghe Mông Thiếu Huy rủ rỉ kể chuyện, vẻ mặt vô cùng mãn nguyện, La Phi không nỡ ngắt lời. Dáng vẻ của Mông Thiếu Huy khiến anh nhớ lại câu chuyện một thời của mình, trong lòng lại gợn lên một thứ cảm giác đan xen giữa đắng chát, hối tiếc và tuyệt vọng.
Mông Thiếu Huy không nhận ra được sự thay đổi tinh tế trong tâm trạng La Phi, nên cậu tiếp tục kể: “Cô ấy đi đi lại lại trong phòng triển lãm, thoải mái thưởng thức những tác phẩm của em, nhưng mãi vẫn không có bức tranh nào có thể thu hút được sự chú ý của cô ấy. Nhưng khi đến trước bức tranh này, cô ấy dừng lại rất lâu. Tim em bỗng nhiên đập “thình thịch”, tâm trạng em lúc đó rất chi là mâu thuẫn, một mặt em hi vọng cô ấy có thể nhìn ra điều gì đó; nhưng một cảm giác khác thì lại đang chạy trốn, lẩn tránh, mong sao cô ấy nhanh chóng rời khỏi chỗ bức tranh.
Nhưng cô ấy ẫn cứ đứng như trời trồng, nhìn dán mắt vào bức tranh. Dường như đối với cô ấy mọi thứ chung quanh đều không tồn tại, thỉnh thoảng có người đi ngang qua, nhìn cô ấy như vật thể lạ, bàn tán này nọ, nhưng cô ấy vẫn coi như không. Cứ như thế khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ trôi qua, em không nhịn được nữa, lấy hết can đảm lại gần cô ấy.
Cô ấy cảm nhận được em đang ở đó, ngoảnh đầu nhìn em, em ngạc nhiên khi phát hiện thấy hai hàng nước mắt trong veo lăn trên gò má cô ấy. Đúng thế, cô ấy đã khóc, cô ấy khóc mới lạ chứ! Đã bao nhiêu năm trời lần đầu tiên mới có người cảm nhận được quá khứ của em, hơn nữa còn xúc động rơi nước mắt vì điều đó. Trong nháy mắt, một luồng khí ấm dâng lên từ đáy lòng em, ứ đầy đến mức mắt em đỏ ửng, mũi em cay xè. Cô ấy cười gượng theo phép lịch sự với em, sau đó khẽ nói: “Đứa bé này tội nghiệp thật.”
Cho đến tận bây giờ em vẫn nhớ rõ thần thái và giọng điệu lúc cô ấy nói câu này, bức tường tình cảm trong lòng em đã hoàn toàn bị sụp đổ trước câu nói này, nước mắt cứ thế tuôn trào, cảm giác như cổ họng đang vướng rất nhiều thứ gì đó, nhưng lại không thể nói ra nửa lời. Mới đầu cô ấy ngạc nhiên, sau đó nhẹ nhàng nắm tay em. Cũng như mỗi lần anh đặt tay lên vai em, động tác đó khiến em cảm thấy vững tâm hơn rất nhiều. Sau đó em nói cho cô ấy biết em chính là tác giả của bức tranh, không chỉ có thế, em còn kể với cô ấy về giấc mơ và nỗi sợ hãi của mình, gần như là tất cả mọi thứ. Cô ấy lặng lẽ lắng nghe, em có thể cảm nhận được là cô ấy hoàn toàn thả mình vào thế giới tình cảm của em, cùng với em chịu đựng rất nhiều nỗi hoang mang, sợ hãi và đau thương. Từ hôm đó trở đi, cô ấy đã trở thành người quan trọng nhất trong cuộc đời của em.”
Khi câu chuyện sắp đến hồi hạ màn, căn phòng rơi vào im lặng. Mông Thiếu Huy vẫn còn đang nhớ lại những thời khắc gây xúc động lòng người, còn La Phi thì lại suy nghĩ miên man, trước mặt đang xuất hiện một cái bóng không xua đi được. Hồi lâu sau, anh thong thả thở dài một tiếng, rồi nói: “Nếu bây giờ để tôi lựa chọn, có lẽ sẽ không bao giờ tôi đưa em lên đảo Minh Trạch.”
“Tại sao?” Mông Thiếu Huy nhìn cậu vẻ khó hiểu.
“Vì có một người hiểu được mình, chia sẻ với mình mọi cảm xúc, thực sự là điều rất hạnh phúc, và cũng là điều không dễ gì có được. Nếu anh tìm được một người như vậy thì đừng nên dễ dàng chia tay.” nói đến đây, cậu im lặng giây lát, sau đó hạ thấp giọng, giống như đang tự nói với chính mình, “ Có điều là, người ta chỉ nhận ra điều này khi người ta đã đánh mất nó.”
Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!