XtGem Forum catalog
Tiểu thuyết tình yêu

Tiểu Thuyết Tình Yêu

Đọc truyện tại Tiểu Thuyết Tình Yêu

Loading...

Truyện ngôn tình - Bến xe - Trang 7

Full | Lùi trang 6 | Tiếp trang 8

Chương 13

Chiều ngày hôm sau, Liễu Địch đến văn phòng của thầy Chương.

Thầy Chương vẫn mặc bộ đồ ngày hôm qua, áo sơ mi màu mận và quần jeans màu xanh đậm. Thầy vẫn đeo cặp kính màu nâu trà đó. Không hiểu tại sao cách ăn mặc trẻ trung, đầy sức sống của thầy lại khiến căn phòng nhỏ vốn đơn giản, cứng nhắc bỗng trở nên rực rỡ.

Liễu Địch biết thầy Chương năm nay mới hai mươi tám tuổi. Chỉ là do cách ăn mặc, giọng nói và thái độ lạnh nhạt của thầy khiến người khác có cảm giác thầy đã trải qua trăm cuộc bể dâu. Từ hôm qua, Liễu Địch mới thật sự chú ý, thực ra thầy Chương còn rất trẻ.

Vừa bước vào văn phòng, Liễu Địch bắt gặp người thầy trẻ trung của cô đang tưới nước cho cây hoa nhài. Liễu Địch biết thầy Chương thích chậu hoa nhài này, nhưng thầy chưa bao giờ chăm sóc nó. Từ việc tưới nước, cắt tỉa, bón phân đều do Liễu Địch phụ trách.

Hôm nay, thầy Chương chủ động tưới nước cho cây. Thầy cầm một cái bình phun đơn giản, thái độ rất chuyên tâm. Nhưng nước vẫn phun ra ngoài một nửa. Liễu Địch không hề nghĩ ngợi, vội vàng đi đến, nói nhỏ: "Thầy Chương, để em làm cho!"

Thầy Chương lắc đầu. "Cứ để tôi làm. Từ giờ em không còn ở đây, dù sao tôi cũng phải học cách chăm sóc nó. Những ngày tháng sau này, chỉ có nó ở bên cạnh tôi."

Câu nói rất bình thản nhưng ẩn chứa thâm tình quyến luyến và cả sự bất lực. Liễu Địch cảm thấy vừa cảm động vừa chua xót. Tâm trạng tủi thân và không vui ngày hôm qua chỉ vì câu nói này mà hoàn toàn tan biến. Cô muốn nói điều gì đó nhưng cổ họng tắc nghẹn, không thể thốt thành lời.

Tưới nước cho cây xong, thầy Chương theo thói quen chỉ tay vào chiếc ghế đối diện, Liễu Địch liền ngồi xuống đó. Trên bàn có hai cốc trà nghi ngút khói. Không biết từ khi nào, thầy Chương bắt đầu có thói quen pha hai cốc trà. Liễu Địch cầm một cốc, mùi hương có vị đắng xộc vào mũi cô. Cô không uống trà mà quan sát một lượt căn phòng nhỏ mình đã gắn bó suốt ba năm qua. Bàn làm việc, ghế ngồi, bình giữ nhiệt, cốc trà, lọ mực đỏ, tập vở làm văn, chậu hoa nhài... Đều là những vật rất đỗi bình thường nhưng hôm nay chúng cũng nhuốm màu ly biệt. Bây giờ Liễu Địch mới hiểu vì sao những lúc rời xa quê hương, một cái cây, ngọn cỏ cũng gợi lên nỗi nhớ nhà. Mỗi đồ vật trong căn phòng này đều chứa đựng quá nhiều kỷ niệm, tích tụ quá nhiều tình ý.

Liễu Địch lại đưa mắt về phía thầy Chương. Mặc dù sắp chia tay nhưng thầy vẫn bình tĩnh và lạnh nhạt. Trên gương mặt thầy ẩn hiện nét trầm tư. Thầy ngồi yên lặng, lông mày hơi nhíu lại. Có mấy lần khóe miệng thầy động đậy, dường như thầy muốn nói chuyện nhưng cuối cùng lại không thốt ra lời.

Hai thầy trò ngồi im lặng trong văn phòng, trầm mặc cảm nhận nhịp đập của trái tim đối phương, lặng lẽ lắng nghe tiếng bước chân ly biệt đang chậm rãi tiến lại gần.

Đúng năm giờ, Liễu Địch dắt tay thầy Chương đi ra trạm xe buýt nhỏ.

Cây dương liễu vẫn rủ cành lá, đung đưa trong gió. Hoa đinh hương đã úa tàn từ lâu, chỉ còn lại những chiếc lá hình trái tim màu xanh lục. Biển báo đứng cô độc ở đó, đón hết chuyến xe này đến chuyến xe khác. Ánh mắt Liễu Địch dừng lại ở từng vật thể quen thuộc như muốn chào tạm biệt những người bạn cũ.

Ông mặt trời từ từ lặn xuống nhưng vẫn cháy rực giữa không trung. Liễu Địch chưa bao giờ nhìn thấy ánh tịch dương đỏ rực như vậy. Mặt trời như cố bùng cháy, cháy hết mình, tỏa ra chút ánh sáng huy hoàng cuối cùng, chiếu sáng thế giới mà nó yêu quý. Vầng mây trên cao được nhuộm màu vàng rực rỡ, xán lạn. Liễu Địch ngẩn ngơ ngắm nhìn cảnh mặt trời lặn, quên hết mọi chuyện xung quanh.

"Liễu Địch!" Thầy Chương đột ngột lên tiếng.

Liễu Địch giật mình, thần trí trở về hiện thực. "Chuyện gì vậy, thầy Chương?" Liễu Địch nhiệt tình hỏi thầy. Thực ra cả buổi chiều, cô chờ đợi thầy Chương nói với cô điều gì đó. Cô không muốn chia tay trong câm lặng.

"Liễu Địch!" Thầy Chương lại gọi tên cô, giọng thầy đứt quãng: "Em... em có thể cho tôi "ngắm" em được không?"

Liễu Địch ngây người. Thầy Chương muốn "ngắm" cô? Liễu Địch hiểu ý thầy ngay tức thì. Cô đột nhiên thấy hai má nóng bừng, tim đập thình thịch. Trước đề nghị bất ngờ của thầy Chương, cô thấy thẹn thùng và bối rối, không biết làm thế nào mới phải. Thầy Chương lặng lẽ đợi một lát. Sau đó, bờ môi đang mím chặt của thầy phát ra tiếng thở dài rất khẽ, rồi thầy từ từ quay người, xoay lưng về phía Liễu Địch.

Liễu Địch chợt rung động. Cô có thể nhận ra khao khát và yêu cầu của thầy qua giọng nói và tiếng thở dài mà thầy không muốn biểu lộ. Khao khát này rất mãnh liệt, yêu cầu này rất khó mở lời. Liễu Địch đột nhiên hiểu rõ, phải có dũng khí lớn đến mức nào thì thầy Chương mới đưa ra đề nghị này. Sao cô có thể cự tuyệt đề nghị của thầy được chứ? Nghĩ như vậy, Liễu Địch lặng lẽ đi đến trước mặt thầy Chương. Cô nhẹ nhàng nắm hai tay thầy, từ từ đặt lên đôi má đỏ bừng của mình.

Đôi tay thầy Chương run run. Sau đó, hai bàn tay thô ráp của thầy bắt đầu di chuyển từng chút một trên mặt Liễu Địch. Thầy vuốt mái tóc dài óng mượt của cô, vuốt ve bờ trán rộng, cặp lông mày thanh tú, đôi mắt trong như hồ nước mùa thu, sống mũi thẳng xinh xắn, bờ môi chúm chím, làn da nhẵn mịn, cái cằm thanh mảnh làm rung động lòng người... Thầy vuốt ve rất chậm, như muốn dùng cả trái tim để nắm bắt từng đặc điểm nhỏ bé nhất, cảm nhận từng đường nét thầy không nhìn thấy.

Liễu Địch đứng yên lặng, để mặc thầy khám phá gương mặt cô. Trong lòng cô dội lên sự cảm động khó diễn tả. Sau đó, cô cảm thấy đôi bàn tay thầy Chương trượt xuống dưới, đặt trên bờ vai mảnh khảnh của cô.

"Mọi người đều nói em là một cô bé xinh đẹp." Thầy Chương nói khẽ, giọng vô cùng dịu dàng.

Trong lòng Liễu Địch thoảng qua một cơn gió nhu tình. "Không!" Cô nói. "Bọn họ nói quá đấy thầy, em chỉ là một con vịt con xấu xí mà thôi."

Thầy Chương lắc đầu. "Em chắc chắn không phải là vịt con xấu xí, em là thiên nga trắng. Ít nhất trong lòng tôi, em mãi mãi là thiên nga trắng đẹp nhất."

"Thầy Chương!" Liễu Địch cảm động đến mức sống mũi cay cay, cổ họng tắc nghẹn. Viền mắt cô ươn ướt, gương mặt thầy nhòe đi.

Thầy Chương tiếp tục nói khẽ, giọng điệu bình thản của thầy ẩn chứa một tình cảm mãnh liệt không thể đè nén: "Tôi thật sự hy vọng... lúc này... đôi mắt tôi có thể bừng sáng, cho dù chỉ một phút. Một phút thôi cũng được, tôi nguyện dùng cả sinh mạng của mình để đánh đổi."

Đôi bàn tay thầy đặt trên vai Liễu Địch đột nhiên run rẩy. Thầy nắm chặt bờ vai Liễu Địch, hơi thở dồn dập, lồng ngực phập phồng. Sau đó, thầy bất ngờ kéo Liễu Địch vào lòng, đầu cô tựa vào vai thầy, hai cánh tay mạnh mẽ của thầy ôm chặt người cô.

Liễu Địch hoảng hốt, cô muốn giãy ra theo bản năng. Nhưng cô nghe tiếng trái tim tràn đầy sức sống đập thình thịch trong lồng ngực thầy Chương, nhịp đập đó như biểu lộ thứ tình cảm mãnh liệt và đẹp đẽ nhất. Liễu Địch ngẩng đầu nhìn thầy. Gương mặt của thầy vừa rồi vẫn còn xúc động, lúc này đã trở lại vẻ bình tĩnh thường lệ.

Liễu Địch không tài nào hiểu nổi, dưới vỏ bọc bình thản đó lại là một trái tim đập dữ dội như vậy. Cô thầm thở dài, ba năm qua, phần lớn thời gian thầy Chương đều là núi băng lạnh lùng, thầy đã che giấu rất kĩ trái tim nhiệt tình và nhạy cảm của mình. Nghĩ đến đây, Liễu Địch bất giác chủ động áp sát thân hình bé nhỏ vào lòng thầy Chương, đồng thời giơ hai tay ôm thắt lưng thầy.

Toàn thân thầy Chương run nhẹ. Hai thầy trò cứ như vậy, lặng lẽ dựa vào nhau, dùng cơ thể và tâm hồn để cảm nhận sự tồn tại của đối phương trong thời khắc cuối cùng trước khi chia tay.

Liễu Địch phát hiện nhịp đập của trái tim thầy Chương chậm lại. Cô từ từ chìm vào bầu không khí yên ả, đẹp đẽ này. Trong không khí đó, cô cảm thấy một thứ tình cảm tốt đẹp nhất, chân thành nhất, thuần khiết nhất vây quanh mình.

Xe buýt từ phía xa đi tới nhưng Liễu Địch không hề biết. Thầy Chương là người có phản ứng trước. "Liễu Địch, xe đến rồi." Nói xong, thầy liền buông hai tay. Liễu Địch giật mình, như bị kéo trở lại hiện thực. Cô đột nhiên cảm nhận một cách rõ ràng sự ly biệt.

Xe buýt chầm chậm tiến lại gần, cuối cùng dừng lại bên tấm biển báo. Liễu Địch đỡ cánh tay thầy Chương, bàn tay cô run rẩy, trái tim cô đau đớn, đến mức cô muốn khóc mà không khóc nổi. Thầy Chương vẫn giữ vẻ bĩnh tĩnh, gương mặt thầy thể hiện vẻ mãn nguyện và an ủi. Thầy chậm rãi bước lên xe, bình thản đi đến chỗ ngồi.

"Ding doong", cánh cửa sắt vô tình đóng chặt. Xe buýt bắt đầu chuyển bánh. Liễu Địch đứng bất động bên tấm biển báo, cô cũng không biết mình đang nghĩ gì. Sau đó, khi xe buýt vừa đi, thầy Chương đột nhiên ló đầu ra khỏi cửa sổ xe, vẫy tay với Liễu Địch.

Liễu Địch hoàn toàn sững sờ khi nhìn thấy nụ cười rạng rỡ trên gương mặt thầy. Thầy Chương nở nụ cười, lần đầu tiên thầy cười tươi. Nụ cười đó trong sáng như bầu trời mùa thu không một gợn mây, lại rạng rỡ như ánh nắng mùa xuân...

Liễu Địch ngây ngốc dõi theo chiếc xe buýt mỗi lúc một xa, cho đến khi gương mặt và nụ cười rạng rỡ của thầy Chương biến mất trong ánh chiều tà.

Chương 14

Bước qua cánh cổng của trường Đại học Bắc Kinh, Liễu Địch phát hiện cô tiến vào một thế giới hoàn toàn mới mẻ.

Cô không biết Yến Viên[1] lại rộng như vậy, hồ Vị Danh sương khói mờ ảo, quanh bờ hồ cây cối xanh ngát, các khu giảng đường theo phong cách Trung - Tây kết hợp, khu nhà ở hết sức tao nhã, đẹp đẽ.

[1] Khuôn viên của Đại học Bắc Kinh, nằm ở phía tây thành phố Bắc Kinh.

Có lẽ người dân sống lâu đời ở Bắc Kinh cũng chưa chắc đã đi hết khu vực này, từ các dãy nhà cổ kính, trang nghiêm như cung đình đến khu biệt thự nằm bên vườn cây rợp bóng.

Liễu Địch không biết Yến Viên có nhiều nhân tài như vậy. Một ông già trông rất bình thường đi thong thả trong sân trường có thể là một nhân vật được kính trọng của giới học thuật. Bạn cùng phòng ký túc xá có thể là "trạng nguyên" của một tỉnh nào đó. Nơi này hội tụ anh tài của cả nước, nơi này có nền giáo dục tốt nhất cả nước. Ở đây, không ai dám tự xưng là "thiên tài", cũng chẳng có người nào dễ dàng chịu thua. Ai nấy đều cố gắng học tập, âm thầm đọ sức.

Liễu Địch không biết bầu không khí học thuật ở Yến Viên lại tự do và sôi nổi như vậy. Ở nơi này, các loại tư tưởng, các loại quan điểm, các loại bè phái, các loại phương pháp đều có đất dụng võ. Bạn có thể tự do phát huy tài năng, phát biểu quan điểm của mình, tự do lựa chọn phương pháp học tập thích hợp. Học giả Thái Nguyên Bồi từng đề xuất và xác lập phong cách "thu gom tất cả" của nhà trường, đến bây giờ vẫn được áp dụng. Sinh viên có thể không lên lớp nhưng rất ít người lười biếng, ai nấy đều nỗ lực, đầu óc không ngừng vận động. Trong trường, hầu như ngày nào cũng dán thông báo về các buổi báo cáo học thuật và tọa đàm. Buổi tối, ở thư viện, đèn đóm sáng trưng, cả tòa nhà như con thuyền lớn lướt qua ngọn sóng trên mặt biển tối đen, tiến về phía trước...

Liễu Địch kinh ngạc và vô cùng hưng phấn. Cuối cùng cô cũng có thể lý giải câu nói của thầy Chương, đây là thánh đường của tinh thần và tri thức nhân loại. Cô như một đứa trẻ lang thang, đột nhiên lạc vào thánh đường kỳ diệu này nên nhất thời lóa mắt và luống cuống. Tuy không thể lập tức lĩnh hội tinh túy của Bắc Đại nhưng Liễu Địch rất say mê. Bắc Đại là nguyện vọng lớn nhất của cô, ngôi nhà của cô.

Liễu Địch sốt sắng lao vào vòng tay của Bắc Đại, ra sức tiếp thu tri thức. Cô nhanh chóng tìm thấy cảm giác mà thầy Chương từng nhắc tới: như cá gặp nước.

Trong niềm hưng phấn và say mê tột độ, Liễu Địch không vội đi tìm Giáo sư Tô Văn. Nhưng ngày thứ ba sau khi nhập học, Giáo sư Tô Văn đã tự tìm đến cô. Thế là Liễu Địch đi theo Giáo sư về nhà ông, Trúc Ngâm Cư nằm trong khu Kính Xuân Viên của Bắc Đại.

Kính Xuân Viên nằm bên cạnh Lãng Nhuận Viên, hai khu vực này có hồ khá rộng, ở đây có nhiều cây cầu bằng đá nối liền nhau, tạo thành vẻ đẹp hoang sơ. Ở Kính Xuân Viên đều là những ngôi nhà thấp, nằm xen lẫn giữa những lùm cây xanh, giống như phong cảnh thị trấn nhỏ thơ mộng ở Giang Nam.

Bên trong Kính Xuân Viên còn có hồ sen. Nhìn những đóa sen màu hồng nổi bật bên những phiến lá xanh, Liễu Địch bất chợt nhớ đến tản văn Ánh trăng bên hồ sen của Chu Tự Thanh. Không biết ánh trăng bên hồ sen này có đẹp như trong tản văn đó? Nhà của Giáo sư Tô Văn tọa lạc ở một rừng trúc nhỏ đằng sau hồ sen.

Vừa đi vào rừng trúc, Liễu Địch liền cảm thấy ánh sáng tối dần. Trên lối đi trải đầy những hòn đá dăm. Dưới tán trúc dày đặc, đến hòn đá cũng như nhuộm một màu xanh trong suốt. Gió thổi vào lá trúc, phát tiếng kêu xào xạc. Nơi tận cùng thấp thoáng mấy ngôi nhà có ngói xám, tường trắng. Trên bức tường trắng có một cánh cửa gỗ nhỏ, màu đỏ thẫm. Bên trên cánh cửa viết ba chữ ngay ngắn: "Trúc Ngâm Cư". Hai bên dán câu đối: "Nhàn xứ huề thư hoa hạ tọa, Hưng lai đắc câu trúc gian ngâm[2]", bên dưới ghi "Hải Thiên kính đề". Liễu Địch bất giác thầm cảm thán: "Câu đối hay quá! Chữ đẹp quá! Tên người rất hay!".

[2] Có nghĩa: Nhàn rỗi cầm sách ngồi dưới hoa, Hứng thú đến được câu trúc gian ngâm.

Đi qua cổng, Liễu Địch phát hiện bên trong là cái sân tương đối rộng. Trong sân có một đình nhỏ, mái vàng, cột đỏ. Trên cây cột cũng treo một câu đối được viết trên giấy đen, chữ vàng: "Số can tu trúc thất gian ốc, Nhất tịch thanh phong vạn hách vân[3]". Liễu Địch lại cảm thán: "Rất có khí phách!" Cô nhìn kĩ, bên dưới câu đối vẫn ghi "Hải Thiên kính đề".

[3] Có nghĩa: Trong khu rừng trúc có bảy gian nhà, Trên trời gió mát vạn rãnh mây.

Trong sân nhỏ đúng là có bảy gian nhà mái bằng, phía đông và tây có hai gian nối liền nhau, ba gian phòng chính còn lại là phòng khách, phòng uống trà và thư phòng. Bảy gian nhà được nối với nhau bằng hành lang dài. Trước mỗi cửa phòng đều trồng hai cây hải đường tứ phủ rất lớn.

Một điều khiến Liễu Địch ngạc nhiên là ngoài nhà bếp, sáu gian phòng còn lại đều được đặt những cái tên tao nhã và treo câu đối tương ứng. Phòng chính giữa gọi là "Nhã Tập Đường", câu đối là: "Khuynh hồ đãi khách hoa khang hậu, Xuất trúc ngâm thi nguyệt thượng thời."[4] Có hoa có trúc, rất phù hợp với đặc điểm của phòng khách và thú vui của chủ nhan. Phòng bên cạnh có tên "Trà Tiên Cốc Vũ", câu đối gồm tám chữ: "Tùng phong chử minh, Trúc vũ đàm thi"[5]. Thư phòng gọi là "Kim Thạch Ốc", câu đối càng thoát tục: "Gia hữu tàng mặc trang hương viễn, Môn vô tục khách trúc kính phong thanh"[6]. Phòng ngủ của vợ chồng Giáo sư Tô Văn có tên đặc biệt "Thê Thê Lư", câu đối là: "Điểu minh thiên hộ trúc, Thư chẩm nhất sàng phong."[7] Cũng không biết chim chóc hay con người nghỉ ngơi, hoặc là cả "song túc song thê[8]".

[4] Có nghĩa: Rót trà đãi khách chờ hoa nở, Xuất trúc ngâm thơ đón trăng lên.

[5] Có nghĩa: Rừng tùng gió nổi nấu trà uống; Rừng trúc mưa tuôn, mạn đàm thơ.

[6] Có nghĩa: Nhà trữ sách quý, hương mực thơm đưa tận nơi xa; Cửa không khách tục, đường trúc nghe vắng tiếng gió trong.

[7] Có nghĩa: Chim keu dìu dặt trúc lả lơi; Sáng thời gối tựa, gió thành chăn.

[8] Có nghĩa: cả hai cùng nghỉ ngơi.

Liễu Địch vừa đọc vừa thưởng thức, cô không khỏi thán phục tài năng của chủ nhân nơi đây. Cô chú ý, người viết các câu đối đều là "Hải Thiên". Hải Thiên là ai? Liễu Địch thầm nghĩ, người có tên Hải Thiên nhất định là người tài hoa và có học thức. Nhưng người đó có mối quan hệ như thế nào với Giáo sư Tô?

Sau đó, Giáo sư Tô đưa Liễu Địch tới gian phòng ở phía Tây. Phòng ngủ ở đó có tên "Sảng Ấp Trai", phòng bên cạnh có tên khiến Liễu Địch giật mình: "Hải Thiên Thư Ốc".

Liễu Địch không nén nổi tò mò, quay người hỏi Giáo sư Tô Văn: "Giáo sư, Hải Thiên là ai vậy ạ? Nhất định có quan hệ thân thiết với Giáo sư, đúng không ạ?"

"Tất nhiên!" Vợ Giáo sư Tô ở bên cạnh nở nụ cười hiền từ. "Đó là con trai của chúng ta."

"Dạ? Hóa ra con trai của Giáo sư." Liễu Địch bỗng hiểu ra vấn đề. Chả trách Hải Thiên tài hoa xuất chúng như vậy. Chỉ qua những câu đối và chữ viết, Liễu Địch có thể đoán đó là người am hiểm văn học cổ điển, có tâm hồn cao quý, thì ra được di truyền từ Giáo sư Tô Văn. Liễu Địch sinh lòng ngưỡng mộ Hải Thiên, cô rất muốn gặp chàng trai "Hải Thiên" đó.

"Anh ấy đang ở đâu ạ? Có ở Bắc Kinh không ạ?" Liễu Địch thăm dò.

"Không, con trai ta không ở Bắc Kinh, nó làm việc ở tỉnh khác." Giáo sư Tô Văn trầm ngâm. "Hai gian phòng này vốn là của Hải Thiên. Bây giờ nó không ở đây, hai gian phòng để trống mấy năm rồi." Giọng ông có vẻ buồn bã, ánh mắt dừng lại ở tấm biển đề "Hải Thiên Thư Ốc", chắc ông đang nhớ người con trai ở phương xa.

Sau đó, Giáo sư Tô đột nhiên quay sang Liễu Địch, cất giọng nhiệt tình và chân thành: "Liễu Địch, con dọn đến đây sống đi. Dù sao hai gian phòng này cũng bỏ trống, chi bằng con đến ở với chúng ta. Chúng ta sẽ chăm sóc con."

Liễu Địch ngẩn người, cô không ngờ Giáo sư Tô lại đưa ra đề nghị này. Cô mới chỉ gặp Giáo sư Tô hai lần, làm sao có thể nhận sự quan tâm đầy yêu thương của ông?

Liễu Địch vội từ chối: "Không cần đâu ạ, không cần làm phiền vợ chồng Giáo sư đâu ạ..."

"Phiền gì chứ?" Vợ Giáo sư Tô tiếp lời. Bà có khí chất cao quý nhưng rất hiền từ và nhiệt tình. Nụ cười của bà thật rạng rỡ, khóe mắt cũng như cười. "Liễu Địch, ta và con tuy lần đầu tiên gặp mặt, nhưng ta không coi con là người ngoài. Lần trước, thầy Tô về đến nhà liền kể với ta, ông ấy vừa nhìn thấy con đã thích ngay. Âu cũng là duyên phận. Con thử nghĩ xem, cả nước có bao nhiêu người thi vào Bắc Đại, vậy mà mỗi bài thi của con xảy ra vấn đề, người đi điều tra lại chính là Giáo sư Tô, lúc điều tra còn tình cờ gặp..." Bà im lặng một, hai giây rồi nói tiếp: "Trùng hợp như vậy, chứng tỏ con và chúng ta rất có duyên, đúng không? Ngôi nhà này lớn như vậy, Hải Thiên không biết bao giờ mới quay về. Mấy năm nay chỉ có hai ông bà già này trông nom bảy gian nhà, lạnh lẽo và cô độc biết bao..." Giọng của vợ Giáo sư Tô bỗng trở nên thê lương và nặng nề. "Chúng ta rất hy vọng có ai đó sống cùng, để chúng ta có thể cảm nhận được bầu không khí gia đình thật sự."

"Đúng đấy, Liễu Địch." Giáo sư Tô Văn nhìn Liễu Địch bằng ánh mắt tràn đầy yêu thương. Giọng nói của ông trịnh trọng, chân thành và chua xót. "Nếu con không không chê, con hãy coi nơi này là ngôi nhà ở Bắc Kinh của con, con hãy coi chúng ta là bố mẹ ở Bắc Kinh của con."

Liễu Địch cảm động nhìn hai người tóc đã bạc trắng. Ánh mắt buồn bã và sự nhiệt tình của họ khiến cô không thể tiếp tục từ chối.

Thế là Liễu Địch trở thành "khách quen" của Trúc Ngâm Cư. Nói thật, tuy Liễu Địch rất yêu Bắc Đại nhưng môi trường vệ sinh vừa bẩn vừa náo loạn ở ký túc xá khiến cô phát sợ. Vì vậy, cứ cách hai, ba ngày cô lại chạy đến Trúc Ngâm Cư. Hai ngày nghỉ cuối tuần, cô ở đó cả ngày. Cuối cùng, Giáo sư Tô cũng có thể thuyết phục Liễu Địch dọn đến Sảng Ấp Trai. Ông nói: "Cả hai gian phòng ở phía tây đều thuộc về con, con có thể sử dụng đồ đạc và sách vở tùy ý, Hải Thiên sẽ không tức giận đâu. Chỗ nó ở bây giờ cũng có rất nhiều sách." Vì vậy, hai gian phòng ở phía tây trở thành thế giới của Liễu Địch.

Khi mới dọn vào Sảng Ấp Trai, Liễu Địch có cảm giác nơi đó thật xa xỉ. Không phải vì gian phòng này xa hoa, lộng lẫy, ngược lại, Sảng Ấp Trai rất đơn giản. Tường quét vôi màu trắng, nền nhà lát xi măng sạch sẽ, cửa sổ lớn khiến căn phòng tràn ngập ánh sáng. Bên ngoài cửa sổ là những cây trúc. Buổi trưa, ánh nắng chiếu qua lá trúc lấp lánh. Bên cửa sổ là một chiếc bàn học, trên bàn là một ngọn đèn làm bằng thân cây trúc. Một chiếc giường gỗ kê sát vào tường, vỏ chăn màu xanh lục nhàn nhạt có hình bốn con thiên nga được thêu tay, sải cánh dài trên tầng mây. Trên tường treo một bức tranh vẽ cây trúc đen rất sống động. Bức tranh không có tiêu đề, cũng không đề tên người vẽ, nhưng xem ra là tác phẩm của chủ nhân gian phòng này.

Đúng vậy, nơi này rất mộc mạc, giản dị nhưng lại toát ra vẻ cao nhã, khiến con người có cảm giác hòa nhập vào thiên nhiên. Liễu Địch rất thích màu xanh lá cây mát mắt của gian phòng. Buổi tối nằm trên giường, nghe giai điệu của lá trúc, ngắm nhìn hình bóng của cây trúc và cây hải đường giao nhau trên tấm rèm cửa màu xanh nhạt, Liễu Địch mới hiểu hết hàm nghĩa của hai từ Sảng Ấp[9]. Những lúc như vậy, cô bất giác thầm cảm thán: "Người viết ra những câu đối tuyệt tác như Hải Thiên, không biết là bậc kỳ tài như thế nào?"

[9] Có nghĩa là mát mẻ.

Sau khi khám phá Hải Thiên Thư Ốc, sự ngưỡng mộ của Liễu Địch về "kỳ tài" Hải Thiên càng lớn.

Hải Thiên Thư Ốc là một phòng sách nhỏ. Bên trong gian phòng, ngoài một cái bàn và một cái ghế, bốn phía đều là giá sách. Liễu Địch phát hiện, sở thích đọc sách của Hải Thiên rất khác thầy Chương. Ở đây đa phần là sách tôn giáo, chính trị, địa lý... Những loại sách này gần như vắng bóng trên giá sách của thầy Chương.

Nơi này không có một cuốn sách văn học nào, dù là văn học cổ điển, văn học hiện đại, văn học nước ngoài hay những tác phẩm của tác giả vô danh. Không giống giá sách ở nhà thầy Chương, đều là những tác phẩm kinh điển.

Nhưng cũng chẳng có gì lạ lùng, Giáo sư Tô chuyên nghiên cứu văn học cổ điển, Kim Thạch Ốc của ông có rất nhiều sách văn học cổ điển nên con trai ông cần gì phải sưu tầm mấy thứ đó. Liễu Địch mở ra xem, cô phát hiện trong mỗi cuốn sách đều gạch chân những câu cần lưu ý hay viết lời nhận xét. Liễu Địch thấy nét chữ quen quen, nghĩ kĩ mới nhận ra giống chữ viết trên các câu đối ở Trúc Ngâm Cư, đều là bút tích của Hải Thiên. Liễu Địch không thể tưởng tượng, một người còn trẻ tuổi, sao có thể đọc nhiều sách đến vậy?

Liễu Địch tình cờ phát hiện ở một góc giá sách có quyển có tên Hải Thiên kỳ ngữ. Đó là một cuốn sách không dày, không mỏng. Liễu Địch xem ngày tháng, cuốn sách xuất bản từ bảy năm trước. Cô mở trang đầu tiên, đập vào mắt cô là tấm hình một chàng trai trẻ. Chàng trai có mái tóc đen, vầng trán rộng, sống mũi cao. Điểm thu hút nhất là đôi mắt đen láy, sáng ngời, tràn đầy sức sống, thể hiện sự uyên thâm và nhiệt huyết của tuổi trẻ. Đây là một gương mặt sáng sủa và nam tính. Liễu Địch bị người trong ảnh hoàn toàn thu hút ngay lập thức.

Sau đó, cô nhìn thấy dòng chữ giới thiệu tác giả bên cạnh tấm ảnh: Hải Thiên, nam, 21 tuổi, nguyên quán Giang Tô, hiện học khoa Trung văn, Đại học Bắc Kinh. Từ nhỏ yêu thích văn học, từng có vô số bài viết trên các báo và tạp chí. Là người có cách nhìn độc đáo, khả năng quan sát tinh tế, văn phong sắc bén, tình cảm chân thực. Được coi là tác giả trẻ có triển vọng nhất trên văn đàn.

Liễu Địch không khỏi kinh ngạc. Đây là sách xuất bản từ thời Hải Thiên học đại học, người này không biết là "thiên tài" như thế nào? Liễu Địch đem cuốn Hải Thiên kỳ ngữ về Sảng Ấp Trai. Không hiểu tại sao tim cô đập thình thịch như thể cô đang đọc trộm nhật ký của người khác.

Buổi tối hôm đó, cô đọc một lèo hết quyển sách này. Đây là một tuyển tập những bài viết. Liễu Địch bất giác bị quan điểm độc đáo, khả năng quan sát tinh tế và sắc bén, cũng như ngôn từ của cuốn sách này thu hút.

Ví dụ trong bài "Văn học và phê bình văn học", Hải Thiên viết:

"Làm một nhà phê bình văn học rất khó. Đầu tiên, anh ta phải có khả năng thưởng thức văn học, tiếp theo là phải có quan điểm khách quan và không thành kiến. Yếu tố thứ nhất còn dễ, yếu tố thứ hai thật không đơn giản chút nào.

Một nhà phê bình văn học mang nặng thành kiến thì làm sao có thể giúp độc giả? Hơn nữa, ở thời đại hỗn loạn này, rất nhiều người mượn phê bình văn học để mắng chửi người khác, khiến độc giả không thể lựa chọn. Độc giả không biết lựa chọn tác giả, tác giả cũng không biết lựa chọn phương hướng sáng tác. Như vậy, phê bình văn học hoàn toàn đánh mất giá trị.

Trên thực tế, độc giả thường lựa chọn tác giả và tác phẩm mình thích. Họ tiếp thu được bao nhiêu là vấn đề của họ, không cần người khác giúp đỡ, càng không cần sự giúp đỡ của các nhà phê bình văn học. Theo tôi thấy, thứ duy nhất có thể đánh giá giá trị của một tác phẩm không phải là độc giả, cũng không phải các nhà phê bình, mà là thời gian. Một tác phẩm vượt qua sự khảo nghiệm của thời gian chính là một tác phẩm hay. Nếu tác phẩm tồi tệ, chẳng cần người khác phê bình, công kích, nó sẽ tự động bị thời gian đào thải. Một nhà văn không cần quan tâm đến sự phê bình và công kích của người khác, chỉ cần trung thực với bản thân, có trách nhiệm với tác phẩm của mình là được."

Một bài viết sắc bén, có lý đến từng câu chữ. Liễu Địch chưa từng đọc một bài phê bình nào chân thực và sâu sắc đến thế.

Trong bài "Bàn về xu hướng của "dòng ý thức[10]", anh nhận xét về cái gọi là "dòng ý thức" văn học của thời đại bây giờ như sau:

[10] Dòng ý thức là một thuật ngữ văn học chỉ một xu hướng sáng tạo văn học (chủ yếu là văn xuôi) khởi điểm từ đầu thế kỷ 20, tái hiện trực tiếp đời sống nội tâm, xúc cảm và liên tưởng ở con người. Thuật ngữ "dòng ý thức" – Stream of consciousness được nhà tâm lý học người Mỹ William James đưa ra trong cuốn The Principles of Psychology (Cơ sở tâm lý học) xuất bản năm 1890, khi cho rằng ý thức là một dòng chảy, một dòng sông mà ở đó những tư tưởng, cảm xúc, liên tưởng bất chợt luôn lấn át nhau và đan bện một cách kỳ quặc, "phi logic".

"Bây giờ, cái gọi là "dòng ý thức" rất thời thượng. Tôi thêm từ "cái gọi là" bởi vì thứ mà phần lớn con người vận dụng không phải "dòng ý thức" thật sự, bọn họ chỉ là không ngừng tổ hợp câu chữ, khiến nó trở nên khó hiểu một chút, kỳ quặc một chút, lặp đi lặp lại mấy lần là được. Độc giả đọc không hiểu nên sẽ cảm thấy thâm sâu khó dò. Nhà phê bình không thể kết luận nó không hay ở điểm nào. Nếu đã không tệ thì tức là hay. Thật ra tôi cho rằng những thứ này chỉ biểu đạt một nội dung, đó là mất phương hướng. Bây giờ xã hội tồn tại vô số thanh niên rất đau đầu, phiền muộn về vấn đề lối ra, vấn đề hôn nhân và công việc… Rất nhiều người hoang mang vùng vẫy, họ đều bị mất phương hướng. Thế hệ này trở thành thế hệ mất phương hướng. Có một số thanh niên bị mất phương hướng thật sự, cũng có một số chỉ vì lạc lối mà buông thả bản thân. Tác phẩm văn học cũng vội vàng thể hiện xu thế mất phương hướng này, cuối cùng hoàn toàn mất phương hướng. Vì vậy tôi cảm thấy so với cái tên mỹ miều "dòng ý thức", thà gọi loại văn học này là "văn học mất phương hướng" còn thỏa đáng hơn."

Liễu Địch bất giác đập bàn khen hay. Cô rất hả dạ. Cô ghét nhất những tác phẩm văn học khiến người khác đọc mà chẳng biết đâu mà lần. Lời nhận xét này đi thẳng vào tâm khảm của cô. Tuy nhiên, điều khiến Liễu Địch kinh ngạc hơn không phải là quan điểm độc đáo của Hải Thiên về văn học, mà là khả năng nhìn thấu nhân sinh của anh. Trong bài "Danh dự và cái chết", anh viết:

"Danh dự là gì? Nói trắng ra, danh dự chính là cách nhìn của người khác về bạn. Bạn có danh dự hay không, không phải vấn đề bản thân bạn có trong sạch hay không, mà là vấn đề người khác có thừa nhận bạn hay không. Vì vậy, từ xưa đến nay, rất nhiều người dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch và bảo vệ danh dự của bản thân. Cách làm này tuy tiêu cực nhưng cũng rất hữu hiệu. Bởi trong hiện thực cuộc sống, con người không dễ thông cảm cho người sống, mà dễ thông cảm cho người chết. Con người thường nhớ tới khuyết điểm của người sống. Một khi người đó chết đi, con người sẽ dễ nhớ đến ưu điểm của họ. Vì vậy, dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch, tuy phải bỏ cả mạng sống nhưng phần lớn có thể đạt được mục đích. Chỉ là, khi mỗi sinh mệnh sống tìm cách bảo vệ danh dự, càng nghiệm chứng một cách sâu sắc sự tàn khốc của xã hội."

Liễu Địch đọc đi đọc lại bài viết này. Cô cảm thấy bài viết quá sắc bén và nặng nề, đề cập đến tầng sâu vấn đề mà cô không thể chạm tới. Vậy mà Hải Thiên đã nhìn thấu xã hội và nhân sinh năm hai mươi mốt tuổi, chứng tỏ anh có khả năng quan sát tinh tế và tư tưởng sâu sắc đến mức nào?

Tuy nhiên, Liễu Địch luôn cảm thấy hình như cô đã được lĩnh giáo phong cách "đánh một phát trúng chỗ hiểm" này ở đâu đó. Nhưng cảm giác này như cái bóng vụt qua trong đầu, cô không thể nắm bắt, cũng không thể nhìn thấy. Tóm lại, khoảng thời gian này, Liễu Địch từ kinh ngạc đến cảm thán, từ cảm thán đến tán thưởng chàng trai chưa hề gặp mặt Hải Thiên. Sau khi đọc xong quyển Hải Thiên kỳ ngữ, cô phục sát đất, thậm chí sùng bái Hải Thiên.

Đêm hôm đó, cái tên Hải Thiên khắc sâu vào trí óc Liễu Địch. Gương mặt chàng trai trẻ tuổi tràn đầy sức sống trên tấm ảnh lần đầu tiên xuất hiện trong giấc mơ của cô.

Vợ chồng Giáo sư Tô Văn chăm sóc Liễu Địch rất chu đáo. Ở Giáo sư Tô, Liễu Địch cảm nhận được tình yêu vô bờ bến của một người cha. Đặc biệt, Giáo sư Tô cũng nghiên cứu văn học cổ điển, điều này khiến Liễu Địch càng thấy ông giống bố cô. Nhưng trong lĩnh vực văn học cổ điển, trình độ của Giáo sư Tô tất nhiên hơn bố cô nhiều lần.

Vợ Giáo sư Tô cũng thể hiện tình cảm của một người mẹ. Mỗi lần Liễu Địch đến Trúc Ngâm Cư, bà đều chuẩn bị các món mà cô thích khiến cô không khỏi ngại ngùng. Khi cô nói không cần phiền hà, bà chỉ mỉm cười hiền từ, nói: "Có gì đâu! Trước đây, Hải Thiên nhà chúng ta lúc nào cũng chén sạch sẽ. Nó thường nói với ta: "Mẹ à, nếu con béo phì, mẹ phải chịu trách nhiệm đấy nhé!" Lúc đó, người nó rắn chắc, khỏe mạnh lắm. Mấy năm nay nó sống ở bên ngoài..." Bà lắc đầu, thở dài: "Không biết thành bộ dạng gì rồi."

Tiếng thở dài của bà khiến Liễu Địch xót xa trong lòng. Tại sao Hải Thiên không thường xuyên về nhà? Có lẽ anh quá bận. Liễu Địch biết vợ chồng Giáo sư Tô rất nhớ con trai. Giáo sư Tô ít khi nhắc đến Hải Thiên nhưng ánh mắt ông vẫn vô tình bộc lộ sự nhớ nhung. Còn vợ Giáo sư Tô thường kể chuyện Hải Thiên với Liễu Địch. Một lần, bà lấy tập album ảnh Hải Thiên từ bảy, tám năm trước cho Liễu Địch xem. Không hiểu tại sao Liễu Địch bỗng có cảm giác Hải Thiên trông rất quen, cô đã từng gặp ở đâu đó rồi nhưng không nhớ rõ. Có lẽ Hải Thiên phù hợp với hình tượng "nam tử hán" trong lòng cô. "Nam tử hán" trong lòng? Hai má Liễu Địch nóng ran.

Sau đó, Liễu Địch giở đến tấm ảnh Hải Thiên chơi bóng rổ. Động tác chơi bóng rổ của anh rất tự nhiên và đẹp mắt. Liễu Địch ngẩng đầu, gương mặt cô lộ vẻ ngạc nhiên. "Anh Hải Thiên cũng biết chơi bóng rổ ạ?"

"Nó là đội trưởng đội bóng rổ khoa Trung văn." Bà Tô cất giọng tự hào. "Lúc đó, đội bóng của khoa Trung văn là đội duy nhất chơi ngang ngửa đội bóng rổ của trường. Hải Thiên chơi bóng rổ rất xuất sắc. Con không biết đâu, mỗi lần nó chơi bóng rổ, các sinh viên nữ đi cổ vũ rất đông."

"Trong đó chắc chắn có bạn gái của anh ấy, phải không ạ?" Liễu Địch hỏi nhỏ, gương mặt cô ửng hồng.

"Bạn gái ư? Không có." Bà Tô lắc đầu. "Hải Thiên khó tính lắm. Không giấu gì con, bốn năm học đại học, không biết có bao cô gái theo đuổi nó nhưng nó chẳng để mắt tới một ai. Yêu cầu về bạn gái của nó quá cao. Hải Thiên không quan tâm đến vẻ đẹp bề ngoài, nó thích người có khí chất, như nó từng nói: "tâm hồn hòa làm một". Haizz..." Bà lại thở dài. "Không phải ta khen con trai mình, cảnh giới tinh thần của nó quá cao, người bình thường không thể nào với tới."

Liễu Địch gật đầu đồng tình. Giáo sư Tô ngồi bên cạnh đột nhiên lên tiếng: "Hải Thiên là người rất nghiêm túc trong chuyện tình cảm, vì thế nó không dễ dàng mở cánh cửa trái tim. Một lần, một người bạn của nó, cậu lưu học sinh người Pháp, thất tình đòi tự sát. Hải Thiên đã lôi cậu ấy đến Sảng Ấp Trai, ở bên cậu ấy suốt ba ngày ba đêm. Ta nghe nó hét với cậu bạn: "Cậu không thể chết, trừ khi tình yêu của cậu đáng đổi bằng sinh mệnh. Nếu chết, cậu cũng nên chết cho người xứng đáng giành được tình yêu của cậu." Câu nói này đã thức tỉnh cậu du học sinh, cũng khiến ta rất cảm động. Con biết không? Nếu yêu một người con gái, Hải Thiên nhà ta sẽ yêu cô ấy bằng cả sinh mạng của mình. Thậm chí, nó có thể chết vì cô gái đó."

Liễu Địch thở dài. Người con gái khiến Hải Thiên có thể hy sinh cả mạng sống chắc phải siêu phàm, thoát tục, có lẽ không phải cô gái ở chốn nhân gian mà là tiên nữ.

Bà Tô cũng cảm thán: "Ta nghĩ cả cuộc đời này, chắc Hải Thiên sẽ không tìm được một người con gái như vậy."

"Cũng chẳng biết được." Giáo sư Tô liếc Liễu Địch bằng ánh mắt mang hàm ý sâu xa. "Nó xa nhà lâu như vậy, có lẽ đã tìm được người con gái vừa ý rồi cũng không biết chừng."

Liễu Địch chú ý đến ánh mắt của Giáo sư Tô, trong lòng cô hơi hoảng loạn. Cô biết, từ lúc đọc cuốn Hải Thiên kỳ ngữ, mỗi khi nghe nhắc đến hai từ "Hải Thiên", trong trái tim cô lại dấy lên một cảm xúc mà cô không thể nắm bắt, cũng không dám đối diện, đồng thời không thể phủ nhận sự tồn tại của nó. Lẽ nào Giáo sư Tô đã phát hiện ra tâm tình của cô? Liễu Địch quan sát Giáo sư Tô, trong mắt ông không hề có sự hoài nghi hay chế giễu.

Để che giấu nỗi hoảng loạn, Liễu Địch mỉm cười, nói: "Đến Tết kiểu gì anh Hải Thiên chẳng về nhà. Nếu có bạn gái, nhất định anh ấy sẽ dẫn về gặp vợ chồng Giáo sư mà."

Lần đầu tiên gọi "anh Hải Thiên[11]", Liễu Địch bỗng thấy có phần ngượng ngùng. Vợ chồng Giáo sư Tô đột nhiên trầm mặc. Một lúc sau, Giáo sư Tô lên tiếng: "Đúng vậy, Hải Thiên nên về nhà rồi. Bất luận thế nào, Tết này ta cũng phải nghĩ cách kêu nó về nhà."

[11] Nguyên văn là: Hải Thiên ca, cách gọi thân thiết.

Trời ạ, một chuyến về thăm nhà cũng bắt bố "nghĩ cách", Hải Thiên chắc là người làm việc điên cuồng. Tuy nhiên, Hải Thiên sắp về nhà. Tết này cô sẽ được gặp Hải Thiên. Liễu Địch rất mong được gặp nhân vật lẫy lừng mà cô mong đợi. Thậm chí cô nghĩ, để được gặp Hải Thiên, cô có thể không về quê ăn Tết.

Buổi tối hôm đó, Liễu Địch về Sảng Ấp Trai từ sớm. Lúc nằm trên giường, cô mơ hồ nghe thấy bà Tô nói: "Cô bé Liễu Địch với Hải Thiên của chúng ta đúng là một cặp trời sinh."

Sau đó, Liễu Địch nghe tiếng Giáo sư Tô thở dài. "Chỉ đáng tiếc..."

"Sao thế?" Bà Tô hỏi. "Đến một cô bé xuất sắc như vậy mà Hải Thiên cũng sẽ không ưng sao?"

"Chỉ e.." Giọng của Giáo sư Tô trở nên nặng nề: "Chỉ e Liễu Địch không ưng thằng bé."

Mình không ưng Hải Thiên? Liệu có chuyện đó sao? Liễu Địch nghĩ thầm, đột nhiên rất thẹn thùng. Dù sao Hải Thiên cũng sắp trở về. Cuối cùng cô cũng được gặp Hải Thiên.

Cứ như vậy, hình bóng của Hải Thiên tràn ngập trong tâm trí Liễu Địch. Cuộc sống đại học vô cùng bận rộn, rất phong phú, tràn đầy lý tưởng và ước mơ. Liễu Địch say mê tiếp thu tri thức, khám phá, mơ ước, khát khao, phấn đấu. Thế là cái tên Chương Ngọc dần nhạt nhòa trong đầu óc và cuộc sống của cô, trở thành một hình bóng mơ hồ chôn sâu trong ký ức. Cô nhất thời quên mất thầy Chương.

Full | Lùi trang 6 | Tiếp trang 8

Loading...

Tiểu thuyết tình yêu là website chia sẻ những thể loại truyện hay nhất hiện nay, được nhiều người đọc yêu thích. Truyện được cập nhập hàng ngày. Hãy lưu địa chỉ web để truy cập nhanh hơn!

Chúc các bạn online vui vẻ !

Laptop Tùng Anh

Tour Phú Quốc

Vinhomes Cầu Rào 2

Trang Chủ